TẠI SAO NGƯỜI CÔNG GIÁO PHẢI ĂN CHAY?

Chúng tôi đã trải qua một cuối tuần ướt át lê thê ở giữa rừng.  Và bây giờ, buổi sáng Chúa nhật, người lớn báo cho biết bữa sáng sẽ được hoãn lại để những người Công giáo có thể giữ chay rước Lễ.  Cậu ấy là một trong các trại viên với nét mặt không được vui lắm.

Thắc mắc của cậu ta hiện lên trong trí khi Mùa Chay lại bắt đầu, vì ăn chay là việc thực hành đặc trưng nhất của mùa này.  Trong hai ngày Mùa Chay, Thứ Tư Lễ Tro và thứ Sáu Tuần Thánh, người Công giáo hạn chế việc ăn uống để không ăn no và kiêng thịt.  Vào tất cả các ngày Thứ Sáu trong Mùa Chay họ kiêng thịt.

Tại sao người Công giáo ăn chay?  Các lý do có nền tảng chắc chắn trong Kinh Thánh không?

Khi ăn chay, ta noi theo tấm gương thánh thiện.  Môsê và Êlia đã ăn chay bốn mươi ngày trước khi đến trước nhan Thánh Chúa (Xh 34:28, 1 V 19: 8).  Bà tiên tri Anna đã ăn chay để dọn mình đón Đấng Mêsia đến (Lc 2:37).  Tất cả họ đều muốn nhìn thấy Thiên Chúa và xem việc ăn chay là một điều kiện tiên quyết cơ bản.  Chúng ta cũng muốn Chúa hiện diện, vì vậy chúng ta ăn chay.

Chúa Giêsu đã ăn chay (Mt 4: 2).  Vì Ngài không cần phải thanh tịnh, nên chắc chắn Ngài đã làm điều này cốt để làm gương cho chúng ta.  Thật vậy, Ngài cho rằng tất cả các Kitô hữu sẽ theo gương mình.  Ngài nói: “Còn khi ăn chay, anh em chớ làm bộ rầu rĩ như bọn đạo đức giả: chúng làm cho ra vẻ thiểu não, để thiên hạ thấy là chúng ăn chay” (Mt 6:16).  Lưu ý Ngài đã không nói “NẾU anh em ăn chay”, nhưng “khi.”

Và KHI bây giờ, vào Mùa Chay, Giáo Hội mở rộng ý tưởng của việc ăn chay, ngoài việc nhỏ bỏ qua các bữa ăn đến một chương trình vươn xa hơn là tự bỏ chính mình.  Chúa Giêsu nói: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” (Lc 9:23).  Vì vậy, ta “bỏ” điều gì đó mà ta thường ưa thích: kẹo, nước ngọt, một chương trình truyền hình yêu thích hoặc ngủ nướng thêm.

Ăn chay có lợi cho sức khỏe, nhưng không giống như ăn kiêng.  Ăn chay là điều gì đó thiêng liêng và tích cực hơn nhiều.  Ăn chay là một bữa tiệc thiêng liêng.  Chay tịnh cần cho linh hồn giống như thể xác cần có của ăn.

Kinh Thánh giải thích rõ ràng những lợi ích tinh thần cụ thể của việc ăn chay.  Chay tịnh mang lại sự khiêm nhường (Tv 69:10).  Chay tịnh tỏ lộ sự đau buồn vì tội lỗi của ta (1 Sm 7: 6).  Chay tịnh dọn đường đến với Chúa (Đn 9: 3).  Chay tịnh là phương thế để nhận biết ý Chúa (Er 8:21) và là một phương pháp cầu nguyện rất hữu hiệu (08:23).  Đó là dấu chỉ sự hoán cải đích thực (Ge 2:12).

Ăn chay giúp ta dứt bỏ những gì thuộc trần gian này.  Chúng ta ăn chay không phải vì những thứ trần tục xấu xa, nhưng chính vì chúng tốt đẹp.  Chúng là quà tặng của Thiên Chúa ban cho chúng ta.  Nhưng chúng tốt đẹp đến độ đôi khi ta thích những món quà này hơn cả Đấng đã ban cho.  Ta hóa ra đam mê lạc thú hơn là từ bỏ chính mình.  Ta thường hay ăn uống đến độ quên cả Chúa.  Những đam mê như vậy thực ra là một hình thức sung bái ngẫu tượng. Điều mà Thánh Phaolô có ý khi ngài nói, “Chúa họ thờ là cái bụng… những người chỉ nghĩ đến những sự thế gian” (Pl 3:19).

Làm sao chúng ta có thể hưởng những ân ban của Thiên Chúa mà không quên Đấng ban cho?  Ăn chay là cách bắt đầu thích hợp.  Thân xác muốn nhiều hơn nó cần, vì vậy chúng ta nên cho nó ít hơn nó muốn.

Thánh Gioan Thánh Giá nói rằng chúng ta không thể nâng tâm hồn lên với Chúa, nếu ta bị ràng buộc vào những thứ thuộc trần gian này.  Vì vậy, chúng ta bỏ những thứ thoải mái, dễ chịu và dần dần chúng ta không còn bị phụ thuộc nhiều vào chúng, không còn thấy quá cần thiết nữa.

Tất cả điều này là một phần chuẩn bị của chúng ta cho Nước Trời.  Vì dù sao ta cũng phải đi đến chỗ mất những thứ tốt đẹp ở trần gian.  Thời gian, tuổi tác, bệnh tật và “các chỉ định của bác sĩ” có thể không cho thưởng thức mùi vị của kẹo sôcôla, ly bia lạnh, và thậm chí cả những vòng tay thân mật từ người thân yêu của mình nữa.  Nếu ta không kiêng bớt các ước muốn của mình thì những mất mát này sẽ để cho ta những cay đắng và xa cách Thiên Chúa.  Nhưng nếu chúng ta theo Chúa Giêsu từ bỏ chính mình, chúng ta sẽ tìm được sự yên ủi thường xuyên hơn trong sự tốt lành tối hậu – là chính Thiên Chúa.

Làm sao mà một số người vẫn có thể thanh thản và tươi vui trong bối cảnh hết sức đau khổ và cả khi phải đối mặt với cái chết sắp xảy ra?  Điều ấy không phải chỉ là vấn đề của tính tình.  Họ đã chuẩn bị bản thân cho lúc phải bỏ những thứ của trần gian này, mỗi lần một chút.  Họ đã quen dần với sự hy sinh nhỏ bé để rồi sự hy sinh lớn không còn quá sức nữa.

Không ai nói ăn chay là dễ.  Thực vậy, Cha Thomas Acklin dòng Biển Đức, tác giả quyển The Passion of the Lamb: God’s Love Poured Out in Jesus, nói: “Ăn chay dường như là rất khó, và có vẻ như nếu không ăn tôi sẽ thành suy nhược, sẽ không làm việc được nữa, hoặc không thể cầu nguyện hay làm bất cứ điều gì khác.”

Ngài nói thêm: “Tuy nhiên, có khoảnh khắc tuyệt diệu, khi sau một ít giờ trôi qua, dạ dày của tôi không còn cồn cào và thậm chí tôi quên đi những gì mình đã bỏ qua, khi ấy có cảm giác nhẹ nhàng, tự do, sáng tỏ, thái độ và cảm nhận minh mẫn, một sự gần gũi với Chúa không thể so sánh được.”

Mùa Chay là một dịp đặc biệt, nhưng Chúa muốn bốn mươi ngày ấy có một ảnh hưởng lâu dài trong cuộc sống chúng ta.  Vì vậy, trong một nghĩa nào đó, ăn chay cần được giữ mãi.  Cha Rene Schatteman, một tuyên úy của Opus Dei ở Pittsburgh, nói rằng ngài đã tiếp thu được bài học này trực tiếp từ một vị thánh. “Tôi đã học được từ Thánh Josemaria Escriva, người mà đích thân tôi có vinh dự được biết, một người đã thực hiện các hy sinh nhỏ bé ở mỗi bữa ăn, luôn luôn như vậy, không chỉ trong Mùa Chay.”

Cha Schatteman nhấn mạnh tầm quan trọng của những điều nhỏ nhặt, và ảnh hưởng lớn mà chúng có thể mang lại: “Tất cả chúng ta nên cảm thấy cần phải giúp Chúa Kitô cứu chuộc thế giới bằng việc thực hành từ bỏ chính mình mỗi ngày, việc ăn uống bình thường… để bỏ đi một chút, hoặc một chút ít thứ chúng ta thích nhất, tránh ăn giữa các bữa, bỏ qua bữa ăn nhẹ hoặc món tráng miệng, v.v… mà không làm cho nó lớn chuyện.”

Một doanh nhân ở Pittsburgh (yêu cầu giấu tên) nói với tôi về việc thực hành ăn chay của ông vào các ngày thứ Sáu trong thời gian dài, “nhịn ăn 12 – 15 giờ, chỉ uống nước.”  Ông nói, tuy nhiên, điều này có thể khó thực hiện, không phải vì đói, nhưng vì nó có thể gây trở ngại cho cuộc sống gia đình.  “Thật khó để ngồi vào bàn ăn ở gia đình mà không ăn.  Chuyện cưỡng lại sự cám dỗ của món ăn không thành vấn đề lắm.  Tôi luôn cảm thấy như mình đang bị mất đi những giây phút gần gũi thân tình.  Việc ăn chay của tôi thực sự làm mình cảm thấy ích kỷ, như tôi đang lấy đi cái gì đó khỏi thời gian gia đình mình giữa những bữa ăn gần gũi với nhau.”

Từ khi ấy ông đã sửa đổi việc ăn chay của mình, “không thực hiện vào bữa tối của gia đình.”

Tại sao người Công giáo ăn chay?  Doanh nhân giấu tên ấy diễn tả điều này thật hay: “Nó là phương thuốc cho vấn đề lớn nhất của tôi là ích kỷ và thiếu tự chủ.  Để buộc bản thân mình kiềm chế thèm ăn, chứ không phải để thỏa mãn mong muốn của mình ngay cả chỉ trong một khoảng thời gian ngắn, đấy là cách giữ chay tốt lành.  Để dâng một chút hy sinh cho Chúa, cho gia đình mình, cho những người đang đói mà không có sự lựa chọn nào cho riêng họ, điều này tôi nghĩ cũng có ích.”

Ba dấu chỉ đặc trưng của Mùa Chay: Cầu nguyện, ăn chay và làm việc bác ái.

Jos. Lê Công Thượng (chuyển ngữ từ catholiceducation.org)

HAI KHUÔN MẶT MỘT TÌNH YÊU

Tại nước Mêhicô, người ta thường tổ chức những cuộc đấu võ rất ác liệt.  Đó là một loại võ tự do, nên các võ sĩ có thể phục sức tùy sở thích và có thể mang cả mặt nạ trong khi đấu võ.

Một linh mục tên là Gaêtanô đang làm công tác xã hội để giúp nuôi các trẻ em nghèo và mồ côi.  Để có thêm tiền cho mục đích này, cha Gaêtanô liền nghĩ đến chuyện ghi danh tham dự các trận đấu.

Với một thân mình to lớn, thông thạo võ thuật và đầy lòng dũng cảm, mỗi khi lên võ đài, cha Gaêtanô mang một chiếc mặt nạ màu vàng để che dấu tung tích của mình.  Ngài thường đấu với những đối thủ hung hãn nhất.  Tất cả tiền thưởng hoặc thù lao nhận được, cha đều dành cho quĩ cứu trợ các trẻ em nghèo và mồi côi.  Từ đó, chiếc mặt nạ vàng trở thành biểu tượng cho tấm lòng vàng của cha Gaêtanô.

Thưa anh chị em,

Hai khuôn mặt, một tình yêu: Trên võ đài cha Gaêtanô là một võ sĩ mang mặt nạ vàng, ở giữa đàn con cô nhi của cha, cha là một linh mục sống hoàn toàn cho người khác, phản ảnh tình yêu của Thiên Chúa, một tình yêu cho đi mà không tính toán, không so đo, không sợ thương tích.

Hai khuôn mặt, một tình yêu: Trên núi Tabo, khuôn mặt Chúa Giêsu bừng sáng ánh hào quang của một Thiên Chúa.  Ở giữa loài người, Con Thiên Chúa vẫn mang khuôn mặt bình thường như chúng ta.  Ba môn đệ đã quá quen với khuôn mặt Thầy Giêsu, khuôn mặt dãi dầu mưa nắng vì sứ vụ, khuôn mặt chan chứa mọi thứ tình cảm con người.  Rồi đây, ba môn đệ này còn phải làm quen với khuôn mặt khổ đau trong Vườn Cây Dầu và khuôn mặt đẫm máu trên Thập giá của Thầy Giêsu.  Biến hình chỉ là một hào quang phục sinh sắp đến.  Thân xác Chúa Giêsu sẽ được vào vinh quang viên mãn khi thân xác ấy chịu lăng nhục và đóng đinh vì yêu Cha và yêu con người đến tột cùng.

Ở bài đọc 1 hôm nay, sách Sáng thế đã cho ta thấy: Thiên Chúa đã dung tha cho Abraham khỏi sát tế Isaac, người con duy nhất của lời Hứa.  Nhưng Thiên Chúa đã không dung tha chính Con Một yêu quí của Ngài.  Như lời Thánh Phaolô: “Thiên Chúa đã không dung tha chính Con Một mình, nhưng lại phó nộp vì tất cả chúng ta, há Ngài lại chẳng ban cho chúng ta mọi sự cùng với Con của Ngài sao?  (Rm 8,32).  Nếu Thiên Chuá đã ban cho chúng ta Người Con duy nhất của Ngài thì Ngài còn tiếc gì với chúng ta nữa?  Abraham là hình ảnh của Cha trên trời, không ngại dẫn con mình đến thập giá trên núi Sọ.  Hơn nữa, hình ảnh của Isaac vác củi đi theo cha và bằng lòng để cho sát tế, cũng hướng chúng ta về cuộc Thương Khó: Chúa Giêsu vác lấy Thập giá rồi tự biến mình trên Thập giá theo ý Chúa Cha.

Trong cuộc biến hình huy hoàng rực rỡ của Chúa Giêsu trên núi Tabo, chính Chúa Cha đã xác quyết một lần nữa: “Chúa Giêsu chính là Người Con yêu quý của Thiên Chúa.”  Người con trong thực tế rực rỡ vinh quang của Thiên Chúa, nhưng đã ẩn che vinh quang đó để đi vào con đường vâng phục cho đến chết và chết trên Thập giá, để dẫn đưa nhân loại đi qua cùng một con đường Thập giá đến vinh quang phục sinh.  Cảnh tượng huy hoàng của núi Tabo hôm nay sẽ củng cố lòng tin của chúng ta khi đứng trước cảnh tượng tang thương trên Núi Golgôtha, đồng thời nhắn nhủ chúng ta phải biết tìm ra sức sống phong phú bên kia cái chết với Chúa để sống lại vinh quang với Ngài, đó là định luật căn bản của Kitô giáo.  Abraham, “người Cha của mọi kẻ có lòng tin” đã lấy chính cuộc đời mình làm sáng tỏ định luật căn bản đó.  Và cuộc biến hình trên núi Tabo cũng nhằm chứng minh định luật tất yếu chết để sống cuộc đời Chúa Kitô cũng như của chúng ta trên đường về cõi sống.

Chúng ta cũng được biến hình, được bừng sáng, nếu chúng ta dám yêu thương, dám từ bỏ cái tôi ích kỷ, để cái tôi đích thực được lộ ra, trong sáng.  Thế giới hôm nay không thấy Chúa biến hình sáng láng, nhưng họ có thể cảm nghiệm được phần nào, khi thấy các Kitô hữu có khuôn mặt vui tươi, chan chứa niềm tin, tình thương và hy vọng, như khuôn mặt mang mặt nạ vàng của Cha Gaêtanô trên võ đài, tượng trưng tấm lòng vàng của Cha đối với các em nghèo và mồ côi.

Thưa anh chị em,

Chúa Giêsu, “Người Con Một yêu quý của Cha, người đẹp lòng Cha”, đã chấp nhận tạm gác bỏ, dấu kín vinh quang Ngài vốn có từ thuở nơi Chúa Cha, để hoá thân làm người hầu cứu rỗi chúng ta, Ngài còn hy sinh đến cùng độ, hy sinh chính mạng sống mình theo ý Chúa Cha nữa.  Vì thế, Ngài đã được Chúa Cha tôn vinh trên hết mọi loài, sau khi cho Ngài được Phục Sinh từ cõi chết.

Mầu nhiệm này đã được thực hiện trọn vẹn một lần trong lịch sử, nhưng hằng ngày, đặc biệt trong thánh lễ, mầu nhiệm ấy còn được tưởng niệm, tái hiện trên bàn thờ.  Tham dự Thánh Thể, dấu hiệu và bằng chứng tình yêu của Chúa Kitô, chúng ta bày tỏ lòng yêu mến Chúa, biết ơn Chúa và cố gắng đổi mới đời sống hằng ngày của chúng ta, góp phần làm cho thế giới này biến hình đổi dạng trở nên Trời Mới Đất Mới trong ngày Chúa Giêsu Kitô trở lại trong vinh quang.

Trích trong “Niềm Vui Chia Sẻ”

BÀI HỌC TỪ TỘI CỦA PHÊRÔ VÀ GIUĐA

Trình thuật Lc 22:54-62 (≈ Mt 26:57, 69-75; Mc 14:53-54, 66-72; Ga 18:12-18, 25-27) cho biết: Họ bắt Đức Giêsu, điệu Người đến nhà vị thượng tế.  Còn ông Phê-rô thì theo xa xa.  Họ đốt lửa giữa sân và đang ngồi quây quần với nhau, thì ông Phêrô đến ngồi giữa họ.  Thấy ông ngồi bên ánh lửa, một người tớ gái nhìn ông chòng chọc và nói: “Cả bác này cũng đã ở với ông ấy đấy!”  Ông liền chối: “Tôi có biết ông ấy đâu, chị!”

Một lát sau, có người khác thấy ông, liền nói: “Cả bác nữa, bác cũng thuộc bọn chúng!”  Nhưng ông Phêrô đáp lại: “Này anh, không phải đâu!”  Chừng một giờ sau, có người khác lại quả quyết: “Đúng là bác này cũng đã ở với ông ấy, vì bác ta cũng là người Galilê.”  Nhưng ông Phêrô trả lời: “Này anh, tôi không biết anh nói gì!”  Ngay lúc ông còn đang nói, thì gà gáy.  Chúa quay lại nhìn ông, ông sực nhớ lời Chúa đã bảo ông: “Hôm nay, gà chưa kịp gáy, thì anh đã chối Thầy ba lần.”  Và ông ra ngoài, khóc lóc thảm thiết.

Có lẽ ba lần ông Simôn Phêrô chối Thầy là lúc đáng tiếc nhất trong đời ông.  Biết rõ Thầy mình là Đức Giêsu Kitô, là sư phụ, là bạn hữu, và Chúa, thế mà ông vẫn chối phăng.  Thật khiêm nhường khi Phêrô chia sẻ chuyện buồn đó với Giáo Hội sơ khai, và thật tuyệt vời vì Chúa Thánh Thần linh hứng để câu chuyện đó được ghi chép lại trong các Phúc Âm.  Ông Simôn Phêrô cho chúng ta biết rằng người sa ngã có thể đứng dậy, người lang thang có thể trở về, các tội nhân đều có thể được tha thứ, dù cho người đó phạm tội nặng thế nào cũng có thể trở nên các vị đại thánh.

Chúa Giêsu phục hồi chức vụ cho Phêrô sau khi Ngài sống lại, lúc đó có đống lửa ở bờ biển Galilê.  Như phản ánh ba lần Phêrô chối Thầy, Chúa Giêsu cũng hỏi ông ba lần: “Này anh Simôn, con ông Gioan, anh có mến Thầy không?”  Simôn Phêrô thưa: “Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy.”   Chúa Giêsu bảo ông chăm sóc chiên con và chiên mẹ.  Bí tích Hòa Giải (xưng tội) là cách gặp gỡ Chúa Giêsu khi chúng ta tuyên xưng tình yêu của mình dành cho Thiên Chúa và lãnh nhận ơn tha thứ qua thừa tác viên linh mục.

Mặc dù tội của Simôn Phêrô đã được tha nhưng vẫn không phải là không mất mát và các cơ hội bị lãng phí.  Trong khi Chúa Giêsu chịu khổ nạn, người ta thấy Ngài kiệt sức nên bắt ông Simôn người Kyrênê vác đỡ thập giá.  Nếu Simôn Phêrô không phạm tội chối Thầy đêm trước thì có lẽ ông có mặt lúc đó để giúp đỡ Thầy mình bằng cách vác thập giá mà đi với Thầy.  Thế thì tuyệt vời biết bao!  Nhưng cơ hội lại dành cho ông Simôn khác.

Tạ ơn Chúa, Thánh Phêrô đã sám hối.  Ông không thất vọng như Giuđa Iscariot.  Khi Giuđa thấy Chúa Giêsu bị kết án tử và bị dẫn đi hành hình, ông cũng rất hối hận về việc làm sai trái của mình.  Có người cho rằng lý do Giuđa bán Thầy vì muốn đối chất với các nhà lãnh đạo Israel về việc bắt Chúa Giêsu phải dùng quyền năng của Ngài và lên ngôi.  Giuđa đã trả lại 30 đồng bạc cho các thượng tế và kỳ mục rồi thú nhận: “Tôi đã phạm tội nộp người vô tội, khiến Người phải chết oan” (Mt 27:4a).  Nhưng họ thản nhiên trả lời: “Can gì đến chúng tôi.  Mặc kệ anh!” (Mt 27:4b).  Chính tay Giuđa đã ném trả số bạc đó vô Đền Thờ rồi đi thắt cổ.

Nếu như chiều Thứ Sáu Tuần Thánh, Giuđa chạy ngay lên Can-vê thì sao?  Nếu ông sụp lạy dưới chân thập giá đang treo Đức Kitô và xin Ngài tha thứ thì sao?  Chúa Giêsu đã nói gì và làm gì?  Có lẽ ai cũng biết câu trả lời, hoặc là cũng đoán được kết quả.  Chắc hẳn là Chúa Giêsu đã tha thứ cho Giuđa.

Hãy đến với Chúa Giêsu qua Bí tích Hòa Giải, không bao giờ muộn.  Tội gì cũng có thể được tha thứ, chúng ta biết rằng mọi tội lỗi hoặc trì hoãn thú tội đều kéo theo hệ lụy mất mát, và cơ hội bị bỏ lỡ.

Lm Victor Feltes
Trầm Thiên Thu (chuyển ngữ từ parishableitems.wordpress.com)

DÂNG HY SINH VÀ ĐAU KHỔ

Cuộc đời ngắn ngủi của chúng ta trên trái đất có giá trị vô hạn.  Chúng ta có cả phẩm giá cao cả và số phận vĩnh cửu.  Phẩm giá của chúng ta là gì?  Chúng ta trở nên con cái của Thiên Chúa qua Bí tích Thánh Tẩy.  Định mệnh của chúng ta là gì?  Tất cả chúng ta đều là khách lữ hành trên đường về quê hương vĩnh hằng là Thiên Đàng.

Sự đau khổ có giá trị vô cùng đối với con người trước mắt Thiên Chúa.  Tuy nhiên, nếu tách khỏi phương diện siêu nhiên thì tự bản chất đau khổ không có giá trị đích thực.  Nếu bạn thích: đau khổ làm chúng ta tốt lành hơn hoặc cay đắng hơn.

I. THIÊN THẦN NHÌN CON NGƯỜI

Trong Nhật Ký, Thánh Faustina nói rằng các thiên thần nhìn con người với “lòng ghen tỵ” thánh thiện vì hai lý do.  Thứ nhất, con người nhận được Quà Tặng tuyệt diệu là Thánh Thể – Mình, Máu, Linh Hồn và Thần Tính của Chúa Giêsu – khi rước lễ.  Các thiên thần trên Thiên Đàng không bao giờ có đặc ân phi thường đó, và cũng không thể đau khổ.  Các thiên thần hiểu rằng nếu được nhìn nhận và chấp nhận một cách đúng đắn, đau khổ có giá trị vô hạn, và có thể làm đẹp lòng Thiên Chúa nhất.  Thật vậy, Chúa Giêsu – Ngôi Lời Nhập Thể – đã chọn con đường đau khổ làm phương tiện để hoàn thành việc cứu độ thế gian.

II. SỨ ĐIỆP CỦA ĐỨC MẸ FATIMA

Đức Mẹ Fatima bảo ba em Luxia, Phanxicô, và Giaxinta cầu nguyện và dâng hy sinh để cầu cho các tội nhân.  Đức Mẹ tỏ vẻ buồn cho biết rằng nhiều linh hồn bị hư mất vì không đủ những linh hồn quảng đại cầu nguyện và hy sinh để cứu rỗi các tội nhân đáng thương.  Một tên gọi khác của sự hy sinh là sẵn sàng chấp nhận một số hình thức đau khổ.  Sứ điệp này của Đức Mẹ Fatima có thể được áp dụng cho chính chúng ta trong tình trạng cụ thể của cuộc sống và những đau khổ của chính chúng ta.  Không ai trên thế gian này có thể tránh khỏi đau khổ.

III. DÂNG ĐAU KHỔ

Ba từ ngắn gọn này tóm tắt toàn bộ sứ điệp: dâng đau khổ.  Khi Thiên Chúa, trong sự khôn ngoan vô hạn của Ngài, đến thăm bạn với dạng đau khổ nào đó, điều vô cùng quan trọng là chấp nhận những đau khổ được ban cho từ Bàn Tay yêu thương quan phòng của Thiên Chúa và dâng lên cho Ngài.  Hãy nhớ rằng, đau khổ có thể làm cho chúng ta tốt lành hơn hoặc cay đắng hơn.  Đau khổ có thể cứu linh hồn hoặc lãng phí!

Làm thế nào để giảm đau khổ?  Khi đau khổ, chúng ta hãy cố gắng kết hợp đau khổ của chúng ta với Thập Giá – với Cuộc Khổ Nạn, Cái Chết và Sự Phục Sinh của Chúa Giêsu.  Chúng ta gọi đó là Mầu Nhiệm Vượt Qua của Chúa Kitô.  Kết hiệp với Chúa Giêsu trong cuộc sống, hành động, và đặc biệt là những đau khổ của chúng ta, có giá trị vô hạn.

IV. KẾT HIỆP VỚI THÁNH LỄ

Chúa Giêsu đã chết một lần trên Thập Giá tại Canvê hơn 2000 năm trước.  Ngài không chết nữa.  Tuy nhiên, mỗi khi linh mục cử hành Thánh Lễ, tái diễn những gì đã xảy ra trên Canvê xưa.  Trong mỗi Thánh Lễ, Chúa Giêsu thực sự hiến dâng chính Ngài như một Nạn Nhân không tì vết cho Chúa Cha để cứu rỗi thế giới.  Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cho biết thêm rằng trong mọi Thánh Lễ, cũng như trên Canvê, Đức Mẹ hiện diện một cách thần bí nhưng rất thực tế.

Vì vậy, chúng ta đừng lãng phí những cơ hội ngàn vàng mà Thiên Chúa ban cho chúng ta khi chúng ta trải qua bất kỳ hình thức đau khổ nào, và bắt đầu kết hiệp đau khổ của chúng ta với đau khổ của Chúa Giêsu trên Thập Giá.  Tốt hơn hết, khi kết hiệp với Mẹ Maria, hãy đặt đau khổ của bạn vào tay Mẹ Maria và Trái Tim Vô Nhiễm của Mẹ.  Sau đó, xin Mẹ ký thác những đau khổ này trên bàn thờ, nơi cử hành Thánh Lễ, để được kết hiệp với đau khổ của Chúa Kitô.  Sống theo cách sống này sẽ biến những đau khổ, dù là nhỏ nhất, của bạn thành một kho tàng ân sủng dồi dào vô hạn.

V. DÂNG ĐAU KHỔ CHO CHÚA GIÊSU

Khi được các em hỏi nên dâng gì cho Chúa, Đức Mẹ Fatima đã trả lời là “dâng tất cả.”  Hãy biến cuộc sống của bạn thành lễ hy sinh sống động để chuộc tội, đền đáp và ngợi khen.  Đây là vài gợi ý cụ thể về những gì chúng ta có thể dâng lên Thiên Chúa qua Trái Tim Đức Mẹ:

1. Thời Tiết Khắc Nghiệt

Tất cả chúng ta đều thích những ngày nắng đẹp với những giai điệu chim hót líu lo và hương thơm ngát của hoa nở rộ.  Nhưng không phải là luôn như vậy.  Cái lạnh buốt, mưa to và gió mạnh là đặc điểm của dự báo thời tiết thực tế trong nhiều ngày.  Thay vì phàn nàn về thời tiết thì hãy chấp nhận, sau đó tạ ơn Chúa và kết hiệp với Chúa Giêsu trên Thập Giá.

2. Tình Trạng Sức Khỏe

Hậu quả của Nguyên Tội là tất cả nhân loại đều bị suy yếu về sức khỏe, ốm đau, đôi khi bệnh tật, cũng như lây nhiễm vi trùng.  Điều này không thể tránh khỏi!  Tại sao không kết hiệp tình trạng sức khỏe thể lý đau khổ của bạn với Chúa Giêsu trên Thập Giá?  Giá trị của tặng phẩm này là vô hạn!

3. Đại Dịch

Đại dịch toàn thế giới như vậy là duy nhất trong lịch sử thế giới.  Thay vì lãng phí sự đau khổ hoàn vũ này, hãy kết hiệp với Thập Giá của Chúa Giêsu trên Canvê qua Hy Tế của Thánh lễ dâng lên Chúa Cha Vĩnh Hằng.  Ước gì đau khổ là của lễ đẹp lòng Thiên Chúa để cứu rỗi các linh hồn và chính mình!

4. Đau Khổ Gia Đình

Nhiều cha mẹ nhiệt thành cầu nguyện đã đau đớn tột cùng khi nhìn thấy những đứa trẻ mà họ nuôi dạy là người Công giáo và lãnh nhận các bí tích, đã không may lạc lối và từ bỏ đức tin.  Bất chấp những lời mời gọi, khuyên bảo và những giọt nước mắt cay đắng của cha mẹ, những đứa trẻ vẫn sống không biết gì về Chúa, như thể Ngài không hiện hữu.  Trong trường hợp này, hơn bao giờ hết, cha mẹ không nên chán nản, tuyệt vọng, phải cố gắng hơn nhiều.

Ngược lại, cha mẹ nên đặt những đau khổ của họ và những đứa con lên bàn thờ của Thánh Lễ, nơi Chúa Giêsu dâng những vết thương của Ngài cho Chúa Cha Hằng Hữu, và Cha vui lòng.  Thánh Monica đã kiên trì cầu nguyện cho con trai Augustinô, và con trai đã hoán cải khi 31 tuổi.

5. Khô Khan Tâm Linh

Bất cứ ai coi trọng đời sống tâm linh thì rồi sẽ gặp phải sự khô khan, cụ thể nhất là trong đời sống cầu nguyện.  Đây được gọi là trải nghiệm sa mạc khô hạn.  Thay vì từ bỏ đấu tranh, hãy cố gắng thinh lặng và cầu nguyện.  Điều này có thể dẫn đến sự đau khổ lớn lao, nhưng dâng đau khổ tâm linh rất hiệu quả và đẹp lòng Thiên Chúa.

Hãy kết hiệp tình trạng khô khan tâm linh của bạn với Chúa Giêsu trong cơn hấp hối nơi Vườn Dầu, và đặt nó lên bàn thờ của Hy Lễ Thánh.  Chúa Giêsu đã trải nghiệm sự cô độc.  Tuy nhiên, Ngài càng cầu nguyện càng mạnh mẽ và nhiệt thành hơn.  Ngài là mẫu gương của chúng ta.

6. Cái Chết Của Thân Nhân

Khi đối mặt với cái chết của người thân, niềm tin và hy vọng của chúng ta có thể bị lung lay.  Trong thời điểm quan trọng này, việc đặt những người thân yêu của chúng ta – những người đã qua đời, lên bàn thờ và trên Thập Giá qua Thánh Lễ, là điều vô cùng quan trọng, và cầu xin cho họ được cứu rỗi đời đời.  Trong sách Gương Chúa Giêsu, tác giả Thomas Kempis nói: “Điều quan trọng không phải là sống lâu, mà là sống thánh thiện.”

Chấp nhận và tuân theo Thánh Ý quan phòng của Thiên Chúa là giải pháp chắc chắn duy nhất, chúng ta không nên đặt câu hỏi tại sao Chúa lại lấy mạng họ, nhưng chúng ta có thể làm điều gì đó trong hiện tại cho linh hồn họ, cũng như cho chính chúng ta.

7. Đảo Ngược Kế Hoạch

Không ai trong chúng ta vui mừng vì những con người và hoàn cảnh làm gián đoạn lịch trình, kế hoạch và các dự án của chúng ta.  Tuy nhiên, dù muốn hay không, các kế hoạch và dự án của chúng ta sẽ thường xuyên bị gián đoạn.  Thay vì mất bình tĩnh và điềm tĩnh, tại sao không đơn giản chấp nhận những mâu thuẫn và kết hiệp với Thập Giá của Chúa Giêsu?  Hãy đặt những gián đoạn lên Thập Giá trên Canvê qua Thánh Lễ.  Làm vậy để công việc mà bạn không thể hoàn thành có thể cứu các linh hồn.

VI. KẾT LUẬN

Tóm lại, đau khổ là một thực tại của con người mà không ai có thể tránh khỏi.  Cho dù chúng ta là tín nhân hay vô tín ngưỡng, theo đạo Công giáo hay vô thần, nhà thần bí chiêm niệm vĩ đại hay nhà duy vật cốt lõi, đau khổ vẫn là một phần trong thân phận con người.  Nhưng hãy nhớ câu châm ngôn ngắn gọn này: “Đau khổ làm cho bạn tốt hơn hoặc cay đắng.”  Nếu một người đau khổ chỉ vì đau khổ thì thật là cay đắng!  Chỉ khi nào đau khổ của chúng ta được kết hiệp với đau khổ của Chúa Giêsu trên Thập Giá qua Thánh Lễ thì chúng ta mới được thánh hóa và tăng trưởng trong sự thánh thiện.

Do đó, bắt đầu từ hôm nay, hãy nhớ đến những đau khổ trong cuộc sống của bạn.  Hãy đặt những viên ngọc quý này trong tay và trái tim của Mẹ Maria.  Chính Đức Mẹ sẽ đặt chúng lên bàn thờ Thập Giá tại Canvê.  Sự đau khổ của bạn kết hiệp với sự đau khổ của Chúa Giêsu và Đức Mẹ sẽ thực sự có giá trị vô hạn đối với sự cứu rỗi các linh hồn kịp thời và vĩnh viễn!

Lm. Ed Broom, Omv

Trầm Thiên Thu (chuyển ngữ từ CatholicExchange.com) – Mùa Chay – 2021

CHIẾN THẮNG CÁM DỖ VỚI CHÚA GIÊSU

Người Eskimo nghĩ ra một cách bẫy chó sói rất độc đáo để lấy da chúng làm y phục.

Người ta dùng một con dao cực bén và nhúng lưỡi dao ấy vào máu súc vật, rồi đem dao ra ngoài trời tuyết lạnh cho máu đông lại chung quanh.  Họ lặp lại động tác đó nhiều lần cho đến khi con dao được bọc quanh bằng khối máu lớn như quả xoài.

Đợi đến khi trời tối, thợ săn đem con dao bọc máu đó ra cắm giữa đồng hoang.  Với tài đánh hơi bén nhạy, loài sói sẽ phát hiện rất nhanh mùi máu tươi và sẽ chạy đến liếm tới tấp vào cục máu đông đó cho đến khi lưỡi dao lộ ra cứa đứt lưỡi chúng.  Một khi lưỡi bị cứa đứt nhiều đường, máu từ lưỡi ứa ra và chúng tiếp tục liếm cách điên cuồng hơn chính dòng máu của mình mà không hay biết.  Càng liếm hăng, lưỡi càng bị cứa sâu hơn và nhiều hơn khiến máu chảy thành dòng kết thúc cuộc đời lũ sói tham ăn.

Cám dỗ trong đời người

Có thể nói: con người là con vật phải đương đầu với nhiều cơn cám dỗ nhất.  Cám dỗ của miếng ăn, cám dỗ của thức uống (rượu, bia), của thuốc lá, ma tuý, cần sa, cám dỗ của thú vui nhục dục, của tiền bạc, của địa vị, công danh và vô vàn hình thức cám dỗ khác.

Người ta bị thu hút, bị lôi cuốn vào các cơn cám dỗ như con sói tham lam lao vào liếm cục máu bọc lưỡi dao, như những con thiêu thân lao vào lửa và hậu quả là con người trở nên mềm yếu, bạc nhược, bị lôi cuốn vào dòng thác dục vọng như cánh bèo nhỏ bé bị cuốn phăng phăng giữa dòng nước lũ hung tàn.

Không rõ con sói một khi biết có lưỡi dao bén ẩn dấu trong cục máu đông có còn dám tiếp tục liếm cục máu đó nữa không, nhưng đối với nhiều người thì dù biết chắc chắn rằng đằng sau những lạc thú có ẩn dấu lưỡi dao thần chết thì họ vẫn cứ tiếp tục hưởng thụ những thứ đó đến cùng rồi mượn lời thơ Xuân Diệu để tự biện minh rằng: “Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt, còn hơn buồn le lói suốt trăm năm” (Xuân Diệu)

Chúa Giêsu cũng bị cám dỗ như chúng ta

“Đức Giêsu Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa… nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân (Philip 2, 6-7).  Vì trở nên người phàm như chúng ta, “Chúa Giêsu đã từng chịu thử thách về mọi phương diện như chúng ta’ (Do-thái 4,15).

Qua đoạn Tin Mừng được trích đọc trong thánh lễ hôm nay, thánh sử Mác-cô cho biết Chúa Giêsu đã vào hoang địa bốn mươi ngày và Người đã thực sự bị Xa-tan cám dỗ (Mác-cô 1, 12-13).  Điều đặc biệt là dù phải bị cám dỗ trăm bề về mọi phương diện như chúng ta, Chúa Giêsu không bao giờ thua cuộc, không bao giờ sa chước cám dỗ.  Người đã chiến thắng vẻ vang trước mọi cơn cám dỗ và luôn trung thành đi theo đường lối của Thiên Chúa Cha cho đến cùng.

Cùng chiến đấu chống lại cám dỗ với Chúa Giêsu

Trâu bò tuy to khoẻ nhưng dễ dàng bị chế ngự bởi một đứa bé cỏn con khi người ta xỏ mũi được chúng.  Con người dù có hùng mạnh đến đâu, nhưng một khi bị “xỏ mũi” bởi các đam mê tội lỗi, thì cũng phải ngoan ngoãn lội xuống bùn, sa xuống vực vì sức kéo của những đam mê và dục vọng xấu xa đen tối.

Mỗi người có một tử huyệt, một chỗ hiểm riêng.  Nơi người nầy là lỗ miệng tham ăn tham uống, nơi người khác là bệnh háo sắc hay thói tham danh hám lợi, nơi người khác nữa có thể là lòng ích kỷ, hận thù, ghen ghét, kiêu căng…

Người đi câu luôn biết lựa mồi hợp sở thích của cá; cũng vậy ma quỷ có thừa khôn ngoan để chọn những mồi bả phù hợp “khẩu vị” của từng người, và nhắm tấn công vào đúng tử huyệt của chúng ta.

Trong mùa chay, Chúa Giêsu và Giáo Hội kêu mời chúng ta đi vào cõi thinh lặng của tâm hồn để nhìn lại lòng mình, rà soát tâm tư mình, xét xem những đam mê nào, những xu hướng tội lỗi nào đang chi phối đời ta mạnh nhất (đó là những tử huyệt cần canh phòng che chắn).  Chính những đam mê và xu hướng đó là động cơ xô đẩy con sói tham ăn lao vào chỗ chết; và cũng chính những động cơ đó đã huỷ hoại cuộc đời ta, làm mất thanh danh phẩm giá cũng như giá trị cao đẹp của đời ta.

Nguyện xin Chúa Giêsu cùng chiến đấu với chúng con trong mặt trận nguy khó nầy và ban ơn giúp sức để chúng con không bao giờ lùi bước trước bất kỳ cơn cám dỗ nào, nhưng kiên cường chiến đấu để khỏi làm nô lệ cho tội lỗi và những đam mê xấu xa đồng thời lập được nhiều chiến công vẻ vang như Chúa.

Lm Trần Ngà (trích trong “Cùng Đọc Tin Mừng”)

TRỞ VỀ VỚI BẢN THÂN – VỚI CHÚA – VỚI THA NHÂN

Mùa Chay đã về.  Sắc tím của phẩm phục phụng vụ, cung điệu của các bài thánh ca cũng như các lời kinh cầu nguyện tạo cho ta một cảm giác trầm buồn, sâu lắng.  Trong nghi lễ khai mạc Mùa Chay, khi khiêm tốn đón nhận một chút tro bụi trên đầu, lời thánh ca gọi ta về với thực tại của thân phận con người:

“Hỡi người hãy nhớ, mình là bụi tro,
Một mai người sẽ trở về bụi tro.

Những bài thánh ca cùng chung một tâm trạng, vừa thống thiết than van vừa quyết tâm mãnh liệt: Con nay trở về, trở về cùng Chúa Chúa ơi!

Sự trở về dựa trên lòng thương xót vô bờ của Thiên Chúa: Ngài là Thiên Chúa, rất nhân hậu và hay tha thứ.

Khi nhìn lên thánh giá, chúng ta tưởng niệm một sự kiện lịch sử đã xảy ra cách đây hai ngàn năm, qua lời kinh cầu nguyện thống thiết:

– Chúa Giêsu chịu các quan lấy hết áo chia nhau
– Chúa Giêsu còn trên thánh giá chịu thiên hạ nhạo cười (Kinh cầu Chịu nạn).

Cảm nhận thân phận tội lỗi, con người thấy cần được ơn thứ tha.  Mùa Chay là mùa sám hối, là mùa trở về để được sống trong tình thân nghĩa với Chúa và với anh chị em mình.

Khi phạm tội, con người hối hận và dằn vặt khôn nguôi, vì tội không chỉ là xúc phạm đến đồng loại mà còn xúc phạm đến Chúa.  Người phạm tội chạy trốn chính bản thân mình, đi đâu cũng không thể tìm được nơi ẩn nấp.  Tội ác luôn bám sát và ám ảnh tội nhân.  Chỉ có tâm tình sám hối và khiêm nhường xưng thú tội lỗi qua bí tích Hòa giải mới có thể đem lại cho họ sự thanh thản, bình an.  Cùng với vua Đavít trong Thánh vịnh 50, chúng ta thú tội với Chúa qua lời kinh sám hối đẫm lệ, được thốt lên với tâm trạng hối hận day dứt:

“Vâng, con biết tội mình đã phạm,
Lỗi lầm cứ ám ảnh ngày đêm.
Con đắc tội với Chúa, với một mình Chúa,
Dám làm điều dữ trái mắt Ngài” (Tv 50, 5-6).

Những tâm tình được trải nghiệm trên đây giúp chúng ta trở về với Chúa.  Tuy vậy, trước khi trở về với Chúa, chúng ta cần phải hồi tâm cảnh tỉnh, phải trở về với chính mình, nhìn nhận thân phận con người còn vương nhiều lầm lỗi cần được thương xót thứ tha.  Trong cuộc sống bon chen quay cuồng, con người có nguy cơ quên mất chính bản thân, thậm chí đánh mất chính mình.  Vì không ý thức mình là ai nên người ta dễ kiêu ngạo.  Vì cho mình là chuẩn mực nên người ta dễ phủ nhận và loại trừ người khác.  Trở về với chính mình để xem xét lại hành vi cử chỉ đã làm, để canh tân sửa đổi, nên con người tốt hơn.  Trở về với chính mình còn là việc nhận ra những điểm tốt nơi anh chị em, cảm thông những khiếm khuyết của họ, xây tình liên đới để nâng đỡ và bổ túc cho nhau.  Chỉ sau khi đã hồi tâm cảnh tỉnh, chúng ta mới có thể trở về với Chúa, tôn nhận Ngài là chủ đích của đời sống chúng ta và chuyên tâm tuân giữ lời Ngài dạy.  Thiên Chúa như người Cha luôn chờ đợi chúng ta trở về.

Một điều kiện căn bản để chứng minh chúng ta có lòng sám hối thật, đó là chúng ta trở về với anh chị em mình.  Trở về để nhận ra những người xung quanh là anh chị em con cùng một Cha trên trời, là khiêm tốn nhìn nhận nhiều lần mình đã làm tổn thương họ.  Sám hối ăn năn mà không làm hòa với đồng loại, thì chỉ là sám hối giả tạo bề ngoài.  Kêu van: Lạy Chúa!  Lạy Chúa!  mà không thực thi lời Ngài dạy, thì chỉ là những tiếng kêu suông mà thôi.  Mùa Chay như điểm dừng của người lữ khách để nhìn lại quãng đường đã đi.  Mùa Chay còn là cơ hội để rũ bỏ mọi lỗi lầm bất xứng.  Lòng sám hối giúp ta lấy lại nghị lực và niềm tin để tiếp bước lên đường trong sự thanh thản và bình an.

Nghi thức khai mạc Mùa Chay là lời kêu gọi sám hối trở về.  Qua nghi thức lãnh nhận tro trên đầu, chúng ta cảm nhận nguồn cội của mình.  Qua việc tưởng niệm Chúa chịu chết, chúng ta tuyên xưng tình Chúa yêu thương.  Những thực hành truyền thống trong Mùa Chay như ăn chay, cầu nguyện và chia sẻ, phải hướng chúng ta đến canh tân hối cải, nếu không, sẽ giống như diễn kịch hay trò chơi giải trí hay những hình thức giả tạo bề ngoài (x. Tin Mừng Lễ Tro).

Như người con thứ hoang đàng nhận ra mình lầm lỗi, chúng ta hãy xin Chúa thương tha thứ và ban cho chúng ta niềm vui được sống trong tình Chúa và tình người.

Con người là sa ngã, nhưng thiên thần thì chỗi dậy (Thánh Mary Euphrasia Pelletier)

Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên

ĐỪNG CẬY VÀO SỨC NGƯỜI SỨC TRÂU

Năm nay, được gọi là năm con Trâu.  Một con vật gắn bó với con người, luôn đi chung với con người, luôn làm theo ý của chủ mình, như ca dao xưa thường nói:

Rủ nhau đi cấy đi cầy,
Bây giờ khó nhọc có ngày phong lưu,
Trên đồng cạn, dưới đồng sâu,
Chồng cầy, vợ cấy, con trâu đi bừa.”

Sự gắn bó, chia sẻ việc đồng áng của con trâu khiến người ta nhân cách hoá con vật như là loài hiểu biết để có thể nói với trâu như nói với bạn:

Trâu ơi ta bảo trâu này,
Trâu ra ngoài ruộng trâu cầy với ta,
Cầy cấy nối nghiệp nông gia,
Ta đây trâu đấy ai mà quản công.
Khi nào cây lúa còn bông,
Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn“.

Tuy nhiên, dầu sức người, sức trâu có khỏe mấy cũng chỉ là “dã tràng se cát biển đông” nếu Trời không cho mưa thuận gió hòa.  Thế nên, từ lâu cha ông ta vẫn luôn cầu Trời ban cho mưa thuận gió hòa để cuộc sống được ấm no hạnh phúc, để công việc đồng áng được thuận lợi quanh năm.

“Nhờ Trời mưa thuận gió hoà
Nào cày, nào cấy trẻ già đua nhau.

Vì thế, từ lâu người Việt Nam đã biết có ông Trời.  Tin ông Trời.  Cầu khẩn ông Trời.  Ông Trời trở thành một thần linh luôn đồng hành với con người qua mọi thăng trầm.  Tuy không rõ Ông Trời thế nào nhưng không ai lại không kính Trời.  Ai cũng sợ Trời và cố gắng làm vui lòng Trời.  Vì ông trời làm chủ vận mệnh muôn loài.  Ông Trời quyền phép vô cùng.  Thế nên,

Mưu sự tại nhân – Thành sự tại thiên
Trời cho ai nấy hưởng
Sống nhờ ơn Trời – Chết về chầu Trời.

Niềm tin Kitô giáo cho chúng ta biết ông Trời của người Việt Nam chính là Thiên Chúa, Ngài là Chúa Cả Trời đất, chính Ngài chúc phúc cho công việc của con người được “thuận buồm xuôi gió” như lời thánh Phaolo quả quyết: “Phaolô trồng, Apollô tưới, nhưng chính Thiên Chúa mới làm cho mọc lên” (1Cr 3,6).  Điều này cho ta thấy, Thiên Chúa chỉ chúc lành cho công việc của con người, đúng như câu ca dao xưa: “Có làm thì mới có ăn.  Không dưng ai dễ mang phần cho ta.”

Chính Ngôi Hai Thiên Chúa đến trong thế giới, Ngài đã sinh ra trong một gia đình lao động, qua đó Chúa nâng đời sống lao động và thánh hoá đời sống lao động, Chúa làm gương về đời sống phục vụ, mỗi giọt mồ hôi, mỗi sự mệt mỏi trong lao động của Chúa Giêsu đều mặc một giá trị cứu rỗi.  Con người luôn phải ý thức lời Kinh Thánh viết, hướng dẫn và chỉ bảo:

Bốn mùa Chúa đổ hồng ân,
Ngài gieo mầu mỡ ngập tràn lối đi ( Tv 64, 2 ).

Vì thế, người tín hữu Việt Nam luôn có một thói quen tốt lành là dâng mọi công việc làm của mình cho Thiên Chúa trong ngày đầu năm mới.  Đây gọi là thánh hóa công ăn việc làm cho Thiên Chúa.  Thánh hoá công ăn việc làm là xin Chúa lau sạch những giọt mồ hôi vất vả đổ ra vì sựlàm việc của chúng ta.  Thánh hoá công ăn việc làm là cầu xin Chúa chúc lành cho nghề nghiệp của chúng ta trở nên hữu ích, không chỉ là làm ra của cải mà còn phục vụ tha nhân trong tình bác ái; thánh hoá công ăn việc làm là cầu xin Chúa hướng dẫn chúng ta sử dụng tay nghề ngày càng tốt hơn để làm góp phần xây dựng quê hương ngày một giầu đẹp hơn.

Trong ngày lễ thánh hoá công việc làm ăn hôm nay, chúng ta cũng cầu xin cho những ai đang thất nghiệp có công việc làm ăn để nuôi sống bản thân.  Cầu chúc cho mọi gia đình trong năm mới luôn tìm được niềm vui của sự chia sẻ của các thành viên trong gia đình, nhờ đó mà chúng ta có thể vẽ lên bức tranh thanh thản, bình an nơi gia đình như câu ca dao xưa: “chồng cầy vợ cấy, con trâu đi cầy.”

Cầu chúc cho mọi người có sức khỏe để “cày như Trâu,” chúc cho mọi người một năm mưa thuận gió hòa, người người người tận tụy, chăm chỉ làm ăn và sống hiền hòa bên nhau.  Và cầu chúc cho anh em chị em một năm mới:

Phước lộc ơn trời tuôn đổ mãi
An bình hạnh phúc chẳng hề vơi.”  Amen!

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

LỜI CẢM TẠ TRI ÂN

Ngày cuối của một năm, thường con người vẫn có thói quen ngồi lại để tính sổ với Chúa, với đời xem mình đã làm được gì, chưa làm được gì và rồi con người dù thế nào đi nữa vẫn phải nói lên lời tạ ơn Thiên Chúa vì do tình thương của Ngài mà con người vẫn còn tồn tại.

Cuộc Đời Phải Là Lời Cảm Tạ

Nhìn lại một năm với bao biến cố xẩy ra trong đời: buồn có, vui có, khó khăn có, may mắn có, con người vẫn tự nhủ tại sao mình còn hiện diện?  Tại sao mình còn thở, còn sinh hoạt được, còn đi dứng, ăn uống, ngủ nghỉ được?  Chắc chắn với lòng tin sẵn có, người Kitô hữu luôn ý thức Thiên Chúa đang tiếp tục làm phép lạ trong cuộc đời của mình.  Như vậy, tâm tình của con người là tạ ơn.  Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Êphêsô đã viết: “Đàn hát lên!  Nhờ Thánh Thần linh hứng, trót tâm tình, dâng Thiên Chúa là Cha.  Luôn cảm tạ Người, nhân danh Thánh Tử vì Người ban muôn phúc lộc chan hòa” (Eph 5, 19-20).  Vâng, Thiên chúa đã ban cho nhân loại, cho mỗi người muôn vàn hồng phúc.  Những ân huệ cao quí, Thiên Chúa tặng ban cho con người quả không kể xiết.  Con người chỉ có thể hiểu được những điều quí hóa ấy khi họ biết hồi tỉnh, suy nghĩ và cầu nguyện.  Hồi tỉnh để thấy mình đã lãnh nhận quá nhiều ân phúc mà chỉ Thiên Chúa mới có thể trao ban.  Suy nghĩ để con người nhận ra họ được hạnh phúc có Thiên Chúa là Cha nhân từ không nỡ cho con người con bọ cạp hoặc hòn đá khi họ xin bánh ăn.  Cầu nguyện để thân mật trao đổi và cám ơn Thiên Chúa vì tình thương vô biên Chúa đã tặng ban cho con người.  Chính vì thế, con người phải luôn có tâm tình như Chúa Giêsu vì cuộc đời của Ngài là bài ca cảm tạ tri ân Thiên Chúa Cha.  Chúa luôn cảm tạ Chúa Cha trong mỗi biến cố cuộc đời: khi làm phép lạ cho cá và bánh hóa nên nhiều, khi lập bí tích Thánh Thể, khi chọn các môn đệ và nhiều việc Chúa Giêsu làm trong đời của Ngài.  Bao giờ, Chúa cũng nói lên lời tạ ơn Thiên Chúa Cha.  Tạ ơn là điều tối hệ trọng trong đời Chúa Giêsu.  Mẹ Maria cũng thế, Mẹ đã nói lên lời xin vâng và tạ ơn trong cả cuộc đời của Mẹ.  Bài kinh Magnificat Mẹ cất lên hôm nay là một lời cảm tạ Thiên Chúa Cha.  Mẹ mời gọi mỗi người Kitô hữu hãy cùng Mẹ hát bài tạ ơn vì chính Mẹ và con cái của Mẹ đã được Thiên Chúa trao ban quá nhiều hồng phúc.

Ngày Cuối Năm Luôn Là Lời Tạ Ơn

Nhìn lại một quãng đời, suy nghĩ về một chặng đường đã qua, con người chỉ biết thốt lên như Mẹ: “…Đấng toàn năng đã làm cho Tôi biết bao điều kỳ diệu.”  Đời con người là một huyền nhiệm.  Chúa đã tạo dựng nên con người giống hình ảnh Ngài, Ngài lại ban cho con người biết bao hồng phúc khiến con người không thể nào hiểu hết sự lạ lùng của Thiên Chúa.  Con người chỉ có thể cùng với tác giả thánh vịnh: “Biết lấy chi đền đáp Chúa bây giờ, vì mọi ơn lành Người đã ban cho?  Tôi xin nâng chén mừng ơn cứu độ và kêu cầu thánh danh Đức Chúa” (Tv 115, 12-13).

Ngày cuối năm, người Kitô hữu luôn phải ngồi lại để suy nghĩ, điều chỉnh tâm hồn và nói lời tạ ơn Thiên Chúa.  Đây là dịp rất tốt để con người hồi tỉnh xem điều gì mình đã làm được tốt, điều gì mình chưa làm tốt và điều còn thiếu xót để rồi chấn chỉnh điều chưa tốt, và nhân lên càng nhiều càng tốt điều tốt lành mình đã làm được.  Điều quan trọng con người cần phải xét tới xem mình đã có quan hệ thế nào đối với Thiên Chúa và có thái độ ra sao đối với tha nhân?  Chúa luôn mời gọi mỗi người quay trở về với Thiên Chúa và làm hòa với anh em.  Như thế, ngày cuối năm là dịp để hồi tỉnh, trở về với Chúa và thắp sáng đức tin cho anh em.  Những việc làm tỏa sáng vẫn là những việc Chúa mời gọi con người thực hiện để làm vinh danh Chúa và nối kết anh em.  Ngày cuối năm cũng là ngày tạ lỗi Chúa và tạ lỗi mọi người.  Tạ lỗi là nói lên lòng sám hối, ăn năn và tạ ơn.

Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, trong suốt cả năm nay, Chúa đã thương ban phù trợ cho hồn xác chúng con an toàn.  Giờ đây năm cũ sắp qua, chúng con cùng họp nhau dâng lên Chúa lời cảm tạ tri ân, và xin Chúa thứ tha tội lỗi, để chúng con được thư thái bình an trước thềm năm mới (Lời nguyện nhập lễ, lễ tất niên).

Lm. Jos. Nguyễn Hưng Lợi

DỪNG LẠI!

CSC – Cuộc sống xô bồ và chạy quá nhanh làm ta chẳng có nhiều dịp may để đứng lại, ngắm nhìn những bước đường đã qua.  Chỉ có dừng lại, dù chỉ một chút thôi, ta mới có cơ hội nhìn lại cuộc đời mình cho cẩn thận.  Chỉ khi dìm mình vào suy tư, ta mới thấy mình đã làm được gì, đã bỏ lỡ gì hay đã thất bại những điều gì nữa.

Cuộc sống luôn công bằng, nó không cho không ai cái gì, và cũng chẳng vô tình lấy đi của ai bất cứ điều gì mà không có sự bù đắp, trả giá.  Đừng cảm thấy mình mất tất cả hay có tất cả mà không suy nghĩ cho những người xung quanh.  Sẽ đến một lúc nào đó, bạn phải bật khóc, nhưng không vì một lý do nào cả.  Đó là lúc bạn nhận ra mình đã đánh mất quá nhiều thứ và không bao giờ lấy lại được chúng nữa.  Đã đến lúc phải biết dừng lại!

Lại một năm mới sắp đến, một năm cũ sắp sang trang.  Ta lại có dịp ngồi lại, suy tư về một năm đã qua với những được mất, vui buồn, sướng khổ hay đơn giản, chỉ là về những gì đã và đang xảy ra quanh mình.  Cuộc sống xô bồ và chạy quá nhanh làm ta chẳng có nhiều dịp may để đứng lại, ngắm nhìn những bước đường đã qua.  Chỉ có dừng lại, dù chỉ một chút thôi, ta mới có cơ hội nhìn lại cuộc đời mình cho cẩn thận.  Chỉ khi dìm mình vào suy tư, ta mới thấy mình đã làm được gì, đã bỏ lỡ gì hay đã thất bại những điều gì nữa.  Thật ra, khoảnh khắc cuối năm hay đầu năm cũng chẳng khác những giây phút ngắn ngủi khác của cuộc đời ta.  Có chăng thì đó chỉ là vì nó đánh dấu một cột mốc nho nhỏ trong hành trình của đời người, mang thêm một chút dư vị, một chút ý nghĩa mà người ta tự gắn cho nó, như kim đồng hồ mỗi khi qua con số 12 thì lại qua thêm một giờ thôi vậy.  Có ai mà biết được đồng hồ của mình sẽ chạy tiếp vào ngày mai, hay sẽ dừng lúc nào mà mình chẳng ngờ tới.  Thế nên, ta mới tìm cho mình một khoảnh khắc làm khởi điểm cho một vòng quay mới mà nhìn lại.  Sự dừng lại ấy sẽ giúp ta có thêm cơ hội để bù đắp, sửa chữa, canh tân cách làm, cách nghĩ của mình.

Dừng lại để nghĩ về những điều đã qua.  Những gì đã qua thì chẳng bao giờ lấy lại hay làm lại được.  Cơ hội, thời gian hay lời nói là những điều mà khi ta để chúng vuột mất, ta sẽ chẳng lấy lại được.  Cơ hội thì như nước chảy bèo trôi, bèo trôi qua mà ta không vớt lấy, nó sẽ chảy đến chỗ người khác hoặc sẽ đi mất.  Thời gian thì chỉ có đi mà chẳng có lại, đã qua rồi sao ta tìm được đây.  Nói về thời gian, nhà thơ Xuân Diệu đã viết nên những vần thơ đầy tình cảm sâu lắng, đậm sự tiếc nuối và xót xa:

Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua,
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,
Không cho dài thời trẻ của nhân gian.

Lời nói thì gió thổi bay, một lời đã nói thì người nào rút lại được.  Thế nhưng, có lẽ, chẳng mấy ai biết trân trọng nó khi mình còn có được, mà chỉ vội hối tiếc khi mọi sự đã qua rồi.  Một năm hay một đời cũng thế thôi, nó sẽ trôi qua một cách vô nghĩa nếu ta không biết nắm giữ và phát huy hết giá trị của nó.  Mọi hối tiếc sau đó sẽ chỉ là vô dụng.

Dừng lại để tri ân.  Có những lúc, ta sống quá vội vã, vội vã cả những lúc nhận được ân huệ, sự quan tâm, lời dạy dỗ, để rồi vội cả lời cảm ơn.  Giây phút dừng lại này còn là cơ hội để thực hiện lại những lời cảm ơn ấy cho thật chân thành.  Cảm ơn cha mẹ, anh chị em hay những người đã giúp ta trong hành trình cuộc đời.  Cha mẹ vốn chẳng cần lời cảm ơn của ta, vì ta chẳng khi nào cám ơn các ngài cho đủ.  Thế nhưng, các ngài mong mỏi sự cố gắng của ta.  Cảm ơn cha mẹ bằng đời sống tốt lành, xứng bậc làm con mới là điều thiết thực nhất ta có thể làm được.  Những người xung quanh ta cũng vậy, lời nói thôi sẽ chẳng đủ chân tình, nhưng có lẽ, ta cần có hành động cụ thể xuất phát tự con tim.  Cảm ơn người thân bằng gương sáng, việc làm, sự quan tâm.  Cảm ơn đồng nghiệp bằng sự cố gắng chăm chỉ, bằng sự hòa đồng vui vẻ.  Cảm ơn bạn bè bằng cử chỉ thân tình… Tất cả chẳng phải khó, nhưng khó vì chưa làm cho tận, làm cho có tình chân thật.  Khi biết dừng lại, ta mới thấy lời cảm ơn của ta đối với họ thật quý giá biết bao, đáng được trân trọng dường nào.

Kiên Vũ, CSC

http://dongthanhtam.net

MỘT CON TIM MỚI MẺ

y lui vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi một chút

Kính thưa Anh Chị em,

Sẽ rất bất ngờ khi Tin Mừng hôm nay cho thấy một kiểu đi nghỉ khác thường mà Chúa Giêsu mời các môn đệ Ngài cùng đi; qua đó, việc “nghỉ ngơi” bên Chúa sẽ làm cho họ có được “một con tim mới mẻ” như con tim của Ngài, một con tim cứu độ và xót thương.

Trở về sau những ngày rao giảng thấm mệt, và dẫu không nói ra điều đó, các môn đệ vẫn không tài nào giấu được đôi mắt tinh tường của Chúa Giêsu.  Sẽ không ngạc nhiên, khi với lòng trắc ẩn, Ngài lập tức mời họ xuống thuyền; Tin Mừng nói, “Thầy trò chèo tới một nơi vắng vẻ hẻo lánh.”  Ấy thế, khi thuyền vừa cập bến, đã có một đám đông đợi các ngài ở đó.  Như vậy, những người này đã đoán trước Thầy trò Chúa Giêsu sẽ đến đó; hoặc chí ít, đã có sự “rò rỉ” thông tin từ các tông đồ.  Qua đó chúng ta thấy lòng khao khát mãnh liệt được ở bên Chúa nơi những con người đang kiếm tìm Ngài.  Phải chăng đây cũng là cách đám đông “nghỉ ngơi” bên Chúa; và phải chăng đây cũng là cách “nghỉ ngơi” Chúa Giêsu mong muốn ở mỗi người chúng ta?  Lạ thay!  Ngài không bực nhọc; chẳng than thở, “Ôi chao, những người này không để mình yên dù chỉ một chút sao?”  Không, thay vào đó, “Thấy dân chúng thật đông, Ngài động lòng thương.”  Như thế, Ngài vẫn luôn giữ cho mình “một con tim mới mẻ” đầy cứu độ và thương xót ngay trong khoảng trời riêng tư của Ngài, Ngài chấp nhận thay đổi kế hoạch vì người khác.

Trong cuộc sống, sau khi phục vụ người khác chu đáo tận tình, ai trong chúng ta cũng muốn được nghỉ ngơi, đó là điều dễ hiểu; cả Chúa Giêsu cũng muốn điều này cho Ngài và các môn đệ.  Thế nhưng, một điều cho phép Ngài “làm gián đoạn” chương trình của mình chính là sự khát khao của những con người “muốn ở bên Ngài” và “được nuôi dưỡng bởi Lời Ngài”; Ngài sẵn sàng gác lại tất cả để thoả mãn khát khao của họ.  Như vậy, nơi Chúa Giêsu, xem ra không có “vacation”, kỳ nghỉ; nhưng chỉ có “salvation”, cứu độ.  Cũng thế, đối với bất cứ ơn gọi nào, bậc sống nào hay hoàn cảnh nào, chúng ta vẫn có quyền và có thể nghĩ đến một khoảng riêng tư của mình; thế nhưng, nhiều lúc trách nhiệm lại buộc chúng ta chọn lựa một cách khác, “chọn lựa gián đoạn” kế hoạch của mình. Chúa Giêsu muốn chúng ta có “một con tim mới mẻ”, con tim cứu độ giữa kỳ nghỉ và giờ nghỉ.

Chìa khoá để chúng ta có được “một con tim mới mẻ” như Chúa Giêsu chính là sự sẵn sàng; sẵn sàng với thời gian, sẵn sàng với sức lực của mình.  Khi điều này xảy ra, chúng ta sẽ luôn luôn biết rằng, Thiên Chúa không bao giờ thua lòng quảng đại của một ai; Người ban những ân sủng không bao giờ ngờ tới để chúng ta có thể rộng rãi trao ban.  Và tuyệt vời hơn, chính trong những thời điểm ngặt nghèo “bất tiện” nhất này, “một con tim mới mẻ” sẽ vui tươi làm những gì chợt đến, thì Thiên Chúa lại thường cho gặt hái những hoa trái mà đôi lúc suốt nhiều năm, chúng ta vất vả mà luống công; đó là lúc mà chính Chúa thực sự có thể biến đổi người khác.

Đang đi nghỉ ở Ireland, nhà sản xuất xe hơi, Henry Ford, được yêu cầu đóng góp cho một trại mồ côi mới xây.  Ford đã viết một tấm check trị giá hai nghìn bảng Anh, và thông tin đó đã xuất hiện trên các tờ báo địa phương.  Oái ăm thay, biên tập viên đã vô tình bất cẩn thông báo món quà là hai mươi nghìn bảng.  Giám đốc trại các em mồ côi lo lắng điện thoại xin lỗi Ford, “Tôi sẽ gọi ngay cho biên tập viên và yêu cầu anh ta sửa lại”, anh nói. “Không cần thiết phải như vậy!”, Ford trả lời; và ông nhanh chóng viết tấm check mười tám nghìn bảng bổ sung.

Anh Chị em,

Dẫu bị quấy rầy giữa kỳ nghỉ, nhưng Henry Ford đã có một tấm lòng nhân ái đáng trân trọng.  Với chúng ta, được nghỉ ngơi “vacation” bên Chúa Giêsu, con tim của chúng ta sẽ đầy sự cứu rỗi, “salvation” hơn Henry Ford biết bao!  Trong những ngày này, khi có thời giờ hơn để nghỉ ngơi, nếu không được nghỉ việc như những anh em đang sống ở hải ngoại, chúng ta vẫn có thời giờ nhiều hơn.  Đây là lúc chúng ta vào nơi thanh vắng để có thời gian ở bên người thân, làng xóm và nhất là được ở bên Chúa.  Hãy dừng lại để định hướng cho một năm mới, nhìn lại những gì đã qua hầu làm mới lại con tim của mình.  Đó chính là cách nghỉ ngơi đúng nghĩa mà Chúa Giêsu đang mong ước; và với ơn Chúa, sang năm mới, chắc chắn chúng ta sẽ có “một con tim mới mẻ.”

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Cúi lạy Chúa tôi, một năm qua rồi; ngày giờ quý báu, đâu còn trở lui.  Cám ơn Chúa, con được bình an qua một năm thế giới đầy tai ương và biến động.  Trong những ngày hôm nay, xin cho con biết dành giờ nghỉ ngơi bên Chúa nhiều hơn, biết sống tâm tình cảm tạ và sám hối; với ân sủng biến đổi của Chúa, chắc chắn con sẽ đi vào năm mới với một con tim mới mẻ.’”  Amen!

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế