BỔN MẠNG NHỮNG NGƯỜI MẸ

Người Công giáo tôn kính các thánh là những Anh Hùng Đức Tin.  Chúng ta noi theo gương sống thánh thiện của các thánh, và chúng ta cầu xin các thánh nguyện giúp cầu thay, tin tưởng các thánh chuyển lời cầu của chúng ta lên Thiên Chúa.  Người Công giáo luôn có một hoặc hai thánh bổn mạng. Chính vị thánh đó làm gương cho chúng ta noi theo để sống tốt hơn.  Dưới đây là 5 thánh nữ là những người mẹ.  Mỗi vị đều có cách làm mẹ để nuôi dạy các con sống nhân đức và thánh thiện.

Đức Maria: Người mẹ nhân đức

Đức Mẹ là mẫu gương hoàn hảo về việc làm mẹ.  Đức Mẹ luôn theo kế hoạch của Thiên Chúa, và Đức Mẹ nhận những ơn đặc biệt vì được Thiên Chúa chọn làm Mẹ của Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa.  Nhưng Đức Mẹ cũng vẫn phải đối mặt với những khó khăn.  Đức Mẹ sống nghèo khó và phải lánh nạn sang Ai Cập, xa gia đình và bạn bè khi là một người mẹ trẻ.  Đức Mẹ cũng phải chịu đau khổ khi nhìn Con Yêu bị hành hình.  Đức Mẹ hiểu những khó khăn mà chúng ta phải trải qua, lời cầu bầu của Đức Mẹ rất hiệu quả vì Đức Mẹ luôn gần gũi với Chúa Giêsu.  Có nhiều lễ kính Đức Mẹ trong năm, nhưng đặc biệt nhất là lễ Mẹ Thiên Chúa, ngày 1 tháng Một.

ZZThánh Gianna: Người mẹ hy sinh

Chúng ta thường nghĩ về các thánh là những người sống xa xưa lắm rồi, thế nhưng Thánh Gianna là một vị thánh của thời đại chúng ta, chỉ là một người mẹ và là bác sĩ khoa nhi, là người hoạt động không mỏi mệt.  Bà hy sinh mạng sống để con được sống.  Được chẩn đoán bị khối u ở tử cung, nhưng bà nhất định không chịu phá thai hoặc cắt tử cung, bà chịu đựng đau đớn để sinh con bình thường.  Bà chết sau khi sinh đứa con thứ tư, người con này ngày nay vẫn sống và tích cực hoạt động để bảo vệ sự sống.  Lễ Thánh Gianna là ngày 28 tháng Tư.

Thánh Monica: Người mẹ kiên trì

Thánh Monica là mẹ của Thánh Augustinô, nhưng bà phải chịu nhiều đau khổ vì con trai.  Hồi trẻ, Thánh Augustinô sống xả láng và tội lỗi, bỏ ngoài tai mọi lời mẹ khuyên trở về với các giá trị Kitô giáo.  Thánh Monica quyết tâm không bỏ con, theo con đi khắp nơi, cầu nguyện cho con và năn nỉ con bỏ đường tội lỗi.  Cuối cùng, sự kiên trì của bà được Thiên Chúa đền đáp.  Thánh Augustinô trở về, làm linh mục, rồi làm giám mục, và viết nhiều sách giá trị.  Lễ Thánh Monica là ngày 27 tháng Tám.

Thánh Elizabeth Ann Seton: Người mẹ chịu đựng

Thánh Elizabeth là vị thánh đầu tiên là người Mỹ.  Bà lớn lên trong sự giáo dục của Tân giáo (Episcopal church), kết hôn với một thương gia giàu sang và có năm người con.  Nhưng công việc kinh doanh của chồng bị phá sản, rồi chồng chết vì bệnh lao.  Bà góa bụa và nuôi con, rồi bà gia nhập Công giáo và mở trường để có tiền nuôi con.  Bà chịu đựng đủ thứ, kể cả cái chết của hai đứa con gái, nhưng bà luôn vui vẻ và hy vọng.  Cuối cùng, bà cũng bị lao phổi như chồng và qua đời lúc 46 tuổi.  Lễ Thánh Elizabeth Ann Seton là ngày 4 tháng Một.

Thánh Judith: Người mẹ giản dị

Thánh Judith sinh trưởng trong một gia đình giàu có tại một vùng mà ngày nay thuộc Đức quốc.  Bà kết hôn với một nhà quý tộc và có bảy người con.  Chồng bà thích sống hoang phí, nhưng bà nhẹ nhàng giúp chồng sống giản dị để có tiền giúp người nghèo.  Bà cũng dạy các con sống giản dị và quan tâm những người kém may mắn hơn mình.  Sau khi chồng mất và các con trưởng thành, bà bán tài sản rồi vào dòng tu, dành phần đời còn lại để giúp người nghèo và người bệnh.  Lễ Thánh Judith là ngày 5 tháng Năm.

TRẦM THIÊN THU (Chuyển ngữ từ beliefnet.com)
Mùa Hoa Đức Mẹ – 2014

TÚI GẠO CỦA MẸ

ZZCái nghèo cái đói thường trực trong ngôi nhà nhỏ này, nhưng dường như nỗi cơ cực bần hàn ấy không buông tha họ.  Cậu con trai bắt đầu cắp sách đến trường cũng là lúc nỗi mất mát lớn bỗng nhiên đổ ập xuống đầu họ.  Cha qua đời vì cơn bạo bệnh.  Hai mẹ con tự tay mình mai táng cho người chồng, người cha vắn số.

Người mẹ góa bụa ở vậy, chị quyết không đi bước nữa.  Chị biết, bây giờ chị là chỗ dựa duy nhất cho con trai mình.  Chị cặm cụi, chăm chỉ gieo trồng trên thửa ruộng chật hẹp, tài sản quý giá nhất của hai mẹ con chị.  Ngày qua ngày, năm nối năm, những tấm giấy khen của cậu con trai hiếu học dán kín cả bức tường vôi nham nhở.  Nhìn con trai ngày một lớn lên, ngoan ngoãn, học hành giỏi giang, nước mắt bỗng lăn trên gò má chị.

Học hết cấp hai, cậu thi đậu vào trường cấp ba trọng điểm của thành phố.  Gánh nặng lại oàn lên vai người mẹ.  Thế nhưng không may thay, khi giấy báo trúng tuyển về đến tay cậu cũng là lúc mẹ cậu ngã bệnh.  Căn bệnh quái ác làm chị liệt nửa chi dưới.  Vốn là lao động chính của gia đình, giờ chị chẳng thể đi lại bình thường như xưa nữa nói chi đến chuyện làm nông.  Cậu bé vốn hiểu chuyện, thương mẹ vất vả, cậu xin nghỉ học:

– Mẹ này, con nghỉ học thôi, ở nhà làm ruộng thay mẹ.  Đi học, tiền đâu mà đóng học phí, tiền sinh hoạt phí, lại còn một tháng nộp 15 cân gạo nữa, nhà mình biết lấy đâu ra.

– Có thế nào con cũng không được bỏ học.  Con là niềm tự hào của mẹ.  Chỉ cần con chăm chỉ học hành, còn những việc khác, con không phải bận tâm.

Hai mẹ con tranh luận rất lâu, cậu kiên quyết không đi học nữa vì không muốn mẹ mình khổ.  Cậu trở nên ngang bướng và lì lợm.  Phải đến khi nóng nảy quá không kiềm chế được, mẹ cậu giơ tay tát cậu một cái vào má, cậu mới sững người lại.  Đây là cái tát đầu tiên trong đời cậu con trai mười sáu tuổi. Mẹ cậu ngồi thụp xuống đất và khóc nức nở…

Nghe mẹ, cậu khăn gói vào trường nhập học.  Lòng cậu nặng trĩu.  Người mẹ đứng lặng hồi lâu, nhìn bóng con trai khuất dần…

Ít lâu sau, có một người mẹ lặc lè vác bao tải dứa, chân thấp chân cao đến phòng giáo vụ.  Chị nộp gạo cho con trai.  Chị là người đến muộn nhất.  Đặt bao gạo xuống đất, chị đứng thở hổn hển một hồi lâu rồi nem nép đi vào.  Thầy Hùng phòng giáo vụ nhìn chị nói:

– Chị đặt lên cân đi.  Mở túi gạo ra cho tôi kiểm tra.

Chị cẩn thận tháo túi.

Liếc qua túi gạo, hàng lông mày của thầy khẽ cau lại, giọng lạnh băng:

– Thật chẳng biết nên nói thế nào.  Tôi không hiểu sao các vị phụ huynh cứ thích mua thứ gạo rẻ tiền đến thế cho con mình ăn.  Đấy, chị xem.  Gạo của chị lẫn lộn đủ thứ, vừa có gạo trắng vừa có gạo lức lẫn gạo mốc xanh đỏ, cả cám gạo nữa, đây còn có cả ngô nữa… Thử hỏi, gạo thế này, chúng tôi làm sao mà nấu cho các em ăn được.  Thầy vừa nói vừa lắc đầu: Nhận vào.  Thầy nói, không ngẩng đầu lên, đánh dấu vào bảng tên của học sinh.

Mặt người mẹ đỏ ửng lên.  Chị khẽ khàng đến bên thầy nói:

-Tôi có 5 đồng, thầy có thể bổ sung vào thêm cho cháu để phụ tiền sinh hoạt phí được không thưa thầy?

-Thôi, chị cầm lấy để đi đường uống nước.  Thầy nói và vẫn không ngẩng đầu lên nhìn người phụ nữ tội nghiệp đang loay hoay, khổ sở, mặt đỏ ửng lên, chân tay thừa thãi vì chẳng biết làm thế nào.  Chị chào thầy rồi lại bước thấp bước cao ra về.

*********************

Đầu tháng sau, chị lại đến nộp gạo cho con trai.  Thầy lại mở túi gạo ra kiểm tra rồi lại cau mày, lắc đầu.  Thầy có vẻ lạnh lùng, ác cảm:

– Chị lại nộp loại gạo như thế này sao?  Tôi đã nói phụ huynh nộp gạo gì, chúng tôi cũng nhận, nhưng làm ơn phân loại ra, đừng trộn chung như thế này.  Chúng tôi làm sao mà nấu cơm cho ngon để các em ăn được?  Chị nghĩ thử xem, với loại gạo hổ lốn thế này, liệu chúng tôi có thể nấu cơm chín được không?  Phụ huynh như các chị không thấy thương con mình sao?

 Thầy thông cảm.  Thầy nhận cho, ruộng nhà tôi trồng được chỉ có thế!  Người phụ nữ bối rối.
– Thật buồn cười cái nhà chị này! Một mảnh ruộng nhà chị có thể trồng đến hàng trăm thứ lúa thế sao? Nhận vào!  Giọng thầy gằn từng tiếng và vẫn không ngẩng đầu lên nhìn chị.

Người mẹ im bặt, mặt chị trở nên trắng bệch, nhợt nhạt.  Chị lí nhí cảm ơn thầy rồi lại lặng lẽ bước thấp, bước cao ra về.  Dáng chị liêu xiêu, đổ vẹo trong cái nắng trưa hầm hập như đổ lửa.

*********************

Lại sang đầu tháng thứ ba của kỳ nộp gạo.  Chị lại đến.  Vẫn dáng đi xiêu vẹo, mồ hôi mướt mải trên trán, ướt đẫm lưng áo của người mẹ trẻ.  Bao gạo nặng dường như quá sức với chị.

Thầy lại đích thân mở túi gạo ra kiểm tra.  Lần này, nét giận dữ in hằn trên mặt thầy.  Thầy rành rọt từng tiếng một như nhắc để người phụ nữ ấy nhớ:

– Tôi đã nói với chị thế nào.  Lần này tôi quyết không nhân nhượng chị nữa.  Chị làm mẹ mà sao ngoan cố không thay đổi thế này.  Chị mang về đi.  Tôi không nhận!

Người mẹ thả phịch bao gạo xuống đất.  Dường như bao nỗi ấm ức, đau khổ và bất lực bị dồn nén bao ngày đột nhiên bừng phát.  Chị khóc.  Hai hàng nước mắt nóng hổi, chan chứa trên gương mặt sớm hằn lên nét cam chịu và cùng quẫn.  Có lẽ, chị khóc vì tủi thân và xấu hổ.  Khóc vì lực bất tòng tâm.

Thầy Hùng kinh ngạc, không hiểu đã nói gì quá lời khiến cho người phụ nữ trẻ khóc tấm tức đến thế.
Chị kéo ống quần lên để lộ ra đôi chân dị dạng.  Một bên chân quắt queo lại.

– Thưa với thầy, gạo này là do tôi… Tôi đi ăn xin, gom góp lại bao ngày mới có được.  Chẳng giấu gì thầy, chân cẳng tôi thế này, tôi làm ruộng thế nào được nữa.  Cháu nó sớm hiểu chuyện, đòi bỏ học ở nhà giúp mẹ làm ruộng.  Thế nhưng tôi kiên quyết không cho, kiên quyết không để con tôi thất học.  Có học mới mong thoát khỏi cảnh cơ cực này. Nhà chỉ có hai mẹ con, cha cháu mất sớm…  Thầy thương tình, thầy nhận giúp cho.  Không nộp gạo, con tôi thất học mất !

Người mẹ trẻ này đều đặn ngày nào cũng thế.  Trời còn tờ mờ, khi xóm làng còn chưa thức giấc, chị lặng lẽ chống gậy, lê mình rời khỏi thôn.  Chị đi khắp hang cùng, ngõ hẻm xóm khác xin gạo.  Đi mãi đến tối mịt mới âm thầm trở về.  Chị không muốn cho mọi người trong thôn biết.

Lần này người bị xúc động mạnh lại là thầy Hùng.  Thầy đứng lặng hồi lâu rồi nhẹ nhàng đỡ chị đứng lên.  Giọng thầy nhỏ nhẹ:

– Chị đứng lên đi, người mẹ trẻ!  Chị làm tôi thực sự bất ngờ. Tôi đã có lời không phải với chị.  Thôi thế này, tôi nhận.  Tôi sẽ thong báo với trường về hoàn cảnh của em học sinh này, để trường có chế độ học bổng hổ trợ cho học sinh vượt khó.

Người mẹ trẻ đột nhiên trở nên cuống quýt và hoảng hốt.  Chị gần như chắp tay lạy thầy.  Giọng chị van lơn:

– Xin thầy. Tôi có thể lo cho cháu, dù không đủ đầy như các bạn nhưng tôi lo được.  Khổ mấy, vất vả mấy tôi cũng chịu được.  Chỉ xin thầy đừng cho cháu hay chuyện này.  Đây là bí mật của tôi, mong thầy giữ kín giùm cho.

Chị kính cẩn cúi đầu chào thầy như người mà chị mang một hàm ơn lớn, đưa tay quệt mắt rồi lại nặng nhọc, liêu xiêu ra về.  Lòng thầy xót xa.

Thầy Hùng đem câu chuyện cảm động này báo với hiệu trưởng.  Ban giám hiệu trường giữ bí mật này tuyệt đối.  Nhà trường miễn phí toàn bộ học phí và sinh hoạt phí cho cậu học sinh có hoàn cảnh đặc biệt này.  Ngoài ra, học lực của cậu rất khá, đủ tiêu chuẩn nhận được học bổng của trường.

Cuối cấp, cậu dẫn đầu trong danh sách những học sinh xuất sắc của trường.  Cậu thi đậu vào trường đại học danh tiếng nhất của thủ đô.  Trong buổi lễ vinh danh những học sinh ưu tú, khi tên cậu được xướng lên đầu tiên, mẹ cậu lặng lẽ đứng ở một góc khuất, mỉm cười sung sướng.

Có một điều rất lạ rằng trên sân khấu hôm ấy, có ba bao tải dứa sù sì được đặt trang trọng ở một góc phía ngoài cùng, nơi mọi người có thể dể dàng nhìn thấy nhất.  Ai cũng thắc mắc, không hiểu bên trong ấy chứa thứ gì.

Trong buổi lễ trang nghiêm ấy, thầy hiệu trưởng rất xúc động và kể lại câu chuyện người mẹ trẻ đi ăn xin nuôi con học thành tài.

Cả trường lặng đi vì xúc động. Thầy hiệu trưởng ra dấu cho thầy Hùng phòng giáo vụ đến mở ba bao tải ấy ra.  Đó là ba bao gạo mà người mẹ với đôi chân tật nguyền lặn lội khắp nơi xin về.

Thầy nói:

– Đây là những hạt gạo mang nặng mồ hôi và nặng tình của người mẹ yêu con hết mực.  Những hạt gạo đáng quý này, tiền, vàng cũng không thể mua nổi.  Sau đây, chúng tôi kính mời người mẹ vĩ đại ấy lên sân khấu.

Cả trường lại một lần nữa lặng người đi vì kinh ngạc.  Cả trường dồn mắt về phía người phụ nữ chân chất, quê mùa đang được thầy Hùng dìu từng bước khó nhọc bước lên sân khấu.

Cậu con trai cũng quay đầu nhìn lại.  Cậu há hốc miệng kinh ngạc.  Cậu không thể ngờ rằng người mẹ vĩ đại ấy không ai khác chính là người mẹ thân yêu của cậu.

– Chúng tôi biết, kể ra câu chuyện này sẽ khiến cậu học sinh ưu tú nhất trường bị chấn động rất mạnh về tâm lý.  Thế nhưng, chúng tôi cũng mạn phép được nói ra vì đó là tấm gương sáng, tấm lòng yêu thương con vô bờ bến của người mẹ.  Điều đó hết sức đáng quý và đáng được trân trọng vô cùng. Chúng tôi muốn thông qua câu chuyện cảm động này, giáo dục các em học sinh thân yêu của chúng ta về đạo đức và lối sống, về tình người và những nghĩa cử cao đẹp.  Hôm nay, một lần nữa chúng ta vinh danh những người cha, người mẹ đã cống hiến, hy sinh cả đời mình vì tương lai con em…

Giọng thầy hiệu trưởng đều đều, ấm áp và hết sức xúc động.  Tai cậu ù đi, cậu chẳng nghe thấy gì nữa cả, mắt cậu nhòe nước.  Mẹ cậu đứng đó, gầy gò, khắc khổ, mái tóc đã sớm điểm bạc, mắt bà cũng chan chứa niềm hạnh phúc và ánh mắt ấm áp, yêu thương ấy đang hướng về phía cậu với cái nhìn trìu mến.

Người phụ nữ ấy run run vì chưa bao giờ đứng trước đám đông.  Run run vì những lời tốt đẹp mà thầy hiệu trưởng đã giành cho mình.  Với chị, đơn giản, tất cả chỉ xuất phát từ tình yêu bao la mà chị giành cho con trai.  Chị không nghĩ được thế nào là sự hy sinh hay đạo lý lớn lao ấy.

Cậu con trai cao lớn đứng vụt dậy, chạy lên ôm chầm lấy mẹ mà mếu máo khóc thành tiếng:

– Mẹ ơi! Mẹ của con…

Linh Đan (dịch từ truyện ngắn khuyết danh của Trung Quốc)

CỬA CHUỒNG CHIÊN

Cửa có hai công dụng.  Để đóng vào và để mở ra.  Có những cánh cửa như cửa tù ngục để giam kín phạm nhân.  Có những cánh cửa giam hãm, bưng bít con người không cho thông giao với thế giới bên ngoài.  Có những cánh cửa lò sát sinh nhốt thú vật để giết chết.  Đó là những cánh cửa đóng kín chết chóc, huỷ hoại.  Có những cánh cửa mở ra đón gió mát, đón khí trong lành, đón ánh sáng mặt trời tươi vui.  Có những cánh cửa mở ra những chân trời xa tắp, khơi lên trong tâm hồn mơ ước cao xa.  Có những cánh cửa mở ra đón nhận anh em trong tình huynh đệ thân mến.  Đó là những cánh cửa mở ra sự sống.

ZZHôm nay, Chúa Kitô nói: “Ta là cửa chuồng chiên”, Người đã tự nhận mình là cánh cửa.  Chúa Giêsu là cánh cửa không phải để đóng kín giam hãm đàn chiên.  Nhưng là cánh cửa mở ra.

Chúa Giêsu là cánh cửa mở ra những chân trời vô tận.

Thỉnh thoảng ta nghe có dư luân xôn xao về ngày tận thế.  Tất nhiên đó là một tin đồn thất thiệt, nhảm nhí, đượm mầu sắc mê tín dị đoan.  Nhưng tin đồn đó cũng nói lên một sự thực là: Thế giới mà chúng ta đang sống là một thế giới hạn hẹp, sinh mạng con người là bèo bọt, kiếp sống con người là mong manh.  Thật đáng buồn nếu con người chỉ có thế, bị kết án chung thân vào một thân xác mau tan rã, bị giam hãm trong một thế giới vật chất mau tàn tạ.

Chúa Giêsu Phục sinh đã phá vỡ vòng vây giam hãm đó.  Khi tảng đá lấp cửa mộ lăn ra, Chúa Giêsu đã mở ra cho nhân loại một cánh cửa.  Cánh cửa đó dẫn vào một không gian vô tận.  Từ nay con người không còn bị kết án chung thân vào thân xác mau tan rã nữa, vì Chúa Giêsu phục sinh đã mặc lấy thân xác vinh hiển không bao giờ chết.  Từ nay con người không còn bị giam hãm trong thế giới vật chất mau tàn tạ nữa, vì Chúa Giêsu Phục sinh đã mở lối ra thế giới thần linh, trong đó con người sống trong tự do, không còn bị ràng buộc trong không gian.  Đó là một thế giới mới, thế giới vĩnh hằng, không bao giờ tàn tạ, thế giới vô biên chẳng có giới hạn.

Khi mở cánh cửa vào thế giới thần linh, Chúa Giêsu đã đẩy lùi ranh giới của thế giới vật chất đến vô hạn.  Khi mở cánh cửa vào thế giới thần linh, Chúa Giêsu đã chắp cánh cho ước mơ của con người. Ước mơ ấy chẳng còn hạn hẹp trong những hạn chế của vòng vây thế giới, nhưng bay lên ngang tầm trăng sao để mơ những giấc mơ thần thánh.  Khi mở cửa và thế giới thần linh, Chúa Giêsu đã giải phóng con người khỏi cảnh ngộ nô lệ vật chất hư hèn, nâng con người lên cuộc sống tự do của con Thiên Chúa.

Chúa Giêsu là cánh cửa mở ra suối nguồn sự sống
Thật là vô lý nếu con người sống chỉ để chết.  Thật là vô lý nếu chết là hết.  Nếu định mệnh con người là như thế, thà không sống còn hơn.  Mỗi khi vào bệnh viện, ta không khỏi suy nghĩ khi nhìn những bệnh nhân rên xiết, quằn quại đau đớn hoặc thấy những tấm thân gầy còm, những khuôn mặt hốc hác.  Đó là cái chết đang sống hay là một sự sống đang chết?  Đời sống như thế còn có ý nghĩa gì không?
Chúa Giêsu đã bước vào thế giới kẻ chết để chiến đấu chống lại thần chết.  Người đã chiến thắng.  Và khi Người mở cửa mộ bước ra, Người đã mở cánh cửa dẫn vào một cuộc sống mới.  Cuộc sống mới là một cuộc sống trọn vẹn bởi vì không còn bóng dáng Thần chết.  Cuộc sống mới là một cuộc sống sung mãn bởi vì chẳng còn vết tích của đau khổ, bệnh tật, đói khát.  Cuộc sống mới là một cuộc sống siêu nhiên trong đó con người được nâng lên làm con Thiên Chúa, được tham dự vào chính sự sống của chúa.  Cuộc sống mới là một cuộc sống hạnh phúc vì được kết hợp với Thiên Chúa Ba Ngôi trong một tình yêu trọn hảo.

Như thế cuộc sống con người vẫn có một hướng đi lên, để được nâng cao, để được phong phú, để được hoàn hảo.  Chính vì thế mà dù biết cuộc sống khổ đau, người ta vẫn vui mừng khi một em bé chào đời. Chính vì thế người ta vẫn ăn mừng sinh nhật, coi đó là ngày trọng đại trong đời người.

Chính Chúa Giêsu đã biến đổi thân phận con người.  Con người sinh ra không phải để chết, nhưng để sống, sống sung mãn, sống trọn vẹn, sống vĩnh viễn trong suối nguồn sự sống.

Nhưng để mở ra cho ta những chân trời vô tận của con Thiên Chúa, chúa Giêsu đã chịu nhận lấy kiếp sống mong manh, phù du, bèo bọt của con người.  Để mở ra cho suối nguồn sự sống, Người đã phải đón nhận cái chết đau đớn.  Người chính là vị Mục tử chân chính đã thí mạng vì đàn chiên.

Chúa Giêsu quả thật là cánh cửa mở ra cho đàn chiên đi đến những chân trời xa rộng, đi đến những đồng cỏ xanh tươi, đi đến những dòng suối trong lành.

Chúa Giêsu quả là vị mục tử tốt lành luôn chăm sóc đoàn chiên, luôn nuôi dưỡng đoàn chiên bằng những lương thực bổ dưỡng.  Chúa Giêsu đã đến cho ta được sống và được sống dồi dào.

Đó là cánh cửa duy nhất dẫn đến sự sống, ta hãy theo sát gót Người.  Đó là người mục tử duy nhất, ta hãy nghe tiếng Người.  Hãy đến với Người để Người đưa ta đến những chân trời xa rộng.  Hãy đến với Người để Người băng bó vết thương, xoa dịu nỗi đau và phục hồi sự sống.  Hãy đến với Người để Người đổ tràn tình yêu và sự sống vào tâm hồn ta.

TGM Ngô Quang Kiệt

MẸ KẾ

Đôi khi trong cuộc sống có những sự thực không như chúng ta vẫn nghĩ.  Bởi vậy, khi bạn đã trao yêu thương và coi mình là một phần quan trọng của người khác thì hãy cứ an tâm rằng bạn chắc chắn sẽ là một phần quan trọng với họ…

Tôi thường nghĩ rằng “cha mẹ kế” là từ dùng để chỉ những người đàn ông và đàn bà lấy nhau khi đã có con cái riêng, lý do đơn giản là chúng ta cần phải gọi họ bằng một cái tên gì đó.  Chắc chắn từ “kế” rất quan trọng nhưng người ta thường không nghĩ thế, với họ “cha mẹ” mới có ý nghĩa thực sự.  Đó là những gì tôi cảm thấy khi trở thành mẹ kế của bốn đứa con chồng tôi.

Chúng tôi kết hôn đã sáu năm, khi các con anh vẫn còn nhỏ và bây giờ đang ở tuổi vị thành niên.  Dù sống chủ yếu với mẹ ruột, chúng vẫn có nhiều thời gian sống cùng chúng tôi.  Nhiều năm qua, chúng tôi đã học cách thích nghi với nếp sống mới của gia đình và đối xử tử tế với nhau.  Chúng tôi đi nghỉ cùng nhau, dùng những bữa cơm gia đình, cùng làm bài tập, chơi bóng chày và xem phim bên nhau. Tuy nhiên tôi cứ cảm thấy mình giống như kẻ ngoài cuộc, tệ hơn là một kẻ xâm phạm gia đình riêng của người khác.  Có một lằn ranh ngăn cách rõ ràng mà tôi không thể nào vượt qua được.  Tôi không có riêng cho mình một đứa con nào, những kinh nghiệm làm mẹ của tôi chỉ giới hạn trong bốn đứa con của chồng và tôi thường tội nghiệp mình không bao giờ có được sợi dây liên kết thiêng liêng giữa mẹ và con.

Khi đám trẻ phải dời đến một thành phố khác cách năm giờ xe chạy, chồng tôi rất buồn và nhớ chúng.  Nhờ có internet chúng tôi có thể gởi thư cho nhau, kể cả trò chuyện với nhau mỗi khi chúng tôi cùng vào mạng.  Mỉa mai thay, những dụng cụ liên lạc hiện đại này cũng là những dụng cụ làm người ta dễ xa nhau hơn.  Chúng tôi cần biết bao sự tiếp xúc trực tiếp giữa người và người không qua máy móc.  Những khi bức thư trên màn hình chỉ đề “Ba” tôi thấy như bị bỏ quên, không ai nhớ đến mình.  Còn khi tên tôi cùng xuất ZZhiện với anh ấy, niềm vui không thể diễn tả được, tôi cảm thấy mình cũng là một thành viên trong gia đình họ.  Tuy vậy cũng còn khoảng cách nào đó cần phải vượt qua, ngay cả trên đường dây điện thoại.

Một buổi tối cũng khá khuya, chồng tôi ngủ gà gật trước tivi, còn tôi đang kiểm tra mình có thư hay không, máy tính báo tôi có một tin nhắn.  Đó là của Margo, con gái kế lớn nhất của tôi.  Con bé cũng thức khuya, cũng đang ngồi trước máy tính ở một nơi cách năm giờ xe chạy.  Giống như đã làm nhiều lần trước đây, chúng tôi trò chuyện qua lại, chia sẻ cho nhau những tin tức mới nhất.  Khi chúng tôi tán gẫu như thế này, con bé không cần biết tôi hay là ba của nó ngồi phía bên kia bàn phím – nếu như nó không hỏi.  Tối nay con bé cũng không hỏi và tôi cũng không cần nêu đích danh mình.  Sau khi nghe xong kết quả thi đấu bóng chuyền, chi tiết về buổi khiêu vũ sắp tới ở trường, bài tập lịch sử phải nộp, tôi nói đã khuya rồi và nên đi ngủ.  Margo trả lời: “Vâng ạ, lần sau chúng ta sẽ nói tiếp!  Thương nhiều”.

Khi đọc dòng chữ này, cảm giác buồn bã xâm chiếm khắp người tôi.  Hẳn là con bé nghĩ nãy giờ mình viết cho ba.  Con bé và tôi chưa bao giờ dùng những từ thương yêu, đầy tình cảm như thế.  Cảm thấy tội lỗi vì đã không làm sáng tỏ, nhưng cũng không muốn làm con bé xấu hổ, tôi gửi lại đơn giản: “Thương con!  Chúc con ngủ ngon!”

Tôi lại nghĩ về gia đình họ, về không gian riêng tư mà tôi là một kẻ xâm phạm.  Một nỗi đau trống rỗng nhói lên trong tim tôi.  Sau đó, ngay khi những ngón tay tôi chạm vào nút bấm, ngay khi màn hình chuẩn bị chuyển sang màu đen, tin nhắn cuối cùng của Margo xuất hiện: “Chúc ba ngủ ngon dùm con.”  Nước mắt ràn rụa, tôi với tay tắt máy tính.

Sưu tầm
 

ĐÔI ĐIỀU SUY NGHĨ

Chúa đem con vào đời, nhưng mục đích chính yếu của cuộc sống lại là chờ đợi một chuyến đi.  Sân ga không phải là quê hương của con để con bám víu và xây đắp, nhưng chỉ là bến tạm để đợi chờ con tàu. Khi nào thì con tàu sẽ đến để đem con đi?  Khi nào con từ giã cuộc sống?  Con chẳng biết được thời giờ định mệnh này.  Thưa Chúa, có điều con muốn nói là trong khi chờ đợi, trong lúc nhìn thời gian tiến về điểm mốc trọng đại ấy, con luôn luôn cần hạnh phúc.

* * *

ZZCon đã cảm nghiệm được nhiều thứ hạnh phúc.  Hạnh phúc khi nhận được tin vui.  Hạnh phúc đến từ một tâm hồn biết thông cảm.  Hạnh phúc đến từ sự thành công trong công ăn việc làm.  Nhưng, những hạnh phúc ấy vẫn chẳng làm con an lòng.  Con vẫn lo âu.  Những hạnh phúc ấy vẫn là bấp bênh.  Quá khứ minh chứng rằng nhiều lần con đã mất hạnh phúc ấy.

Vì những hạnh phúc ấy có thể mất nên cũng có những ngày tháng con sống không niềm vui, chung quanh con là sa mạc.  Mà đời người thì chẳng thể sống không niềm vui.  Nên con đi tìm niềm vui mới. Có khi con oán giận Chúa, bỏ đời sống đức tin để tìm bất cứ một an ủi nào đó.  Trong những giây phút ấy con thường tìm hạnh phúc trong tội lỗi.  Con không nhìn thấy những tàn phá của tội mà con chỉ thấy những hứa hẹn và bóng mát của tội mà thôi.  Thật sự con chẳng muốn bỏ Chúa bằng con đường chủ tâm sống trong tội.  Con vẫn biết con không thể sống thiếu Chúa, nhưng trong yếu đuối của đời mình, con đã thấy quyến rũ nơi tội mạnh hơn hạnh phúc do đời sống đức tin đem lại.

Hạnh phúc thật thì chỉ có một định nghĩa.  Nếu con đi tìm bất cứ hạnh phúc nào ngoài thứ hạnh phúc thật đó, con sẽ hoang mang và hụt hẫng.  Hạnh phúc thật đó chỉ có Chúa mới cho con được mà thôi. Chúa là nguyên ủy của tất cả, thì hạnh phúc cũng phải do Chúa là nguyên nhân.  Bởi đấy, khi con đi tìm niềm vui ngoài nguyên nhân tối thượng là Chúa, con sẽ gặp thất vọng.

* * *

Khi con phạm tội, tội cũng cho con một chút “niềm vui”.  Nhưng tội làm con xa Chúa.  Niềm vui hay hạnh phúc là lúc trầm mình thưởng thức trong dòng nước chảy của dòng sông.  Mức độ và sắc thái khác nhau của hạnh phúc tùy thuộc vào nguồn gốc của dòng sông ấy.  Chúa là nguyên nhân của một thứ hạnh phúc.  Tội cũng sinh ra một dòng hoan lạc.  Nguyên nhân khác nhau thì hạnh phúc hay hoan lạc đến từ các nguyên nhân đó phải khác nhau.  Từ sự khác nhau ấy, con chọn lựa cho mình một dòng sông.  Dòng sông hạnh phúc của Chúa hay đôi bờ hoan lạc của tội.

Con là một tạo vật hữu hạn.  Thứ hạnh phúc của tội cũng là một sản phẩm hữu hạn, bởi vì chính con tạo nên nó.  Vì con tạo nên nó, do đấy, nó chẳng bao giờ thỏa mãn con được.  Hạnh phúc của con hệ tại bám vào hạnh phúc tự thể là Chúa.  Nên khi con mất cái tự hữu để ký sinh thì con chênh vênh và hao hụt ngay.

Tội làm con xa Chúa.  Chúa xa con không phải vì Chúa bực mình, ghen tức.  Dù con thánh thiện tới đâu đi nữa thì cũng chẳng vì thế mà sự trọn hảo của Chúa thêm trọn hảo hơn.  Dù con có cầu nguyện thiết tha đến đâu đi nữa thì chẳng vì thế mà Chúa được cao cả hơn.  Tự Chúa đã tràn đầy tất cả.  Chúa chẳng cần gì.  Nếu con cầu nguyện là con bám vào sự trọn hảo của Chúa để được thương ban mà thôi.

Tội là thái độ tự do để lựa chọn một đối tượng ngoài Chúa.  Khi phạm tội là con nghe theo một tiếng gọi khác, chấp nhận một đối tượng khác.  Khi con chấp nhận một đối tượng khác rồi thì lẽ dĩ nhiên là Chúa phải xa con.  Chúa không áp bức con bằng sức mạnh, bằng quyền năng, nhưng Chúa kính nể sự tự do của con.  Khi con phạm tội, khi con lựa chọn một đối tượng rồi thì Chúa muốn ở với con cũng không được vì con đã dành khoảng trống của lòng mình cho một chủ khác rồi.

Khi con kiếm tìm niềm vui nơi tội là con tạo nên cơn bão táp cho chính vườn rau của mình.  Càng để tội lỗi làm chủ con tim mình thì Chúa càng phải ở xa.  Mà Chúa càng xa thì hạnh phúc thật càng mù tăm, khuất bóng.  Lý tưởng cuộc đời con là kiếm tìm và quy về nguồn cõi hạnh phúc thật đó.  Do vậy, càng xa nguồn hạnh phúc thật thì con càng đánh mất ý nghĩa cuộc sống.  Mà không còn ý nghĩa thì cuộc sống trở nên man dại, tính toán, lo âu, giành giật, hận thù và chán chường.

* * *

Khi con phạm tội là con phá hủy hết tất cả tự do của con.  Cơn bão táp ấy xóa nhòa nhân phẩm của con.  Tội là điều xấu.  Con không muốn để người khác biết những điều xấu xa của con.  Từ đó, con có hai khuôn mặt.  Một khuôn mặt thật và một khuôn mặt để “show up”, trình diễn để tha nhân nhìn vào.  Khi con giấu kín khuôn mặt thật tội lỗi để phô bày khuôn mặt giả cao thượng là con xây dựng giá trị của mình trên sự lầm lẫn của tha nhân.  Con lừa dối kẻ đối diện.  Nếu con còn may mắn để nhìn thấy rằng mình có hai khuôn mặt mỗi khi xét mình thì con còn lương tri để biết rằng mình chỉ lừa gạt người chứ không lừa dối mình.  Nhưng ngày nào đó, con lẫn lộn giữa thực và hư.  Ngày nào đó, con người để trình diễn kia rợp bóng đến nỗi con chỉ thấy nó là chính mình và con tin nó là khuôn mặt thật của mình, con không còn thấy bóng khuôn mặt thật của con đâu nữa thì ngày đó con chẳng còn gì.  Con đã là nạn nhân của sự giả tạo.  Gian dối với tha nhân đã nên lừa đảo chính mình.

Khi tha nhân tưởng con là gương mẫu của đời mà con không là gương mẫu thì con sẽ lo âu cho cái ngưỡng mộ kia bị đổ vỡ nếu tha nhân nhận ra con người thật tội lỗi của con, cho nên con lại càng phải cất giấu con người đó kỹ hơn.  Bởi đấy, tội cướp mất tự do.  Sống trong tội, con phải sống trong hồi hộp, gian dối, lo âu.

Chẳng có người cha nào không mủi lòng khi thấy đứa con mình sắp xuống tắm trong dòng sông ngầu vẩn rác đục.  Vì kính trọng tự do Chúa đã ban cho con, nên Chúa biết con xa Chúa là đời con sẽ chán chường, Chúa cũng đau khổ, nhưng Chúa chẳng thể cưỡng bách con chọn Chúa được.  Mà thật sự con cũng không muốn mất tự do.  Hành vi chọn lựa là một thú vui chan chứa của tự do.  Không có tự do sẽ là gỗ đá.  Nếu con không phải là gỗ đá, nếu con có tự do, thì con phải biết lo âu biết bao về sự tự do của mình.

LM Nguyễn Tầm Thường

 

ĐƯỜNG EMMAUS

ZZĐường Emmaus thật lạ kỳ.  Cùng một con đường, cùng một buổi chiều mà hai môn đệ đi lại hai lần, mỗi lần lại mỗi dáng vẻ hoàn toàn khác nhau.  Khi đi thì đường xa vời vợi, mãi không thấy đến.  Lúc về thì sao chóng vánh, chưa đi đã đến.  Khi đi thì ảo não u sầu.  Lúc về lại phấn khởi hân hoan. Khi đi trời còn sáng mà tưởng như đi trong đêm đen.  Lúc về trời đã tối mịt mà tưởng đi giữa ban ngày.  Khi đi tuyệt vọng chán chường.  Lúc về tràn đầy hy vọng.  Chắc hẳn ai cũng hiểu, lúc về có kết quả tốt đẹp như thế là vì hai môn đệ đã gặp được Chúa Kitô Phục Sinh.  Chính Chúa Kitô Phục Sinh làm nên khác biệt.  Gặp Chúa Kitô Phục Sinh là bí quyết giúp thay đổi cuộc đời, giúp cuộc đời có ý nghĩa, có niềm vui, có hy vọng và có lẽ sống.

Nhưng làm thế nào để gặp được Chúa Kitô Phục Sinh?  Thực ra sau khi phục sinh, Chúa không còn bị giới hạn trong không gian.  Chúa ở khắp mọi nơi.  Chúa ở ngay bên ta.  Nhưng ta không thấy được Ngài và có khi thấy nhưng không nhận ra Ngài.  Muốn gặp Ngài và nhận ra Ngài, ta hãy học hỏi bí quyết của hai môn đệ Emmaus: Bí quyết đó là xây dựng những cộng đoàn chia sẻ.

Trước hết là chia sẻ Lời Chúa.  Hai môn đệ không đi một mình nhưng lúc nào cũng bên nhau.  Hai môn đệ không nói chuyện vu vơ, nhưng cùng nhau nhớ đến Chúa, nói chuyện về Chúa, chia sẻ tâm tư về Chúa.  Các ngài đã thực hành Lời Chúa: “Ở đâu có hai ba người tụ họp nhân danh Thày thì Thày ở giữa họ.”  Chúa đã thực hiện lời hứa nên đã đến đồng hành với các môn đệ.  Hơn nữa, Chúa còn chia sẻ Lời Chúa giúp các ngài hiểu biết và yêu mến Lời Chúa.

Tiếp đến là chia sẻ bác ái.  Chúa giả vờ muốn đi xa hơn.  Nhưng các môn đệ van nài: “Xin ở lại với chúng tôi vì trời đã chiều và ngày sắp tàn.”  Thật cảm động khi lỡ đường mà được mời chia sẻ một mái nhà, dù chỉ là quán trọ.  Và chia sẻ một bữa ăn dù đơn sơ đạm bạc.  Nếu các môn đệ không có lòng bác ái chia sẻ như thế, có lẽ Chúa đã bỏ đi.  Cảm động trước tấm lòng chia sẻ chân thành nên Chúa đã ở lại.  Các môn đệ đã thực hành Lời Chúa: “Mỗi lần các con làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25, 40).  Nhờ chia sẻ bác ái, các ngài đã được gặp Chúa.  Và chính Chúa đã ở lại để chia sẻ tâm tình với các ngài.

Sau cùng là chia sẻ Thánh Thể.  Ngồi vào bàn, Chúa Giêsu “cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ.”  Đúng như cử chỉ Chúa làm khi lập phép bí tích Thánh Thể.  Mắt các môn đệ mở ra và nhận ra Chúa.  Phép Thánh Thể cho các ngài bảo chứng về sự hiện diện của Chúa.  Phép Thánh Thể ban cho các ngài niềm vui được gặp gỡ Chúa.  Phép Thánh Thể ban cho các ngài sức sống mới để tiếp tục xây dựng các cộng đoàn chia sẻ rộng lớn hơn.  Từ đó nhân lên các cộng đoàn chia sẻ Lời Chúa, chia sẻ bác ái và chia sẻ Thánh Thể đi khắp thế giới.

Tôi rất vui mừng vì giáo xứ nhà thờ chính tòa chúng ta đang phấn đấu xây dựng thành một cộng đoàn theo gương các môn đệ.  Cha Xứ và Anh chị em đang tích cực khuyến khích nhau học hỏi, chia sẻ và thực hành Lời Chúa, khuyến khích tổ chức các nhóm họat động từ thiện bác ái, và khuyến khích mọi người đến tham dự thánh lễ ngày càng đông đảo.  Đó là dấu hiệu Chúa đang ở giữa chúng ta.  Có Chúa hiện diện tôi tin chắc cộng đoàn giáo xứ chúng ta sẽ được ơn biến đổi, sẽ tràn đầy niềm vui, niềm bình an, sẽ ngày càng thêm đoàn kết yêu thương và sẽ hăng hái đi loan Tin Mừng.  Xin Chúa cho con đường cộng đoàn chúng ta đang đi trở nên con đường Emmaus, khi đi dù có khó khăn vất vả, nhưng với sự phấn đấu ta sẽ gặp Chúa và đường về sẽ tràn ngập niềm vui.

Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh xin cho chúng con được sống lại thật về phần linh hồn.  Amen!

TGM Giuse Ngô Quang Kiệt

BỨC TRANH PHỤC SINH ẤN TƯỢNG NHẤT

Từ trước đến nay, sự kiện Phục Sinh đã từng là nguồn cảm hứng cho nhiều danh họa bực thầy như Rembrandt, Rubens, Paolo Verones hay Sebastiano Ricci.

Những bức tranh nổi tiếng của họ thường diễn tả cảnh huy hoàng lúc Chúa Sống Lại, sự khải hoàn bên trên ngôi mộ trống, sự sững sờ của đám quân canh, hoặc niềm vui tột độ của bà Madalena.

ZZÍt được biết đến, vì không có hình Chúa, và vì ít được sao chép cho mục đích thờ phượng, nhưng được đánh giá là một kiệt tác có ý nghĩa nhất trong các tác phẩm Phục Sinh, đó là tác phẩm của một họa sĩ Thụy Sĩ không mấy tiếng tăm tên là Eugène Burnand.  Bức tranh có một cái tên rất dài: “Các môn đệ Phêrô và Gioan chạy đến Mộ lúc buổi Sáng Phục Sinh,” niên lịch năm 1898, đang được lưu trữ tại viện Bảo Tàng Musée d’Orsay ở Paris.

Những ai bỏ công đi tới bảo tàng d’Orsay để chiêm ngắm bức tranh, đều đồng ý là bức tranh đã đánh động tâm hồn họ một cách đặc biệt.

Bức tranh không vẽ cảnh Chúa hiển vinh, chỉ miêu tả hai nhân chứng, một người là tông đồ già nhất và một người là tông đồ trẻ nhất của Chúa Giêsu.

Vị tông đồ trẻ, Gioan, là người duy nhất đã có đủ can đảm đi theo chân Chúa cho đến tận đồi Golgotha, và cũng là vị tông đồ duy nhất không phải chết tử vì đạo.  Còn vị tông đồ già kia, Phêrô, là người vừa mới chối Chúa nhiều lần vì sợ hãi, nhưng sau cùng thì ông đã chọn việc bị xử tử bằng cách chịu đóng đinh ngược đầu chứ không phủ nhận sự Phục Sinh của Chúa Kitô.

Trong bức tranh, Gioan siết tay cầu nguyện trong khi Phêrô áp chặt bàn tay trên trái tim mình.  Tóc và áo của hai người bay ngược về phía sau diễn tả một cuộc chạy bộ vội vàng, nôn nóng để được chứng kiến một sự kiện đã thay đổi cục diện của cả Trời lẫn Đất một cách vĩnh viễn.

Tuy chỉ vẽ có hai người, nhưng bức tranh gợi ý đến ba nhân vật khác, Chúa Giêsu, Mẹ Maria và bà Madalena.

Người ta có cảm tưởng bà Mary Madalena đang ở gần bên, đứng ngay cạnh bức tranh.  Và hầu như người ta có thể nghe thấy giọng nói hớn hở của bà, chỉ mới vài giây trước đó, đã xông vào nhà của các môn đệ mà báo tin Người đã sống lại.

Hình ảnh của Phêrô diễn tả toàn thể mối quan hệ giữa ông với Chúa Giêsu.  Đôi mắt ông mở to ẩn chứa một sự hỗn hợp giữa lo âu và hy vọng.  Ông đang bị dằn vặt bởi ba lần chối Chúa nhưng đã không đánh mất niềm hy vọng được cứu rỗi.  Người ta có thể liên tưởng tới vài ngày sau đó khi Chúa ngồi bên đống lửa và hỏi Phêrô ba lần, “Con có yêu Thầy không?” và ba câu trả lời của ông đã rửa đi tất cả những tội lỗi quá khứ.

Hình ảnh Gioan với đôi mắt đăm chiêu và thái độ tuân phục nhắc nhở tới những giây phút đau buồn trên núi Sọ vẫn còn chưa vơi trong lòng ông, lúc đó Chúa Giêsu đã hướng về mẹ mình và nhắn nhủ với Gioan rằng “Đây là mẹ con,” và hướng về Gioan mà nói với Mẹ rằng “Đây là con bà.”  Toàn thể loài người đã được ủy thác cho Mẹ và Mẹ cũng đã nhận loài người làm con của mình từ lúc đó.

Bầu không khí khẩn trương của hai nhân vật trong tranh cho thấy rằng tuy một Thế Giới mới với một cuộc sống mới đã xuất hiện, nhưng mọi người vẫn còn sống trong lo âu và nghi ngờ vì đó là một bí ẩn vượt quá tầm hiểu biết và sự kiểm soát của con người nhỏ bé.

Xét về mặt nghệ thuật, bức tranh “Các môn đệ” của Eugène Burnand đã được vẽ trong bối cảnh một nền nghệ thuật mới (thứ Bảy) đang ló dạng, đó là nghệ thuật điện ảnh.

Do đó bức tranh đã mang ảnh hưởng của nền nghệ thuật sống động mới này, nhằm để diễn tả hành động, để kể một câu chuyện.  Cảnh Phục Sinh của ông không mô tả những tĩnh vật như mồ đá đã mở hoặc những gương mặt “sững sờ” đầy kịch tính, nhưng là diễn tả một cảnh chuyển động với nắng lên, mây bay và những gương mặt biểu lộ một tâm tư sôi nổi.

Tuy thể loại hiện thực của Burnand sẽ bị thay thế nhanh chóng bởi nghệ thuật thứ Bảy và không được tiếp đón nồng hậu ở Âu Châu khi đó đang bị rơi vào một nạn “đói” tâm linh trước những tấn công của nhiều lý thuyết vô thần.  Tuy nhiên bức tranh của Burnand đã đóng góp rất nhiều vào những phong trào “tái sinh tôn giáo” ở cuối thế kỷ 19 tại Mỹ Châu, đã trở thành rất bình dân trong giới thợ thuyền ở “Tân Thế Giới.”  Họ nhìn thấy hình ảnh của chính họ ở nơi hai người thuyền chài nghèo khó đang vội vã, lo lắng nhưng cũng tràn đầy hy vọng và họ sẽ được hớn hở vui mừng, trong một buổi sáng tinh sương cách đây 2000 năm về trước.

Trần Mạnh Trác

TÔI ĐÃ ĐƯỢC LOAN BÁO TIN MỪNG

Tôi sinh ra trong một gia đình đông con không Công giáo.  Hơn 30 năm trước, mỗi buổi chiều, tôi thường vừa nhảy lò cò vừa hát: “Đức Chúa Cha mua 3 múi mít, Đức Chúa Mẹ chê ít không ăn…”

Lớn lên chút nữa, tôi tò mò theo đám bạn học Công giáo vào nhà thờ hôn chân Chúa.  Hôn vào lỗ đinh, tôi sợ rợn người, nhưng trong lòng trộm hỏi: Sao người ta yêu Chúa thế!  Sao Chúa Giêsu tội nghiệp lại để cho người ta đánh tả tơi!…

Nhà tôi gần xóm núi, mùa đông sương phủ trắng con đường dốc.  Thế mà từ 5 giờ sáng, tôi đã thấy các cụ già lọm khọm đi nhà thờ.  Không sót buổi nào!  Dẫu có mưa phùn hay gió thổi lạnh buốt.  Quá nể phục!  Tôi bắt đầu suy tư… Hẳn phải có một sức hút tâm linh rất mạnh mẽ nơi cái nhà thờ ấy…

Quê tôi rất nghèo.  Những năm 80 đói xác xơ!  Nhà tranh vách lá xiêu vẹo.  Một gia đình Công giáo vừa mới chuyển về mua lại căn nhà rách nát cạnh nhà tôi.  Nhưng điều lạ lùng là chỉ một tuần lễ sau, có một nhóm thanh thiếu niên độ mười mấy hai chục người kéo đến, kẻ vác cột, người kéo tranh…, chỉ trong một ngày là ngôi nhà đã được sửa chữa tươm tất!  Hỏi ra tôi mới biết cha nhà thờ cho người đến giúp.  À thì ra thế!  Hèn gì xóm đạo phía khu B nhà nào cũng vững chải khang trang, đâu có nhếch nhác như xóm kinh tế mới của tôi!  Hay thật!  Tôi ngưỡng mộ thèm muốn…

Nhưng chạnh lòng nhất là vào những dịp lễ, tết, Trung Thu hay vào cuối năm học, thiếu nhi nhà thờ luôn được tặng quà thêm, nhìn bọn nó xúng xính quà cáp trên tay, gương mặt rạng rỡ, đôi lúc còn được tổ chức cho vui chơi, bọn trẻ không Công giáo chúng tôi đứa nào cũng thèm thuồng và buồn thiu buồn thỉu… Có đạo sướng quá, vui quá, và được thương nhiều quá!

Năm nào cũng vậy, gần đến Giáng sinh thì trời càng trở lạnh.  Người ta kháo nhau: Đêm noel lạnh lắm!  Lạnh nhất đấy!  Mà đúng là đêm Noel trời lạnh thật!  Có cái gì đó nhiệm màu, thánh thiêng được thắp lên trong lòng tôi…

Tôi lên mười sáu.  Một anh thanh niên hay ghé nhà tôi chơi.  Anh thao thao nói cho tôi nghe về Chúa. Tôi ngưỡng mộ sự hiểu biết của anh lắm! (Sau này tôi mới biết là lúc ấy anh đang học giáo lý dự tòng, hôm trước nghe cha dạy gì thì hôm sau đem truyền đạt lại cho tôi thôi!)  Có lần tôi nài nỉ anh hôm nào rảnh thì dắt tôi đi nhà thờ với, anh trả lời tôi rằng: “Ừ, để khi nào tiện anh dắt đi.  Cha nói nếu như được ơn Chúa gọi mời thì trước sau gì cũng theo Chúa thôi!”… Từ ngày ấy, tôi ước mơ “được Chúa gọi mời”…

Thời gian trôi qua… anh đi đâu mà chẳng hề giã biệt tôi.  Lời hứa bỏ lơ lửng đó.  Tôi vùi đầu vào sách vở.  Hai năm sau tôi lên thành phố vào đại học.  Tất bật với cuộc sống, mơ ước của tôi cũng dần lãng quên… Bất ngờ tôi gặp lại anh ấy!  Rất tình cờ nhưng tôi xác tín rằng đó là định mệnh Chúa dành cho tôi.  Anh dắt tôi đi nhà thờ thật!  Ước mơ ngày ấy lại trỗi dậy trong tôi.  Tôi còn nhớ như in lần đầu anh dắt tôi đến nhà thờ Chúa Hiển Linh ở Phú Lâm, tôi đã rụt rè cầu nguyện chỉ có môt câu: “Chúa ơi!  Con chẳng biết gì về Ngài, nếu quả thật Ngài là Đấng quyền năng thì xin cho con biết Ngài và yêu Ngài với…!”

ZZRồi cứ thế, anh ấy đèo tôi trên xe đạp chiều chiều đi lễ… Rất nghèo nhưng rất vui…  Anh đưa tôi đi học giáo lý dự tòng rồi sau đó cùng nhau học giáo lý hôn nhân.  Tôi rửa tội tại nhà thờ Tân Thái Sơn. Cha mẹ tôi tôn trọng quyết định của tôi.  Ngày rửa tội, tôi không muốn khóc nhưng nước mắt cứ rơi ra!  Tôi đã mong đợi ngày ấy lâu biết bao nhiêu – cái ngày mà tôi được đón nhận mình Thánh Chúa!  Tôi cảm nhận một niềm thương chan chứa trong tâm hồn… Chúa thương tôi nhiều quá!  Lúc ấy và cho đến tận bây giờ, mỗi khi nghe một bài thánh ca xúc động vang lên, lòng tôi lại thổn thức… Chúa ơi!  “Chúa ghi vào hồn con dấu ấn của ngài…”

Tốt nghiệp đại học, chúng tôi cưới nhau.  Tôi mang trong mình một tham vọng lớn lắm!  Tôi sẽ dùng hết tài ăn nói khéo léo của mình để thuyết phục cha mẹ và anh em nhập đạo!  Hết lần này đến lần khác, tôi cố gắng kiên trì.  Cuối cùng thì tôi đón nhận được một ánh mắt nghiêm nghị của Ba tôi: “Từ nay con đừng bao giờ đem chuyện tôn giáo ra nói với Ba nữa, Ba không muốn nghe đâu!”  Anh em tôi thì chế nhạo “mở miệng ra là nghe sặc mùi Chúa!”

Tôi buồn.  Lòng nghe tái tê… Tôi thương cha mẹ anh em nhiều lắm!  Tôi tin mình tìm thấy Chúa là tìm thấy bến bờ yêu thương.  Dẫu trong khó nghèo, chúng tôi vẫn có một niềm bình an sâu lắng.  Bởi chúng tôi tin vào sự quan phòng của Chúa.  Lời Ngài đã dạy chúng tôi sống nhường nhịn, tha thứ, yêu thương.  Nhìn mẹ cha anh em sống tất bật trong cơm áo gạo tiền và bao nỗi lo toan cho xác thịt, không có một phút lo liệu cho phần hồn, tôi ái ngại cho đời sau!  Thương quá!  Nhưng không biết làm sao!..

Chúa đã dạy tôi qua miệng lưỡi một ai đó: đừng nói gì, hãy cầu nguyện đi!  Không có gì là Chúa không làm được!  Thế là từ đó tôi cầu nguyện.  Lúc sốt ruột, lúc ỉ ôi, lúc than thở…  Cha ơi!  Sao lại để con đến với Cha quá muộn màng!  Và sao Cha ôm con vào lòng mà còn để mẹ cha anh em con tăm tối!…  Năm năm, rồi sáu năm trôi qua, vẫn không có gì thay đổi.  Lòng tôi vẫn da diết nặng trĩu.  Có một lần tôi chợt nhận ra, nếu Chúa không để tôi đợi chờ mong mỏi, chắc lòng tôi chẳng có nỗi khát khao!  Biết đâu nếu gia đình tôi đạo gốc, tôi chẳng còn có nỗi niềm để thưa gởi, gắn bó với Chúa nữa thì sao?  Thật đáng sợ nếu một ngày nào đó lòng tôi lạnh nhạt, không có gì để nói với Cha, không còn ríu rít “Cha ơi!  Con đây, con dâng ngày của con trong tay Cha!”  Nhận ra điều này, tôi cảm tạ Cha…

Rồi đến năm thứ bảy.  Một lần về thăm quê, ba gọi tôi lại bảo: “Ba muốn theo đạo, con đi gặp cha nhà thờ đi!”  Tôi nghe lùng bùng trong tai, không tin được.  Cảm tạ Chúa!..

Thế là ba, mẹ và bà nội tôi được rửa tội (Ông tôi đã mất).  Bảy anh chị em của tôi không theo đạo nhưng cũng đến nhà thờ dự lễ.  Tôi lại khóc thút thít trong nhà thờ.

Một năm sau, em trai kế và chị gái kế của tôi cùng con cái cũng lần lượt được rửa tội tại nhà thờ Tân Thái Sơn luôn.  (Đây là hai người trước đây hay chế giễu tôi nhất!..)

Còn đến 5 gia đình anh chị em của con nữa Cha ơi! Con xin đặt trong trái tim nhân hậu vô biên của Cha!

Con đường tôi đến với Chúa như thế đó!
Có bước chân lọm khọm của cụ già.
Có sự hăng hái vô tư của anh chị thanh niên.
Có sự tận tuỵ của vị chủ chăn và sự chăm lo của ban hành giáo.
Có tình yêu nâng đỡ của chồng tôi.

Và trên tất cả, là Cha yêu thương trên trời, là Giêsu chết treo trên thập giá, là Chúa Thánh Thần luôn ở giữa đời tôi.

Tôi tin Chúa ban tặng mỗi người một con đường riêng.  Con đường ấy mỗi ngày thêm một điều mới lạ, thêm một cụm cỏ, nhánh hoa từ lòng mến của nhau.  Tôi cảm tạ tất cả những người đã đi trên con đường cuộc đời tôi – tuy không dành cho tôi, nhưng đã để lại ấn tượng trong lòng tôi rất đẹp.  Những điều rất đời thường, tưởng chừng như sẽ rơi hút vào không gian.  Nhưng không, trong ơn Thiêng, nó sẽ được trau chuốt và đọng lại, rồi một ngày, đúng thời đúng lúc sẽ nở hoa…

Mẫu Bút Chì

ĐẤNG PHỤC SINH ĐANG Ở GIỮA CHÚNG TA

Chúng ta đã long trọng mừng lễ Phục Sinh.  Mọi ồn ào của những cuộc kiệu rước đã lắng xuống. Những bận rộn của Tuần Thánh cũng đã đi qua.  Đối với nhiều người, Tuần Thánh và lễ Phục Sinh giống như những ngày lễ hội mỗi năm tổ chức một lần, lễ xong là hết.  Điều còn lại có thể chỉ là những lời bình phẩm về cách tổ chức lễ năm nay có gì hơn hay kém năm ngoái.  Để tránh lối suy nghĩ lệch lạc đó nơi các tín hữu, Phụng vụ hôm nay khẳng định với chúng ta rằng Chúa phục sinh đang hiện diện trong cộng đoàn các tín hữu.  Người hiện diện như mối dây liên kết chúng ta nên một trong tình bác ái và sự chia sẻ nâng đỡ lẫn nhau.  Hình ảnh cộng đoàn tiên khởi ở Giêrusalem là lời mời gọi chúng ta hãy noi gương mà sống xứng đáng với danh nghĩa những môn đệ Chúa Kitô (Bài đọc I).  Nếu các tín hữu có thể coi mọi sự là của chung và chuyên cần tham dự bẻ bánh, siêng năng cầu nguyện và nhiệt ZZthành thực thi bác ái là vì họ tin Chúa Giêsu phục sinh đang ở giữa họ và chứng kiến những điều tốt lành họ đang làm.

Tuy vậy, vấn đề người chết sống lại, xưa cũng như nay, được coi là một câu chuyện hoang đường, không thể chấp nhận.  Ngay như các môn đệ là những người đã cùng sống với Chúa và đã được nghe Người tiên báo về sự phục sinh, mà các ông còn chưa dễ dàng tin vào sự kiện này.  Thánh Máccô ghi lại sự nghi ngờ đến mức cứng lòng của các ông: Khi bà Maria Mácđala kể với các ông là bà đã gặp Chúa phục sinh, các ông cũng không tin.  Các ông cũng không tin khi hai môn đệ từ Emmau trở về quả quyết đã gặp Chúa (x. Mc 16, 9-13).

Lời Chúa hôm nay dẫn chứng một nhân vật cụ thể nữa, đó là Tôma.  Ông không có mặt khi Chúa hiện ra với các môn đệ.  Điều các bạn kể lại không thể thuyết phục ông chấp nhận một điều “ngược đời”. Dấu đinh ở tay, vết thương ở cạnh sườn Chúa… là những điều ông đã chứng kiến như bằng cớ của việc Chúa Giêsu đã chết.  Đối với ông, việc được xỏ ngón tay vào lỗ đinh và đặt bàn tay vào cạnh sườn bị đâm thủng là bằng chúng xác thực về việc Chúa sống lại.  Thực ra, Tôma không thách thức Chúa, ông chỉ cần bằng chứng thiết thực để ông tin.

Chúa Giêsu đã đáp trả những điều kiện Tôma đã đưa ra.  Tám ngày sau, cũng vào ngày thứ nhất trong tuần, Chúa đã hiện đến với các ông với những thương tích trên thân thể Người.  Nếu trước đây Tôma đã ra điều kiện để tin, thì nay Chúa mời ông thực hiện những điều ấy.  Ông chẳng còn lòng dạ nào mà xỏ ngón tay vào lỗ đinh, đặt bàn tay vào cạnh sườn Chúa.  Đúng hơn, ông chẳng cần làm những điều đó, vì Chúa đang ở trước mặt ông bằng xương bằng thịt và đang nói với ông: “Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin.”  Qua lời nói với Tôma, Chúa Giêsu phục sinh muốn gửi đến cho chúng ta một thông điệp: “Phúc thay những người không thấy mà tin.”  Thông điệp ấy vẫn có giá trị đến ngày hôm nay.  Là những tín hữu, chưa ai trong chúng ta được thấy Chúa trực tiếp.  Chúng ta chỉ cảm nhận Chúa bằng Đức tin.  Con tim và lý trí mách bảo chúng ta Chúa đang hiện diện và những ai tin vào Người thì sẽ không phải thất vọng. “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!”  Đó là lời tuyên xưng Đức tin của một người đã hoàn toàn bị chinh phục.  Đó cũng là tâm tình sám hối của một người đã chậm tin những chứng từ của anh em mình.

Trong trình thuật của mình, thánh sử Gioan hai lần nói đến chi tiết “các cửa đều đóng kín,” để diễn tả Đức Giêsu phục sinh không còn bị giới hạn bởi không gian, nghĩa là Người trở nên thiêng liêng giữa thế giới của chúng ta.  Cũng như Người có thể vào trong phòng khi các cửa đều đóng kín, hôm nay Người đang hiện diện nơi dung mạo và cuộc đời của những ai mang tên Người, tức là các Kitô hữu. Thánh Phêrô đã khuyên chúng ta: “Tuy không thấy Người, anh em vẫn yêu mến, tuy chưa được giáp mặt mà lòng vẫn kính tin.  Vì vậy, anh em được chan chứa một niềm vui khôn tả, rực rỡ vinh quang, bởi đã nhận được thành quả của Đức tin là ơn cứu độ con người” (Bài đọc II)

Chúa Giêsu phục sinh hôm nay đang hiện diện cách huyền nhiệm nơi cuộc đời này.  Sự hiện diện của Chúa có thể được chứng tỏ qua đời sống đạo đức yêu thương của các tín hữu.  Xin cho mỗi chúng ta biết nhận ra Người đang sống giữa chúng ta để hăng hái nhiệt thành làm chứng cho Người.  “Đức tin là sự tin tưởng sống động và táo bạo vào ơn Chúa, chắc chắn và vững bền tới mức một người có thể cược cả đời mình cho nó hàng nghìn lần” (Sưu tầm).

GM Giuse Vũ Văn Thiên

 

 

NẺO ĐƯỜNG TÌM CHÚA PHỤC SINH

Hôm nay Lễ Phục Sinh, bài Tin Mừng của Thánh sử Gioan, chỉ có 9 câu ngắn ngủi, nhưng gói ghém thật cô đọng hành trình đi tìm Chúa Phục Sinh của ba người: Bà Maria Mácđala, ông Phêrô và ZZGioan, Người Môn Đệ Đức Giêsu Thương Mến.

Nẻo đường của ông Phêrô

Ông Phêrô sau khi chối Chúa ba lần trước khi gà gáy, đã kịp thời ăn năn khóc lóc thảm thiết, ngay khi gặp cái nhìn đầy yêu thương trìu mến và thương xót của Chúa Giêsu (Lc 22, 61). Ông vẫn theo Chúa xa xa.  Vẫn nhận thức vai trò Đá Tảng mà Chúa Giêsu trao phó.  Vẫn hăng hái và nhiệt thành.  Nên nghe bà Mácđala báo tin ngôi mộ trống, bèn cùng ông Gioan, chạy đến ngay.

Sự mau mắn của ông biểu lộ lòng chân thành và tinh thần trách nhiệm cao độ.  Ông vẫn hăng hái hành động, như từng rút kiếm, tấn công quân dữ đến bắt Chúa Giêsu, nhưng lóng ngóng, chỉ dám chém đứt tai người đầy tớ của thượng tế.  Đáng tiếc thay, ông Phêrô đã mất thói quen cầu nguyện, nên thay thế vào đó cách xử dụng hung bạo, làm mất cơ trí đi, và lòng nhiệt thành của ông trở thành một thứ hăng say trái mùa. (ĐGM Fulton Sheen)

Thậm chí, sau khi đã được Chúa Giêsu hiện ra an ủi, chúc bình an, thổi hơi, ban Đức Chúa Thánh Thần, ông vẫn chưa mấy biến chuyển.  Vẫn vô tư rủ bạn chài đi đánh cá.  Nhọc nhằn thâu đêm chẳng được gì, thì tảng sáng Chúa hiện đến, chỉ các ông thả lưới  bên phải mạn thuyền.  Tức thời trúng thật đậm.  Người Môn Đệ Được Chúa Thương Mến mới nhắc ông: “Chúa đó!” (Ga, 21, 7) Ông Phêrô chỉ biến đổi hoàn toàn, sau ngày lễ Ngũ Tuần, sau khi đã được tràn đầy hồng ân Đức Chúa Thánh Thần.

Hành trình tìm Chúa Phục Sinh thật gian nan với ông Phêrô, tuy ông cũng được thấy Chúa hiện ra, nhưng đúng hơn là Chúa chủ động tìm đến với ông, thay vì ngược lại.  Những tấm khăn liệm, băng vải, khăn che đầu đã che khuất tầm nhìn của ông, những hoạt động hăng say quá bận rộn bên ngoài, đã khuấy động tâm hồn ông, vốn rất ngay lành, đâm ra u mê, tăm tối.

Như thế, nếu tôi cũng chỉ nhiệt thành giữ đạo theo thói quen, chỉ hành động xuông như tập quán, kinh sách đọc rổn rảng, vô hồi kỳ trận, mà thiếu mất tâm tình cầu nguyện sốt sắng, mật thiết, và còn thiếu lòng ăn năn thống hối như Phêrô, thiếu ý chí và cố gắng nên tốt lành hơn.  Bởi vì những thứ trên chỉ là phương tiện giúp nên thánh, mà phải có ý chí sửa đổi thì ân sủng Chúa mới hoạt động, ân sủng Chúa chỉ sinh hoa trái, khi có sự hợp tác của linh hồn mà thôi.  Hơn nữa, tôi còn thiếu cả Thánh Thể, Của Ăn Đi Đàng, lẫn thiếu Lời Chúa dẫn dắt, làm sao tìm và gặp được Chúa Sống Lại trong tôi?

Nẻo đường của ông Gioan

Người Môn Đệ Được Chúa Thương Mến trái lại, trẻ trung, mạnh khỏe, nhanh nhẹn, chạy đến ngôi mộ trống trước ông Phêrô.  Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào (Ga 20, 5).   Ông Gioan được cho là chàng thanh niên đã bỏ chạy khi Chúa Giêsu bị bắt (Mc 14, 51).  Nhưng sau đó, vẫn can đảm theo Chúa vào dinh cựu thượng tế Khanan, rồi còn giúp đỡ ông Phêrô lọt vào bên trong (Ga 18, 16).  Cho đến khi Chúa Giêsu chịu đóng đinh, ông Gioan cũng đứng dưới chân thánh giá cùng với Đức Mẹ Maria, bà Maria vợ ông Cơlopat, và bà Maria Mácđala.

Tuy đến ngôi mộ trước, ông chỉ cúi xuống, nhìn thấy băng vải trong đó, không vào ngay, mà nhẫn nại chờ đợi đại huynh Phêrô đến.  Có nhiều cách giải thích sự chờ đợi này.  Có thể vì kính trọng quyền huynh thế phụ, không dám vô lễ qua mặt ông Phêrô, bậc đàn anh?  Có thể còn nghi ngại sợ hãi, nhát đảm, sợ bóng vía chăng?  Hoặc là sợ đụng chạm vào khăn liệm, băng vải lỗi phạm lề luật chăng?

Nhưng chắc chắn là ông Gioan đã theo cùng ông Phêrô vào mộ. “Thấy những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức Giêsu.  Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi…  Ông đã thấy và đã tin” (Ga 20, 7- 8).

Khi nhìn thấy băng vải và khăn che đầu xếp lại gọn ghẽ, tươm tất, đâu đó, cách xa nhau, ông Gioan có lẽ liên tưởng ngay đến thói ngăn nắp thứ tự thường nhật của Đức Giêsu, mà trước đây ông vẫn thường chứng kiến và đã quá quen thuộc.  Ông liền nhận ra dấu chỉ kín đáo đó và đã mạnh dạn tin tưởng Chúa Phục Sinh.

Tuy chưa được gặp Chúa sống lại, nhưng lòng trung thành, tâm hồn tỉnh thức, nhạy bén, đã giúp hành trình ông gặp Chúa Phục Sinh đạt kết quả mỹ mãn.  Ông đã gặp được Chúa ngay trong tâm hồn, mặc dù ông cũng chưa hiểu lời Kinh Thánh đã tiên báo mầu nhiệm này.

Ngày nay, Chúa vẫn ban phát rộng rãi những dấu chỉ, để nhận ra, và hiểu được Thánh Ý Chúa.  Nhưng tôi có biết mở mắt, mở tai, mở lòng ra đón nhận hay không?  Hay chỉ biết chạy theo dư luận, chạy theo những thông tin, những điềm báo kỳ dị, quái gở, ma thuật, có thể đe dọa, lấn át, khuynh đảo đức tin của tôi, vốn đang ZZrất mong manh, yếu đuối?

Nẻo đường của bà Maria Mácđala

Bà Maria Mácđala đã được Chúa Giêsu giải thoát khỏi bảy quỷ dữ (Lc 8, 3).  Sau đó bà theo Chúa Giêsu và dùng tiền của giúp Ngài, cũng như các môn đệ đi truyền giáo.  Bà đã âm thầm, can đảm đi theo Chúa suốt cuộc khổ nạn.  Bà cũng hiện diện dưới chân Thánh Giá cùng với Mẹ Maria và bà Maria, vợ ông Cơlopat, cùng ông Gioan, để chia sẻ nỗi đau khổ tận cùng Chúa Giêsu (Ga 19, 25).  Bà Mácđala cũng tham dự mai táng Chúa Giêsu trong huyệt mộ (Lc 24, 55).

Vào ngày thứ nhất trong tuần, khi trời còn tối, bà đã vội chạy ra mộ Đức Giêsu để xức dầu thơm trên thi thể Ngài.  Nhưng phát hiện ngôi mộ trống, tảng đá chắn mộ đã lăn ra.  Bà hốt hoảng, tức tốc về báo tin ngay cho các môn đệ, ông Phêrô và Gioan.

Thoạt tiên, tưởng chừng tảng đá chặn ngôi mộ đã cản trở bà Mácđala tìm thấy Chúa Phục Sinh.  Nhưng không, bà đã kiên trì đi trở lại ngôi mộ trống lần nữa để nhớ nhung, tiếc thương và than thở khóc lóc. Bà đã cầu nguyện theo cách riêng cũa bà, biểu lộ công khai lòng yêu mến Chúa tột cùng.  Thậm chí bà cũng chẳng để ý hai thiên sứ đột nhiên xuất hiện.  Bà quay lại thấy Chúa Phục Sinh, lại tưởng người làm vườn.  Nhưng khi nghe Chúa thân thương gọi: “Maria!” bà liền nhận ra ngay Chúa Giêsu đã sống lại (Ga 20, 16).

Bà Mácđala được Chúa ủy thác loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho các Tông đồ, để các ông đi rao truyền khắp thế gian “Hãy đi gặp anh em Thầy và bảo họ: Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là của Cha của anh em. Lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em” (Ga 20, 17).

Bà Mácđala đắm mình vào cầu nguyện, tâm tình với Chúa Giêsu, không còn bận tâm đến môi trường chung quanh, không chia lòng chia trí, dù các thiên thần tận tình hỏi han.  Chính nhờ sự chuyên tâm và khát khao Chúa tột độ, bà là người đầu tiên so với các tông đồ, được diễm phúc thấy Chúa Giêsu Phục Sinh vinh hiển. Nẻo đường tìm Chúa Phục Sinh của bà Macđala rất thực tiễn, viên mãn và hiệu quả nhất, so với hai nẻo đường vòng vo kia.

Người hy vọng là người cầu nguyện.  Đối tượng của lời cầu nguyện cũng là đối tượng của niềm hy vọng.  Người hy vọng là cộng tác viên của Thiên Chúa.  Ngài tìm họ đề hoàn tất việc tạo dựng và cứu chuộc của Ngài (Đường Hy Vọng, 964).

Lạy Chúa, xin dạy con biết tìm kiếm Chúa mọi nơi, mọi lúc, qua những lời cầu nguyện chân thành, để con được sống lại với Ngài.  Lạy Mẹ Maria, Mẹ đã đồng hành cùng Chúa Giêsu trong mầu nhiệm khổ nạn, xin Mẹ dẫn dắt, chỉ bảo và cầu bầu cho con, cảm nhận được Chúa Sống Lại trong tâm hồn, để con được cứu rỗi, đồng thời trở nên Chứng Nhân, phục vụ mọi người. Amen.

AM Trần Bình An