NỖI NIỀM GIUSE

(Mt 1:18-25)
Hành trình đức tin của mỗi người đến với Đấng Tối Cao không phải là một hành trình đơn giản cho dù đó là Đại Thánh, Thánh Cả hay Nữ Vương Các Thánh.

Mời bạn cùng tôi quay ngược bánh xe thời gian trở về thăm viếng một đất nước Do thái xa xăm, nghèo nàn và lạc hậu với bao phong tục tập quán khắc nghiệt của cha ông cách đây hơn 2000 năm về trước.  Dân chúng đang sống trong cảnh lầm than, quằn quại rên xiết dưới ách thống trị tàn bạo của đế quốc La Mã, đời sống tinh thần được xiết chặt dưới gọng kìm của bao lề luật tôn giáo khắt khe từ thời Môi-se để lại ngày qua ngày đã hun đúc họ lòng trông mong vào lời hứa của Đấng Tối Cao với cha ông họ!  Họ nóng lòng trông chờ một vị Cứu Tinh đến để lật đổ chế độ, giải thoát họ khỏi cảnh lầm than của kiếp người và xây dựng lại một vương quốc Israel hùng cường ngày nào.  Họ háo hức trông mong một vị Thiên Sai, một Đấng Cứu Thế đã được Đức Chúa hứa ban và được loan báo nhiều lần trong Kinh Thánh mang đến cho họ một ánh sáng mới trong đức tin.  Càng khổ họ càng ngóng trông, càng bị đàn áp họ càng khao khát chờ đợi, họ sống trong niềm hy vọng từ trời cao, họ mòn mỏi trông chờ như đất cằn mong mưa rào, như nai đang khát mơ thấy suối trong.

Cùng sống trong hơi thở chờ đợi của dân tộc mình, Giuse, một chàng thanh niên trai tráng sinh sống bằng nghề mộc với cha mẹ là ông bà Giacóp tại một ngôi làng nhỏ hẻo lánh ít ai biết đến, làng Nazarét, miền Galilê.  Anh đến tuổi cập kê nhưng không muốn lập gia đình, anh muốn dâng trọn đời mình cho Thiên Chúa, Đấng mà anh và cả dân tộc anh tôn thờ.  Anh vui mừng khi được gia đình sắp xếp cho thành hôn với Maria, người thiếu nữ đức hạnh hiền dịu mà ai gặp qua một lần cũng đều qúy mến, là người mà cả hai đã cùng nhau thề ước trọn đời đồng trinh dù phải sống bực vợ chồng trước mắt họ hàng và cha mẹ hai bên.

Ngày đính hôn đã đến và qua đi trong niềm vui của gia đình hai họ và sự hân hoan của cả thôn xóm, một mái nhà mới sẽ mọc lên trong xóm nhỏ Nazarét thưa người này.  Quả là đẹp đôi!  Họ cầu xin Thiên Chúa chúc phúc cho cặp vợ chồng son trẻ thánh thiện.  Riêng Giuse, anh hoan hỉ chờ đợi ngày đón Maria về chung sống với gia đình.

Nhưng dòng đời không xuôi chảy êm đềm như mong ước!  Giuse bồn chồn bứt rứt với bao nỗi hoài nghi thắc mắc khi nhìn thấy bụng nàng nhấp nhô dưới ánh mặt trời sau lớp áo của cô thiếu nữ Sion đội nước.  Điều gì đã xảy ra?  Hạnh phúc lứa đôi chưa nắm bắt trong tay mà đã bị đe dọa rồi sao?  Sao nàng không nói?  Sao nàng không kể?  Maria thánh thiện của anh lại có thể như thế được sao?  Đâu rồi người thiếu nữ Sion đức hạnh mà anh trông chờ?  Bao câu hỏi, bao thắc mắc như thác lũ ào tới trong đầu anh.  Vẫn chỉ là những câu hỏi mà không có câu trả lời.

Ngược với Giuse đang sống trong cảnh dày vò đau khổ, Maria vui tươi, hồn nhiên, khuôn mặt rạng rỡ phản chiếu trong cặp mắt sáng to lóng lánh chan chứa niềm vui.  Đôi môi hồng chúm chím với nụ cười mãn nguyện, sung sướng, đôi môi đó vẫn khép kín không một tiết lộ nào với Giuse.  Có những lúc tình cờ hai người đối mặt, bốn mắt giao nhau, Giuse hơi bối rối trước cái nhìn thẳng thắn, không trốn tránh e dè, không mắc cở của Maria, ánh mắt tuy có thấp thoáng vẻ âu lo nhưng không phải là ánh mắt ăn năn của kẻ có tội.  Nhìn Maria, ai cũng dễ dàng đoán được nàng là một người thiếu nữ hạnh phúc đang sống trong tình yêu sung mãn, là người con gái đang yêu và được yêu.  Nhưng là tình yêu của ai?  Làm sao Giuse biết được!  Vẫn không có câu trả lời!

Giuse đau khổ cầu nguyện để tìm thánh ý Chúa, Chúa muốn nói gì với anh qua biến cố này?  Chúa muốn anh làm gì trong tình trạng này?  Anh muốn sống theo thánh ý Chúa nhưng đâu là ý Chúa?  Anh chỉ thấy ý của anh, thật lớn và mạnh mẽ, phải khó khăn lắm anh mới giữ cho lòng khỏi sôi lên uất hận.  Không, anh không muốn trả thù, không muốn nàng bị ném đá như luật Môise đòi hỏi, anh không muốn a dua theo cá tính tự ái của một thanh niên mới lớn trong anh.  Nhưng anh cũng không muốn nhận một đứa con không phải của mình, anh không thể bao dung nhận đại được, làm thế anh sẽ có lỗi với cha mẹ tổ tiên, với dòng dõi quân vương Đavít của anh, đứa cháu đích tôn lại mang dòng máu ngoại tộc.  Anh tự hỏi, nếu anh nhắm mắt nhận đại thì… đứa bé kia sẽ giống ai nhỉ?  Anh hình dung cảnh hàng xóm đang xúm lại cười ngạo dèm pha trong khi anh ôm ấp đứa bé giống một người thanh niên nào đó trong làng.  Lòng anh rối rắm trăm đường, anh thấy tội mình thật lớn với dòng tộc Đavít lẫy lừng một thời!  Một dòng họ danh giá của Israel mà giờ đây anh lại muốn chấp nhận một đứa con hoang không cha vô dòng họ mình.

Không, không thể chấp nhận được, nhưng… nhưng nếu nàng thú tội, nếu nàng khóc lóc van xin tha thứ, nếu nàng xuống nước năn nỉ?  Lòng anh chùng xuống, bản tính nhân từ cố hữu trong anh lại át đi những lo âu suy nghĩ khi nãy, tâm trí anh bị giằng co đôi đường, trái tim anh bị chia đôi giữa hình ảnh Maria đang bị ném đá và dòng tộc Đavít oai hùng bị bôi nhọ.  Anh thở dài ai oán, chắc anh đành mang tội với tổ tiên mà tha thứ cho nàng để cứu hai mạng người khỏi bị chết oan.  Ai mà chẳng một lần vấp ngã!  Lòng nhủ lòng như thế và anh chờ đợi,…. chờ đợi một sự lên tiếng…  Nhưng ngày vẫn lặng lẽ trôi, mặt trời mọc rồi lại lặn, bình thản như không có gì xảy ra, vẫn không một lời giải thích!  Im lặng vẫn bao phủ Nazarét hiền hòa!

Thôi được, nàng đã không muốn nói thì anh cũng không muốn ép.  Sau những đêm trằn trọc mất ngủ, những ngày mò mẫm trong tăm tối của tâm hồn, sau những giờ cầu nguyện khổ sở để tìm thánh ý Chúa, anh đã quyết định.  Một quyết định dứt khoát!  Nàng đã thờ ơ trước sự bao dung của anh thì anh đành chịu thôi!  Anh tình nguyện trả nàng về với niềm bí mật của nàng.  Anh không muốn tố cáo nàng!  Như một tên lính bại trận, anh chỉ muốn lặng lẽ rút lui khỏi chiến trường một cách kín đáo.  Anh chấp nhận mình thua và xin rút quân.  Nàng đã dám làm thì nàng đã có cách giải quyết của nàng.  Anh tôn trọng!

zzHành trang đã sẵn ở góc nhà, màm đêm dần buông, anh mệt mỏi thiếp đi để lấy sức cho cuộc bỏ đi vào nửa đêm đã được định đoạt trước.  Trong giấc ngủ chập chờn, anh mơ thấy một thiên thần mặc phẩm phục trắng toát, hào quang rực rỡ chiếu sáng một góc nhà, khuôn mặt hiền hậu, ánh mắt âu yếm nhìn anh đầy yêu thương và thoang thoảng bên tai anh một giọng trầm ấm vang lên:  “Này ông Giuse, con cháu Đavit, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần.  Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ” (Mt 1: 20a-21).  Giuse choàng tỉnh bật dậy, anh hoàng hồn, hơi thở dồn dập, nhịp tim đập liên hồi, người anh toát mồ hôi lạnh, anh dụi mắt nhiều lần để tỉnh trí lại xem mình đang ở đâu.  Anh cắn vào tay một cái thật mạnh và thấy nhói đau, bây giờ anh biết mình đã tỉnh, thực sự đã tỉnh và ban nãy là một giấc mơ.  Ngoài kia, bóng tối dầy đặc phủ lên thôn làng, xa xa một vài tiếng côn trùng rỉ rả trong bóng đêm như xác nhận với anh không gian và thời gian nơi anh đang ỏ.  Là mơ hay là thực vậy?  Là tiếng nói của thần lành hay thần dữ?  Có thực đó là tiếng nói của Thiên Chúa không hay chỉ là một giấc mộng mị bình thường như bao giấc mộng khác.  Anh ôm đầu suy nghĩ và ôn lại giấc mơ, “Đừng ngại đón bà Maria vợ ông về!”, anh rùng mình ớn lạnh, câu nói ấy đánh trúng vào yếu huyệt của anh, đó không phải là mối ưu tư hàng đầu của anh trong mấy ngày qua sao?  Anh thẫn thờ lặng lẽ gục đầu qùy xuống trong bóng đêm.

Bọc hành lý nho nhỏ được xếp gọn lại để dưới gầm giường, vài bộ quần áo vẫn để nguyên trong chiếc bọc chứ chưa được xếp lại vào ngăn tủ, chiếc bọc nằm gọn ghẽ trong một xó nhỏ như tiếp tục chờ đợi một cơ hội khác.  Mấy ngày qua, Giuse âm thầm sống trong trăn trở bối rối.  Anh hoang mang không biết phải làm gì, nên quyết định ra sao, không biết đâu là hư, đâu là thực.  Nếu đó là thánh ý Chúa, sao Ngài không hiện ra nói với anh rõ ràng như hai với hai là bốn, anh sẽ làm ngay không một thắc mắc chần chừ.  Sao Ngài không nói lúc anh đang tỉnh, đang ý thức hoặc ngay lúc anh đang cầu nguyện mà lại là một tiếng nói trong chiêm bao?  Giấc mộng, bao nhiêu phần trăm là thực, bao nhiêu phần trăm là ảo ảnh?  Ai dám đảm bảo giấc mơ nào cũng đúng sự thực?  Chẳng phải đó là những chuyện làm anh suy nghĩ từ lúc mặt trời mọc cho đến lúc mặt trời lặn, tối đến những việc đó phản ánh lại trong giấc ngủ thì cũng là chuyện thường tình thôi mà!  Anh tự nhủ mình như thế!  Nhưng anh lại áy náy khi nhìn về quá khứ của dân tộc, quả là có những giấc mộng xảy ra đúng với thực tế mà người giải mộng cũng là một người mang tên Giuse như anh.  Giuse trong Cựu Ước đã từng giải mộng cho Pharaôn ở Ai Cập với bảy con bò mập ăn bảy con bò ốm tượng trưng cho bảy năm được mùa và bảy năm mất mùa, nhờ đó Giuse đã cứu được cả dân tộc Ai cập lẫn gia đình mình thoát khỏi nạn đói.  Tiếng gà gáy xa xa đầu làng báo hiệu một ngày mới bắt đầu kéo anh về với thực tại.  Nhưng cũng không phải là không có mấy bà hàng xóm nhiều chuyện vừa đi múc nước ở cái giếng đầu xóm vừa kháo cho nhau nghe những giấc mộng nhảm nhí của họ.  Nào là Thiên Chúa hiện ra với mình nói thế này thế kia, nào là mơ thấy tiên tri Êlia sống lại, có kẻ mạnh miệng hơn bảo là mơ thấy vị cứu tinh sắp đến giúp dân Do Thái thoát khỏi ách thống trị người  La Mã, v.v… và bao nhiêu chuyện linh tinh khác nữa đã làm trò cười cho thiên hạ.  Anh không muốn mình là nạn nhân của những câu chuyện ngồi lê đôi mách đó!

Lòng anh rối rắm, anh không ngừng cầu nguyện, suy nghĩ và nhận định… nhưng ý Chúa vẫn mịt mùng trong bóng đêm, giấc mơ không trở lại lần thứ hai!  Càng cầu nguyện anh càng thấy chỉ có một con đường duy nhất để tìm ra thánh ý Chúa, đó chính là bền bỉ cầu nguyện và cầu nguyện không ngừng.  Anh tiếp tục cầu nguyện xin Chúa soi sáng cho anh biết phải làm gì, anh ao ước được làm theo ý Chúa, xin Chúa cho anh nhìn ra thánh ý Ngài thì anh sẽ không còn chần chờ gì nữa.

“Vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần”, tác giả bào thai lại là Chúa Thánh Thần?  Anh chưa nghe ai nói đến bao giờ, lịch sử dân tộc anh với bao điều kỳ diệu Thiên Chúa đã làm nhưng chưa có ai mang thai rồi dám đổ thừa cho Chúa Thánh Thần.  Anh chợt chau mày suy nghĩ, nhưng đây đâu phải là những lời biện hộ từ miệng của Maria.  Cô đã không hề mở miệng nói một lời về bào thai mình đang mang.  “Vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần”, đó là những lời từ miệng một vị thiên sứ mặc áo trắng trong giấc mộng kia mà!  Một người  phụ nữ không cần đến đàn ông mà vẫn có thể mang thai, bào thai đó là do quyền năng Chúa Thánh Thần thì người mang thai vẫn là một cô gái đồng trinh, như vậy nàng vẫn là một trinh nữ.  Anh giật mình, thoang thoáng nhớ lại lời xưa kia Chúa phán qua miệng ngôn sứ mà anh đã được nghe lập đi lập lại nhiều lần trong hội đường những ngày Sabát: “Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuen, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Mt 1:23).

Anh choàng tỉnh, anh đang thức chứ không ngủ nhưng anh lại thấy mình vừa thoát ra một cơn mơ dài, anh đã từ từ nhìn ra những mảng hình được ghép lại như một bức tranh.  Đúng rồi, Maria của anh không thể nào là một cô gái lăng loàn mất nết được, anh nhớ lại khuôn mặt của cô những ngày gần đây: vui tươi, trong sáng, thánh thiện, khuôn mặt của một người đầy ân sủng Thiên Chúa ở cùng.  Nàng là một người phụ  nữ đạo hạnh tốt lành, “người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần”, “một trinh nữ sẽ thụ thai”, còn anh là dòng dõi Đavít, “Đấng Kitô được hứa ban xuất thân từ dòng dõi vua Đavít”.……… anh xụp xuống qùy phủ phục trước trời đất bao la như đang qùy trước tôn nhan Thiên Chúa Chí Thánh và mắt nhắm lại không dám nghĩ tới những ân huệ lớn lao mà Thiên Chúa đã dành cho anh.  Anh không ngờ mình là người được chọn, không bao giờ anh dám nghĩ đến Đấng Cứu Tinh mà cả dân tộc anh đang mòn mỏi mong chờ lại được hạ sinh ngay trong gia đình anh và anh sẽ là người nuôi nẫng ẵm bồng đứa bé.  “Vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ”, lời nói trong giấc mơ ngày nào lại vang lên rõ mồn một bên tai anh.  Anh thở hổn hển, không ngăn được nhịp đập dồn giã của con tim, anh vui sướng nhảy lên như một chú bé vừa bắt được quà.  Anh đã biết rồi, thánh ý Chúa là đây!  Anh nghe rồi, tiếng Chúa gọi anh trong đêm trường.  “Lạy Chúa, xin thứ lỗi cho con vì đến bây giờ con mới nhận ra thánh ý Ngài”, anh lẩm nhẩm nói với Chúa và chạy ù sang nhà Maria.

Gặp nàng, anh nắm chặt lấy đôi bàn tay thon nhỏ đưa lên ngực mình, mắt ngước nhìn lên trời cao, anh ấp úng không nói được một tiếng, bây giờ anh đã hiểu tại sao lúc trước nàng im lặng không một lời giải thích.  Maria nhìn anh, nàng đã hiểu mọi sự dù không nghe một lời từ miệng anh, nàng vui sướng nắm chặt lấy tay anh như muốn cùng anh chia sẻ niềm hân hoan tận đáy lòng.  Nàng hiểu chứ, những ân huệ mà Thiên Chúa tuôn đổ xuống cho con người thì ngôn ngữ nào nói cho hết, bút mực nào tả cho xiết, sợi dây liên hệ zzmật thiết giữa Thiên Chúa với một con người là những gì riêng tư thầm kín nhất khó mà chia sẻ cho người ngoại cuộc hiểu hết được.  Bốn mắt nhìn nhau chan chứa niềm vui, hai con tim hoà chung một nhịp đập, họ đã nhìn ra thánh ý Chúa muốn họ làm gì, họ nhận ra tình yêu và ân sủng quá bao la của Thiên Chúa tuôn đổ xuống trên gia đình bé nhỏ của họ, họ cùng nhau chúc tụng Thiên Chúa đã làm cho họ bao điều kỳ diệu.

Và anh vui sướng đón nàng về nhà mình.  Hai người vẫn giữ trọn lời nguyện ước ban đầu, mặc dù sống bên nhau nhưng họ gìn giữ cho nhau.  Sau đó không bao lâu, anh đưa nàng lên Bêlem, miền Giuđê là nguyên quán cuả dòng tộc Đavít anh để kê khai tên tuổi theo chiếu chỉ của hoàng đế Au-gút-tô thời ấy.  Đêm đó, trên con đường tìm đến nhà trọ anh hân hoan đón nhận người con trai do quyền năng Chúa Thánh Thần trao ban cho dân tộc anh và cho cả nhân loại, “Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ” mà anh là người diễm phúc được chọn để trở thành cha nuôi của đứa trẻ, để nuôi nấng bồng ẵm từ lúc còn sơ sinh, còn hạnh phúc nào hơn thế nữa!  Và anh đặt tên cho con trẻ là Giêsu như lời sứ thần áo trắng đã nói với anh trong giấc mơ đêm nào.

Lang Thang Chiều Tím