HẠT MẦM YÊU THƯƠNG

“Nếu anh em không trở lại mà nên như trẻ nhỏ, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời!”

Sau khi hoàn tất bộ phim “Tiểu Sử Têrêxa”, L. Younce trở lại đạo!  Cô viết, “Điều tôi khám phá ở Têrêxa là niềm vui phát sinh từ đau khổ khi bạn dâng nó lên Chúa.  Tôi cảm phục sự nhịn nhục và phục vụ ân cần của Têrêxa – một hạt mầm yêu thương – với nữ tu già Augustine khó thương; Têrêxa yêu quý bà và biến hành vi ấy nên của lễ cứu độ!”

Kính thưa Anh Chị em,

Cả hai bài đọc lễ thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu nói đến những em bé.  Và một em bé – như Têrêxa – là một mảnh đất bí ẩn, mảnh đất của những ‘hạt mầm yêu thương!’

Isaia mô tả tình yêu Thiên Chúa, “Mẹ Giêrusalem”, dành cho dân Ngài – bài đọc một.  Têrêxa mất mẹ lúc 4 tuổi, mất luôn ‘người mẹ thứ hai’ – chị Pauline vào dòng – lúc 9 tuổi.  Èo uột “như một cọng hành,” may thay, hạt mầm Têrêxa cảm nhận tình mẹ của Thiên Chúa vốn cho phép Têrêxa “bú sữa, được ẵm vào lòng, được nâng niu trên đầu gối.”  Hạt mầm ấy càng bí ẩn khi Têrêxa là một nữ tu ở tuổi 15.  Và dẫu kết thúc chỉ sau 9 năm, Têrêxa đã nên mảnh đất của những ‘hạt mầm yêu thương!’

Nếu Têrêxa không vâng lời mẹ Bề trên – chị ruột Agnes – để viết “Một Tâm Hồn,” không ai biết Têrêxa.  Đọc nó, bạn thấy “Bông Hoa Nhỏ” không chỉ tỏa hương đơn sơ, phó thác, nhưng còn man mát cả những tham vọng, tự tôn, can đảm, lãng mạn và cả bướng bỉnh.  Têrêxa ước bay lên mặt trời chói lọi Ba Ngôi; “Em muốn như các thánh, làm những chuyện ngông cuồng cho Ngài!”; “Ôi Giêsu, cho con được tử đạo trong lòng hay nơi thân xác; tốt hơn, cả hai!”  Như một người tình, Têrêxa thả hồn rong ruổi Tình Quân, “Khi tâm hồn bị cuốn hút bởi làn hương say đắm của Ngài, nó không chạy một mình; tất cả những người nó yêu đều được cuốn theo!”  Như chú bọ ngựa vênh váo, Têrêxa sánh mình với cây cọ ba xu để Chúa vẽ nên những kiệt tác, “Phần cây cọ, nó đâu tự hào về một kiệt tác là do nó; nhưng nó biết, ‘Người Nghệ Sĩ’ không bối rối mà còn bỡn cợt với những khó khăn; và đôi khi, cần một dụng cụ yếu đuối và bất toàn như nó!”

Têrêxa thông minh, hài hước, lắm tưởng tượng, “Archimède cần một điểm tựa bên ngoài để bẩy trái đất lên, ông không tìm ra!  Các thánh thì khác, Chúa cho họ một điểm tựa, chính Ngài.  Đòn bẩy là kinh nguyện bốc cháy yêu thương, cầu nguyện là cách thức các thánh nâng vũ trụ lên, nâng cho tới tận thế, ‘Các thánh tương lai’ cũng sẽ nâng!”  Têrêxa có những biện minh lạ lùng, “Con không nản chí vì những lỗi lầm của mình, vì trẻ con thường ngã luôn, nhưng vì chúng bé quá, nên không thấy đau mấy!”

Anh Chị em,

“Trẻ con thường ngã luôn, nhưng không thấy đau mấy vì quá bé!”  Chấp nhận mình bé nhỏ, nhiều khuyết điểm, ít tài năng; nhiều thất bại, ít thành công; nhiều tội lỗi, ít thánh thiện… là những đòn bẩy nâng bạn và tôi lên.  Chớ gì biết rõ mình là ai, chúng ta đặt trọn tin yêu vào Chúa; trở nên mảnh đất cho những ‘hạt mầm yêu thương’ mà Chúa Thánh Thần không ngừng gieo vãi.  Như Têrêxa, chúng ta tham vọng bẩy lên thế giới bi luỵ bằng cầu nguyện, chống lại tội lỗi và sự dữ.  Được vậy, chúng ta có thể hát lên “Hồn con xin Chúa giữ gìn, nép mình bên Chúa an bình thảnh thơi!” – Thánh Vịnh đáp ca.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, cho con biết dâng Chúa những đau khổ người khác gây ra cho con, và những hành vi ấy cũng sẽ biến nên của lễ cứu độ!” Amen.

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

TỔNG LÃNH THIÊN THẦN MICHAEL, GABRIEL VÀ RAPHAEL

A. Lịch Sử

Thuật ngữ Thánh Kinh dùng để gọi các thiên thần đều có nghĩa là “sứ giả.”  Theo thư Do Thái 1,14, các thiên thần là những thần linh phục vụ cho Thiên Chúa, và Thiên Chúa sai họ đến với những người cần được cứu giúp.

Cựu Ước cũng gọi họ là “Các Thánh” hay là “những người con của Thiên Chúa.”  Nổi bật nhất giữa các thiên thần là các đấng Michael, Kêrubim và Sêraphim.

Michael, có nghĩa: “Ai ví bằng Thiên Chúa”

Gabriel, có nghĩa: “Sức Mạnh của Thiên Chúa” hay là “Anh hùng của Thiên Chúa

Rafael, có nghĩa: “Thiên Chúa cứu giúp

Thánh lễ hôm nay bắt nguồn từ lễ thánh hiến Đền thờ Michael trên đường Via Salaria ở Rôma.  Ngày hôm nay cùng với Tổng lãnh thiên thần Michael, Hội Thánh cũng mừng chung hai tổng lãnh thiên thần Gabriel và Rafael.  Theo lịch xưa, các ngài được mừng vào những ngày 24.3 và 24.10. (Lm Nguyễn văn Trinh, Phụng vụ chư thánh)

B. Ý Nghĩa…

Thánh Kinh cách chung và Tân Ước cách riêng tương đối nói ít về các thiên thần.  Trong đoạn Tin Mừng hôm nay chỉ có một câu “Các thiên thần của Thiên Chúa lên xuống trên Con Người.”  Đây là sự tích lấy lại hình ảnh chiếc thang Giacóp, như một nhịp cầu nối trời và đất, Thiên Chúa và loài người.  Chúa Giêsu áp dụng hình ảnh này vào bản thân Ngài: Ngài cũng là trung gian giữa Thiên Chúa với loài người.  Các thiên thần góp phần tích cực vào sứ mạng trung gian ấy.

1. Micae là tổng lãnh tất cả các thiên thần. Ngài đã lãnh đạo các thiên thần khác chiến đấu với Luxiphe.  Nhắc tới Ngài là người ta nhớ lại câu Ngài nói “Ai bằng Thiên Chúa?”Theo sách Khải huyền của thánh Gioan thì khi ấy trên trời có một trận chiến to tát.  Một bên do Đức Micae lãnh đạo, bên kia là do Luciphe.  Micae là thiên thần dũng mãnh đã anh dũng tống cổ Luciphe và bè lũ theo hắn ra khỏi thiên đàng dưới khẩu: “AI BẰNG THIÊN CHÚA.”  Khẩu hiệu này sau đã trở thành tên của ngài.

Chúng ta hãy bắt chước Ngài: luôn trung thành với Chúa.  Mỗi khi chúng ta bị thế gian xác thịt cám dỗ muốn xa lìa Chúa, chúng ta hãy lập lại lời của Ngài:  Ai bằng Thiên Chúa?  Vâng!  Chẳng ai bằng Thiên Chúa cả.  Tiền bạc, vui sướng xác thịt, chức quyền không có gì sánh được với Thiên Chúa cả.

2. Gabriel là thiên thần truyền tin (Lc 1,19: Truyền tin cho ông Dacaria; Lc 1,26: truyền tin cho Đức Mẹ).  Ngài tuân lệnh Thiên Chúa mang sứ điệp Thiên Chúa đến cho loài người.

Tên Gabriel có nghĩa là “Sức mạnh của Thiên Chúa.”

Chính đức Gabriel đã hiện ra với tiên tri Đaniel để cho Daniel biết Đấng Cứu Thế sẽ sinh ra.  Chính đức Gabriel đã hiện ra với Giacaria báo tin cho ông biết ông sẽ sinh được một người con trai và đặt tên là Gioan.

Luca ghi lại quang cảnh cảm động này như sau: “Khi ấy ông đã trúng thăm được vào dâng hương trong đền thờ của Đức Chúa.  Sứ thần của Chúa hiện ra với ông… thấy vậy ông bối rối.  Sự sợ hãi ập xuống trên ông.  Những sứ thần bảo ông: “Này ông Giacaria, đừng sợ vì Thiên Chúa đã nhận lời ông cầu xin. Bà Elizabeth vợ của ông sẽ sinh cho ông một đứa con trai và ông phải đặt tên cho con là Gioan.”  Ông thưa lại: “Dựa vào đâu mà tôi biết được điều ấy?  Vì tôi đã già và bà nhà tôi cũng đã lớn tuổi?  Sứ thần đáp lại: “Tôi là Gabriel, hằng đứng chầu trước mặt Thiên Chúa.  Tôi được sai đến với ông và loan báo Tin vui đó cho ông.  Và này đây ông sẽ bị câm không nói được cho đến ngày các điều ấy xảy ra, bởi vì ông đã không chịu tin lời tôi là những lời sẽ được ứng nghiệm đúng thời đúng buổi. (Lc 1,1-20) v.v… Và sau đó mọi việc xảy ra như thế nào thì chúng ta đều đã được biết.

Rồi cũng theo Tin Mừng của Luca, sau sáu tháng, sứ thần Gabriel còn được Thiên Chúa gửi đến trần gian với một sứ mạng còn cao trọng hơn nhiều: Đó là sứ mạng truyền tin cho Đức Maria.  Nếu Giacaria đã ngỡ ngàng thì Đức Mẹ còn ngỡ ngàng hơn.  Việc của Giacaria với bà Elizabeth chỉ là việc giữa con người với con người.  Còn việc của Đức Maria là việc của Thiên Chúa: “Thánh thần sẽ ngự xuống trên bà và quyền năng đấng tối cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế người con do bà sinh ra sẽ là thánh và được gọi là con Thiên Chúa.”

Sau tiếng Xin vâng của Đức Mẹ cả vũ trụ đều phải nhảy mừng.  Thi sĩ Hàn mặc Tử chỉ nghĩ đến biến cố này thôi cững đã phải run rẩy mà thốt lên như thế này:

“Hỡi sứ thần Thiên Chúa Gabriel.

Khi người xuống truyền tin cho thánh nữ

Người có nghe xôn xao muôn tinh tú

Người có nghe náo động cả muôn loài?”

Chúng ta hãy cám ơn Chúa vì Chúa đã thực hiện những việc lạ lùng trước mắt chúng ta.

3. Raphael là vị thiên thần đã đưa đường dẫn lối cho Tôbia con, nhờ đó Tôbia bình an trong cuộc hành trình nhiều nguy hiểm, cưới được vợ hiền và chữa được bệnh cho cha già. Trước khi từ biệt gia đình Tôbia, Ngài cho biết thêm là Ngài luôn ở trước mặt Chúa để dâng những công nghiệp của loài người lên cho Thiên Chúa.

Cựu Ước nói về Raphael như thế này:

“Ông Tobia người Do thái thuộc chi họ Neptali bị bắt làm tôi mọi bên nước Assyria vì dân Do thái bị bại trận.  Thời gian ở đất khách quê người Tobia luôn giữ lòng trung thành làm tôi Chúa.  Ông bị tai nạn làm cho đôi mắt bị mù hoàn toàn.  Gia đình ông túng đói quá không có cách nào xoay trở.  Lúc đó ông nhớ đến món tiền trước kia ông đã cho nhà Gabelo mượn.  Ông sai người con của ông cũng có tên là Tobia – Để khỏi lầm lẫn sau này người ta gọi là Tobia-con đến nhà Gabelo để xin lại món tiền đã cho vay.  Tobia-con sẵn sàng vâng lời nhưng Tobia-con không biết đường đi.  Tổng lãnh Gabriel đã hiện ra dưới hình dạng một người thanh niên để dẫn đường.  Dọc đàng Raphael cứu Tobia-con khỏi bị cá nuốt.  Tới nơi Gabriel còn giúp cho Tobia-con cưới được vợ là Sara và đồng thời còn đòi nợ giùm cho Tobia.

Công việc xong,Tobia-con cùng với vợ trở về nhà.  Raphael bảo cho Tobia-con lấy mật cá mà xức vào mắt cho Tobia cha.  Tobia cha được khỏi mù, mắt được sáng trở lại, cha con Tobia hết sức vui mừng.  Đứng trước những ơn mà cả nhà vừa mới được: đòi được nợ, cưới được vợ, lại khỏi bị mù cha con ông Tobia muốn lấy phân nửa số tiền đòi được để gọi là đền ơn đáp nghĩa đối với người thanh niên đã tận tình giúp đỡ gia đình mình.  Khi ấy “người thanh niên” tốt lành đó mới tỏ ra cho cha con Tobia biết mình là thiên thần của Thiên Chúa đã được sai đến để giúp đỡ gia đình ông.  Nói xong điều đó thiên thần liền biến đi.

Câu chuyện của cha con Tobia cho chúng ta thấy Thiên Chúa hằng yêu thương chăm sóc những kẻ kính sợ Người.  Raphael có nghĩa là “THẦY THUỐC CỦA THIÊN CHÚA”

Xin được kết thúc bằng câu chuyện thật đẹp này:

Một tu sĩ sống cuộc đời hạnh phúc và an vui trong bốn bức tường của Tu viện.  Đời sống tu trì đã biến đổi cuộc đời và tâm hồn của ông trở nên tốt lành, đến nỗi mọi người đều gọi ngài là ông thánh nhỏ.

Ngày nọ, đang lúc ngài đang bắt tay vào rửa chén dĩa, thì một Thiên thần hiện ra và nói:

– Thiên Chúa sai ta đến là để báo cho ngươi là giờ ngươi lìa đời đã đến.

Tu sĩ vẫn điềm nhiên và vui vẻ trả lời:

– Tạ ơn Chúa đã thương nghĩ đến tôi, nhưng như ngài thấy đó, tôi còn phải rửa hàng chồng chén dĩa, tôi không muốn tỏ ra vô ơn với Thiên Chúa, nhưng liệu giờ tôi được hưởng nhan thánh của Người có thể hoãn lại sau khi làm xong bổn phận rửa chén dĩa này không?

Nói xong, Thiên thần biến đi.  Tu sĩ trở lại công việc bổn phận một cách hăng say như quên hẳn việc gặp gỡ Thiên thần.

Bẵng đi một thời gian, trong lúc vị tu sĩ đang làm cỏ ngoài vườn, Thiên thần hiện ra.  Như đoán trước ý nghĩ của Thiên thần, vị tu sĩ giơ tay chỉ mảnh đất trong vườn và nói:

– Đây ngài xem, cỏ dại mọc đẩy vườn, liệu giờ tôi vào cõi đời đời có thể hoãn lại cho đến khi tôi làm xong cỏ không?

Cũng như lần trước, Thiên thần chỉ mỉm cười rồi biến mất.

Một ngày nọ, trong lúc vị tu sĩ đang chăm sóc các bệnh nhân, thì Thiên thần hiện ra.  Lần này vị tu sĩ không nói một lời, nhưng chỉ giơ tay chỉ vào các bệnh nhân nằm trên giường.  Thiên thần biến đi không nói một lời nào.  Chiều đến, vị tu sĩ trở lại căn phòng nhỏ bé đơn sơ của mình, bỗng chốc, ông cảm thấy mình đã già nua, mệt mỏi; ông thốt lên lời cầu nguyện:

– Lạy Chúa, xin sai Thiên thần Chúa đến, con sẽ sẵn sàng theo Ngài.

Lời cầu nguyện vừa dứt, Thiên thần Chúa hiện đến; vị tu sĩ mừng rỡ:

– Lần này, nếu Thiên thần mang tôi đi, tôi sẵn sàng theo ngài về thiên quốc.

Thiên thần nhìn tu sĩ với tất cả âu yếm và nói:

– Này ông thánh nhỏ ơi, sao còn mơ ước về thiên quốc, những ngày tháng vừa qua, ông nghĩ là mình đã ở đâu ?

Lm. Giuse Đinh Tất Quý

ĐỨC TIN: ƠN BAN HAY ĐỘC QUYỀN? 

Giáo hội tại Việt Nam có một số giáo xứ được gọi là “toàn tòng,” nghĩa là tất cả mọi người trong làng đều là người Công giáo.  Nơi đây, những tổ chức sinh hoạt đời sống đức tin rất thuận lợi và được mọi người hưởng ứng tham gia.  Tuy vậy, cũng có vấn đề đặt ra là tại những giáo xứ này, người tín hữu ít giao lưu với những làng xã bên cạnh, vì những làng ấy là “bên lương,” hoặc “ngoại đạo.”  Những sinh hoạt tôn giáo rất sầm uất nhưng chỉ khép kín trong khuôn khổ một làng.  Phải chăng đây là lý do làm cho việc loan báo Tin Mừng kém hiệu quả?  Trong quá khứ, đã từng có những làng Công giáo tranh chấp xung đột với làng lương dân, và để lại những mối thù truyền kiếp.  Sự khép kín, cùng với não trạng cục bộ vô tình làm cho đức tin Ki-tô giáo trở nên một thứ độc quyền.  Có nơi, người Công giáo có cái nhìn kỳ thị đối với những người không cùng đức tin với mình.

Xem ra tư tưởng cục bộ này “xưa như trái đất.”  Bài đọc I trích sách Dân số và Bài Tin Mừng đều cho chúng ta thấy não trạng độc quyền này.  Thời ấy, mấy thanh niên khi thấy người khác nói tiên tri thì ghen tức, và đi báo cáo với ông Môi-sen, với đề nghị ông phải ngăn cản họ.  Thánh Mác-cô ghi lại cho chúng ta vụ việc tương tự, mà người bực tức lại là ông Gio-an, có thể là Gio-an tông đồ, người sau này là tác giả của Tin Mừng thứ tư, gọi là Tin Mừng của tình yêu?

Ông Môi-sen và Chúa Giê-su đều có lối phản ứng giống nhau.  Ơn tiên tri không phải là độc quyền.  Ơn trừ quỷ cũng vậy.  Thiên Chúa là Cha của cả gia đình nhân loại.  Người không độc đoán và hẹp hòi như chúng ta.  Ông Môi-sen đã đưa ra một ước mơ: “Phải chi Đức Chúa ban Thần Khí trên toàn dân của Người để họ đều là ngôn sứ.”  Đức Giê-su đã đưa ra một nguyên tắc: “Ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta.”

Giấc mơ năm xưa của ông Môi-sen nay đã được thực hiện.  Toàn dân Ki-tô giáo, tức là tất cả những ai đã lãnh nhận phép Rửa nhân danh Đức Giê-su đều trở thành ngôn sứ.  Nhờ Bí tích Thêm sức, những tín hữu được đón nhận Chúa Thánh Thần, giống y như các tông đồ xưa trong ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống.

Đức tin Ki-tô giáo không bao giờ là độc quyền cho một nhóm người nào.  Trái lại, bất kỳ ai tin vào Thiên Chúa như lời Chúa Giê-su rao giảng, thì đều được lãnh nhận Bí tích Rửa tội (hay còn gọi là Thanh tẩy).  Ơn đức tin do Chúa ban, không do công lao của con người, cũng không phải là ân huệ của Giáo Hội hay của bất kỳ người nào.

Vì đức tin không phải là một độc quyền, nên việc loan báo đức tin cũng được dành cho tất cả các tín hữu.  Một làng toàn tòng là nét đẹp của Giáo hội, là di sản đức tin do bao đời các bậc tiền nhân hy sinh gìn giữ.  Tuy vậy, với sứ vụ loan báo Tin Mừng, làng tòan tòng ấy phải mở ra với thế giới.  Người tín hữu phải chia vui sẻ buồn, và phải giao lưu và cộng tác với anh chị em các làng xã láng giềng, trong những hoạt động phục vụ công ích.  Nhờ mối tương quan tốt, chúng ta diễn tả hình ảnh thánh thiện của Giáo hội Chúa Ki-tô.  Làm cho mọi người biết Chúa, đây chính là lệnh truyền của Đấng Phục sinh và lời mời gọi của Giáo hội.

Để có khả năng làm chứng cho Chúa, trước hết người tín hữu phải củng cố và hoàn thiện đức tin nơi cá nhân mình.  Khi loan truyền Tin Mừng cho người khác, chúng ta phải là những người sống Tin Mừng.  Như vậy, chúng ta mới thực sự là những chứng nhân của Chúa Ki-tô.  Những điều kiện Chúa Giê-su nêu trong Tin Mừng như chặt chân, chặt tay, khoét mắt có thể làm cho chúng ta và những độc giả khác cảm thấy bị “sốc.”  Phải chăng Chúa muốn dùng những câu ngạn ngữ dân gian, với ý nghĩa đức tin vào Chúa phải chiếm vị trí ưu tiên trong cuộc đời chúng ta.

Bài đọc II tiếp tục cho chúng ta nghe lời giáo huấn của thánh Gia-cô-bê.  Lối hành văn của ông rất đơn sơ mà cụ thể, đề nghị những thực hành trong đời sống hằng ngày.  Đọc đoạn văn hôm nay, chúng ta dường như nghe văng vẳng lời giáo huấn của ngôn sứ A-mốt.  Vị ngôn sứ này sống ở thế kỷ thứ tám trước Công nguyên, trong bối cảnh nam bắc phân tranh.  Ông sống ở miền Bắc, còn gọi là Vương quốc Ít-ra-en (còn miền Nam được gọi là Vương quốc Giu-đa).  Ông mạnh mẽ phê phán những người giàu có mà khinh thường người nghèo, lên án những người làm giàu bất chính do bóc lộc người khác (xem đặc biệt trong chương 4 và chương 6 sách ngôn sứ A-mốt).  Thánh Gia-cô-bê nói với chúng ta: giống như trường hợp người phú hộ giàu có dửng dưng trước nỗi khổ đau của ông La-da-rô (x. Lc 16,19-31), những kẻ bóc lột và khinh thường người nghèo sẽ bị trừng phạt nghiêm khắc.

Đức tin không phải là một độc quyền, nhưng là ơn Chúa ban.  Chúng ta phải làm cho ơn ấy lớn lên từng ngày và sinh hoa kết trái.  Chúng ta cũng có bổn phận giới thiệu đức tin cho những người xung quanh.  Những ai chỉ giữ niềm vui Tin Mừng cho riêng mình, sẽ giống như người lãnh nhận nén bạc rồi chôn xuống đất, không hề sinh lợi, sau này sẽ lãnh hình phạt (x. Mt 25,14-30).

TGM Giu-se Vũ Văn Thiên

GẶP GỠ THIÊN CHÚA ĐANG NÓI

Ba Bí Quyết để Nghe Tiếng Thiên Chúa

Cuộc sống đầy dẫy những câu hỏi: Đâu là bí quyết để hạnh phúc?  Tại sao những điều xấu lại xảy đến cho những người tốt?  Mục đích của tôi trên trần gian này là gì?  Tại sao có sự dữ trong thế giới này?

Trong một thế giới đề cao những giải pháp nhanh chóng, người ta có thể lo lắng khi đối diện với những câu hỏi như thế này – những câu hỏi phức tạp không thể được giải quyết bằng những khẩu hiệu đơn giản hoặc những câu trả lời chỉ có một từ.

Đức Giáo hoàng Benedictô XVI nói rằng cho dẫu chúng ta thích những câu trả lời nhanh chóng, chúng ta chỉ có thể hiểu được những điều bí nhiệm của cuộc sống khi chúng ta dành thời gian để đắm mình trong lời của Thiên Chúa.  Vậy chúng ta hãy xem chúng ta có thể gặp gỡ Chúa Giêsu như thế nào, Ngôi Lời hằng sống của Thiên Chúa, Lời của Thiên Chúa đã được viết trong Kinh Thánh.  Ba lời khuyên thực tế này sẽ giúp chúng ta nghe được chính tiếng của Thiên Chúa và cảm nhận được sự hiện diện của Người khi chúng ta suy gẫm lời của Người trong Kinh Thánh.

Hãy Đọc Kinh Thánh Hằng Ngày! “Mong sao mỗi ngày sống của chúng ta được hình thành bởi một cuộc gặp gỡ mới với Chúa Kitô,  Lời của Chúa Cha đã thành xác phàm” (Tông huấn Lời Chúa – Verbum Domini, 124).

Bước đầu tiên nghe có vẻ hiển nhiên, nhưng đó là bước chúng ta thường bỏ qua: sắp xếp thời gian để đọc Kinh Thánh hằng ngày.  Hãy lên lịch việc đó trong ngày sống của bạn.  Hãy làm việc đó trước hết vào buổi sáng.  Hãy làm quen với câu chuyện của Kinh Thánh để bạn có thể thấy cách Thiên Chúa đã làm việc thế nào qua các thời đại.  Hãy tự mình khám phá xem Thiên Chúa làm việc cách kiên nhẫn, dạy chúng ta đường lối của người và chuẩn bị cho chúng ta ngày Chúa trở lại.  Và đừng sợ dùng các sách chú giải và những bài nghiên cứu Thánh Kinh đáng tin cậy để giúp bạn.  Càng hiểu biết về bối cảnh, lịch sử, và ngữ cảnh của Kinh Thánh, bạn càng có thể sắp xếp câu chuyện của Kinh Thánh hơn.

Nhưng hãy bảo đảm rằng lúc bạn đang đọc và nghiên cứu, bạn cũng đang cầu nguyện và tìm kiếm.  Như Đức Giáo hoàng Bênêđictô  nhấn mạnh, chúng ta có thể gặp Chúa Giêsu trong những lời của Thánh Kinh.  Chúng ta có thể phát triển một mối tương quan sâu sắc với Người khi chúng ta để cho lời Người thấm nhuần vào trong tâm hồn chúng ta.

Điều này không xảy ra trong một sớm một chiều.  Giống như bất kỳ mối quan hệ nào, nó cần có thời gian.  Hãy suy nghĩ về bất cứ tình bạn thân thiết nào của bạn.  Không phải bạn và bạn của bạn ngày càng trân trọng nhau khi các bạn dành thời gian cho nhau sao?  Không phải các bạn đã trở nên gắn bó với nhau khi chia sẻ những thăng trầm trong cuộc sống của các bạn sao?  Các bạn ngày càng yêu nhau bởi nhờ cách các bạn chia sẻ niềm hy vọng và nỗi sợ hãi, ước mơ và những nối thất vọng của mình.

Không có gì có thể thay thế thời gian.  Các mối quan hệ cần thời gian.  Giao tiếp cần thời gian.  Tình yêu cần thời gian.  Vì vậy, chúng ta cần đọc Kinh Thánh mỗi ngày để có thể hiểu biết về Chúa.  Ngài nghĩ như thế nào về mọi việc?  Ngài phản ứng ra sao trước khó khăn hay may mắn?  Điều gì khiến Ngài vui hay buồn?  Những ước mơ và hy vọng của Người là gì?

Hãy Trở Nên Một Phần của Kinh Thánh.  “Lời Chúa lôi cuốn mỗi người chúng ta bước vào cuộc đàm thoại với Chúa: Đấng Thiên Chúa đang nói dạy ta cách để nói với Người” (Tông huấn Lời Chúa – Verbum Domini, 124).

Khi bạn đọc Kinh Thánh hằng ngày, hãy cố gắng tưởng tượng mình đang ở trong bối cảnh mà bạn đang đọc.  Khi đọc các sách Tin Mừng, Thánh Ignatio Loyola thường hình dung chính ngài như một trong các môn đệ của Chúa Giêsu để ngài có thể quan sát tận mắt mọi thứ đang diễn ra.  Ngài tưởng tượng chính ngài là một nhân chứng phụ trong Bữa Tiệc Ly, đang chứng kiến mọi thứ xung quanh ngài khi Chúa Giêsu cử hành Bí tích Thánh Thể lần đầu tiên.  Ngài nhìn kỹ khuôn mặt Chúa Giêsu khi Người tha thứ cho người phụ nữ phạm tội ngoại tình, hoặc khi Người thách thức những người Pharisêu và Nhóm Sađốc.  Ngài đã cùng với chị Maria Mácđala và tông đồ Gioan hiện diện ở đồi Canvariô và chứng kiến những ánh nhìn và những âm thanh trong ngày Chúa Giêsu chịu chết cho ngài.

Việc hòa nhập chính mình vào Kinh Thánh theo cách này không nên là một việc thụ động.  Chúng ta không nên chỉ ngồi phía sau và xem những gì đang xảy ra.  Chúng ta cũng có thể trở thành một phần của cảnh ấy.  Chẳng hạn, khi bạn hình dung chính bạn trên Núi Hôrép với Môsê và bụi gai bốc cháy, hãy cảm thấy tự do để hỏi Môsê như thể bạn nghe được tiếng của Thiên Chúa.  Hãy tưởng tượng ông đang hướng về bạn và chia sẻ với bạn những gì ông đang suy nghĩ khi Thiên Chúa nói với ông đối diện với Pharaô và yêu cầu vua thả cho dân Do Thái đi.  Bạn có thể ngạc nhiên về câu trả lời bạn nhận được.

Hãy bảo đảm rằng bạn không chỉ giới hạn mình vào những câu chuyện trong Kinh Thánh.  Chính Đức Giáo hoàng Benêđictô đã khuyến khích chúng ta làm điều tương tự với các thánh vịnh, được gọi là sách cầu nguyện của Kinh Thánh:

“Trong các Thánh vịnh, ta có thể gặp được mọi tâm tình nhân loại trong cuộc sống, được trình bày một cách khéo léo trước nhan Thiên Chúa…  Theo cách đó, lời con người thưa với Thiên Chúa lại trở thành chính Lời Thiên Chúa… và toàn thể cuộc sống con người trở thành một cuộc đối thoại với Thiên Chúa, Đấng đang nói và đang nghe” (Tông huấn Lời Chúa – Verbum Domini, 24).

Hãy tưởng tượng chính bạn là một trong những thánh vịnh gia khi bạn dâng tâm hồn bạn lên trước Nhan Chúa.  Và giống như các thánh vịnh gia, hãy can đảm đủ để mong đợi câu trả lời từ Thiên Chúa.  Thay vì những mối quan tâm của thánh vịnh gia, bạn hãy dâng chính những nhu cầu và ước muốn của bạn, những khao khát và hy vọng của bạn.  Hãy để cho những lời ca ngợi và tạ ơn của thánh vịnh gia trở thành của chính bạn.  Như Đức Bênêđictô nói, lời Thiên Chúa sau đó sẽ trở thành chính tư tưởng của bạn.  Đường lối của Người sẽ trở thành đường lối của bạn, đặt qua một bên bất kỳ thứ gì trong bạn đối nghịch với cách suy nghĩ của Người.

Hãy Lắng Đọng và Lắng Nghe. “Chỉ trong im lặng, lời Chúa mới tìm được nơi cư ngụ trong ta, như đã tìm được nơi Đức Maria, người phụ nữ của lời nhưng một cách không thể tách biệt, cũng là người phụ nữ của im lặng” (Tông huấn Lời Chúa – Verbum Domini, 66).

Việc đặt mình vào trong Kinh Thánh theo cách này lúc đầu có thể làm bạn cảm thấy giống như chơi trò tưởng tượng.  Làm sao bạn có thể kể lại nếu bạn không biết những điều bạn đang hình dung đến từ sự tưởng tượng của chính bạn hay từ Thiên Chúa?  Bí quyết ở đây là qua sự lắng nghe trong thinh lặng.

Chúng ta đang sống trong một thế giới ồn ào, năng động và tất cả các hoạt động đều có thể ảnh hưởng đến thời gian đọc Kinh Thánh của chúng ta.  Khi đặt mình vào một cảnh trong Kinh Thánh, bạn có thể bị cám dỗ đánh mất mục tiêu và để cho trí tưởng tượng của bạn chạy trốn với bạn.  Bạn có thể kết thúc bằng việc dành toàn bộ thời gian của mình để hình dung khung cảnh cách chi tiết, tưởng tượng phản ứng của mọi người và để cho câu chuyện tiếp tục mở ra.  Nhưng tất cả các hoạt động tưởng tượng này phải được cân bằng với sự thinh lặng và tĩnh lặng.  Bằng cách nào khác bạn sẽ có thể nghe được tiếng Chúa?

Nếu một từ hay một cụm từ hoặc một hình ảnh đặc biệt đánh động bạn, hãy dừng lại và suy gẫm về nó.  Hãy lắng đọng.  Hãy dành thời gian của bạn.  Đừng lo lắng về việc đi đến phần kết thúc câu chuyện hay kết thúc thánh vịnh.  Thay vào đó, hãy nghiền ngẫm nó.  Hãy đợi Chúa nói với bạn, Đó có thể đơn giản là những lời của Chúa Giêsu trong Bữa Tiệc Ly: “Hãy tin vào Thiên Chúa”  (Ga 14,1), hoặc đó có thể liên quan đến lời tuyên bố của Thánh Phaolô rằng mọi người kêu cầu danh Chúa sẽ được cứu độ (x. Rm 10,13).  Bất kể là gì, bạn hãy dành thời gian để lời đó được mở ra.  Hãy lặp lại lời hay cụm từ đó nhiều lần, hãy hỏi Chúa xem Người muốn nói với bạn điều gì.  Hãy viết lại bất cứ ấn tượng nào bạn có thể có.  Hãy lắng đọng tâm hồn bạn, hít thở sâu và lãnh nhận bất cứ điều gì Thiên Chúa ban cho bạn.

Nếu các tư tưởng đến với bạn làm bạn tràn đầy bình an, niềm vui, hy vọng hay khao khát trở nên giống Chúa Giêsu hơn, bạn có thể bảo đảm rằng Chúa Thánh Thần đang nói với bạn.  Nếu các ý nghĩ làm bạn cảm thấy lo lắng, thất vọng hoặc chìm đắm trong mặc cảm tội lỗi, thì bạn có thể chắc chằn rằng chúng không đến từ Thiên Chúa.

Nếu các suy nghĩ đến với bạn thôi thúc bạn hành động cách khác biệt, hành động giống Chúa hơn, thì bạn có thể tự tin rằng Thiên Chúa ở đàng sau những suy nghĩ ấy.  Chẳng hạn, bạn có thể cảm thấy được thúc đẩy để thể hiện lòng nhân hậu hơn nữa với một người bạn hay một thành viên gia đình.  Bạn có thể được thôi thúc xưng thú tội lỗi quá khứ đã đè nặng trên lương tâm của bạn.  Bạn có thể thấy sự can đảm mới để dấn thân vào việc phục vụ giáo xứ.  Hoặc bạn có thể cảm thấy cần hàn gắn tình bạn bị tổn thương.  Bất kể điều gì bạn cảm nhận Thiên Chúa đang yêu cầu bạn làm, hãy bước ra và thực hiện nó.  Thông thường, bạn sẽ nhận ra rằng một bước đơn giản dẫn đến bước khác và bước khác –  mỗi bước đều kéo bạn đến gần với Chúa hơn.

Thiên Chúa Đấng Đang Nói.  Đức Giáo hoàng Benêđictô nói: “Không có điều ưu tiên nào lớn hơn ưu tiên này là: hãy mở ra lại cho con người ngày nay con đường đến với Thiên Chúa, một vì Thiên Chúa đang nói và chia sẻ với chúng ta tình yêu của Ngài, để chúng ta có được sự sống dồi dào” (Tông huấn Lời Chúa – Verbum Domini, 66).

Với những lời này, Đức Giáo hoàng Bênêđictô đang nói rằng bí quyết để có một cuộc sống bình an, đầy hoa trái và trọn vẹn hệ tại ở việc lắng nghe Thiên Chúa nói lời của Người với chúng ta.  Người đang nói với chúng ta rằng Cha trên trời muốn mở mắt chúng ta ra trước sự hiện diện và tình yêu của Người cách sâu sắc thế nào.  Tất cả những gì chúng ta phải làm là để lời Người bén rễ trong tâm hồn chúng ta.  Cuộc sống đầy dẫy những câu hỏi.  Thật tốt biết bao để biết rằng chúng ta có thể nhận ra những câu trả lời khi chúng ta cầu xin Chúa Giêsu, Ngôi Lời trọn vẹn và hoàn hảo của Thiên, nói với chúng ta!

Chuyển ngữ: Sr. Maria Trần Thị Ngọc Hương
Theo The Word Among Us

TẠI SAO THÁNH MATTHÊU CÓ HAI TÊN TRONG KINH THÁNH?

Người thu thuế nổi tiếng, Matthêu, trở thành tông đồ có thể đã được đổi tên sau khi gặp Chúa Giêsu Kitô.

Thay đổi cái tên rất có ý nghĩa trong Kinh thánh vì chúng thường báo hiệu một sứ mạng mới từ Thiên Chúa.  Ví dụ Ápram trở thành Ápraham và Simon được đổi tên thành Phêrô.

Một nhân vật khác trong Kinh thánh mà nhiều học giả tin rằng đã được đổi tên thành tông đồ Matthêu.  Trong Phúc âm Matthêu, người thu thuế được Chúa Giêsu Kitô kêu gọi trở thành môn đệ được đặt tên là “Matthêu” (Mt 9, 9).

Tuy nhiên, trong Tin Mừng Marcô, người thu thuế đó lại có tên là “Lêvi” (Mc 2,14).

Một số học giả tin rằng người thu thuế đó có hai tên, một tên bằng tiếng Hy Lạp (Matthêu) và tên kia bằng tiếng Do Thái (Lêvi).  Điều này rất có thể xảy ra, vì các học giả chỉ rõ Simon (Phêrô) và Saul (Phaolô) như một ví dụ điển hình, nên nó không biểu thị sự thay đổi cái tên mà là hai cái tên tồn tại trong hai ngôn ngữ khác nhau.

Tuy nhiên một số học giả khác tin rằng điều này có thể ám chỉ đến sự thay đổi tên.  Từ điển Công giáo có giải thích: “Có thể Matthêu, ‘món quà của Giavê’, là tên được Chúa Giêsu Kitô đặt cho người thu thuế khi Ngài kêu gọi ông làm Tông đồ, và từ đó ông được nhận biết giữa các anh em Kitô hữu của mình, Lêvi là tên ban đầu của Matthêu.”

Trong thực tế, cả hai thuyết này đều có thể xảy ra.  Điều chắc chắn là sau khi ông rời bỏ công việc thu thuế của mình, ông mãi mãi được cộng đồng Kitô giáo đầu tiên gọi là “Matthêu.”

Dù thế nào đi nữa, cả hai cái tên đều có khả năng truyền cảm hứng cho những suy ngẫm mang tính biểu tượng, như có thể thấy trong đoạn văn sau đây từ sách Kim Sử, một văn bản phổ biến thời Trung cổ, nó cho chúng ta biết về ý nghĩa cái tên của các vị thánh.

Matthêu có hai cái tên, Matthêu và Lêvi.  Matthêu (Matthêô) được hiểu là món quà vội vàng, hoặc là người khuyên dạy.  Hoặc tên xuất phát từ magnus – vĩ đại, và theos – Chúa, gọi là vĩ đại đối với Chúa; hoặc từ mamis – bàn tay, và theos, gọi là bàn tay của Chúa.  Thánh Matthêu là một món quà vội vã nhờ sự hoán cải nhanh chóng của ngài, là người đưa ra lời khuyên qua lời rao giảng cứu rỗi của ngài, vĩ đại đối với Thiên Chúa nhờ sự hoàn hảo của cuộc đời ngài và là bàn tay của Thiên Chúa qua việc viết phúc âm của ngài.  Tên Lêvi được hiểu như là được đưa lên, gắn vào, thêm vào, đặt vào.  Vị thánh được kéo ra khỏi công việc thu thuế, được gia nhập cộng đoàn các tông đồ, được thêm vào nhóm các nhà truyền giáo, và được xếp vào danh mục các vị tử đạo.

Trước đây ngài có thể được biết đến với cái tên “Lêvi,” nhưng kể từ khi gặp Chúa Giêsu Kitô, thế giới đã biết đến ngài với cái tên “Matthêu.”

Philip Kosloski
G. Võ Tá Hoàng chuyển ngữ – Nguồn: https://aleteia.org/

KẺ THÙ LỚN NHẤT

Khi nhận định về đời người, một tác giả đã viết: “Thông thường, chúng ta dành nửa đầu cuộc đời để đấu tranh để vượt qua người khác, và nửa đời còn lại để đấu tranh vượt qua chính bản thân mình.”  Xem ra nhận định này khá chính xác đối với đa số chúng ta.  Ở một tuổi nào đó, chúng ta không còn tham vọng chiến đấu để chạy đua với người khác, mà đối diện với chính bản thân.  Khi nhận định một cách công tâm và trung thực, chúng ta nhận ra, đối thủ lớn nhất chính là bản thân mình.  Đối thủ ấy luôn thường trực trong chính chúng ta.  Đó là sự cố chấp, ích kỷ, bao biện, hiếu thắng và đam mê.  Những nết xấu này, nếu không được kiểm soát, sẽ gây nhiều hậu quả tai hại, phá vỡ mối tương quan với người khác.  Một chiến sĩ trẻ sẵn sàng xông pha nơi chiến trường, gắn bó yêu thương như ruột thịt với đồng đội; khi lớn tuổi về hưu, cũng con người ấy lại không vượt qua được những tranh chấp và quyền lợi nhỏ nhoi, để rơi vào cảnh huynh đệ tương tàn.  Kẻ thù lớn nhất, chính là bản thân chúng ta.  Ki-tô hữu được mời gọi hãy nhận ra điều ấy, để biết mình, biết người, hầu uốn nắn cuộc đời mình nên giống Đức Giê-su.  Người đến trần gian để hiến mạng sống phục vụ con người.  Trên thập giá, Người đã trở nên người nghèo nhất trong số những người nghèo ở thế gian.

Sự ghen tương ích kỷ là nguyên nhân của những xung đột, bạo lực, chia rẽ và cãi vã.  Thánh Gia-cô-bê đã lập luận một cách dễ hiểu.  Ngài cho biết, để có một cuộc sống tương thân tương ái, trước hết phải làm chủ cái tôi trong chính con người của mình (Bài đọc II).  Vị tông đồ cũng viết trong phần kế tiếp: “Anh em đừng nói xấu nhau.  Ai nói xấu hoặc xét đoán anh em mình là nói xấu và xét đoán Lề Luật. Nếu anh xét đoán Lề Luật, thì anh không còn là kẻ vâng giữ, mà là kẻ xét đoán Lề Luật.  Chỉ có một Đấng ra Lề Luật và xét xử, đó là Đấng có quyền cứu thoát và tiêu diệt.  Còn anh là ai mà dám xét đoán người thân cận?” (Gc 4,11-12).  Quả thật, ngày nay người ta thích đưa ra kết luận như sau: “mọi tội lỗi đều từ bởi miệng mà ra; mọi bệnh tật lại từ miệng mà vào.

Thanh luyện tâm hồn để sống khiêm tốn và sống vì người khác, đó là thông điệp chính mà Lời Chúa muốn nhắn nhủ với chúng ta trong Chúa nhật này.  Thánh Mác-cô làm chúng ta ngỡ ngàng, khi thuật lại cuộc cãi vã tranh giành của các môn đệ, và cuộc cãi vã này xảy ra ngay khi Chúa vừa nói với các ông về cuộc khổ nạn của Người.  Sự việc đã bị Chúa Giê-su bắt “quả tang” và nhân dịp này Người đã cho các ông một bài giáo huấn, trong đó Người nêu nguyên tắc bất di bất dịch cho tất cả những ai muốn làm môn đệ Người: Muốn làm lớn, thì phải phục vụ; Hãy có tâm hồn đơn sơ như trẻ em.  Chúa Giê-su không nói suông, mà chính Người làm gương cụ thể cho chúng ta, như tác giả Mác-cô ghi lại lời tuyên bố của Người: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mc 10,45).

Muốn chiến thắng bản thân, phải nhận diện và gọi tên những nết xấu thường trực trong con người mình.  Vì trong lòng chất chứa những dục vọng và ý đồ ghen tỵ, nên người ta muốn làm hại người khác.  Tác giả sách Khôn Ngoan đã gọi đó là “Phường vô đạo” (Bài đọc I).  Dường như những người này cũng tin vào Thiên Chúa, nhưng ghen tương đố kỵ đã làm cho lòng họ trở nên chai đá.  Họ thù ghét những người tốt bụng và lập mưu để triệt hạ những người công chính.

Đối diện với sự dữ, người tin vào Chúa luôn không hoảng loạn và nhất là không lấy ác báo ác.  Người công chính tin vào đức công minh của Thiên Chúa.  Tác giả Thánh vịnh đã diễn tả niềm xác tín cậy trông của người tín hữu, khi gặp gian nan hoạn nạn và khi bị người đời khinh ghét.  Ai tin vào Chúa, chắc chắn sẽ không phải thất vọng, vì Người là Đấng trung thành.

Trong khi con người luôn quy hướng về bản thân, thì Chúa Giê-su lại hướng chúng ta đến với người khác.  Khi phục vụ, chúng ta tìm được niềm vui.  Khi sống khiêm nhường, chúng ta nên giống Chúa Giê-su, Đấng hiền lành và khiêm nhường trong lòng.  Đích điểm của đời sống Ki-tô hữu là cố gắng mỗi ngày để giảm thiểu những đam mê, bớt đi những ích kỷ.  Lúc đó, kẻ thù lớn nhất nơi chúng ta sẽ bị tiêu diệt, và chúng ta có thể nói như thánh Phao-lô: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi” (Gl 2,20).

TGM Giu-se Vũ Văn Thiên

CHÚA KHÔNG PHÁN XÉT AI

Có một câu hỏi lâu đời về lòng nhân lành của Chúa, nó lâu đời cũng như tôn giáo chúng ta: Làm sao một Thiên Chúa toàn thiện lại có thể đày người nào đó xuống hỏa ngục muôn đời?  Làm sao Thiên Chúa đầy yêu thương và độ lượng mà lại có hình phạt đời đời?

Đó là một câu hỏi sai.  Thiên Chúa không đày bất cứ ai xuống hỏa ngục và Thiên Chúa cũng không tạo ra hình phạt đời đời.  Thiên Chúa ban cho chúng ta sự sống và lựa chọn thuộc về chúng ta để đón nhận hay từ chối nó.

Đức Giê-su nói cho chúng ta biết Thiên Chúa không phán xét bất cứ ai.  Chỉ có chúng ta mới phán xét nhau.  Thiên Chúa không tạo ra hỏa ngục và  cũng không đày ai xuống hỏa ngục.  Tuy nhiên nói vậy không có nghĩa hỏa ngục không tồn tại và nó không phải là một khả thể cho chúng ta.  Điều cốt yếu là cách Đức Giê-su giải thích chuyện này ở đây:

Thiên Chúa ban sự sống của Ngài cho thế gian và chúng ta có thể chọn lựa sự sống này hoặc từ chối nó.  Chúng ta tự phán xét mình trong hành động chọn lựa đó.  Nếu chọn sự sống, thì cuối cùng chúng ta sẽ chọn thiên đàng.  Nếu từ chối sự sống, thì chúng ta chết mà vẫn ở bên ngoài sự sống và cuối cùng đó là hỏa ngục.  Nhưng sự lựa chọn thuộc về chúng ta, Thiên Chúa không đày chúng ta đi đâu cả.  Hơn thế, hỏa ngục không phải là một hình phạt tích cực Thiên Chúa tạo ra để bắt chúng ta phải chịu.  Hỏa ngục là sự vắng mặt của một điều gì đó, ấy là, sống trong lòng sự sống dành sẵn cho chúng ta.

Nói lên tất cả điều này không phải là để nói không có hỏa ngục, hoặc hỏa ngục không phải là một khả thể có thật cho mọi người.  Hỏa ngục là có thật, nhưng nó không phải là một hình phạt tích cực Chúa tạo ra để thực thi công lý, trừng trị cái ác hay trừng phạt người cứng lòng không biết ăn năn khi phạm lỗi.  Hỏa ngục là sự vắng mặt của sự sống, tình yêu, sự tha thứ, cộng đoàn, và Chúa không đày bất cứ ai vào đó cả.  Chúng ta có thể kết thúc ở đó, bên ngoài tình yêu và cộng đoàn, nhưng đó là sự lựa chọn của chúng ta nếu chúng ta, một cách đáng trách, đã từ chối nó khi tất cả đều dành sẵn cho chúng ta ngay trong cuộc đời này.  Hỏa ngục, như John Shea từng nói, không bao giờ là một sự bất ngờ phục chờ ai đó đang hạnh phúc, nó là biểu hiện rõ ràng nhất của một cuộc đời từ chối tình yêu, sự tha thứ, và cộng đoàn.

Triết gia Jean Paul Sartre từng phát biểu câu nói nổi tiếng, hỏa ngục chính là người khác.  Nói ngược lại cũng đúng.  Hỏa ngục là những gì chúng ta trải qua khi đặt bản thân mình lên trên đời sống cộng đoàn với người khác.  Đời sống con người có nghĩa là chia sẻ đời sống, chia sẻ sự hiện hữu, góp phần của mình vào trong đời sống cộng đoàn, đời sống bao gồm Ba Ngôi Một Thể.

Kinh Thánh nói, Thiên Chúa là tình yêu, và ai ở lại trong tình yêu, thì người ấy ở lại trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa cũng ở lại trong họ.  Trong bối cảnh này, không nên hiểu tình yêu như kiểu tình yêu lãng mạn.  Bản văn không nói ai rơi vào lưới tình thì đều ở lại trong Thiên Chúa (dù điều này cũng có thể đúng).  Thật sự, bản văn này có thể được nói như sau: Thiên Chúa là hiện thân của sự chia sẻ, và ai chia sẻ đời sống mình với người khác, người ấy sống trong sự sống của Thiên Chúa.

Nhưng ngược lại cũng đúng.  Khi chúng ta không chia sẻ đời sống mình với người khác, chúng ta kết thúc đời sống mình ở bên ngoài sự sống.  Đó, thật sự, chính là hỏa ngục.

Hỏa ngục là gì?  Các hình ảnh trong Kinh Thánh nói về hỏa ngục không cố định và liên tục thay đổi.  Chung chung có khuynh hướng hình dung hỏa ngục là lửa, lò lửa cháy không bao giờ tắt, nhưng đó chỉ là một hình ảnh, và nó không nhất thiết là hình ảnh nổi trội trong Kinh Thánh.  Trong các điều được nói đến, Kinh Thánh nói về hỏa ngục như là nơi gánh chịu cơn phẫn nộ của Thiên Chúa, như ở ngoài tiệc cưới và lễ hội, nơi tang tóc, khóc lóc và nghiến răng, nơi giống như thung lũng Gehenna (chứa rác bên ngoài thành Giêrusalem), nơi bị giòi bọ rúc rỉa, như là lửa, như hụt buổi dạ tiệc, như ở bên ngoài nước trời, như sống với quả tim đau đớn bị bóp méo, như đang hụt sự sống.  Cuối cùng, tất cả những hình ảnh này đều nhắm đến một điểm chung: Hỏa ngục là nỗi đau và cay đắng, thứ lửa, chúng ta phải chịu khi, một cách đáng trách, chúng ta đã đặt bản thân mình ra ngoài đời sống cộng đoàn.  Và luôn luôn là tự mình gây ra.  Thiên Chúa không bao giờ áp đặt nó trên chúng ta cả.  Thiên Chúa không ban sự chết chóc và đày ai xuống hỏa ngục.

Khi Đức Giê-su nói về Thiên Chúa, Người không bao giờ nói Thiên Chúa ban cả sự sống và sự chết, Người chỉ nói Thiên Chúa ban sự sống mà thôi.  Sự chết có nhiều nguyên nhân, từ việc nói dối, hợp lý hóa, cay chua gắt gỏng, cứng lòng, và hỏa ngục.  Khi nói Thiên Chúa không tạo ra hỏa ngục và đày bất cứ ai vào đó thì không có ý phủ nhận sự tồn tại của cái ác, tội lỗi và nguy cơ của hình phạt đời đời, điều này chỉ nhằm xác định các căn nguyên và làm rõ đó là ai, ai hay phán xét, ai hay kết án.  Thiên Chúa thì không; Ngài không tạo ra hỏa ngục cũng không đày ai vào đó cả.  Chúng ta thì làm cả hai.

Như Đức Giê-su nói trong Phúc Âm thánh Gio-an: “Thiên Chúa không sai Con của Ngài giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con Ngài mà được cứu độ.  Ai tin vào Người Con thì người đó không bị luận phạt; ai không tin thì đã bị luận phạt rồi, vì không tin vào danh Con Một Thiên Chúa.  Và đây là án phạt, sự sáng đã đến với thế gian, và người đời đã yêu sự tối tăm hơn sự sáng… Ta không phán xét ai cả.”

Người không cần phán xét.

Rev. Ron Rolheiser, OMI

HỌC YÊU THÁNH GIÁ

Tình cờ tôi nghe bài hát “học yêu Thánh Giá”, từ web: mp3.zing.vn/bai-hat/Hoc-yeu-Thanh-Gia.

Lời ca ngắn gọn mà sâu sắc, giai điệu nhẹ nhàng cho tôi cảm nhận sâu lắng về tình yêu Thánh Giá Chúa Giêsu.

Thánh Giá là chữ T.
Người nằm giang tay chữ Y.
Là tình yêu, yêu đến tận cùng.
Yêu nhân gian chiều ngang.
Yêu đời mình chiều sâu.
Yêu Chúa là chiều cao.
Để tình yêu luôn mãi nhiệm mầu.

Thập giá là chữ T được tạo nên do hai thanh gỗ.  Thanh nằm tượng trưng cho sự chết và sự yếu đuối trải rộng.  Thanh đứng tượng trưng cho sự sống vươn cao.  Ý muốn của con người là thanh nằm.  Ý muốn của Thiên Chúa là thanh đứng.  Trên thập giá, Chúa Kitô chịu đóng đinh dang tay thành chữ Y.  Tình yêu là điểm giao thoa giữa thanh nằm của sự chết và thanh đứng của sự sống.  Cả ba chiều kích ngang, sâu, cao của thập giá đều quy tụ nơi tình yêu của Đấng chịu đóng đinh.  Chúa Kitô đã đón nhận cái chết trên thập giá vì yêu thương nhân loại.

Trong Tin Mừng Gioan, Chúa Giêsu coi cái chết của mình như là một sự tôn vinh.  Tôn vinh Tình Yêu của Chúa Cha, một Tình Yêu vô bờ bến, một Tình Yêu mãnh liệt đến nỗi Chúa Cha “đã ban Con Một cho thế gian, để những ai tin vào Người Con thì khỏi phải chết, nhưng được sống đời đời” (Ga 3,16).  Đồng thời cũng là tôn vinh Tình Yêu của Chúa Giêsu, một Tình Yêu đã hy sinh mạng sống vì những người mình yêu, là một hy lễ dâng lên Chúa Cha, cũng là sự tự hiến cho loài người trở nên lương thực nuôi sống chúng ta.

Thánh Phaolô nhấn mạnh sự tương phản chưa từng thấy trong mầu nhiệm Thập giá.  Sự hạ mình sâu thẳm của Đức Giêsu Kitô “Đấng vốn dĩ là Thiên Chúa, đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, lại còn hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự.  Chính vì thế Thiên Chúa đã siêu tôn Người, tặng ban Danh hiệu vượt trên mọi Danh hiệu.  Và khi nghe Danh Thánh Chúa Giêsu, mọi gối phải bái quỳ để tôn vinh Chúa Cha và tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa” ( Pl 2,6-11).

Theo cái nhìn của Phaolô cũng như của Gioan, Chúa Giêsu chịu đóng đinh cũng chính là Chúa Giêsu được tôn vinh.  Đó là sự tôn vinh Tình Yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa, và Tình Yêu ấy đã biểu lộ rõ ràng nhất nơi Thập giá Chúa Kitô.  Không nơi nào Tình Yêu của Thiên Chúa được biểu lộ trọn vẹn như nơi “con người Chúa Giêsu chịu đóng đinh.”

Ca nhập lễ ngày lễ Suy Tôn Thánh Giá đã mượn lời của Thánh Phaolô trong thư Galat 6,14 để hân hoan hát lên: “Niềm vinh dự của chúng ta chính là Thập Giá Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.  Nhờ Người, chúng ta được cứu độ, được sống và được phục sinh; chính Người cứu độ và giải thoát chúng ta.”

Kinh Tiền Tụng đã chú giải: “Thật vậy, xưa vì cây trái cấm, loài người chúng con phải tử vong, nay nhờ cây thập giá lại được sống muôn đời; và ma quỷ xưa chiến thắng nhờ cây trái cấm nay thảm bại vì cây thập giá của Đức Kitô, Chúa chúng con.”

Thánh Bonaventura viết: “Thánh Giá là cây toàn hảo, được thánh hóa bởi Máu Chúa Kitô, mang đầy trái thơm ngon.  Cây Thánh giá còn được phong phú hóa như là một loài cây quý hiếm và tươi thắm diễm lệ, hoa trái tràn đầy trong lời kinh ‘A Rất Thánh Giá’: “Khen cây thánh giá ở giữa rừng phàm, nên giống báu lành, nên cây sang trọng, nên đơn linh nghiệm, nên tàu vượt qua biển hiểm thế nầy….  Cây thánh giá tốt lành rất mực dìm dà êm mát, bóng che thiên hạ khỏi chốn hỏa hình.  Cội rễ, nhành lá, búp bông, hoa quả.  Từ xưa đến nay, cây nào dám ví bằng cây thánh giá, từ cây thánh giá chở mình Chúa Cả đóng đinh trên cây thánh giá”.

Tại bãi biển Copacabana tối thứ sáu 26-7-2013 đi Đàng Thánh Giá, Đức Thánh Cha Phanxicô diễn giảng Thập giá là: “Một tình yêu tuyệt vời khi đi vào tội lỗi của chúng ta và tha thứ cho nó, đi vào đau khổ của chúng ta và cho chúng ta sức mạnh để chịu đựng.  Đó là một tình yêu đi vào cái chết để chiến thắng nó và cứu vớt chúng ta.  Thập giá của Chúa Kitô chất chứa tất cả tình yêu của Thiên Chúa, lòng thương xót vô biên của Ngài.  Đây là một tình yêu mà chúng ta có thể đặt vào đó tất cả niềm tin của chúng ta, nơi chúng ta có thể tin tưởng.  Các bạn trẻ thân mến, chúng ta hãy phó thác cho Chúa Giêsu, chúng ta hãy phó thác vào Người một cách trọn vẹn!  (x. Ánh Sáng Đức Tin, 16).  Chỉ trong Chúa Kitô chịu đóng đinh và phục sinh, chúng ta mới có thể tìm thấy phần rỗi và ơn cứu độ.  Với Ngài, sự dữ sự đau khổ và cái chết không còn quyền thế, bởi vì Ngài cho chúng ta hy vọng và sự sống: Ngài đã biến Thập giá từ một công cụ của sự thù ghét, sự thất bại và sự chết thành một dấu chứng của tình yêu, sự khải hoàn và sự sống”.

Đức Thánh Cha nhắc lại sự kiện vào cuối Năm Thánh Cứu Độ 1984, Đức Chân Phước Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II đã muốn tín thác Thập Giá Chúa cho người trẻ và ngài nói: “Các con hãy đem Thánh Giá vào trong thế giới như dấu chỉ tình yêu thương của Chúa Giêsu đối với nhân loại, và loan báo cho tất cả mọi người rằng chỉ nơi Chúa Kitô chết và phục sinh, mới có sự cứu rỗi và ơn cứu độ” (Diễn văn với giới trẻ, 22 tháng 4 năm 1984).  Kể từ đó, Thập Giá đã rong ruổi qua mọi đại lục, và đi qua các thế giới khác nhau nhất của cuộc sống con người, hầu như được thấm nhập bởi các tình trạng sống của biết bao nhiêu người trẻ đã trông thấy và đã mang Thập Giá đó.  Không có ai đụng tới Thập Giá Chúa Giêsu mà không để lại một cái gì đó của chính mình, và không đem một cái gì đó của Thập Giá Chúa Giêsu vào trong cuộc sống của mình.

Thánh Giá là sự khôn ngoan và quyền năng của Thiên Chúa.  Bởi vì “Sự điên rồ nơi Thiên Chúa thì khôn ngoan hơn loài người, và sự yếu đuối nơi Thiên Chúa thì mạnh sức hơn loài người” (1Cr 1, 24 -25).  Thánh Giá đã trở thành dấu chỉ của tình yêu hy vọng và sự sống.  Thánh Giá là biểu tượng của Tình Yêu cứu độ.  Thánh giá là niềm tự hào và vinh quang của người tín hữu.  Thánh Phaolô có một ước muốn: “Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá Đức Giêsu Kitô” (Gl 6,14).

Chúa Giêsu chết trên thập giá, muốn minh chứng rằng Người yêu thế gian hơn yêu chính mình.  Nơi thập giá, Chúa Giêsu chứng tỏ tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta là một tình yêu ở dạng thức cao nhất:  Tình Yêu đến mức tận cùng, một Tình Yêu tự hiến trọn vẹn của Thiên Chúa.  Yêu là hiến tế, là hy sinh chính mình.  Hiến dâng chính mình vì thiện ích của kẻ khác.  Chúa Giêsu hiến dâng chính mình trên thập giá như là sự đền bù vì ơn cứu độ nhân loại.

Thánh Giá đã in sâu và gắn chặt với Chúa Giêsu Kitô.  Ngay cả sau khi Chúa sống lại vinh quang, các vết thương khổ nạn thập giá vẫn hiển hiện, vẫn không bị xóa nhòa.  Thánh Giá Chúa Kitô xuyên qua thời gian và hiện diện trong mỗi giây phút cuộc đời chúng ta.  Sự hiện diện ấy làm thay đổi tất cả.

Chúng ta yêu mến, tôn thờ Chúa Giêsu trên Thánh Giá.  Trong xã hội tiêu thụ và hưởng thụ ngày nay, bóng tối của quyền lực, tiền của, danh vọng, lạc thú đang che mờ bóng thánh giá.  Con người đang lao mình vào bóng tối bằng mọi giá.  Xã hội hôm nay cần phải được ánh sáng của Thánh Giá soi dẫn.  Từ Thánh Giá Đức Kitô, tình thương chúc phúc thế gian, sự sống chan chứa cho lòng người.  Suy tôn Thánh Giá chính là suy tôn tình yêu, sự sống của Chúa Kitô.

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

ANH EM BẢO THẦY LÀ AI?

“Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”

Đức Giêsu đặt câu hỏi trên cho các môn đệ sau khi họ đã ở với Ngài và được Ngài sai đi (x. Mc 3,14), sau khi họ đã thấy việc Ngài làm, nghe lời Ngài giảng.

Hôm nay Đức Giêsu cũng đặt câu hỏi này cho tôi sau khi tôi đã theo đạo một thời gian dài, đã cầu nguyện và tham dự các bí tích…

“Còn anh, anh bảo Thầy là ai?”

Câu hỏi này nhắm thẳng vào tôi, đòi tôi phải trả lời.  Tôi không được trả lời qua loa hay máy móc.

Câu trả lời của tôi phải bắt nguồn từ một kinh nghiệm, kinh nghiệm gặp gỡ và quen biết Đức Giêsu.  Chẳng nên theo một người mà mình không quen và tin tưởng.

Đời tín hữu là một hành trình tìm kiếm không ngừng để khám phá ra khuôn mặt luôn mới mẻ của Đức Giêsu.

Ngài thật là một mầu nhiệm khôn dò và quá phong phú.  Chúng ta chỉ mon men đến gần, nhưng không sao múc cạn được mầu nhiệm ấy.  Phải thanh lọc những hình ảnh ta vốn có về Ngài.

Người làng Na-da-rét cứ nghĩ Đức Giêsu chỉ là bác thợ.  Gioan Tẩy Giả nghĩ Ngài là một Mê-si-a vinh quang toàn thắng.

Phải gột bỏ cái biết cũ về Ngài để đón nhận một Đức Kitô khác, vượt xa điều mình nghĩ.

“Tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa.”

Cần trở nên trẻ thơ để nhận ra khuôn mặt thật của Giêsu.

Hôm nay, chúng ta dễ dàng trả lời như Phêrô: “Thầy là Đức Kitô,” và hơn Phêrô: “Thầy là Ngôi Lời nhập thể, là Con Thiên Chúa.”  Nhưng vấn đề không phải chỉ là trả lời đúng câu hỏi mà còn là sống tận căn thân phận của Thầy.

Ngay sau khi loan báo con đường khổ nạn mình sắp đi, Đức Giêsu loan báo con đường dành cho người môn đệ.  Môn đệ chỉ có một con đường, con đường của Thầy.

Thầy đã sống phận người với tất cả bấp bênh tăm tối, tôi có dám sống phận người của tôi trong niềm vui không?

Thầy đã chịu chết vì làm chứng cho sự thật, tôi có dám hiến mạng tôi vì Thầy và vì Tin Mừng không?

Thầy đã vượt qua đau khổ để vào vinh quang bất diệt, tôi có dám chọn con đường khiêm hạ và nghèo khó không?

“Người ta bảo Thầy là ai?”
Ta cần biết cái nhìn của con người hôm nay về Đức Giêsu.
Nhiều cái nhìn đúng nhưng chưa đủ.
Truyền giáo là giúp người ta biết đúng và đủ về Ngài.  Không phải là cái biết lý thuyết trong sách vở, nhưng là cái biết thân tình của người môn đệ.

Cuộc sống của ta vén mở căn tính của Đức Giêsu.
Dung mạo của ta phải mang nét đặc trưng của Ngài.
Đức Giêsu đã nói: “Ai thấy Thầy là thấy Cha” (Ga 14,9).
Chúng ta ao ước nói: “Ai thấy tôi là thấy Đức Giêsu.”

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa,
Chúa đã làm người như chúng con, nên Chúa hiểu gánh nặng của phận người.
Cuộc đời đầy cạm bẫy mời mọc mà con người lại yếu đuối mong manh.
Hạnh phúc thường được trộn bằng nước mắt, và giữa ánh sáng, cũng có những bóng mờ đe dọa.

Lạy Chúa Giêsu,

Nếu có lúc con mệt mỏi và xao xuyến, xin nhắc con nhớ rằng trong Vườn Dầu Chúa đã buồn muốn chết được.
Nếu có lúc con thấy bóng tối bủa vây, xin nhắc con nhớ rằng trên thập giá Chúa đã thốt lên: Sao Cha bỏ con?
Xin nâng đỡ con, để con đừng bỏ cuộc.
Xin đồng hành với con, để con không cô đơn.
Xin cho con yêu đời luôn dù đời chẳng luôn đáng yêu.
Xin cho con can đảm đối diện với những thách đố vì biết rằng cuối cùng chiến thắng thuộc về người có niềm hy vọng lớn hơn. Amen.

Trích trong ‘Manna’

PHƯƠNG THẾ DUY NHẤT

“Chúa Giêsu lên núi cầu nguyện, và Người đã thức suốt đêm cầu nguyện cùng Thiên Chúa.  Đến sáng, Người kêu các môn đệ lại, chọn lấy mười hai ông và gọi là Tông Đồ.”

“Ai không lên núi của Thiên Chúa vào buổi sáng, sẽ hiếm khi tìm thấy Ngài dưới đồng bằng suốt thời gian còn lại!” – John Bunyan.

Kính thưa Anh Chị em,

Ý tưởng của Bunyan được gặp lại trong Tin Mừng hôm nay.  Chúa Giêsu lên núi cầu nguyện không chỉ buổi sáng, nhưng cả buổi tối và suốt đêm; sáng ngày, Ngài chọn các tông đồ.  Dường như với Ngài, cầu nguyện là ‘phương thế duy nhất’ khi phải chọn lựa!

Hơn các thánh sử khác, Luca miêu tả tính cách của Chúa Giêsu là một con người cầu nguyện!  Nhìn Ngài, xem ra không ai tất bật với việc rao giảng, chữa lành và thực hành xót thương như Ngài.  Nhưng dẫu bận rộn đến đâu, mỗi ngày, Ngài cũng dành cho mình những giờ phút “lên núi của Thiên Chúa” như một ưu tiên hàng đầu, “Từ sáng sớm khi trời còn tối mịt, Người ra đi đến một nơi hoang vắng và cầu nguyện tại đó;” hoặc trước một biến cố quan trọng, Ngài cầu nguyện suốt đêm.  Với Ngài, cầu nguyện là ‘phương thế duy nhất.’  Chọn lựa càng quan trọng, cầu nguyện càng khẩn thiết và lâu giờ hơn!

Giữa một thế giới dành giật, chúng ta bị cuốn vào cơn lốc của công việc, kể cả việc học hành hoặc ngay cả việc dấn thân phục vụ tha nhân trong các lãnh vực, thì chưa bao giờ chúng ta cảm thấy mình ngày càng có ít quỹ thời gian như ngày nay.  Đức Phanxicô cảnh báo, “Hãy cầu nguyện để khỏi mất đức tin.  Ai không cầu nguyện là rời xa đức tin, biến đức tin thành một ý thức hệ chỉ mang tính luân lý; ở đó, không có Chúa Giêsu!”; ngài nói, “Việc cầu nguyện không thể chỉ gói gọn trong một tiếng đồng hồ ngày Chúa Nhật; nhưng mỗi người cần sống mối tương quan thâm tình hằng ngày với Chúa Giêsu; nhờ đó, chúng ta mới có khả năng phân định và chọn lựa giữa bao điều phải chọn lựa!”

Bên cạnh đó, một yếu tố cực kỳ quan trọng khác là, đừng bao giờ quên rằng, điều nâng đỡ chúng ta nhất, chính là lời cầu nguyện của Chúa Giêsu dành cho mỗi người.  Ngài xướng cả tên lẫn họ của mỗi người trước Chúa Cha, Ngài tỏ cho Chúa Cha thấy những thương tích của từng người là giá cứu rỗi Ngài sẽ trả.  Vì thế, cả khi lời cầu nguyện của bạn và tôi chỉ lắp bắp – ảnh hưởng bởi một đức tin dao động – và nó chưa là ‘phương thế duy nhất’ của những chọn lựa, bạn vẫn không bao giờ được ngừng tin tưởng vào Ngài.  Tôi không biết cầu nguyện thế nào nhưng Chúa Giêsu đang cầu nguyện cho tôi!

Anh Chị em,

“Người đã thức suốt đêm cầu nguyện cùng Thiên Chúa.”  Đức Phanxicô nói, “Được hỗ trợ bởi lời cầu nguyện của Chúa Giêsu, lời cầu nguyện nhút nhát của chúng ta đậu trên đôi cánh đại bàng của Ngài và bay lên tận trời.  Ngài đang cầu nguyện cho tôi!”  Cũng thế, Mẹ Giáo Hội đang liên lỉ cầu nguyện cho tôi.  Mỗi ngày Giáo Hội không ngừng “lên núi của Thiên Chúa” – các bàn thờ – cùng Chúa Giêsu dâng lên Chúa Cha lời cầu và tạ ơn.  Giáo Hội cầu nguyện với Chúa Giêsu, cùng Chúa Giêsu; và tuyệt vời nhất, Giáo Hội và con cái của Giáo Hội được Chúa Giêsu cầu nguyện cho trước nhan Cha Trên Trời!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, ‘phương thế duy nhất’ để con có thể chọn lựa mà không hối tiếc là cầu nguyện.  Vì càng nhận lãnh trong im ắng, con càng biết cho đi trong hành động!”, Amen.

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế