ĐIỀU TRA DÂN SỐ TRÊN TOÀN CÕI ĐẤT

“Điều tra dân số trên toàn cõi đất” (Lc 2:1).  Đây là bối cảnh Chúa Giêsu sinh ra và là bối cảnh mà Tin Mừng tập trung vào.  Biến cố này có thể được cập đến một cách lướt qua, nhưng thay vào đó Tin Mừng thuật lại một cách cẩn thận.  Và với trình thuật này, Tin Mừng đưa ra một sự tương phản lớn: trong khi hoàng đế kiểm kê dân số trên toàn cõi đất, thì Thiên Chúa bước vào đó một cách ẩn mình; trong khi những người nắm quyền cố gắng vươn lên vị thế những người vĩ đại của lịch sử, thì vị Vua của lịch sử lại chọn con đường nhỏ bé.  Không ai trong số những người có quyền lực chú ý đến Người, ngoại trừ một số người chăn cừu, những người bị đẩy ra bên lề đời sống xã hội.

Nhưng cuộc điều tra dân số nói lên điều gì đó hơn nữa.  Trong Kinh Thánh, việc điều tra dân số không để lại một dấu ấn đẹp.  Vua Đa-vít, chiều theo sự cám dỗ của số đông và yêu sách không lành mạnh cho rằng mình tự đủ, đã phạm một tội lỗi nghiêm trọng khi tiến hành một cuộc điều tra dân số.  Đa-vít muốn biết sức mạnh và sau khoảng chín tháng, vua đã có được số người có thể cầm được gươm (xem 2 Sm 24,1-9).  Chúa đã phẫn nộ và bất hạnh đã ập đến với người dân.  Tuy nhiên, vào đêm nay, “Con vua Đavít,” Chúa Giêsu, sau chín tháng trong lòng Đức Maria, đã hạ sinh tại Bêlem, thành phố của vua Đavít, và không trừng phạt cuộc điều tra dân số, nhưng khiêm nhường để mình được đếm.  Một giữa rất nhiều.  Chúng ta không thấy một Thiên Chúa giận dữ trừng phạt, nhưng là Thiên Chúa nhân hậu nhập thể, bước vào thế giới một cách yếu ớt, và trước đó là lời loan báo: “Bình an dưới thế cho loài người” (Lc 2,14).  Và trái tim của chúng ta đêm nay hướng về Bêlem, nơi Hoàng Tử Hòa Bình vẫn bị khước từ bởi luận lý thắng thua của chiến tranh, với tiếng gầm vang của vũ khí mà ngay cả ngày nay cũng ngăn cản Người tìm một nơi trú ngụ trong thế giới (xem Lc 2,7).

Nói tóm lại, cuộc điều tra dân số trên toàn cõi đất một mặt thể hiện âm mưu quá con người xuyên suốt lịch sử: âm mưu của một thế giới tìm kiếm quyền lực và sức mạnh, danh tiếng và vinh quang, nơi mọi thứ đều được đo lường bằng những thành công và kết quả, bằng những chỉ số và con số.  Đó là nỗi ám ảnh về hiệu suất.  Nhưng đồng thời, trong cuộc điều tra dân số, con đường của Chúa Giêsu, Đấng đến tìm kiếm chúng ta qua việc nhập thể, trở nên nổi bật.  Người không phải là vị thần biểu diễn mà là Thiên Chúa nhập thể.  Người không lật đổ những bất công từ trên xuống bằng vũ lực, nhưng từ dưới lên bằng tình yêu thương; Người không bẻ gãy với sức mạnh vô hạn nhưng đi vào giới hạn của chúng ta; Người không tránh né sự mong manh của chúng ta nhưng chấp nhận những giới hạn đó.

Anh chị em thân mến, tối nay chúng ta có thể tự hỏi: chúng ta tin vào Thiên Chúa nào?  Vào Thiên Chúa nhập thể hay vào sự biểu diễn?  Đúng, bởi vì chúng ta có nguy cơ mừng Lễ Giáng Sinh với ý tưởng ngoại giáo về Thiên Chúa, như thể Người là một ông chủ quyền năng trên trời; một vị thần gắn với quyền lực, thành công trần thế và sự tôn thờ chủ nghĩa tiêu thụ.  Hình ảnh giả dối về một vị thần xa cách và cảm tính, đối xử tốt với người tốt và nổi giận với người xấu; về một vị thần được tạo ra theo hình ảnh của chúng ta, chỉ hữu ích để giải quyết cho chúng ta các vấn đề và xóa bỏ nơi chúng ta những điều chẳng lành.  Tuy nhiên, Người không sử dụng cây đũa thần, Người không phải là vị thần thương mại “tất cả và ngay lập tức;” Người không cứu chúng ta bằng cách nhấn nút, nhưng Người đến gần để thay đổi thực tế từ bên trong.  Tuy nhiên, ý tưởng trần tục về một Thiên Chúa xa cách và kiểm soát, cứng rắn và quyền thế, giúp dân chiến thắng kẻ khác, thật đã ăn sâu nơi tâm thức chúng ta!  Nhiều lần hình ảnh này bén rễ sâu trong chúng ta.  Nhưng Người không phải như vậy: Người được sinh ra cho tất cả, trong cuộc điều tra dân số trên toàn cõi đất.

Do đó, chúng ta hãy nhìn lên “Thiên Chúa hằng sống và chân thật” (1 Ts 1,9): nhìn vào Người, Đấng vượt trên mọi tính toán của con người nhưng lại để cho mình được đếm vào số dân của chúng ta; nhìn vào Người, Đấng biến đổi lịch sử bằng cách sống trong đó; nhìn vào Người, Đấng tôn trọng chúng ta đến mức cho phép chúng ta khước từ Người; nhìn vào Người, Đấng xóa bỏ tội lỗi bằng cách chịu trách nhiệm về nó, Đấng không cất đi nỗi đau nhưng biến đổi nó, Đấng không cất đi những vấn đề khỏi cuộc sống của chúng ta, nhưng ban cho cuộc sống của chúng ta một niềm hy vọng lớn lao hơn những vấn đề.  Người muốn ôm lấy sự hiện hữu của chúng ta, đến mức từ vô hạn, Người trở nên hữu hạn vì chúng ta; từ lớn lao, đã trở nên nhỏ bé; người công chính, đã chịu những bất công của chúng ta.  Đây là điều kỳ diệu của Lễ Giáng Sinh: không phải sự pha trộn giữa những tình cảm kiểu cách và những tiện nghi trần thế, nhưng là sự dịu dàng chưa từng có của Thiên Chúa, Đấng cứu thế giới bằng cách nhập thể.  Chúng ta nhìn Hài Nhi, chúng ta nhìn vào máng cỏ của Người, chúng ta nhìn vào hang đá Giáng Sinh, mà các thiên thần gọi là “dấu lạ” (Lc 2,12): thực ra đó là dấu chỉ mặc khải khuôn mặt của Thiên Chúa, Đấng đầy lòng trắc ẩn và thương xót, toàn năng chỉ và chỉ trong Tình Yêu.  Người trở nên gần gũi, dịu dàng, thương cảm.  Đây là cách của Thiên Chúa: gần gũi, dịu dàng và thương cảm.

Anh chị em thân mến, chúng ta hãy ngạc nhiên vì “Người đã trở nên xác phàm” (x. Ga 1,14).  Xác thịt: một từ gợi nhớ sự mỏng manh của chúng ta và được Tin Mừng dùng để nói với chúng ta rằng Thiên Chúa đã đi sâu vào thân phận con người của chúng ta.  Tại sao Người lại đi đến mức này?  Bởi vì Người quan tâm đến mọi thứ của chúng ta, bởi vì Người yêu thương chúng ta đến mức coi chúng ta là quý giá hơn bất cứ thứ gì khác.  Anh em, chị em, nhờ Thiên Chúa, Đấng đã thay đổi lịch sử trong cuộc điều tra dân số, anh em chị em không phải là một con số, nhưng là một gương mặt; tên của mỗi người được viết trong trái tim của Người.

Nhưng bạn, khi nhìn vào trái tim mình, nhìn vào những màn trình diễn vượt tầm với của mình, nhìn vào thế giới phán xét và không tha thứ, có lẽ bạn thấy mình đang sống tệ trong Giáng sinh này, nghĩ rằng mình sống không tốt, nuôi dưỡng cảm giác thiếu thốn và không hài lòng về sự mong manh của bạn, về những vấp ngã và những vấn đề của bạn.  Nhưng hôm nay, xin hãy để quyền chủ động cho Chúa Giêsu, Đấng đã nói với bạn: “Vì con, Ta đã trở nên xác thịt, vì con, Ta đã trở nên giống như con.”  Tại sao bạn vẫn ở trong nhà tù của nỗi buồn?  Như những mục đồng đã rời xa đàn chiên của mình, bạn hãy rời khỏi vòng vây u sầu của mình và đón nhận sự dịu dàng của Thiên Chúa Hài Nhi.  Không mặt nạ và không áo giáp, hãy trao mọi lo lắng của bạn cho Người và Người sẽ chăm sóc bạn (xem Tv 55,23): Người, Đấng đã trở nên xác thịt, không chờ đợi những màn trình diễn thành công của bạn, mà là trái tim rộng mở và tự tin của bạn.  Và trong Người, bạn sẽ tái khám phá bạn là ai: là con yêu dấu của Chúa, con được Chúa yêu thương.  Bây giờ bạn có thể tin điều đó, bởi vì đêm nay Chúa đã đến với ánh sáng để soi sáng cuộc đời bạn và đôi mắt Người chiếu sáng tình yêu dành cho bạn.  Và chúng ta khó tin vào điều này, rằng đôi mắt của Thiên Chúa chiếu sáng tình yêu dành cho chúng ta.

Đúng vậy, Chúa Kitô không nhìn vào những con số mà nhìn vào những khuôn mặt.  Tuy nhiên, ai nhìn đến Người, giữa vô số sự vật và cuộc đua điên rồ của một thế giới luôn bận rộn và thờ ơ?  Tại Bêlem, trong khi nhiều người bị cuốn vào cuộc điều tra dân số sôi động, đến rồi đi, chật kín các nhà trọ, nói chuyện này chuyện nọ, nhưng một số người gần gũi với Chúa Giêsu: họ là Đức Maria và Thánh Giuse, những mục đồng, rồi đến các đạo sĩ.  Hãy học hỏi từ họ.  Họ nhìn chăm chú vào Chúa Giêsu, với tâm hồn hướng về Người, họ không nói nhưng họ thờ lạy.

Thờ lạy là cách đón nhận sự nhập thể.  Bởi vì chính trong thinh lặng mà Chúa Giêsu, Lời của Chúa Cha, trở nên xác thịt trong đời sống chúng ta.  Chúng ta cũng làm như ở Bêlem, cái tên nghĩa là “nhà bánh”: chúng ta đứng trước mặt Người, Bánh sự sống.  Chúng ta hãy khám phá lại sự thờ lạy, bởi vì sự thờ lạy không phải là lãng phí thời gian mà là để Thiên Chúa đi vào thời gian của chúng ta.  Đó là làm cho hạt giống nhập thể nảy nở trong chúng ta, đó là cộng tác vào công trình của Chúa, Đấng như men làm thay đổi thế giới.  Đó là sự cầu thay, sửa chữa, để Thiên Chúa làm thẳng lại lịch sử.  Một người kể chuyện vĩ đại về những hành động sử thi đã viết cho con trai mình: “Cha cho con điều tuyệt vời duy nhất để yêu mến trên trái đất: Bí tích Thánh Thể.  Ở đó con sẽ tìm thấy sự quyến rũ, vinh quang, danh dự, lòng chung thủy và con đường đích thực của tất cả tình yêu của con trên trái đất” (J.R.R. TOLKIEN, Thư 43, tháng 3 năm 1941).

Anh chị em thân mến, đêm nay tình yêu thay đổi lịch sử.  Lạy Chúa, xin làm cho chúng con tin vào sức mạnh tình yêu của Chúa, rất khác với sức mạnh của thế gian.  Lạy Chúa, xin làm cho chúng con, giống như Mẹ Maria, Thánh Giuse, các mục đồng và các vị đạo sĩ, tụ họp quanh Ngài để tôn thờ Ngài.  Được tạo dựng bởi Ngài và giống với Ngài hơn, chúng con sẽ có thể chứng minh cho thế giới thấy vẻ đẹp diện mạo của Ngài.

Đức Phanxicô, Lễ đêm Giáng sinh năm 2023
Nguồn: vaticannews.va/vi

THÁNH GIUSE VÀ CÂU CHUYỆN GIÁNG SINH

Có vô số người, vương cung thánh đường, nhà thờ, đền thánh, chủng viện, tu viện, thị trấn và thành phố được đặt tên Thánh Giuse.  Quê hương Canada của tôi nhận ngài làm đấng bảo trợ.

Vậy chính xác Giuse này là ai?  Ngài là nhân vật lặng lẽ trong câu chuyện Giáng Sinh, với tư cách chồng của Đức Mẹ và nghĩa phụ của Chúa Giêsu, rồi sau đó, ngài không còn được nhắc đến lần nào nữa.  Hình ảnh của lòng mộ đạo bình dân có về ngài là hình ảnh của một người lớn tuổi, bảo vệ cho Đức Mẹ, người thợ mộc, khiết tịnh, thánh thiện, khiêm nhường, lặng lẽ, thánh bảo trợ hoàn hảo cho người lao động chân tay và những nhân đức thầm lặng, hiện thân của đức khiêm nhường.

Chúng ta thật sự biết được gì về ngài?

Trong phúc âm Thánh Matthêu, việc thụ thai Chúa Giêsu được báo cho Thánh Giuse thay vì cho Đức Maria.  Trước khi họ đến với nhau, Đức Maria đã có thai nhờ Chúa Thánh Thần.  Giuse, chồng bà là người ngay thẳng và không muốn làm cho bà phải hổ thẹn, nên đã quyết định âm thầm tuyệt hôn với bà, vừa lúc đó một thiên thần xuất hiện trong giấc mơ và bảo ngài đừng sợ cưới Đức Maria về làm vợ, rằng đứa bé trong bụng Đức Maria được thụ thai nhờ Thánh Thần.

Đoạn này nói lên điều gì?

Hầu hết là những điều mang tính tượng trưng.  Thánh Giuse trong câu chuyện Giáng Sinh rõ ràng làm chúng ta liên tưởng đến Giuse trong Cựu Ước, cũng được báo mộng, cũng đi Ai Cập, cũng cứu gia đình.  Cũng như vậy, vua Hêrôđê rõ ràng là tái hiện vua Pharaô Ai Cập, cả hai đều cảm thấy bị đe dọa, đều giết con trai người Do Thái, nhưng Thiên Chúa đã bảo vệ mạng sống của họ, sẽ cứu họ.

Nhưng sau tính biểu tượng đó, Thánh Giuse trong câu chuyện Giáng Sinh còn có câu chuyện riêng của ngài.  Ngài được cho là người “ngay thẳng,” theo các học giả, đây là cách gọi ngụ ý ngài tuân theo Lề luật của Thiên Chúa, tiêu chuẩn thánh thiện tối cao của người Do Thái.  Về mọi mặt, ngài không có gì đáng trách, ngài là gương mẫu của sự tốt lành, thể hiện qua việc ngài không muốn vạch trần để làm nhục Đức Maria, dù ngài quyết định sẽ âm thầm tuyệt hôn.

Về mặt lịch sử, chuyện gì đã xảy ra?

Theo những gì chúng ta có thể làm tái hiện, thì bối cảnh mối quan hệ giữa thánh Giuse và Đức Maria là như sau.  Phong tục hôn nhân thời đó là khi đến tuổi dậy thì, người phụ nữ trẻ sẽ được cha mẹ sắp xếp gả cho một người đàn ông, thường là lớn hơn vài tuổi.  Họ sẽ hứa hôn, về căn bản là thành vợ chồng, nhưng chưa sống với nhau và chưa có quan hệ tình dục trong vài năm.  Luật do thái đặc biệt nghiêm ngặt về chuyện hai người phải giữ khiết tịnh trong thời gian hứa hôn.  Trong thời gian này, người thiếu nữ sẽ tiếp tục sống với cha mẹ mình, còn người đàn ông sẽ đi dựng nhà và tìm một nghề nghiệp để có thể chu cấp cho vợ sau khi hai người sống chung.

Thánh Giuse và Đức Maria đang ở giai đoạn này, là vợ chồng về pháp lý, nhưng chưa sống với nhau, thì Đức Maria có thai.  Thánh Giuse biết đứa con không phải của mình, như thế là có vấn đề.  Nếu ngài không phải là cha đứa trẻ, vậy ai là cha đứa bé?  Để giữ thanh danh của mình, ngài có thể yêu cầu điều tra công khai, và làm Đức Maria sẽ bị cáo buộc tội gian dâm, đồng nghĩa với cái chết.  Nhưng ngài quyết định “lặng lẽ tuyệt hôn,” nghĩa là tránh cuộc điều tra công khai có thể sẽ làm cho Đức Maria bị rơi vào tình cảnh khó xử và tình thế nguy hiểm.

Rồi sau khi được báo mộng, ngài đồng ý đưa Đức Maria về nhà mình làm vợ, đặt tên con như con của mình, như thế là nhận mình là cha đứa trẻ.  Khi làm như thế, ngài giúp Đức Maria không bị bẽ mặt, thậm chí còn cứu cả mạng sống cho Đức Maria, và ngài cho đứa trẻ sắp sinh ra có một vị thế được đón nhận về mặt tôn giáo, xã hội, vật chất, đồng thời nuôi dạy đứa trẻ.  Nhưng ngài còn làm một việc khác nữa, một việc không hữu hình bằng.  Ngài cho thấy người ta có thể là một tín hữu ngoan đạo, đầy đức tin vào mọi sự trong tôn giáo của mình, nhưng đồng thời lại mở lòng với một mầu nhiệm vượt quá tầm hiểu tôn giáo và nhân văn của mình.

Đây chính là vấn đề đối với nhiều tín hữu Kitô, kể cả Thánh Matthêu, vào thời điểm các Phúc âm được viết.  Họ là những người Do Thái tận tâm không biết làm sao để đưa Đức Kitô vào khung tôn giáo vốn có của mình.  Khi Thiên Chúa đi vào đời sống con người theo những cách mới mẻ thì không thể tưởng tượng nổi, con người phải làm gì?  Với một khái niệm bất khả thi, chúng ta phải làm thế nào?  Thánh Giuse là một gương mẫu.  Như thần học gia Raymond Brown nói: “Nhân vật chính trong câu chuyện sơ khai của thánh Matthêu là thánh Giuse, một người Do Thái tuân theo Lề luật nhưng nhạy bén.  Trong Thánh Giuse, thánh sử đã họa nên điều mà ngài nghĩ một người Do Thái (ngoan đạo thật sự) nên là, và có lẽ cũng là điều mà ngài đã sống như vậy.”

Về căn bản, Thánh Giuse dạy chúng ta cách sống trong lòng trung tín yêu thương với mọi sự mà chúng ta bám vào về mặt nhân bản hay tôn giáo, đồng thời chúng ta cũng mở lòng với mầu nhiệm của Thiên Chúa sẽ đưa chúng ta vượt ra ngoài mọi phạm trù thực hành và tưởng tượng tôn giáo.  Và đây chẳng phải là thách thức thật sự của Giáng Sinh hay sao?

Rev. Ron Rolheiser, OMI

SẴN SÀNG ĐÓN CHÚA

Niềm vui Giáng sinh đã gần kề.  Những gì chúng ta mong đợi đã sắp đến.  Cùng với những trang hoàng bề ngoài, Phụng vụ hôm nay “thẩm vấn” chúng ta: Bạn đã làm gì để đón Chúa?

Các bài đọc Lời Chúa cho chúng ta thấy lời mời gọi luôn sẵn sàng để đón Chúa đến.  Trước hết là lời loan báo gửi đến một làng quê nhỏ bé hẻo lánh, đó là làng Bê-lem.  Truyền thống Kinh Thánh nói với chúng ta, Thiên Chúa thường ưa thích những gì bé mọn.  Nói đúng hơn, những ai khiêm tốn nhận mình là bé mọn thì sẽ được đón Chúa ghé thăm.  Ngôn sứ Mi-kha mời gọi: Hỡi Bê-lem, ngươi đừng mặc cảm về thân phận nhỏ bé vô danh của mình, nhưng hãy vui mừng vì tự nơi ngươi sẽ xuất hiện một vị có sứ mạng thống lãnh Ít-ra-en.  Và thế là, ngày vui ấy đã đến.  Con Thiên Chúa làm người đã sinh hạ tại nơi đây.  Bê-lem trở thành nơi “tiếp đất” của Ngôi Hai Thiên Chúa, nhờ đó mà được toàn thế giới biết đến cho đến ngày hôm nay và mãi mãi về sau.

Nếu Bê-lem dường như ngỡ ngàng vì được Đấng thống lãnh Ít-ra-en viếng thăm, thì một người phụ nữ khác là bà Ê-li-sa-bét cũng lại rất ngỡ ngàng sửng sốt vì được đón tiếp Chúa.  Khi gặp người em họ là Trinh nữ Ma-ri-a, bà đã thốt lên: “Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? Quả thật, này tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng.  Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em.”  Những lời của bà Ê-li-sa-bét mang đầy ý nghĩa, vừa thể hiện sự ngạc nhiên, vừa là lời chúc tụng tạ ơn Chúa.  Ê-li-sa-bét đã vô cùng cảm động vì nghĩ thân phận mình thấp hèn, cũng như Bê-lem xưa không ngờ có ngày mình được thăm viếng.

Thánh Lu-ca nói với chúng ta, sau ngày Truyền tin, Trinh nữ Ma-ri-a đã vội vã lên đường, vượt qua khoảng 150 cây số để đến với người chị họ.  Ma-ri-a mang theo tâm trạng vui mừng và tạ ơn.  Hơn thế nữa, Bà còn mang theo Đấng Cứu Thế mà Bà được cưu mang trong lòng.  Bài ca tạ ơn Trinh nữ Ma-ri-a được gợi hứng thốt lên sau đó đã diễn tả sự ngạc nhiên của chính bản thân Người, đồng thời nhận ra, mình quá nhỏ bé mà lại được Chúa nâng lên, để rồi “từ nay đến muôn đời, thiên hạ sẽ khen tôi diễm phúc, vì Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi những điều thật cao cả.”

Mầu nhiệm Giáng sinh thật kỳ diệu, vì đó là sự hạ mình của Con Thiên Chúa.  Tác giả thư gửi tín hữu Híp-ri đã mượn tâm tình của Thánh vịnh để diễn tả sự khiêm hạ vâng lời của Đức Giê-su: “Lạy Thiên Chúa, này đây con đến để thực thi ý Ngài.”  Quỳ bên hang đá máng cỏ trong mùa Giáng sinh, chúng ta hãy suy niệm về sự khiêm hạ của Thiên Chúa.  Bê-lem năm xưa là một làng quê nhỏ bé hẻo lánh, đã được diễm phúc trở thành nơi Chúa sinh ra.  Trinh nữ Ma-ri-a và bà Ê-li-sa-bét đều là những người khiêm tốn bé nhỏ, đã được cưu mang Chúa và được Chúa thăm viếng.  Vì vâng lời, Ngôi Lời cao sang đã trở nên nhỏ bé khiêm hạ để thực thi ý Chúa Cha.  Người mang thân phận như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi.  Ngày hôm nay, Người vẫn hiện diện khiêm tốn trong bí tích Thánh Thể, và nơi cuộc đời của những ai nghèo khó, bé mọn đơn côi, bị quên lãng bên dòng đời.

Mỗi chúng ta là Ki-tô hữu, chúng ta đã làm gì cụ thể để đón lễ Giáng sinh và đón Chúa đến trong cuộc đời?  Những trang trí bên ngoài rất cần thiết và quan trọng, nhưng phải đi đôi với tâm tình cụ thể, thiện chí đón Chúa đến trong cuộc đời.  Đương nhiên, đó là thiện chí sám hối bản thân, lãnh nhận các Bí tích, tham dự Phụng vụ.  Nhưng đó còn là việc đón Chúa Giê-su nơi những người nhỏ bé đơn sơ và cô thân cô thế.  Bởi lẽ, Chúa luôn nhớ đến họ, thậm chí còn đồng hóa với họ, để rồi khi chúng ta giúp đỡ những anh chị em này là chúng ta giúp đỡ chính Chúa.

Giáng sinh năm nào cũng về rồi lại đi.  Điều còn lại là gì, nếu không phải là niềm vui mà Chúa Giê-su đem đến cho nhân loại, kèm theo lời nhắn nhủ của Người: Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.  Anh em hãy trở nên ánh sáng cho trần gian.  Hãy tỏa lan những điều tốt lành, chân thật trong cuộc sống này để Nước Thiên Chúa thực sự đến với mọi người.  Này đây, Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.  Đó là những lời giúp chúng ta suy niệm và cầu nguyện bên hang đá máng cỏ trong Mùa Giáng sinh.

Chúng ta hãy noi gương Đức Trinh Nữ thành Na-da-rét, mở rộng tâm hồn đón nhận Đấng Cứu Thế.  Cùng với Mẹ, chúng lên đường để nói với mọi người đang sống trong xã hội hôm nay rằng: NGÔI LỜI ĐÃ LÀM NGƯỜI VÀ Ở CÙNG CHÚNG TA.

TGM Giu-se Vũ Văn Thiên

GIÁNG SINH ĐẶC BIỆT CỦA LÃO PANOV

Truyện ngắn hay nhứt trong mùa Giáng Sinh do Leo Tolstoy phóng tác thành văn xuôi từ vở thoại kịch có tựa đề là ‘Le père Martin’ của Ruben Saillens.  Từ câu chuyện Ông Panov này, ngày nay đã có hàng ngàn phiên bản bằng văn, thơ, kịch khác phổ biến trong văn học thế giới như một thông điệp về nhân ái và hạnh phúc, nhất là trong dịp Lễ Giáng Sinh hàng năm.

GIÁNG SINH ĐẶC BIỆT CỦA LÃO PANOV 

Hôm đó là ngày vọng (trước) Giáng sinh, mặc dù chỉ mới có xế chiều mà đèn đã được thắp lên khắp cả, từ nhà ở cho đến các cửa tiệm trong ngôi làng nhỏ của nước Nga này, bởi vì những ngày mùa đông thì ngắn ngủi và rất chóng tàn.  Những đứa bé vốn lúc nào cũng hớn hở đã chạy nhẩy lon ton ở bên trong và bây giờ, thoát ra từ những khung cửa chớp khép kín, là những âm thanh giống như bị bóp nghẹt của những cuộc trò chuyện và những tiếng cười đùa.

Lão Panov, ông thợ giày của làng, bước ra bên ngoài để có một cái nhìn rảo khắp.  Những âm thanh của hạnh phúc, những ánh đèn rực rỡ và mùi vị thoang thoảng của những món ăn ngon   Giáng sinh làm cho ông nhớ tới những mùa Giáng sinh đã qua khi người vợ của ông vẫn còn sống và những đứa con vẫn còn bé bỏng.  Bây giờ thì mọi người đã đi xa rồi.  Khuôn mặt tươi vui tự nhiên của ông, thường đi đôi với một cặp mắt xe lại vì nếp cười, ẩn nấp sau cặp kính tròn, bây giờ trông buồn rời rợi.  Tuy nhiên, ông đã bước vào trong nhà một cách dứt khoát, kéo cửa chớp xuống và đặt bình cà phê lên bếp than.  Sau đó, với một tiếng thở dài, ông ngả người lên chiếc ghế bành lớn.

Lão Panov thường không đọc sách, nhưng tối nay, ông với lấy cuốn sách Kinh Thánh cũ của gia đình, và từ từ dùng ngón tay trỏ lân lê theo dòng chữ, ông đọc lại câu chuyện Giáng sinh.  Ông đọc tới đoạn Bà Maria và Ông Giuse, mệt mỏi sau cuộc hành trình đi Bêlem, không tìm được một chỗ nào tại nhà trọ, phải sinh đứa con nhỏ trong một chuồng bò.

“Trời đất ơi, Trời đất ơi!” Lão Panov kêu lên, “nếu mà họ đến đây!  Tôi sẽ nhường chiếc giường của tôi cho họ và tôi bảo đảm sẽ lấy tấm chăn bông của tôi để bao bọc cho đứa bé.”

Khi ông đọc tiếp tới đoạn các nhà đạo sĩ đến thăm em bé Giêsu, tặng cho em nhiều món quà tuyệt vời.  Thì sắc mặt của Lão Panov xụ xuống.  “Tôi chẳng có món quà nào cho em cả” ông buồn bã nghĩ thế.

Rồi gương mặt của ông lại tươi lên.  Ông bỏ cuốn Kinh Thánh xuống, đứng dậy và vươn cánh tay dài lên một ngăn tủ ở trên cao trong căn phòng nhỏ.  Ông lấy xuống một chiếc hộp nhỏ đã phủ đầy bụi và mở ra.  Bên trong là một cặp giày nhỏ bằng da hoàn hảo.  Lão Panov mỉm cười hài lòng.  Vâng, đôi giầy vẫn còn tốt như trước – đôi giày tốt nhất mà ông từng làm ra.  “Tôi phải cho em đôi giầy này” ông định bụng như thế, rồi nhẹ nhàng cất chúng đi và ngồi xuống một lần nữa.

Ông bắt đầu cảm thấy mệt mỏi, và càng đọc thì càng buồn ngủ hơn.  Những giòng chữ bắt đầu nhảy múa trước mắt cho đến khi ông phải nhắm mắt lại, để nghỉ thêm một phút.  Nhưng chẳng bao lâu thì Lão Panov ngủ vùi.

Trong giấc ngủ, ông thấy một giấc mơ.  Ông nằm mơ một người nào đó đang ở trong phòng của mình và ông nhận biết, giống như mọi người đều nhận biết khi ở trong những giấc mơ của họ, ông nhận ra ngay người đó là ai.  Là Chúa Giêsu.

“Panov, nếu con muốn gặp Ta” Chúa nói một cách dịu dàng “thì hãy tìm Ta vào ngày mai.  Đúng ngày Giáng Sinh Ta sẽ đến thăm con.  Nhưng hãy chú ý cẩn thận, Ta sẽ không tỏ cho con biết rõ Ta là ai.”

Cuối cùng thì Lão Panov tỉnh dậy, khi chuông nhà thờ reo vang và một luồng sáng mỏng manh luồn lọc qua khung cửa chớp.  “Chao ôi, vui quá là vui!”  Lão Panov reo lên.  “Đây là ngày Giáng sinh rồi!”

Ông đứng dậy và duỗi mình cho qua cơn nhức mỏi.  Rồi thì khuôn mặt của ông rực lên một niềm vui hạnh phúc vì hồi tưởng lại giấc mơ vừa qua.  Đây sẽ là một ngày Giáng sinh đặc biệt hơn tất cả, vì Chúa Giêsu đến thăm ông.  Ngài sẽ trông giống như thế nào nhỉ?  Sẽ còn là một em bé như lúc Giáng sinh đầu tiên?  Hay sẽ là một người trưởng thành, một anh thợ mộc – hay là một vị vua huy hoàng, xứng đáng với danh phận là Con Đức Chúa Trời?  Ông tự nghĩ phải cẩn thận canh chừng từng giây phút của ngày để có thể nhận ra Ngài khi Ngài ngự đến.

Lão Panov pha một bình cà phê đặc biệt cho bữa ăn sáng Giáng Sinh, kéo cửa chớp của cửa sổ lên và nhìn ra ngoài.  Đường phố còn vắng tanh, không ai cả.  Không ai ngoại trừ ông quét đường.  Ông ta có vẻ khổ sở và bẩn thỉu hơn bao giờ hết, và cũng là đáng kiếp!  Ai mà đi làm việc vào ngày Giáng sinh bao giờ – và lại làm việc trong cái lạnh cay đắng của lớp sương muối trong một buổi sáng như thế này?

Lão Panov mở cửa ra, một làn khí lạnh mỏng lùa vào.  “Vào đây!” ông hô to qua phía bên kia đường bằng một giọng vui vẻ.  “Vào đây uống một chút cà phê cho ấm bụng!”

Ông quét đường nhìn lên, gần như không tin vào tai mình.  Rõ ràng ông ta đã quá sức vui mừng khi được đặt cây chổi xuống và đi vào căn phòng ấm áp.  Quần áo của ông bay phất phới nhẹ nhàng trong cái hơi nóng từ bếp lò thoát ra và ông siết chặt cả hai bàn tay đỏ như gấc vì lạnh vào cái ly ấm áp và đầy an ủi.

Lão Panov hài lòng nhìn ông ta, nhưng thỉnh thoảng vẫn liếc mắt qua khung cửa sổ.  Ông không muốn bỏ lỡ người khách đặc biệt của mình.

“Ông đợi ai đó?” ông quét đường sau cùng phải hỏi như thế và Lão Panov kể cho ông ta về giấc mơ của mình.

“Vâng, tôi hy vọng ông ta tới” ông quét đường nói, “ông vừa tặng cho tôi một chút niềm vui Giáng sinh mà tôi đã không bao giờ mong đợi.  Tôi cũng muốn nói rằng ông xứng đáng có được một giấc mơ trở thành sự thật.”  Và ông ta đã mỉm cười một cách thực lòng.

Khi ông ta đi rồi, Lão Panov cắt nhỏ bắp cải đưa vào nồi súp để dọn bữa ăn, sau đó đi ra cửa nữa, quét mắt nhìn quanh đường phố.  Ông vẫn không thấy ai.  Nhưng thực sự ông đã nhầm.  Có người đang đi đến.

Cô gái bước đi rất chậm chạp và lặng lẽ, dựa sát vào bờ tường của các cửa hàng và nhà ở, phải mất một thời gian dài trước khi ông nhận ra cô nàng.  Cô ta trông thật mệt mỏi và đang mang một cái gì đó.  Khi cô gái tiến gần ông hơn, ông nhận ra rằng ‘cái gì đó’ là một đứa bé, bọc trong một chiếc khăn choàng mỏng.  Có một nỗi buồn u uẩn phảng phất trong khuôn mặt của cô gái và trong khuôn mặt bị ép chặt của đứa bé, đến nỗi trái tim của Lão Panov muốn rơi ra vì họ.

“Xin mời vào nhà” ông bước ra ngoài để gặp họ. “Cô và em bé cần có chút lửa ấm và chút nghỉ ngơi.”

Bà mẹ trẻ để cho ông ta dẫn cô vào nhà và tới với sự thoải mái của chiếc ghế bành.  Cô thở dài nhẹ nhõm.

“Tôi sẽ hâm nóng một chút sữa cho em bé” Lão Panov nói, “Tôi cũng đã có con – tôi có thể cho con bé bú.”  Ông lấy sữa từ bếp lò và cẩn thận cho đứa con gái nhỏ bú bằng muỗng, đồng thời hơ ấm đôi bàn chân nhỏ của nó lên bếp.

“Con bé cần có giày,” ông thợ đóng giày nói.

Nhưng bà mẹ trẻ trả lời: “Tôi không có tiền mua giày đâu, tôi không có chồng để lo chu cấp cho chúng tôi.  Tôi phải đi đến làng bên cạnh để tìm việc làm.”

Một ý nghĩ chợt lóe lên trong trí của Lão Panov.  Ông nhớ lại đôi giày nhỏ ông đã coi lại đêm qua. Nhưng ông muốn giữ đôi giầy ấy cho Chúa Giêsu.  Ông nhìn xuống đôi chân lạnh của đưa bé một lần nữa và rồi làm một quyết tâm.

“Thử đôi giầy này cho con bé” ông vừa nói vừa đưa trả đứa bé cùng với đôi giày cho người mẹ.  Đôi giày nhỏ xinh đẹp đi vào vừa vặn.  Cô gái mỉm cười hạnh phúc và con bé cũng ríu rít lên vì vui sướng.

“Ông tốt với chúng tôi quá,” cô gái nói, và bế đứa bé lên mà đi ra.  “Mong rằng tất cả những ước mơ Giáng sinh của ông trở thành sự thật!”

Nhưng đến lúc này thì Lão Panov đã bắt đầu nghi ngờ cái ước mơ Giáng sinh đặc biệt của mình có thể trở thành sự thật không.  Có lẽ ông đã bỏ lỡ người khách của mình?  Ông lo lắng nhìn lên các đường phố cả trên lẫn dưới.  Vẫn có nhiều người đi qua nhưng toàn là những gương mặt mà ông từng quen biết.  Có nhiều người hàng xóm đi gọi người nhà về.  Họ gật đầu chào và mỉm cười chúc ông Giáng sinh vui vẻ!  Hoặc những tên hành khất – và Lão Panov vội vã gọi họ vào nhà để biếu họ một tô súp nóng và một ổ bánh mì kha khá, rồi cũng vội vã chạy ra cửa để đề phòng ông không bỏ lỡ Người Lạ Mặt Quan Trọng.

Rồi thì chẳng mấy chốc mà cảnh hoàng hôn của mùa đông lại rơi xuống.  Khi Lão Panov đi ra cửa một lần nữa và dù có căng đôi mắt của mình ra đến mấy, ông cũng không còn nhìn thấy một ai trên đường.  Mọi người đều đã về nhà.  Ông chậm rãi đi vào phòng, đóng cửa chớp xuống, và ngồi xuống một cách mệt mỏi trên chiếc ghế bành.

Chỉ là một giấc mơ thôi.  Chúa Giêsu nào có đến.

Nhưng bỗng nhiên ông cảm thấy ông không ở một mình trong phòng.

Điều xảy ra không phải là một giấc mơ vì ông hoàn toàn tỉnh táo.  Đầu tiên, ông thấy trước mắt một hàng dài những người đã đến với ông ngày hôm đó.  Ông già quét đường, người mẹ trẻ và đứa con và những người hành khất mà ông đã cho ăn.

Khi họ đi qua, họ đều thì thầm một câu: “Ông không thấy tôi à, Ông Panov?”

“Bạn là ai?” ông kêu lên, hoang mang.

Lập tức, một giọng nói khác trả lời ông.  Đó là giọng nói từ giấc mơ – giọng của Chúa Giêsu.

“Ta đói, ngươi đã cho ăn,” Chúa nói.  “Ta trần truồng và ngươi đã cho mặc.  Ta lạnh và ngươi sưởi ấm cho Ta.  Hôm nay Ta đến thăm ngươi qua tất cả những người mà ngươi đã mời vào mà cứu giúp.”

Rồi sau đó, là một sự tĩnh mịch.  Chỉ còn tiếng tíc tắc của chiếc đồng hồ lớn.  Một sự bình an và hạnh phúc lớn lao lấp đầy căn phòng nhỏ, tràn ngập trái tim của Lão Panov đến nỗi Lão phải phá lên cười, hát vang và nhảy múa hân hoan.

“Ngài đến thật rồi!” ông chỉ nói được như thế mà thôi.

Leo Tolstoy

Trần Mạnh Trác dịch

THÁNH GIOAN THÁNH GIÁ

Đây là vị “Tiến Sĩ Thần Bí,” nhà thần học vĩ đại của gia đình Cát Minh.  Thánh Gioan Thánh Giá để lại nhiều bài thơ đậm chất thần bí và giàu tư tưởng thần học, nhấn mạnh tới cuộc thanh luyện linh hồn.  Bốn tác phẩm nổi tiếng nhất của ngài vẫn còn ảnh hưởng mạnh mẽ đến ngày nay là “Đường Lên Núi Cát Minh,” “Đêm Tối,” “Bài Thánh Ca Thiêng Liêng” và “Lửa Tình Yêu Hằng Sống.”  Đức Bênêđictô XVI đã dành buổi tiếp kiến chung ngày 16 tháng 02 năm 2011 để nói về cuộc đời và tư tưởng của thánh nhân.

********************

Anh chị em thân mến,
Lần trước, tôi đã giới thiệu một nhà thần bí vĩ đại người Tây Ban Nha, thánh nữ Têrêsa Giêsu.  Hôm nay, tôi sẽ nói về một vị thánh quan trọng khác cũng là người Tây Ban Nha, bạn thiêng liêng của thánh nữ Têrêsa, đã cùng với thánh nữ cải tổ “Gia Đình Cát Minh”: đó là thánh Gioan Thánh Giá.  Ngài đã được đức giáo hoàng Piô XII tuyên phong là “Tiến Sĩ Hội Thánh” vào năm 1926, và theo truyền thống, ngài được biết đến với danh hiệu là vị “Tiến Sĩ Thần Bí” (Doctor Mysticus).

Gioan Thánh Giá sinh năm 1542 tại một ngôi làng nhỏ miền Fontiveros, gần Avila thuộc vùng Castille, là con của ông Gonzalo de Yepes và bà Catalina Alvarez.  Gioan sinh trưởng trong một gia đình rất nghèo.  Thân phụ của ngài, ông Gonzalo, vốn xuất thân từ dòng dõi quý tộc, nhưng sau đó bị trục xuất và không được nhìn nhận là một thành viên trong gia đình vì đã cưới cô Catalina, một thợ dệt lụa, thuộc tầng lớp thấp kém.

Gioan mất thân phụ khi còn ở độ tuổi rất nhỏ.  Lúc lên 9, ngài đã cùng với thân mẫu và người em trai là Francisco, di chuyển đến Medina del Campo, không xa Valladolid, một trung tâm thương mại và văn hóa của Tây Ban Nha thời bấy giờ.  Tại đây, ngài theo học ở trường Colegio de los Doctrinos, và đảm nhận vài công tác khiêm hạ cho các nữ tu của Tu viện và nhà thờ Mađalena.  Sau khi được chứng nhận có phẩm chất đạo đức tốt và kiến thức vững vàng, Gioan bắt đầu làm trợ tá cho bác sĩ ở Bệnh viện Conception, rồi tiếp tục theo học ở trường Cao đẳng của dòng Tên, mới được thiết lập ở Medina del Campo.  Gioan chính thức học ở trường Cao đẳng này năm mười tám tuổi và nghiên cứu các môn khoa học Nhân văn, Hùng biện, Cổ ngữ trong khoảng ba năm.  Lúc mãn chương trình học, Gioan có trực giác về ơn gọi tu trì.  Trong số rất nhiều dòng đang hiện diện ở Medina, ngài cảm thấy như được mời gọi đến với Anh Em Cát Minh.

Mùa hè năm 1563, Gioan bắt đầu thời gian tập viện ở một tu viện Cát Minh trong thị trấn, nhận danh hiệu là Juan de San Mattia.  Một năm sau đó, ngài theo học tại trường Đại học danh tiếng Salamanca, nghiên cứu Nhân văn và Triết học khoảng ba năm.

Năm 1567, ngài được thụ phong linh mục và trở về Medina del Campo để cử hành thánh Lễ Tạ Ơn, với sự tham dự đông đảo của gia đình huyết thống.  Chính tại đây, lần đầu tiên Gioan gặp thánh nữ Têrêsa Giêsu.  Cuộc gặp gỡ này mang tính quyết định cho cả hai vị.  Têrêsa đã giải thích cho Gioan về kế hoạch cải tổ dòng Cát Minh của mình, bao gồm cả ngành nam của dòng, và đề nghị Gioan ủng hộ kế hoạch này nhằm “vinh danh Chúa hơn.”  Vị linh mục trẻ đã bị cuốn hút bởi ý tưởng của thánh nữ Têrêsa, đến nỗi can đảm trở thành người tiên phong trong kế hoạch cải tổ này.

Hai vị có mấy tháng làm việc chung với nhau, cùng chia sẻ lý tưởng và soạn thảo kế hoạch, muốn bắt đầu tiến trình cải tổ bằng việc thành lập cộng đoàn Cát Minh không đi giày đầu tiên, tiến hành càng sớm càng tốt.  Và một cộng đoàn như thế đã chính thức xuất hiện vào ngày 28 tháng 12 năm 1568, tại Duruelo, một nơi hẻo lánh thuộc tỉnh Avila.

Cộng đoàn Cát Minh không đi giày theo tinh thần cải tổ này gồm có Gioan và ba bạn đồng hành.  Đời sống tu trì của họ có nhiều thay đổi, quay lại nếp sống nhiệm nhặt với bản Tu luật nguyên thủy, mỗi thành viên nhận lấy một danh xưng mới: từ đây Gioan lấy danh hiệu là “Thánh Giá,” và cho đến ngày nay, ngài vẫn được biết đến trên toàn thế giới với danh hiệu đáng kính này.

Cuối năm 1572, theo lời đề nghị của Têrêsa, Gioan trở thành cha giải tội và vị đại diện của đan viện Nhập Thể ở Avila, nơi Têrêsa Giêsu làm Bề trên.  Đây là khoảng thời gian hai vị đã cộng tác thân thiết và xây dựng tình bạn hữu thiêng liêng, làm phong phú tinh thần cho cả hai.  Những tác phẩm quan trọng nhất của Têrêsa cũng như của Gioan ra đời trong khoảng thời gian này.

Việc cải tổ dòng Cát Minh không dễ dàng, Gioan nỗ lực kêu gọi anh em cộng tác, và rồi ngài phải chịu nhiều đau khổ.  Chuyện tệ hại nhất xảy ra vào năm 1577, Gioan bị bắt giam trong ngục tại một Tu viện theo luật cũ, với một cáo trạng bất công.  Ở chốn lao tù, Gioan phải chịu túng thiếu và kìm kẹp cả về thể lý lẫn tinh thần.  Tại đây, ngài đã sáng tác bài thơ nổi tiếng, với nhan đề “Bài Thánh Ca Thiêng Liêng,” cùng với nhiều bài thơ khác.  Cuối cùng, vào đêm ngày 16 rạng sáng ngày 17 tháng 8 năm 1578, Gioan thực hiện một cuộc đào tẩu mạo hiểm và tìm đến trú ẩn tại tu viện của các nữ tu Cát Minh cải tổ trong thị trấn.  Thánh Têrêsa và các bạn hữu cùng chí hướng của ngài rất vui mừng vì Gioan được tự do, và sau đó, ngài ở lại đó ít lâu, đến khi bình phục sức khoẻ hoàn toàn, mới chuyển đến Andalusia, nơi đây ngài cư trú trong nhiều tu viện khác nhau khoảng 10 năm, đặc biệt ở Granada.

Gioan ngày càng được trao phó những chức vụ cao hơn trong dòng, cho đến khi ngài trở thành vị đại diện Tỉnh dòng và đã hoàn tất vài khảo luận về đời sống tâm linh.  Sau đó, ngài trở về vùng đất đã sinh trưởng, với cương vị là một thành viên trong ban tổng đại diện của gia đình Cát Minh Têrêsa, khi ấy đã có được sự tự trị hoàn toàn về mặt pháp lý.

Gioan đến sống ở Carmel Segovia, đảm nhận chức bề trên của cộng đoàn.  Năm 1591, ngài được cắt hết tất cả trọng trách và được bổ nhiệm đến một tỉnh dòng mới ở Mêxicô.  Trong thời gian chuẩn bị cho chuyến hành trình dài cùng với 10 bạn đồng hành, Gioan lui về một tu viện hẻo lánh ở gần Jaen, nơi đây ngài ngã bệnh nặng.

Thánh nhân đối diện với đau khổ bệnh tật bằng một thái độ bình thản và kiên nhẫn.  Ngài qua đời vào giữa đêm ngày 13 rạng sáng ngày 14 tháng 12 năm 1591, khi anh em còn đang nguyện kinh sáng.  Rời bỏ anh em, thánh nhân nói: “Hôm nay, tôi sẽ nguyện kinh trên Thiên Đàng.”  Thi thể của ngài được di dời đến Segovia.  Ngài được đức giáo hoàng Clêmentê X phong Chân phước vào năm 1675 và được đức giáo hoàng Bênêdictô XIII phong thánh vào năm 1726.

Gioan được xem là một trong những nhà thơ nổi bật nhất của nền văn chương Tây Ban Nha.  Bốn tác phẩm chính của ngài là “Đường Lên Núi Cát Minh,” “Đêm Tối,” “Bài Thánh Ca Thiêng Liêng,” và “Lửa Tình Yêu Hằng Sống.”

Trong tác phẩm “Bài Thánh Ca Thiêng Liêng,” thánh Gioan Thánh Giá giới thiệu một tiến trình thanh luyện của linh hồn diễn ra từng bước.  Linh hồn phấn khởi khi dần đạt đến Thiên Chúa, cho tới khi cảm nghiệm được rằng, linh hồn yêu mến Thiên Chúa bằng một tình yêu mà Thiên Chúa đã yêu mến linh hồn.  Tác phẩm “Lửa Tình Yêu Hằng Sống” tiếp tục làm rõ quan điểm này, bằng cách mô tả chi tiết hơn tình trạng biến đổi, nên một với Thiên Chúa.

Thí dụ mà Gioan thường sử dụng là ngọn lửa: lửa cháy càng mạnh, càng thiêu huỷ mùn gỗ, thì càng bừng sáng cho đến khi tất cả thành một ngọn lửa lớn; cũng thế, Thánh Thần, Đấng thanh luyện và “tẩy rửa” linh hồn suốt thời kỳ đêm tối, cũng soi sáng và đốt nóng linh hồn, cho đến khi linh hồn hóa thành ngọn lửa.  Sự sống của linh hồn là lời tán dương không ngừng của Thánh Thần, Đấng vén mở cho chúng ta thoáng thấy phần vinh quang Thiên Quốc vì được kết hiệp với Thiên Chúa trong vĩnh cửu.

Tác phẩm “Đường lên núi Cát Minh” trình bày một hành trình tâm linh, khởi đi từ việc thanh luyện linh hồn, là điều vô cùng cần thiết để đạt tới đỉnh cao của sự trọn lành Kitô giáo, được biểu trưng hóa bằng đỉnh núi Cát Minh.  Hành trình thanh luyện này do con người đảm nhận, có sự tác động của ơn thánh, sẽ giúp giải thoát linh hồn khỏi mọi quyến luyến hay gắn bó với những gì chống lại thánh ý Thiên Chúa.

Để đạt đến sự hiệp nhất trọn vẹn trong tình yêu Thiên Chúa, thì linh hồn cần phải trải qua một hành trình thanh luyện, khởi đầu bằng việc thanh luyện các giác quan, rồi tiếp tục bằng việc sống ba nhân đức hướng Chúa: Tin, Cậy, Mến, hầu thanh luyện lý trí, ký ức và ý chí.

Tác phẩm “Đêm tối” mô tả khía cạnh “thụ động,” ở đó, Thiên Chúa can thiệp vào tiến trình thanh luyện linh hồn.  Thật vậy, chỉ cố gắng tự sức mình, con người không thể triệt tiêu căn nguyên sâu xa của những khuynh hướng và nết xấu nơi bản thân: tất cả những gì linh hồn có thể thực hiện là kiểm điểm chúng, nhưng không thể hoàn toàn bứng đi gốc rễ chúng.  Tiến trình này cần sự tác động đặc biệt của Thiên Chúa, Đấng thanh luyện triệt để linh hồn và chuẩn bị cho linh hồn những điều kiện xứng hợp nhất, hầu có thể nên một trong tình yêu của Người.

Thánh Gioan mô tả tiến trình thanh luyện này như là một tiến trình “thụ động,” mặc dù linh hồn chấp nhận đi vào, nhưng tiến trình này diễn ra nhờ được tác động nhiệm mầu của Chúa Thánh Thần, Đấng như một ngọn đuốc bừng cháy, đốt cháy mọi điều ô uế.  Trong tình trạng này, linh hồn chịu khuất phục trước mọi thử thách, như thể linh hồn ở trong đêm tối vậy.

Tri thức về hành trình tâm linh được tìm thấy trong các tác phẩm nổi tiếng nhất của thánh Gioan, giúp chúng ta tiếp cận những điểm nổi bật về đạo lý thần bí thâm sâu của ngài, mục đích là mô tả một con đường chắc chắn để đạt đến sự thánh thiện, đến tình trạng thành toàn viên mãn mà Thiên Chúa mời gọi tất cả chúng ta.

Theo Gioan Thánh Giá, tất cả những gì hiện hữu đều do Thiên Chúa dựng nên và tự bản chất là tốt lành.  Vì thế, qua các thụ tạo, chúng ta có thể nhận biết Thiên Chúa, Đấng đã khắc ghi nơi thụ tạo dấu tích của chính Người.  Trong mọi trường hợp, đức tin luôn là nguồn mạch giúp con người nhận biết Thiên Chúa đúng như Người là, xét trong nội tại, Một Chúa Ba Ngôi.  Tất cả những gì Thiên Chúa muốn là trò chuyện với con người, Thiên Chúa nói trong Đức Giêsu, là Lời đã mặc lấy xác phàm.  Đức Giêsu Kitô là con đường duy nhất và đáng tin cậy nhất dẫn chúng ta đến với Chúa Cha (x. Ga 14,6).  Bất kỳ thứ gì được tạo ra, thì hiển nhiên, chẳng là gì so với Thiên Chúa, và không có giá trị gì nếu ở ngoài Thiên Chúa; vì vậy, để đạt đến tình yêu tuyệt hảo của Thiên Chúa, mọi tình yêu khác phải được quy chiếu vào Đức Kitô mà đến với tình yêu Thiên Chúa.

Điều này dẫn tới lời khẳng định của thánh Gioan Thánh Giá về sự cần thiết phải thanh luyện và tự làm trống rỗng nội tâm, ngõ hầu được biến đổi trong Thiên Chúa, đó là cùng đích duy nhất của sự trọn lành.

Sự “thanh luyện” này không hệ tại ở việc loại bỏ đi mọi thứ thuộc về thể lý, hoặc không muốn dùng đến thế giới vật chất; trái lại điều làm cho linh hồn nên thanh khiết và tự do chính là loại bỏ đi sự lệ thuộc vào thế giới thụ tạo này một cách vô trật tự.  Mọi thứ phải được đặt trong Thiên Chúa như là trọng tâm và cùng đích của đời sống chúng ta.

Dĩ nhiên, tiến trình thanh luyện rất dài và gian khó, đòi hỏi nỗ lực của bản thân, nhưng tác nhân thực sự vẫn là Thiên Chúa: điều có thể thực hiện ở phía con người là làm cho mình trở nên “sẵn sàng,” mở rộng tâm hồn đón nhận sự tác động của ơn thánh và không để cho bất kỳ rào cản nào xuất hiện ngăn trở ơn thánh.  Bằng việc sống các nhân đức Tin – Cậy – Mến, con người nâng bản thân mình lên và làm cho cuộc tận hiến của mình trở nên rất giá trị.  Tiến trình thanh luyện giúp tăng trưởng đức tin, đức cậy, và đức mến, từng bước kết hiệp với Thiên Chúa, cho tới khi linh hồn được chuyển biến trong Người.

Khi tiến trình thanh luyện đạt đến cùng đích, linh hồn được chìm ngập vào trong đời sống của Ba Ngôi, từ đó thánh Gioan Thánh Giá khẳng định rằng, linh hồn sẽ vươn lên tới chỗ yêu mến Thiên Chúa bằng một tình yêu giống với tình yêu mà Thiên Chúa đã yêu thương linh hồn, vì Người vẫn yêu thương linh hồn trong Thần Khí của Người.

Vì lý do này mà vị Tiến Sĩ Thần Bí khẳng định rằng, sẽ không có sự hiệp nhất thực thụ trong tình yêu với Thiên Chúa, nếu không đạt đến cực điểm trong sự hiệp nhất Ba Ngôi.  Ở giai đoạn cuối cùng này, linh hồn thánh thiện nhận biết mọi thứ nơi Thiên Chúa và không còn phải nhờ các thụ tạo để vươn tới Thiên Chúa nữa.  Giờ đây, linh hồn cảm thấy được chìm ngập trong tình yêu Thiên Chúa và hỷ hoan trong tình yêu Thiên Chúa mà không có gì cản trở.

Sau cùng, một câu hỏi đặt ra là: phải chăng thánh Gioan Thánh Giá, trong quan điểm thần bí trổi vượt, với rất nhiều đòi hỏi khác nhau của hành trình thanh luyện linh hồn hầu đạt đến đỉnh cao trọn lành, chẳng có bất cứ điều gì để nói với chúng ta hôm nay, những Kitô hữu bình thường, đang sống cuộc đời thường nhật, cùng với những điều kiện hết sức bình dị mà thôi?  Phải chăng thánh Gioan Thánh Giá là một khuôn mẫu điển hình chỉ dành cho một vài linh hồn ưu tuyển nào đó, vốn thực sự đủ khả năng đảm nhận hành trình thanh luyện này, hay chỉ dành cho những vị khổ tu thần bí mà thôi?

Để có câu trả lời, trước hết, chúng ta phải ghi nhớ rằng, cuộc đời của thánh Gioan Thánh Giá không phải luôn suôn sẻ, lướt trên “những đám mây thần bí”; đúng hơn ngài đã trải qua nhiều gian khổ, cụ thể và rõ ràng, vì là một nhà cải tổ dòng Cát Minh, ngài đã bị rất nhiều người chống đối, cả từ phía Bề trên tỉnh dòng, đồng thời, trong thời gian ở chốn lao tù do anh em hiểu lầm, ngài đã hứng chịu những lời nhục mạ cay nghiệt và bị hành hạ cách tàn bạo.

Tuy rằng, cuộc đời của thánh Gioan có nhiều đau khổ, nhưng trong thời gian mấy tháng ở tù, ngài đã viết một trong những tác phẩm tuyệt vời nhất của mình.  Và vì thế, chúng ta có thể hiểu rằng, hành trình với Đức Kitô, đồng hành với Đức Kitô, Con Đường, không phải là chất thêm gánh nặng cho cuộc đời của chúng ta, không phải là điều gì đó vốn làm cho gánh cuộc đời của chúng ta thêm nặng, nhưng là một điều gì đó hoàn toàn khác biệt.  Đó là nguồn ánh sáng, nguồn động lực giúp chúng ta mang lấy gánh nặng và bước trên hành trình này.

Nếu ai đó cưu mang tình yêu cao cả nơi bản thân mình, thì tình yêu sẽ mang đến cho người ấy đôi cánh, nhờ thế, người ấy có thể đương đầu với tất cả những phiền muộn của cuộc đời dễ dàng hơn, bởi chất chứa trong mình nguồn ánh sáng vĩ đại; đây là niềm tin của chúng ta: được Thiên Chúa yêu thương và để cho chính mình được Thiên Chúa yêu thương trong Đức Giêsu Kitô.  Để cho chính mình được Thiên Chúa yêu là ánh sáng Thiên Chúa, giúp chúng ta mang lấy gánh nặng hằng ngày.

Và sự thánh thiện cũng không phải là một hành động quá khó khăn đối với chúng ta, nhưng phải hiểu rằng, thánh thiện chính xác là hãy “mở rộng”: mở rộng những cánh cửa của linh hồn để ánh sáng của Thiên Chúa chiếu vào, và đừng bao giờ lãng quên Thiên Chúa; vì chính khi rộng mở cho ánh sáng Thiên Chúa chiếu vào tâm hồn, con người đón nhận sức mạnh, tìm được niềm vui ơn cứu độ.

Chúng ta hãy cầu xin Chúa giúp chúng ta khám phá sự thánh thiện này, để chính chúng ta được Thiên Chúa yêu thương, vì Người là cùng đích và là ơn cứu độ đích thực của toàn thể nhân loại.

Trích ĐGH Bênêdictô XVI, 36 Thánh Tiến Sĩ (Tp. HCM: Nxb Phương Đông, 2017), tr. 400-412.

THIÊN CHÚA HIỆN DIỆN GIỮA DÂN NGƯỜI

Những lo toan bận rộn và khó khăn bế tắc của cuộc sống dễ lôi kéo chúng ta vào một vòng xoay bất tận.  Hậu quả là chúng ta quên lãng sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời.  Dù muốn hay không, con người cần có Thượng Đế.  Ki-tô hữu là người hướng về Chúa như hoa hướng dương hướng về mặt trời, như hơi thở đối với thân xác và như lương thực nuôi sống hằng ngày.  Trong Mùa Vọng, Giáo Hội nhắc chúng ta: đừng quên sự hiện diện của Thiên Chúa giữa Dân Người. Danh xưng Đấng Em-ma-nu-en nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta.  Vì thế, hãy vui lên và hãy nhìn cuộc đời này với lăng kính tích cực và với lòng nhân ái.  Thiên Chúa cũng rất vui mừng khi ở giữa chúng ta.

Xô-phô-ni-a là vị ngôn sứ người Do Thái sống ở thế kỷ VII trước Công Nguyên, và hoạt động ở miền Nam dưới triều vua Giô-si-gia-hu (640-609 TCN).  Sứ điệp của ông là bảo vệ người nghèo, lên án giai cấp lãnh đạo và các thẩm phán đương thời, cùng với những thói tục xấu và việc thờ ngẫu tượng.  Ông cũng là ngôn sứ của niềm hy vọng, với niềm xác tín Thiên Chúa luôn hiện diện giữa dân Người.  Đoạn sách được đọc trong Chúa Nhật hôm nay là phần kết của cuốn sách mang tên ông.  Vị ngôn sứ mời gọi dân Do Thái hãy vui mừng, kể cả giữa những bất công và thảm họa, vì Thiên Chúa luôn hiện diện giữa dân Người.  Ngài hiện diện để nâng đỡ, ủi an những ai đang đau khổ.  Ông cũng dùng một kiểu nói rất bạo dạn để diễn tả Thiên Chúa: “Vì ngươi, Chúa sẽ nhảy múa tưng bừng như trong ngày lễ hội.” “Thiên Chúa nhảy múa” là một hình ảnh kỳ lạ và bất thường.  Trong một số truyền thống văn hóa cổ xưa, người ta quan niệm các vị thần cũng giống như con người.  Họ cũng vui, cũng buồn và cũng giận dữ.  Thiên Chúa của người Do Thái là Đấng luôn vui mừng hân hoan.  Ngài chia sẻ vận mạng của Dân Ngài.

Cũng như người Do Thái thời ngôn sứ Xô-phô-ni-a, các Ki-tô hữu cũng được mời gọi hãy vui mừng, vì Chúa gần đến.  Đó là lời giáo huấn của thánh Phao-lô với tín hữu Phi-líp-phê.  Ki-tô hữu là người đang chờ đợi Chúa đến.  Vậy phải làm sao để khi Chúa đến, Người thấy chúng ta đang sống hiền hòa rộng rãi, tương thân tương ái với anh chị em đồng đạo và đồng loại.  Khi sống hiền hòa, là chúng ta làm lan tỏa tinh thần yêu thương như Chúa đã dạy.  Người tin Chúa luôn vui mừng, vì có Chúa ở với chúng ta.  Người luôn đồng hành với chúng ta trên từng bước đi của nẻo đường dương thế.

Chuẩn bị để đón Chúa, đó cũng là thời điểm để mỗi chúng ta nhìn lại mình.  Thánh Gio-an Tẩy giả xuất hiện là một hiện tượng đặc biệt đối với người Do Thái.  Qua lời giảng, ông Gio-an khẳng định với những người đương thời: điều mà cha ông chúng ta vẫn chờ đợi, nay sắp đến rồi.  Để có thể đón tiếp Người, mỗi người phải sám hối.  Lãnh nhận phép rửa do ông cử hành là hành vi sám hối, hoán cải canh tân để trở nên con người mới.

Mỗi khi Mùa Vọng về, Giáo Hội lại mượn lời rao giảng của thánh Gio-an Tẩy giả, giúp các tín hữu chuẩn bị tâm hồn để đón Chúa.  Thực ra Chúa Giê-su đã đến trong lịch sử.  Người đã sinh ra tại hang đá Be-lem cách đây hơn hai ngàn năm.  Nếu Giáo Hội mời gọi chúng ta đón Chúa, là để giúp chúng ta tái xác tín vào sự hiện diện của Người trong cuộc đời và trong tâm hồn chúng ta.  Những khuynh hướng xấu, tội lỗi và đam mê là lực cản che lấp sự hiện diện của Chúa.  Sám hối sửa mình, sẽ giúp ta nhận ra Chúa và cố gắng để nên giống như Người.

“Chúng tôi phải làm gì?”  Đó là câu hỏi mà những người Do Thái đặt ra cho ông Gio-an Tẩy giả.  Đoàn người đến cùng ông rất đa dạng.  Họ là những người thu thuế, những quân nhân và nông dân.  Ông Gio-an đưa ra những lời khuyên cụ thể cho từng trường hợp.  Đối với chúng ta, tâm tình sám hối để đón Chúa đến không phải là chung chung mờ nhạt, nhưng cụ thể và phải được chứng minh bằng việc làm.

Tâm tình hân hoan vui mừng còn được thể hiện trong sách I-sai-a được chọn cho phần Đáp ca của Thánh lễ: “Dân Xi-on, hãy mừng rỡ reo hò, vì giữa người, Đức Thánh của Ít-ra-en thật là vĩ đại!”  Thiên Chúa không phải là một vị thần nghiêm khắc hay một ông chủ độc tài.  Ngài là Cha yêu thương, luôn ở giữa chúng ta và ban cho chúng ta niềm an ủi.  Sự hiện diện của Chúa sẽ giúp chúng ta xua tan tăm tối, lan tỏa niềm vui và tràn trề niềm hy vọng.  Bầu khí nhộn nhịp, hân hoan tưng bừng trong những ngày Giáng Sinh gần kề nhắc chúng ta: Chúa đang ngự giữa chúng ta, và chúng ta vui mừng được đón tiếp Ngài.

TGM Giu-se Vũ Văn Thiên

KHOA HỌC LÀM SÁNG TỎ CÁC BÍ MẬT CỦA ĐỨC BÀ GUADALUPE

Hôm đẹp trời lạnh lẽo 12-12-1531 ấy, Juan Diego – một trong những người cải đạo sớm nhất ở Mexico – không thể mơ có một ngày trong tương lai xa xôi, ông lại được bất tử hóa và được đặt trên bàn thờ của Giáo Hội hoàn vũ.

Juan Diego đang trên đường tới nhà thờ sáng sớm hôm đó thì lại nghe tiếng nói ngọt ngào của Bà Đẹp vốn đã hiện hình trước mắt ông tại chân Đồi Tepeyac ở ngoại ô Thành phố Mexico hai hôm trước.

Bà Đẹp đã lặp lại ước muốn của mình là có một teocali (nhà nguyện) được xây nơi Bà đã hiện ra.  Juan Diego nói với Bà rằng Đức Giám mục Juan Zumarraga đòi bằng chứng về tính xác thực của yêu cầu này.  Đức Bà đã chấp thuận.  Theo hướng dẫn của Người, Juan Diego đã hái một bó hoa hồng Castilian rồi chính Người xếp trên tilma của ông (áo choàng, ct: một loại poncho hai mảnh trước và sau).  Ông sẽ phải đưa bó hoa hồng đó cho Đức Giám Mục.  Vâng, những đóa hồng Castilian lạ lùng nở vào mùa Đông!

Juan Diego vội vàng đến gặp Đức Giám Mục.  Và khi ông trải áo choàng của mình ra thì lạ chưa, Đức Giám Mục và mọi người có mặt đều hết sức kinh ngạc khi thấy không những nhiều đóa hồng thơm ngát rơi xuống từ áo choàng của ông mà còn cả một bức ảnh (cao 143 cm) của một phụ nữ trẻ đẹp với nước da hơi sẫm.

Đó là câu chuyện hay về việc làm sao hình ảnh Đức Bà Guadalupe đã xuất hiện.  Hình Mẹ được bao quanh bằng những tia sáng mặt trời và dưới chân Đức Trinh Nữ có một vầng trăng lưỡi liềm và một thiên thần nâng Người lên.  Đức Bà mặc một áo choàng màu xanh dương lẫn xanh lục với những ngôi sao vàng, và bên trong là một áo dài hồng thêu những nụ hoa viền vàng.  Một đai lưng màu tía sẫm thắt quanh eo Đức Trinh Nữ theo kiểu các thai phụ Aztec vẫn thường mang.

Đức Mẹ yêu cầu Juan Diego gọi Người là coatloxopeuh mà trong tiếng Nahuatl, ngôn ngữ Aztec châu Mỹ, có nghĩa là “người đạp dẹp con rắn.”  Trên phương diện lịch sử, đó là một phần văn hóa Aztec đương thời, vốn hàng năm dâng ít nhất 20.000 đàn ông, đàn bà và trẻ em cho các thần của họ như tế vật.  Nhờ Đức Bà Guadalupe hiện ra với Juan Diego, hàng triệu người đã trở lại Kitô giáo, như thế là đạp dẹp con rắn của việc thờ ngẫu tượng.

Áo choàng của Juan Diego được làm bằng sợi thô, cứng, một thứ vải hoàn toàn không thích hợp để vẽ.  Cuộc nghiên cứu và nhiều thử nghiệm khoa học đã được thực hiện trên áo choàng đó từ năm 1666 bởi các họa sĩ, bác sĩ và khoa học gia.  Những phát hiện của họ cho thấy như sau: các đặc điểm lạ lùng của hình ảnh vượt quá mọi hiểu biết khoa học; hình ảnh xem ra đã không được vẽ bởi bàn tay con người; các màu sắc xuất hiện như “tích hợp” vào thớ vải; và chất màu được sử dụng không có nguồn gốc từ động vật hay khoáng vật.  Hơn nữa, áo choàng, được làm bằng sợi đặc biệt đó, là tấm khăn duy nhất cùng loại còn tồn tại sau 476 năm [ct: 2007, thời điểm tác giả viết bài này].

Renzo Allegri, trong bài viết trên báo Messenger of Saint Anthony (Sứ giả của Thánh Antôn), cho biết rằng hiện tượng đã đánh thức sự tò mò khoa học đối với hình ảnh Đức Bà Guadalupe, liên quan đến cái đã được khám phá trong đồng tử đôi mắt Đức Mẹ.  Năm 1929, Alfonso Gonzales, một nhiếp ảnh gia của Vương cung Thánh đường Guadalupe, sau khi nghiên cứu âm bản (phim) của hình ảnh, đã tìm ra cái có vẻ là hình ảnh rõ nét của một người nam có râu phản chiếu ở mắt bên phải.

Hơn 20 năm sau, một nhiếp ảnh gia khác của Vương cung Thánh đường, Carlos Chavez, đã tuyên bố rằng ông thấy một hình người trong mắt bên trái cũng như mắt bên phải của Đức Bà Guadalupe.  Từ năm 1956 tới 1958, Rafael Torija Lavoigner đã thực hiện 5 cuộc nghiên cứu sử dụng các thấu kính phóng đại và kính soi đáy mắt (ophthalmoscopes), ông xác nhận có nhiều hình người trong đôi mắt của Đức Trinh Nữ.

Các hiện tượng như thế trở nên giật gân hơn nữa khi đôi mắt Đức Bà được nghiên cứu có sử dụng kỹ thuật tinh vi hơn nối kết với các máy vi tính.

Năm 1979, Tiến sĩ Jose Aste Tousman, một kỹ sư xuất sắc chuyên về vi tính ở Hoa Kỳ, đã đến Mexico.  Ông là một trong những nhà nghiên cứu có khả năng nhất về đôi mắt Đức Bà Guadalupe.  Allegri viết rằng công trình Tiến sĩ Tousman thực hiện trong 23 năm thật đáng kinh ngạc; ông đã sử dụng thiết bị cập nhật hay tinh vi nhất, giống các loại mà NASA vẫn dùng để giải mã các bức ảnh do vệ tinh chụp trong không gian.  Tiến sĩ Tousman đã phóng to hình ảnh đôi mắt Đức Bà Guadalupe tới 2.500 lần, sử dụng 25.000 màu được chiếu sáng cho mỗi mm vuông.

Sau khi lọc và xử lý hình ảnh kỹ thuật số, Tiến sĩ Tousman khám phá ra một toàn cảnh được bắt hay được chụp trong đôi mắt Đức Bà Guadalupe.  Trong toàn cảnh, có khoảng 11 người.  Có một người Mexico bản địa ngồi xếp hai chân và tóc dài tết thành đuôi ngựa.  Kế ông là một cụ già, hói đầu, râu trắng, mũi thẳng, lông mày rậm và một giọt nước mắt chảy dài xuống má phải.  Nhân vật này được xác định là Đức Giám Mục Juan Zumarraga.  Bên trái ngài là tay phiên dịch của ngài, Juan Gonzales.  Có bóng dáng một ông già để râu và ria, với một cái mũi to kiểu Rôma, xương gò má lồi lên, đôi mắt chìm sâu và đôi môi nửa khép nửa mở – rõ ràng là một thổ dân châu Mỹ – đang mở áo choàng của mình khi quay mặt về phía ông già đầu hói.  Rõ ràng là Juan Diego, kẻ đem những đóa hồng trong áo choàng mình tới cho Đức Giám Mục.  Cũng có nhiều kẻ không xác định được gồm một người cha, một người mẹ, hai ông bà già và 3 đứa trẻ.

Cảnh tượng được khám phá trong đôi mắt phóng đại của hình ảnh kỹ thuật số cho thấy rằng trong giây phút đầy xúc động ấy, khi Juan Diego trải áo choàng cho Đức Giám mục và khi tất cả những ai đang hiện diện trong căn phòng thấy hình ảnh Đức Bà được vẽ lên đó, thì Mẹ Thiên Chúa thực sự có mặt: như những caméra tinh vi nhất, đôi mắt của Người đã chụp cảnh tượng và đã bảo tồn nó cho các thế hệ tương lai.  Cũng kỳ lạ ở chỗ: ý thức những giới hạn của khoa học và kỹ thuật thời đó, Đức Mẹ biết rằng điều này sẽ chỉ được khám phá vài trăm năm sau, khi các thiết bị tinh vi nhất được con người phát minh chế tạo.

Sứ điệp của Đức Bà Guadalupe có thể là gì qua các phát hiện ấy của khoa học?  Tiến sĩ Aste Tousman đã đi đến những suy nghĩ như vậy.  Sự hiện diện của những kẻ không xác định có thể là một sự nhấn mạnh đến tầm quan trọng của gia đình và các giá trị gia đình.  Vì hai người đàn ông da trắng và những thổ dân châu Mỹ được tìm thấy trong cảnh tượng, sự hiện diện của những chủng tộc pha trộn có thể là một cảnh báo chống kỳ thị chủng tộc và là một lời kêu gọi tình huynh đệ giữa con người.  Việc khám phá cảnh tượng nhờ thiết bị hiện đại có thể là một lời mời gọi dùng kỹ thuật để loan truyền lời Chúa Kitô.

Juan Diego đã được Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II phong thánh tại Mexico.  Thổ dân châu Mỹ khiêm nhường, đơn sơ này có thể đã không hình dung rằng Bà Đẹp Guadalupe mà ông đã nói chuyện với ở đồi Tepayac còn có nhiều bí mật khác được tiết lộ, được dành riêng cho các thế hệ tương lai.  Trong trí óc đơn giản của mình, ông đã không thể nhận thức điều ấy.  Chỉ cần nói rằng ông đã vâng lời và yêu mến Đức Mẹ, Đức Mẹ cũng đã yêu mến ông vì tâm hồn đơn sơ và trong sạch của ông.

Xem ra lạ lùng đối với một khoa học gia khi nói lên điều ấy, nhưng với tôi là kẻ cảm thấy liên hệ, bức ảnh gốc thật kỳ diệu.  Nghiên cứu hình ảnh này là kinh nghiệm cảm động nhất của đời tôi.  Tiếp cận với nó, tôi có cùng cảm giác lạ lùng như những ai đã nghiên cứu Khăn liệm thành Turin (Italia).  Tôi tin vào những cách giải thích lô-gích tới một điểm nào đó.  Nhưng không có cách giải thích lô-gích cho cuộc sống.  Bạn có thể bẻ sự sống thành các nguyên tử, nhưng cái gì đến sau đó?  Ngay cả nhà bác học Einstein cũng chân nhận có Thiên Chúa mà!

Philip Callahan

(*) Giáo sư Philip Callahan là khoa học gia xuất chúng, ĐH Florida năm 1979.
Trích Francis Johnston, Sự kỳ diệu của Guadalupe.
Linh mục Phêrô Phan Văn Lợi dịch từ nguyên bản Anh ngữ
Nguồn: http://www.all-about-the-virgin-mary.com/our-lady-of-guadalupe-science.html

ĐẤNG ĐẦY ÂN SỦNG

Ngày 25-3-1858 tại Lộ Đức, Đức Mẹ lại hiện ra cho Bernadette, một cô bé mười bốn tuổi, nhà nghèo, quê mùa.  Vào lần hiện ra thứ mười sáu, khi cô gặng hỏi tên của Bà đẹp, Bà đã trả lời: Que soy era Immaculada Conception, Ta là sự Thụ thai vô nhiễm.  Một câu trả lời khó hiểu và khó nhớ đối với một cô bé ít học.  Dĩ nhiên cô không hề biết rằng bốn năm trước đó, Đức Piô IX đã công bố tín điều Đức Maria Vô Nhiễm nguyên tội.

Mừng lễ Đức Maria Vô nhiễm là mừng lễ một con người, một phụ nữ.  Thiên Chúa muốn Con Một của mình làm người trăm phần trăm, nên cần tuyển một phụ nữ để sinh ra người Con ấy.  Maria chính là người được chọn, hoàn toàn như một ân huệ.  Khi chọn Maria, Thiên Chúa đã ban cho Mẹ mọi sự tốt đẹp nhất có thể, vì ơn gọi quá vĩ đại là làm Mẹ Con Thiên Chúa.  Maria được Thiên Chúa bao bọc và bảo vệ bằng ân sủng tuyệt vời.  Ngài cho Mẹ được hưởng trước công nghiệp của Người Con, nên gìn giữ Mẹ khỏi vết nhơ của nguyên tội.

Mừng lễ Vô nhiễm là mừng lễ một con người, một phụ nữ, ngay từ giây phút đầu tiên được thụ thai, đã trọn vẹn và tuyệt đối nằm trong bàn tay yêu thương của Thiên Chúa.  Khi nói Mẹ không nhiễm vết nhơ của nguyên tội là chỉ mới nêu lên một khía cạnh có phần tiêu cực.  Theo Công Đồng Vaticanô II, từ giây phút hiện diện đầu tiên của cuộc sống, Mẹ đã được rạng ngời một sự thánh thiện hoàn toàn độc nhất vô nhị.  Giáo Hội Đông Phương gọi Mẹ là Đấng toàn thánh (panagia).  Sự thánh thiện của Mẹ đã được sứ thần Gabrien diễn tả qua lời chào: “Mừng vui lên, hỡi Đấng được đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng Bà.”  Maria được Thiên Chúa ban đầy tràn ân sủng, nghĩa là được Thiên Chúa yêu thương, và được đẹp lòng Thiên Chúa, từ trước khi Mẹ nói tiếng Xin Vâng.

Nhưng ân sủng không bóp chết tự do và trách nhiệm.  Mẹ đã đáp lại tình yêu đó với sự mở ra không ai sánh bằng.  Tiếng Xin Vâng trên môi của cô thiếu nữ Maria là cử chỉ đón lấy Đấng Cứu Độ vào đời mình, vào lòng dạ mình.  Maria đã suốt đời trung tín với tiếng Xin Vâng đầu tiên bằng việc nói muôn tiếng Xin Vâng khác cho đến tận thập giá.  Những gì Mẹ Maria được hưởng, chúng ta cũng được chung phần.

Chúng ta cũng được chọn, được tẩy xóa tội nguyên tổ, được ban ơn.  Chúng ta cũng được mời gọi đáp lại bằng những tiếng Xin Vâng nho nhỏ.  Sống Mùa Vọng là để cho Con Thiên Chúa đi vào đời mình.

Như Đức Maria, chúng ta được mời gọi cưu mang Con Thiên Chúa, làm cho Ngài lớn lên mỗi ngày và sinh Ngài ra cho thế giới.  Chúng ta cũng muốn cưu mang Giêsu với trái tim và cuộc đời vô nhiễm.

Xin Chúa cho chúng ta được chia sẻ ơn Vô Nhiễm giữa cuộc đời ô nhơ.

*********************

Lạy Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa,
xin gìn giữ nơi con quả tim của trẻ thơ
tinh tuyền và trong ngần như dòng suối.

Xin ban cho con quả tim đơn sơ,
mau quên những nỗi buồn phiền.
Một quả tim hào hiệp dám hiến thân,
dịu dàng để cảm thông.

Một quả tim trung thành và quảng đại,
không quên ơn, không báo oán.

Xin tạo cho con quả tim hiền từ và khiêm tốn,
yêu mà không mong được yêu lại,
hân hoan xóa mình đi
để Con của Mẹ có chỗ trong lòng người khác.

Một quả tim vĩ đại và bất khuất,
không khép lại trước những kẻ vô ơn,
không chán nản trước người lạnh nhạt.

Một quả tim khắc khoải
lo tìm vinh danh Chúa Giêsu Kitô,
quả tim mang vết thương vì yêu Ngài,
vết thương chỉ lành
khi được sống với Ngài trên trời.  Amen!

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J

NIỀM VUI TRỞ VỀ 

Sắc áo tím của Phụng vụ mùa Chay có thể làm nhiều người hiểu mùa Vọng là thời gian khổ chế.  Ngược lại, mùa Vọng là mùa của niềm vui.  Niềm vui vì Chúa sắp đến.  Niềm vui vì ta được trở về với Ngài.

Mặc dù xuất phát ở những bối cảnh khác nhau, các Bài đọc Kinh Thánh đều diễn tả niềm vui.  Trước hết đó là niềm vui mà ngôn sứ Ba-rúc đã loan báo.  Ông kêu gọi dân cư Giê-ru-sa-lem hãy cởi bỏ tang chế, và mặc lấy ánh vinh quang vĩnh cửu.  Các chuyên viên Kinh Thánh đều kết luận sách ngôn sứ Ba-rúc được viết vào khoảng từ năm 582-550, tức là vào cuối thời lưu đày của người Do Thái tại Ba-bi-lon.  Giống như ngôn sứ I-sai-a, ngôn sứ Ba-rúc loan báo ngày Thiên Chúa sẽ giải phóng dân Ngài.  Ngài sẽ dẫn đưa họ về quê cha đất tổ.  Đất nước của họ sẽ trở lại tươi sáng như xưa.  Giê-ru-sa-lem sẽ sầm uất kẻ đến người đi.  Đô thành Hòa Bình này sẽ phủ bóng rừng xanh với muôn loài sản vật.

Niềm vui ngôn sứ Ba-rúc loan báo đã được thực hiện vào năm 539.  Vua Ky-rô, người Ba Tư đã ký sắc lệnh cho người Do Thái hồi hương.  Họ tin Ky-rô là người Thiên Chúa sai đến giải phóng dân Ngài.  Thánh vịnh 125 được đọc trong phần Đáp ca diễn tả niềm vui vỡ òa của dân tộc.  Bao năm tha hương, nay họ trở về quê cha đất tổ.  Nhiều người tưởng chừng như đang ngủ mơ.

Thiên Chúa luôn dẫn chúng ta trên con đường trở về với Ngài.  Sám hối canh tân chính là điều kiện cần thiết để chúng ta tìm được niềm vui trong cuộc sống cũng như trong tâm hồn.  Ông Gio-an Tẩy giả xuất hiện từ hoang địa.  Ông là một sứ giả đến loan báo niềm vui mà dân Do Thái bao đời mong đợi: Đấng Thiên sai sắp đến.  Sống cách thời điểm này quá xa về thời gian và không gian, chúng ta không cảm nhận được niềm vui của người Do Thái trước lời loan báo Đấng Thiên sai sắp đến.  Về bối cảnh xã hội, lúc đó dân đang bị ách Rô-ma cai trị.  Về khía cạnh tôn giáo, lời cầu nguyện xin Chúa gửi Đấng Thiên sai luôn luôn vang vọng trong các buổi đọc Kinh Thánh.  Vì thế, dân chúng đông đảo đến nghe ông Gio-an rao giảng, và sẵn sàng cúi mình xuống để xin ông làm phép rửa trong dòng sông Gio-đan.

Người Ki-tô hữu cần cảm nhận được niềm vui trong đức tin.  Chúng ta vui vì có Chúa đang ở với chúng ta.  Đức Ki-tô đã hứa với các môn đệ: “Này đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế.”  Vì vậy, lời loan báo của ngôn sứ Ba-rúc và thánh Gio-an Tẩy giả vẫn luôn mang tính thời sự đối với chúng ta.  Chúa Giê-su đã đến trong lịch sử, cách đây hơn hai ngàn năm.  Hiện tại, Người hiện diện giữa chúng ta một cách huyền nhiệm linh thiêng.  Vào cuối cùng của thời gian, Người sẽ đến trong vinh quang “để phán xét kẻ sống và kẻ chết” như chúng ta tuyên xưng trong Kinh Tin kính.  Ki-tô hữu là người luôn tỉnh thức và đợi chờ biến cố Chúa Giê-su tái lâm, tức là đến lần thứ hai trong vinh quang.  Người vừa hiện diện giữa chúng ta, vừa dường như vắng bóng trong cuộc đời.  Bởi lẽ sự hiện diện của Chúa là linh thiêng và huyền nhiệm.

“Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi.  Mọi thung lũng phải lấp cho đầu; mọi núi đồi phải bạt cho thấp; khúc quanh co phải uốn cho ngay; đường lồi lõm phải san cho phẳng.”  Những gì ông Gio-an Tẩy giả khuyên người Do Thái năm xưa, vẫn đang giúp chúng ta nhìn lại bản thân để xét mình trước mặt Chúa.  Trong nội tâm chúng ta, vẫn còn đó những đồi cao của kiêu ngạo; thung lũng của yếu đuối; quanh co của mưu đồ.  Để đón Chúa đến trong tâm hồn, cần phải sám hối canh tân và buông bỏ những gì là bất xứng.

Niềm vui xuất phát từ tình yêu mến.  Đó là điều thánh Phao-lô đã cảm nhận, như ông tâm sự với giáo dân thành Phi-líp-phê.  Những tín hữu của cộng đoàn này yêu mến ông Phao-lô và điều đó, tạo cho ông niềm vui thân thương.  Ông cũng yêu mến họ và vui sướng mỗi khi cầu nguyện cho họ.  Ông đã viết: “Có Thiên Chúa làm chứng cho tôi: tôi hết lòng yêu quý anh em tất cả, với tình yêu thương của Đức Ki-tô Giê-su.  Điều tôi khẩn khoản nài xin là cho lòng mến của anh em ngày càng thêm dồi dào… để nhận ra cái gì là tốt hơn.”  Theo thánh Phao-lô, khi sống với nhau bằng tình yêu mến, chúng ta sẽ tiến xa trong sự hiểu biết Thiên Chúa và hiểu biết nhau.  Như vậy, chúng ta sẽ dễ dàng đón nhận ý Chúa và cùng nhau xây dựng một thế giới an bình.

Niềm vui của mùa Vọng là niềm vui trở về.  Như dân Do Thái hồi hương sau những năm dài sống nơi lưu đày, chúng ta được trở về với Chúa, để được gặp Ngài và nhờ đó được tiến triển trong tình yêu mến Chúa và yêu mến tha nhân.

TGM Giu-se Vũ Văn Thiên

PHANXICÔ XAVIÊ – VỊ THÁNH SAY MÊ CHINH PHỤC CÁC LINH HỒN

Được mệnh danh là Phaolô của thế kỷ XVI, thánh Phanxicô Xaviê luôn luôn thao thức về số phận của những linh hồn chưa bao giờ được nghe Tin Mừng.  Lời Chúa Giêsu: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít” (Lc 10, 20) luôn vang vọng và thôi thúc trong tâm trí thánh nhân.  Thánh nhân đã xúc động cực độ khi thấy có rất nhiều người không được làm Kitô hữu chỉ vì không có ai làm cho họ trở thành Kitô hữu.

Phanxicô chào đời ngày 07/04/1506 tại lâu đài Javier (Javier Castillo) gần thành phố Pamplona, miền Navarra, Tây Ban Nha, trong một gia đình danh giá và giàu có.  Ngài là con út trong gia đình có năm người con.  Năm lên 19 tuổi, Phanxicô được gửi đến Paris học tại học viện Sainte – Barbe thuộc đại học Paris.  Sau khi tốt nghiệp văn chương và triết lý, Phanxicô được bổ nhiệm làm giáo sư triết lý tại đại học Paris.  Vị giáo sư trẻ Phanxicô sớm nổi tiếng và được ca tụng trong giới sinh viên đại học thời bấy giờ.

Những tưởng vị giáo sư trẻ Phanxicô sẽ còn tiến xa hơn trên con đường công danh và sự nghiệp, thế nhưng, qua trung gian của một người bạn chí thân – thánh Inhaxiô, câu Lời Chúa: “nếu được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn nào có ích gì?” (Mt 16,16) đã chinh phục và làm thay đổi hoàn toàn nơi vị giáo sư trẻ vốn thông minh và đầy tham vọng.  Kể từ đó, Phanxicô đã tùy thuộc hoàn toàn vào kế hoạch nhiệm mầu của Chúa và trở nên khí cụ đắc lực của Tin Mừng.

Ngày 15/08/1534, cùng với Inhaxiô và năm anh em khác, Phanxicô đã dâng lời khấn khó nghèo, trinh khiết và sống cộng đoàn để “cùng nhau phục vụ Chúa,” khai nguyên Dòng Tên (Société de Jésus).  Ngày lễ thánh Gioan Tẩy Giả 24/06/1537, tại Venise, Phanxicô được chịu chức linh mục.  Kể từ đó, ngài gia tăng việc ăn chay, hãm mình, suy niệm và thực hành bác ái nhằm không ngừng thánh hóa bản thân và chuẩn bị hành trang cho sứ vụ mà Chúa sắp trao phó cho ngài.

Được thúc đẩy và hun nóng bởi khát vọng và lòng say mê cho Danh Chúa được cả sáng (Ad majorem gloriam Dei) và cho nhiều linh hồn được cứu rỗi (Ad salutem aminarum), vị linh mục trẻ Phanxicô Xaviê đã khao khát được đến với khắp mọi nơi để đem Chúa đến cho mọi người.  Với con tim rực cháy lửa mến Chúa và cháy bỏng khát khao thu phục các linh hồn đã đưa Phanxicô Xaviê vượt đại dương đến với miền Viễn Đông xa xôi, đầy khó khăn và nhiều khác biệt.  Cũng nhờ lòng nhiệt thành truyền giáo đó, Phanxicô Xaviê đã can đảm gặp gỡ các vị lãnh chúa miền Á Đông, tiếp xúc với các tôn giáo truyền thống như Ấn giáo, Hồi giáo, Phật giáo và Khổng giáo.  Trên tất cả, ngài luôn trăn trở làm sao đem Chúa Giêsu và Tin Mừng tình yêu của Người đến với tất cả những ai chưa có cơ hội nhận biết Người.

Ngày 07/07/1543, thánh Phanxicô Xaviê lần đầu tiên đặt chân lên thành phố Goa, miền tây nam Ấn Độ – một vùng đất hoàn toàn xa lạ đối với ngài, nhưng thánh nhân đã ngày đêm thăm viếng và nâng đỡ đức tin cho những người nghèo, giúp đỡ những người thuộc đẳng cấp thấp nhất trong xã hội Ấn thời bấy giờ.  Ngài dành nhiều thời gian để di đến các làng mạc thăm viếng, khích lệ những người ốm đau bệnh tật, rửa tội cho trẻ em, dạy giáo lý cho người lớn và tổ chức các giờ kinh lễ.  Trong một lá thư viết từ Ấn Độ gửi cho thánh Inhaxio ở Rôma, thánh Phanxicô viết rằng: “Tại các miền ấy, có nhiều người không được làm Kitô hữu chỉ vì không có ai làm cho họ trở thành Kitô hữu.  Nhiều lần tôi đã có ý định đi tới các đại học Châu Âu, trước hết là đại học Paris, mà kêu gào khắp nơi như một kẻ mất trí và thúc đẩy những người chỉ nghiên cứu học thuyết hơn là thực hành bác ái rằng: tiếc thay, chỉ vì lỗi của các ông mà biết bao linh hồn không được cứu rỗi!” [1]

Nhờ sức mạnh của lòng mến, thánh Phanxicô Xaviê đã ngày đêm hăng say chinh phục các linh hồn, mặc dù ngài luôn bị những người theo Ấn giáo và Hồi giáo chống đối.  Trong thư gửi về Rôma cho các anh em Dòng Tên, ngài viết: “Tôi tin rằng, ai thực lòng yêu mến thánh giá Chúa Kitô sẽ tìm thấy an bình khi đương đầu với những thử thách” [2].  Trong một thư khác, thánh nhân viết: “Xin Chúa ban cho chúng ta được biết và nhận ra ý muốn rất thánh của Chúa, và khi đã nhận ra, xin Chúa ban dồi dào sức lực và ân sủng, để với đức mến, chúng ta chu toàn thánh ý Chúa ngay ở đời này” [3].  Và để sức mạnh của lòng mến sinh hiệu quả, theo thánh Phanxicô, lòng mến phải được cụ thể trong hành động ngay ở đời này, và sẵn sàng “đi đến bất cứ nơi đâu để có thể phục vụ Chúa” [4].

Là một nhà truyền giáo Tây phương, bị đặt vào thế lưỡng nan, hoặc phải bảo vệ quyền lợi của thực dân Bồ Đào Nha hay bênh vực cho người bản xứ Ấn Độ, nhưng nhờ ơn Chúa, thánh Phanxicô đã chọn con đường khác: liên kết ý muốn của con người theo ý muốn của Thiên Chúa, kết hợp phương tiện với mục tiêu hướng đến tình yêu đích thực và nhắm lợi ích các linh hồn.  Trọn vẹn ý muốn của thánh nhân để chỉ hoàn toàn phục vụ thánh ý Chúa và mưu ích cho các linh hồn, như trong lá thư gửi về Rôma đề ngày 20/09/1542, ngài viết: “xin Chúa ban sức mạnh cho chúng ta ở đời này để chúng ta phục vụ Chúa trong mọi sự như Chúa truyền dạy, và chu toàn thánh ý Chúa ở đời này” [5].

Niềm đam mê các linh hồn đã dẫn đưa thánh nhân mạo hiểm dấn thân vào những hoàn cảnh tối tăm bao trùm và dường như bị Chúa bỏ rơi, nhưng sau khi trải qua kinh nghiệm về “sự thing lặng của Thánh Thần” đó, thánh nhân đã đạt đến điểm tận cùng của ý Chúa và khám phá ra niềm an ủi thiêng liêng lớn lao từ bên trong tâm hồn nhờ chu toàn ý muốn rất thánh của Người.  Khi đến quần đảo Môrô ở Nam Dương (Indonesia ngày nay), ngài đã viết thư cho các anh em Dòng Tên ở Rôma đề ngày 20/01/1548, rằng: “Tôi nhớ ngày xưa chưa từng được an ủi thiêng liêng lớn lao và liên tiếp như trên đảo này, lại ít cảm thấy phải cực nhọc về phần xác […].  Thay vì gọi đó là Các Đảo Môrô, có lẽ nên gọi là Các Đảo Hi Vọng Vào Chúa thì hơn” [6].

Hăng say dấn thân vì đức tin nơi các vùng đất xa lạ và khắc nghiệt, thánh nhân luôn ước ao nên giống Đức Kitô nhằm phục vụ các linh hồn được nhiều hơn.  Trong tâm trí thánh nhân, điều làm ngài thao thức mãnh liệt và thường trực nhất là những vùng đất và những con người chưa được nhận biết Đức Kitô.  Dù nhận thấy đầy dẫy những hiểm nguy phía trước, như ngài viết: “những nỗi sợ, những hiểm nguy, những đau khổ mà bạn bè nói tới, tôi kể là số không; tôi chỉ còn sợ Thiên Chúa” [7], nhưng thánh nhân vẫn một lòng tận hiến cho kế hoạch của Chúa qua những thúc bách trong chính tâm hồn ngài.  Trong một lá thư viết cho thánh Inhaxiô, đề ngày 01/02/1549, ngài viết: “Con thấy tâm hồn rất phấn khởi.  Con không ngại đi Nhật Bản, vì con cảm nhận trong tâm hồn mình cái gì đó dạt dào, mặc dầu con hầu như chắc chắn sẽ gặp nhiều hiểm nguy lớn lao hơn những gì con từng gặp xưa nay” [8].

Chuyện kể lại rằng, một đêm kia, trong lúc ngủ, thánh Phanxicô đã kêu lên: “mas, mas, mas.”  Và sau này, chính ngài giải thích: “Tôi thấy công việc truyền giáo quá mênh mông, nhiều mệt nhọc và nhiều ưu phiền gây nên bởi đói khát, giá lạnh, các chuyến ra đi, những vụ đắm tàu, những cuộc bách hại, những phản bội và nhiều hiểm nguy khác… được gửi đến cho tôi; vì lòng yêu mến mà chính Chúa ban cho tôi và với ơn trợ giúp của Người, tôi chịu đựng được.  Vì thấy chưa đủ, tôi xin Người ban thêm và luôn luôn thêm mãi; nên tôi đã thốt lên những lời ‘mas, mas, mas’, có nghĩa là: ‘nhiều hơn nữa, nhiều hơn nữa, nhiều hơn nữa.’”  Những lời “nhiều hơn nữa” của Thánh Phanxicô dường như là những thúc đẩy thần bí làm cho thánh nhân hoàn toàn tận hiến cho Chúa Kitô để ơn cứu độ của Người đến được với các linh hồn.

Lòng say mê các linh hồn không bao giờ vơi cạn nơi thánh Phanxicô, với ý Chúa nhiệm mầu, thánh nhân đã phải nhìn về đại lục Trung Hoa mênh mông với tình yêu lai láng và ước nguyện lớn lao, nhưng chưa thành hiện thực.  Rạng sáng ngày 03/12/1552, thánh nhân qua đời tại đảo Shanchuan (Trường Xuyên) nơi cửa ngõ của đất Trung Hoa.  Tháng 03/1553, xác ngài được đưa về Malacca (Malaysia) trong tình trạng vẫn tươi nguyên.  Và mùa Chay năm 1554, xác ngài được đưa về Goa (Ấn Độ), một lần nữa, quan tài được mở ra và xác ngài vẫn tươi nguyên như đang ngủ.

Ngày 25/10/1619 Phanxicô Xaviê được Đức Phaolô V phong chân phước, và đến ngày 12/03/1622, Đức Grêgôriô XV nâng ngài lên bậc hiển thánh.  Năm 1748, thánh nhân được tôn phong làm Bổn Mạng của Phương Đông; và đến năm 1904, ngài được tôn phong làm Bổn Mạng công cuộc truyền bá Đức Tin.  Năm 1927, Đức Piô XI tôn phong ngài làm Bổn Mạng các xứ truyền giáo.

Chỉ với 46 năm tuổi đời, 15 năm linh mục, thánh Phanxicô Xaviê dù không sống lâu, nhưng ngài đã sống nhiều, sống hết và sống hoàn toàn cho Chúa và vì các linh hồn.  Cũng chỉ có hơn 10 năm ra đi truyền giáo, nhưng thánh nhân đã đi tới hơn 100 ngàn cây số, rửa tội cho khoảng 30 ngàn người tại Á Châu.

Thánh Phanxicô Xaviê là một Phaolô mới – một Ðại Tông Ðồ, là mẫu gương cho những người trẻ, đặc biệt cho các chủng sinh, linh mục và tu sĩ trong thời đại hôm nay về lòng khao khát đem Tin Mừng đến cho những người chưa nhận biết Đức Kitô.  Đã có rất nhiều nhà truyền giáo can đảm lên đường nhờ gương sáng và lời chuyển cầu của thánh Phanxicô Xaviê.  Trong chuyến viếng thăm mục vụ tại Ấn Ðộ tháng 02/1986, khi huấn từ cho các linh mục và nam nữ tu sĩ tại nhà thờ chính tòa Goa, nơi giữ xác không bị hư nát của Thánh Phanxicô Xaviê, sau khi thuật lại những chặng đường truyền giáo của thánh nhân, vị tông đồ không biết mỏi mệt của miền duyên hải Ấn Ðộ, của quần đảo Maluku (Indonesia), của Nhật Bản và của Trường Xuyên (đảo Shanchuan, Trung Hoa), Đức Gioan Phaolô II nói: “Ngày nay, các tông đồ của Tin Mừng phải theo bước chân của Nhà Truyền Giáo thời danh và nhiệt thành này để chiếu dọi ánh sáng Chúa Kitô cho mọi người dân của Lục Ðịa Á Châu này.”

Fx. Hồng Ân
______________

[1] X. Bài đọc Kinh Sách, lễ kính thánh Phanxicô Xaviê, bài đọc 2.
[2] Bt 15, 15: Bút tích thánh Phanxicô Xaviê, tài liệu 15, đoạn 15.  Tất cả những điều thánh Phanxicô Xavier đã viết, và còn lưu lại, được gom trong bộ Bút tích thánh Phanxicô Xavier, (bản tiếng Việt của Hoàng Sóc Sơn, S.J.)
[3] Bt 48, câu kết.
[4] Bt 50, 2.
[5] Bt 15, câu kết.
[6] Bt 59, 4.
[7] Bt 78, 2.
[8] Bt 70, 10.