CẦN THINH LẶNG TRONG MÙA VỌNG

Dịp Lễ Giáng Sinh, Thiên Chúa nói với chúng ta theo cách sâu sắc và huyền bí hơn bất kỳ kiểu nói nào khác mà con người từng biết: Ngài truyền đạt cho chúng ta qua Ngôi Lời hóa thành nhục thể.  Nhiệm vụ của Mùa Vọng là chuẩn bị cho việc nghe Lời của Thiên Chúa.

Tôi muốn đề nghị rằng một trong những cách quan trọng nhất để làm điều này là thông qua việc trau dồi sự im lặng.  Đối với người Công giáo, lời khuyên này có thể có giá trị sự thật, nhưng nó cũng hoàn toàn phản văn hóa.  Đối với thời điểm này trong năm là mùa rất nhộn nhịp – các ông già Noël rung chuông, những người mua sắm náo nhiệt, các giai điệu vang lên khắp nơi, và cuối cùng là cả gia đình quây quần bên cây thông Noël hoặc bàn ăn tối.

Tuy nhiên, sự im lặng là điều cần thiết để sống đức tin của chúng ta trong Mùa Vọng.  Tôi tin rằng đây là trường hợp đặc biệt vì mối quan hệ mật thiết giữa lắng nghe và im lặng trong bối cảnh của Mùa Vọng.  Điều kiện tiên quyết thiết yếu để nhận được Lời của Thiên Chúa hóa thành xác phàm là chúng ta thực sự lắng nghe và tìm kiếm Ngài.

Thói quen lắng nghe kỳ vọng này rất khác so với kiểu lắng nghe mà chúng ta trải nghiệm trong cuộc sống hằng ngày.  Trong trường hợp sau, việc nghe của chúng ta bắt đầu khi người kia nói.  Trong quá trình nghe mong đợi, động lực này bị đảo ngược: quá trình nghe bắt đầu trước khi việc nói bắt đầu.  Trong thực tế, có thể kiểu lắng nghe này xảy ra trước khi người kia đến.  Vì thế, điều đó vừa thụ động vừa chủ động.

Sự lắng nghe mong đợi như vậy bao hàm sự im lặng.  Thông thường, nếu bạn muốn lắng nghe ai đó thì bạn phải im lặng.  Bạn kiềm chế cái lưỡi của mình để người kia nói.  Trong những trường hợp này, chúng ta lắng nghe nhưng sự lắng nghe của chúng ta kết hợp với lời nói chứ không im lặng.  Với sự lắng nghe mong đợi thì khác.  Chúng ta lắng nghe nhưng người kia vẫn chưa bắt đầu nói.  Lúc đó, chúng ta bắt gặp một khoảng lặng sâu sắc.

Dù buồn thế nào, loại im lặng này vẫn là điều kiện thiết yếu để trải nghiệm niềm vui về sự xuất hiện của người mà bạn đang chờ đợi – và đó là tất cả những gì Mùa Vọng hướng tới.  Sự xuất hiện bao hàm cả sự vắng mặt.

Trong cuốn “Đêm Tối của Linh Hồn,” Thánh Gioan Thánh Giá coi sự im lặng này như việc thanh tẩy.  Ý tưởng chung là linh hồn phải được cởi bỏ những ràng buộc trần thế và được thanh lọc khỏi các đam mê, ham muốn ích kỷ.  Sự xấu hổ này vừa tượng trưng vừa khước từ các giác quan.  Do đó, bóng tối màn đêm làm ảnh hưởng tầm nhìn của chúng ta, sự im lặng cũng ảnh hưởng tầm nghe của chúng ta.  Như Thánh Gioan Thánh Giá đã nói, khi đề cập “các hoạt động, đam mê và ước muốn thấp hèn” của linh hồn.

Do đó, các hoạt động và chuyển động của họ nên được ngủ yên trong đêm tối này, để cuối cùng chúng không thể cản trở linh hồn đạt được phúc lành siêu nhiên từ việc kết hiệp yêu mến Thiên Chúa, vì khi chúng hoạt động thì điều này không thể đạt được.  Tất cả công việc và các chuyển động tự nhiên cản trở chứ không trợ giúp linh hồn tiếp nhận phúc lành của sự kết hiệp của tình yêu, mặc dù mọi khả năng tự nhiên đều bất lực đối với phúc lành siêu nhiên mà Thiên Chúa ban cho linh hồn một cách thụ động, bí mật và im lặng, qua chính sự truyền thụ của Ngài.  Do đó, điều cần thiết là tất cả các khả năng phải tiếp nhận sự truyền ban này, và để nhận được nó, họ nên thụ động, không sử dụng các hành vi cơ bản và xu hướng thấp hèn của mình.  (số 14.1).

Nhưng cũng có một khía cạnh tích cực để giữ thinh lặng.  Nó không chỉ tắt tiếng những phần ồn ào của tâm hồn chúng ta, tranh giành sự chú ý.  Sự im lặng vừa xóa bỏ các rào cản trong việc gặp gỡ Thiên Chúa vừa là cầu nối cho cuộc gặp gỡ đó.

Trong sự thinh lặng, Thiên Chúa cảm nghiệm chính Ngài trong sự sống Ba Ngôi.  Lời không được “nói” theo ý nghĩa giống như lời chúng ta nói.  Luôn có sự trì hoãn đối với chúng ta – một loạt các bước phải diễn ra.  Chúng ta hình thành suy nghĩ và rồi chúng ta dịch suy nghĩ đó thành một số lời nói mà hệ thống thần kinh và cơ bắp của chúng ta hoạt động truyền tải từ trí óc đến miệng lưỡi, rồi kết thúc bằng một chuỗi âm thanh có thể nghe.

Tuy nhiên, không có sự trì hoãn như vậy đối với Thiên Chúa.  Không có chuỗi sự kiện nào diễn ra giữa suy nghĩ và việc tuyên bố Lời của Ngài, như Thánh Augustinô đã dạy.  Sự hiểu biết của Thiên Chúa về chính Ngài luôn trọn vẹn và ngay lập tức – tương tự như loại phản ứng im lặng giữa suy nghĩ và các từ ngữ chúng ta nghĩ ra trong trí óc để mô tả chúng.  Nói cách khác, cũng như Thiên Chúa trong bản thể của Ngài, chúng ta không thể nhìn thấy Ngài và cũng không thể nghe thấy Ngài.

Đó là lý do Ngôi Lời Nhập Thể nói với chúng ta một cách sâu sắc nhất trong sự im lặng của Ngài.  Đó là sự im lặng của Thánh Tâm Ngài, tuôn đổ máu và nước từ cạnh sườn bị đâm thâu của Ngài.  Đó là “sự im lặng tuyệt vời” đã đổ xuống trái đất khi Đức Vua ngủ trong Thứ Bảy Tuần Thánh.  Và ngày nay, đó là sự im lặng vẫn tiếp tục kêu gọi chúng ta nơi Bí tích Thánh Thể.

Khi đó, nhờ Chúa Giêsu Kitô, sự im lặng trở thành một kinh nghiệm được chia sẻ: chúng ta im lặng trước mặt Thiên Chúa và Ngài đáp lại trong sự im lặng.  Khi hướng về người khác, sự im lặng là phẩm chất của sự hiện hữu hoàn toàn trong chính con người đối với người đó.  Chắc chắn Thiên Chúa là như thế đối với chính Ngài – và chúng ta càng ngày càng gần Ngài hơn khi chúng ta có thể tiến tới dạng im lặng này trong đời sống của chính mình.  Và rồi sự im lặng trở thành nơi gặp gỡ.

Chắc hẳn sự im lặng như vậy có thể gây khó chịu.  Chúng ta tự an ủi bằng cách nhắc nhở mình về sự thật rằng sự im lặng như vậy là dấu hiệu báo trước về việc lắng nghe Thiên Chúa nói với chúng ta qua Lời của Ngài.  Điều này chắc chắn đúng.  Nhưng thực tế về sự im lặng của Thiên Chúa gợi ý sự an ủi tức khắc khác: Sự thật là Ngài cũng đang lắng nghe chúng ta về những nỗi khổ, những nhu cầu, những khao khát sâu xa nhất của chúng ta.  Không có lời nào cần thiết để Thiên Chúa biết những ước muốn thầm kín trong lòng chúng ta, như Thánh Vịnh gia nói: “Miệng lưỡi con chưa thốt nên lời, thì lạy Chúa, Ngài đã am tường hết.  Ngài bao bọc con cả sau lẫn trước, bàn tay của Ngài, Ngài đặt lên con.  Con có lên trời, Chúa đang ngự đó, nằm dưới âm ty, vẫn gặp thấy Ngài.” (Tv 139:4-5, 8)

Do đó, sự im lặng có thể làm cho sự kết hiệp sâu sắc hơn với Thiên Chúa – chia sẻ sự tĩnh lặng của Ngài, qua đó Ngài dạy chúng ta sự khôn ngoan trong “bí mật” của lòng mình: “Con đắc tội với Chúa, với một mình Chúa, dám làm điều dữ trái mắt Ngài.” (Tv 51:6)

Stephen Beale
Trầm Thiên Thu (chuyển ngữ từ CatholicExchange.com)

CANH THỨC CHỜ CHÚA ĐẾN

Bắt đầu từ Chúa Nhật 1 Mùa Vọng hôm nay, toàn thể giáo hội chính thức bước vào Năm Phụng Vụ mới, cùng với lời mời gọi của Chúa Giêsu trong Tin Mừng theo thánh Marcô: “Anh em phải coi chừng, phải tỉnh thức, vì anh em không biết khi nào thời ấy đến.  Vậy anh em phải canh thức, vì anh em không biết khi nào chủ nhà đến: lúc chập tối hay nửa đêm, lúc gà gáy hay tảng sáng, kẻo lỡ ra ông chủ đến bất thần, bắt gặp anh em đang ngủ” (Mc 13, 33, 35-36).

Tại các nhà thờ Đức có một tục lệ rất ý nghĩa là mỗi nhà thờ đều trang điểm vòng hoa Mùa Vọng với những cành thông tươi xanh và bốn cây nến, tượng trưng cho 4 Chúa nhật Mùa Vọng.  Khởi đầu thánh lễ mỗi Chúa nhật, đang khi cộng đoàn hát bài Mùa Vọng, cây nến được thắp sáng.  Chúa nhật thứ nhất thắp sáng một cây.  Chúa nhật thứ hai thắp sáng hai cây.  Khi cả bốn cây được thắp sáng, thì đại lễ giáng sinh cũng đã gần kề.  Tục lệ này cũng được lan rộng trong nhân gian, tới hầu hết các công sở, các gia đình.  Nơi nào cũng bầy vòng thông Mùa Vọng với đủ loại nến mầu đỏ, tím…

Như vậy ý nghĩa thứ nhất trong Mùa Vọng là mùa canh thức chuẩn bị tâm hồn để đón mừng Chúa Giáng Sinh.  Trọng tâm của lịch sử và Tin Mừng cứu độ chính là biến cố: Thiên Chúa xuống thế làm người để cứu nhân độ thế.

Ngày giáng trần của Chúa Giêsu phải được đón mừng vì đây là Biến Cố có một không hai trong lịch sử cứu độ: nhờ Ngôi Lời nhập thể làm người thì vũ trụ vạn vật lại được đổi mới (TNKB, s. 3).  Kể từ Biến Cố này, Trời giao hòa với Đất, nhân loại được Thiên Chúa yêu thương và toàn thể vũ trụ được đón nhận TIN Mừng cứu độ.  Chính vì thế, Biến cố Giáng Sinh của Chúa Giêsu đã trở nên Trung Tâm điểm của lịch sử nhân loại, mốc điểm thời gian.

Theo Kinh Thánh, canh thức là thái độ của một người “đang tỉnh thức chờ đợi”, không ngủ mê, không thụ động, nhưng canh chừng, luôn phòng bị để kịp đối phó với kẻ địch tấn công bất ngờ (Tv 127, 1t), lòng nhiệt tâm chu toàn trách nhiệm hiện tại, biết nhận ra những dấu chỉ thời đại, khám phá ra thánh ý Thiên Chúa, kiên tâm phục vụ trong yêu thương, đang khi ngóng chờ một biến cố sắp xẩy đến… sẵn sàng đón tiếp Chúa, khi Ngày của Ngài điểm.

Đây là lời khuyên nhủ, dặn dò chính yếu của Chúa Giêsu dậy các môn đệ của Ngài.  Vì Chúa đến bất chợt như kẻ trộm ban đêm (Mt 24,43t), như ông chủ trở về mà không báo cho các đầy tớ biết (Mt 13,35t), như chàng rể đến lúc canh khuya, và chỉ năm cô trinh nữ khôn ngoan đang canh thức với đèn đầy dầu, mới kịp ra đón rước chàng rể vào dự tiệc cưới (Mt 25, 1-13).

Vậy canh thức là đặc tính căn bản, là thái độ sắp sẵn của người môn đệ Chúa, để chỗi dậy khỏi giấc ngủ đam mê, nghĩa là dứt khoát với tội lỗi, dứt bỏ trần thế và những đam mê dục vọng (Lc 21, 34tt).  Canh thức là hoán cải và trở về với Chúa, không nằm lì trong tội ác, không cứng lòng và khinh thường tiếng mời gọi thống hối của Chúa.  Canh thức trong cầu nguyện, tiết độ, không chè chén say sưa, không cờ bạc, không say đắm nhục dục… quyết không để “ba cái lăng nhăng” nó quấy ta!

Canh thức để nhận diện ra kẻ thù và chiến đấu với thần dữ.  Trong giờ kinh tối, các linh mục và tu sĩ thường đọc: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé” (1P 5,8).  Ma quỷ có thể ẩn hiện trong những phim ảnh xấu, những sách báo đồi trụy, ma túy… những dịp tội gần xa đưa chúng ta xa Chúa, lạc đường về Quê Trời.

Canh thức để phân biệt phải trái: đừng bị ru ngủ, bị đầu độc, bị tuyên truyền bởi óc hưởng thụ, bởi tinh thần vị kỷ cá nhân, bởi các học thuyết vật chất vô thần, bởi những ông đạo buôn thần bán thánh, bởi những mê tín dị đoan, bởi những quảng cáo quyến rũ, những truyền đơn loan tin thất thiệt ngày tận thế…

Canh thức để khỏi bị chán nản, ngã lòng nản chí, bỏ cuộc.  Có những tín hữu gặp thử thách trong đời sống gia đình, gặp những khó khăn về vật chất, bị đau ốm lâu dài… đã nản lòng, kêu trách Chúa, và nhiều khi bỏ nhà thờ, bỏ cầu nguyện, bỏ Giáo hội!

Canh thức trong cầu nguyện theo gương Chúa trong vườn cây dầu.  Cầu nguyện ở đây được hiểu là cầu kinh sớm tối.  Cầu nguyện là đọc và suy gẫm Lời Chúa trong Thánh Kinh.  Cầu nguyện có thể là lần chuỗi Mân Côi, miệng đọc lòng suy.  Cầu nguyện cao đẹp nhất là tham dự thánh lễ Chúa nhật…  Tất cả những hình thức cầu nguyện trên đây, giúp người tín hữu luôn hiệp thông với Chúa, tâm hồn luôn lắng nghe những “thánh chỉ” của Chúa.

Canh thức để trung tín giữ luật Chúa: luật yêu thương, luật công bằng.  Trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống, người tín hữu hằng để luật Chúa như đèn soi, như kim chỉ nam cho mọi ước muốn, mọi tư tưởng, mọi lời nói và việc làm của mình.

Canh thức để phục vụ anh em: người tín hữu luôn được Chúa mời gọi để sống đời phục vụ trong bác ái và trong yêu thương.  Đời sống gia đình là môi trường phục vụ lý tưởng nhất.  Vợ chồng Kitô hữu hiến thân cho nhau, tha thứ cho nhau, biết tận tâm giáo dục con cái, biết dùng của cải Chúa ban để mưu sống gia đình, nhưng đồng thời cũng biết chia cơm sẻ bánh cho anh em nghèo đói kém may mắn hơn trên khắp thế giới.  Mỗi tín hữu còn được Chúa mời gọi để phục vụ cộng đồng, các giáo xứ, Hội Thánh, tùy theo khả năng và hoàn cảnh.

Canh thức để đón chờ Chúa đến.  Tín hữu Chúa Kitô biết rõ ràng rằng: cuộc sống trần gian, tất cả của cải đều mau qua chóng hết, không ai sống mãi, nhưng đi về vĩnh cửu.  Điều chắc chắn là mỗi người chúng ta sẽ có một ngày phải từ giã cõi đời tạm này.  Nhưng chết vào ngày giờ nào, chết cách nào, chết ở đâu?  Chẳng có ai biết được.  Do đó, tín hữu Chúa phải tỉnh thức để đón chờ Chúa đến.

Từ ngày lãnh nhận phép Thánh Tẩy, người tín hữu là con cái của ánh sáng, nên phải luôn tỉnh thức để mình khỏi rơi vào đêm tối của sự chết, không mất mục tiêu, không quên ngày Chúa đến cuối đời của mình…

Lm Bùi Thượng Lưu

  LỜI TẠ ƠN KHÓ NÓI

Lạy Chúa Giêsu, Chúa thường dâng lời tạ ơn với Đức Chúa Cha trước khi làm việc gì:  khi làm phép lạ hóa bánh ra nhiều (Mt 15:36), trong bữa tiệc ly (Mt 26:27), cho La-da-rô sống lại từ cõi chết (Ga 11:41)…  Nhân Mùa Tạ Ơn đến, con cũng muốn bắt chước Chúa để bập bẹ những lời tạ ơn, những lời tạ ơn khó nói nhất của kiếp nhân sinh!  Có những lời tạ ơn thật dễ để nói với nhau và với Chúa.  Nhưng cũng có những lời tạ ơn không thể thốt thành lời nếu không có ơn Chúa.  Phải đợi khi linh hồn con được nuôi dưỡng bằng bao nhiêu ân sủng từ trời cao, đợi khi con đi gần đến hoàng hôn của đời người, thì con mới đủ can đảm nói lên những lời tạ ơn muộn màng này.  Tạ ơn ai?  Tạ ơn hay hờn giận?  Cám ơn hay trách móc?  Tạ ơn Chúa trong nghịch cảnh cuộc đời và những người một thời đã làm con đau khổ.  Khó quá Chúa ơi!  Đôi khi lời được thốt ra trong dòng nước mắt không biết của hờn giận hay của tha thứ.  Đôi khi lời được bập bẹ ở đầu môi, những nghẹn ngào tức tưởi ngăn cho lời không tròn chữ.  Đôi khi lời được bật lên qua con tim rướm máu của vết thương năm xưa chưa lành hẳn.  Dù thật khó để nói, dù ê a tập tành từng chữ như trẻ nhỏ học nói, nhưng Chúa ơi, con sẽ cố gắng để nói…

Cám ơn những người bạn đã phản bội tôi năm nào.  Đau khi bị phản bội!  Nhưng Người đã dạy cho tôi hiểu bài học về tình bạn chân thật là “tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình.” (Ga 15:13)

Cám ơn người yêu đã phụ tình tôi năm xưa.  Hận khi bị phụ rẫy!  Nhưng Người đã dạy tôi biết trân quý tình yêu của Người đã dám “yêu thương đến cùng!” (Ga 13:1)

Cám ơn kẻ thù, những người đã bắn gục tôi trên chiến trường năm nào, đã đẩy tôi lao đao khốn khó trong chốn lao tù năm xưa.  Người đã vô tình tạo cơ hội cho gia đình tôi giờ đây được bình an định cư nơi thiên đường của trần thế, đã cho tôi cơ hội để sống câu: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em.” (Mt 5:44)

Cám ơn những đứa con hoang đã làm cõi lòng mẹ cha tan nát.  Thất vọng, buồn tủi ngập tràn con ơi!  Nhưng con đã cho cha mẹ cơ hội để nên thánh.

Cám ơn những bậc cha mẹ bất hảo đã không yêu thương và dạy dỗ con cái mình như bổn phận đáng phải làm.  Cay đắng khi bị hất hủi mẹ cha ơi!  Nhưng Người đã làm cho trái tim con luôn khát khao tìm kiếm tình yêu nơi Thiên Chúa Tình Yêu.

Cám ơn những vấp ngã của tuổi thanh xuân.  Ngươi đã làm cho ta biết khiêm nhường hơn.

Cám ơn những tội lỗi mà phận người yếu đuối vấp đi phạm lại nhiều lần trong đời.  Ngươi đã cho ta cơ hội cảm nếm lòng nhân từ vô biên của Thiên Chúa.  Ôi, tội hồng phúc!

Cám ơn những quyết định sai lầm thưở nào đưa đến hoàn cảnh ngang trái hôm nay.  Ngươi đã dạy ta biết phấn đấu vươn lên trong nghịch cảnh cuộc đời.

Cám ơn hai chữ “kiếp nghèo” gắn liền với số phận hẩm hiu.  Đôi lúc ta ghét ngươi nhưng ngươi đã làm cho ta dễ dàng tiến vào Nước Trời hơn.  “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó vì Nước Trời là của họ.” (Mt 5:3)

Cám ơn những lần thất nghiệp cay đắng, những lần phá sản, bị lừa gạt, mất nhà, thua stock trắng tay.  Ngươi đã dạy cho ta hiểu nghĩa của cải phù du ở đời này.  “Phù vân, quả là phù vân.  Phù vân, quả là phù vân.  Tất cả chỉ là phù vân!” (Gv 1:2).

Cám ơn những lần thất bại ê chề nhục nhã.  Biết bao bài học ta đã học được từ nơi ngươi.

Cám ơn căn bịnh hiểm nghèo mà ta đang mang.  Nhờ ngươi mà linh hồn ta thức tỉnh phận người mỏng dòn chóng qua.  Ngươi đã giúp ta biết yêu quý những giây phút ít ỏi còn sót lại trên cõi đời tạm này.

Tạ ơn Chúa vì những gì Ngài đã lấy đi!

Tạ ơn Chúa vì những trái đắng Ngài đã trao ban, dù con không muốn nhận.

Tạ ơn Chúa vì số vốn quá ít ỏi Ngài cho con khi gởi con đến trong cuộc đời này!  Vì ai đã được cho nhiều thì sẽ bị đòi nhiều.” (Lc 12:48)

Tạ ơn Chúa vì những lần Ngài đã thẳng tay thanh tẩy, gọt dũa linh hồn con mặc cho con dẫy dụa đau đớn.

Tạ ơn Chúa vì tấm thân mệt mỏi bịnh hoạn, những lo toan vất vả trong cuộc sống khiến con không còn sức để bon chen hận thù ghen ghét.

Tạ ơn Chúa vì những lần Ngài đã cương quyết không cho con những cái mà con xin, những thứ con cần, những gì con đang mong đợi, vì chỉ có Ngài mới biết những gì là cần thiết cho linh hồn và ơn cứu rỗi của con.

Tạ ơn Chúa vì những cái chết oan nghiệt, sự ra đi vội vàng của người thân khi tuổi đời còn quá trẻ.  Con biết Ngài muốn nhắc con nhớ rằng “đời sống con chung cuộc thế nào, ngày tháng con đếm đuợc mấy mươi, để hiểu rằng kiếp phù du là thế!” (Tv 39:5).

Tạ ơn Chúa vì những bài học cay đắng mà Ngài đang dạy dỗ con.  Có những bài học con không hiểu hết ý nghĩa.  Có những lúc con muốn thét lên “tại sao là con?”, “tại sao lúc nào cũng lại là con?”    Nhưng con biết rằng chỉ những ai được Người thương yêu thì Người mới sửa phạt vì “Đức Chúa khiển trách kẻ người thương, như người cha xử với con yêu qúy.” (Cn 3:12)

Lạy Chúa, đường đời trước mắt còn giăng đầy chông gai, có bao nhiêu nghịch cảnh thì có bấy nhiêu “Lời Tạ Ơn Khó Nói.”  Có những cái con chưa nhìn ra hết, có những điều con chưa cảm nhận được và có những lời chưa thể thốt nên lúc này.  Xin ban cho con sức mạnh của Ngôi Lời Nhập Thể để con có thể tiếp tục cám ơn anh em mình – dù là kẻ thù – và dâng lời tạ ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh – dù là ngang trái.  Tạ ơn không chỉ trong ngày lễ Tạ Ơn mà là tạ ơn Chúa mọi ngày trong suốt cuộc đời con.  Amen!

Lang Thang Chiều Tím
Mùa Tạ Ơn, 2010

**************************************************

Lời cám ơn nhiều khi không dễ nói
Vì con đây lòng kiêu ngạo ngất trời

Vì con đây tình yêu mến nửa vời
Lời Chúa dạy như là mây sương khói.

Lạy Chúa Giêsu,
Chúa dâng lời tạ ơn khi bẻ bánh
Giúp đời con biết nói câu tạ ơn
Tạ ơn Chúa hồng ân Ngài khôn sánh
Xuống trên con thân xác với linh hồn.

Tạ ơn Chúa bao điều Ngài ban tặng
Tạ ơn Ngài đau khổ Ngài trao cho
Để con biết phải nếm mùi chén đắng
Thập tự Ngài con không được đắn đo.

Tạ ơn Chúa những lần con bịnh hoạn
Dạy cho con cuộc sống vốn bất toàn
Để con biết tịnh tâm và tính toán
Con chọn Ngài hay cuộc sống du hoang.

Tạ ơn Chúa những lần con thất vọng
Vì kêu xin như Chúa không nhậm lời
Để con biết những gì con trông ngóng
Không chắc là lợi ích của hồn con.

Tạ ơn Chúa bao người thân đã khuất
Khi tuổi đời còn chưa được bao nhiêu
Để con biết đời nay còn mai mất
Con chọn Ngài hay cuộc sống hoang liêu.

Xin Chúa giúp dù đời con nghịch cảnh
Lời tạ ơn khó nói đến bao nhiêu
Con vẫn nói lòng không hề kiêu hãnh
Tạ ơn người tạ ơn Chúa thật nhiều.

Lời tạ ơn với kẻ thù đối nghịch
Lời tạ ơn trong ngang trái cuộc đời
Lời tạ ơn trong đêm khuya tĩnh mịch
Lời tạ ơn trên phố xá rong chơi.

Lễ Tạ Ơn hết nhưng cho con biết
Tạ ơn hoài trong năm tháng cuộc đời
Lòng khiêm nhường chân tình và tha thiết
Tạ ơn người tạ ơn Chúa muôn nơi.

(cảm hứng từ bài viết Lễ Tạ Ơn 2010 “Lời Tạ Ơn Khó Nói” do Lang Thang Chìều Tím đăng trên trang website suyniemhangngay.net.)

Nguyễn Thanh Trúc
San Jose, Lễ Tạ Ơn 2012

KHI NÀO CUỘC ĐỜI CHÚNG TA VIÊN MÃN?

Khi nào cuộc đời chúng ta viên mãn?  Đến một lúc nào đó trong đời, chúng ta có thể nói được: “Chính là đây!  Đây là cao điểm!  Từ giờ tôi chẳng thể làm gì hơn thế này nữa.  Tôi đã dốc hết sức mình!”

Lúc nào thì chúng ta nói được như thế?  Sau khi đạt đến đỉnh cao sức khỏe và sức mạnh thể chất?  Sau khi sinh con?  Sau khi nuôi dạy con cái thành công?  Sau khi có một tác phẩm bán chạy?  Sau khi nổi tiếng?  Sau khi thắng chức vô địch lớn?  Sau khi mừng kỷ niệm 60 năm ngày cưới?  Sau khi tìm được tri kỷ?  Sau khi bình an trở lại, thoát được cơn dằn vặt kéo dài?  Khi nào thì chúng ta có thời điểm đó?  Khi nào chúng ta đi đến tận đỉnh con đường trưởng thành?

Nhà thần nghiệm thời trung cổ, Gioan Thánh Giá nói cho rằng chúng ta đạt đến điểm này khi đến được “tâm điểm thâm sâu nhất của mình.”  Nhưng với ngài, tâm điểm thâm sâu nhất trong linh hồn này, lại không giống với quan niệm thường có của chúng ta.  Với thánh Gioan, tâm điểm thâm sâu nhất này chính là điểm tối đa có thể trong sự tiến triển của con người, sự trưởng thành thâm sâu nhất có thể đạt được trước khi chết.  Nếu thật là thế, thì với một bông hoa, tâm điểm thâm sâu nhất, điểm tột đỉnh tiến triển của nó, sẽ không phải là lúc nở hoa, mà là lúc nó chết và tạo thành hạt giống.  Đó là sự tiến triển xa hơn, là thành tựu tối cùng của nó.

Vậy còn điểm tiến triển tối hậu của chúng ta là gì?  Tôi cho rằng chúng ta có khuynh hướng nghĩ nó như một thành tựu tích cực và cụ thể, như thành công trong sự nghiệp, hay một thành tích về thể thao, trí tuệ, hay nghệ thuật đem lại cho chúng ta sự thỏa mãn, công nhận và danh tiếng.  Nhưng nếu nhìn từ quan điểm ý nghĩa sâu xa, có lẽ chúng ta sẽ trả lời theo kiểu khác, nói rằng thành tựu tối hậu của chúng ta là một hôn nhân trọn vẹn, được làm cha mẹ, hay sống cuộc đời phục vụ tha nhân.

Vậy nếu như một bông hoa, khi nào chúng ta sẽ tạo thành hạt giống đây?  Henri Nouwen cho rằng người ta sẽ có những câu trả lời rất khác nhau cho câu hỏi này. “Với một số người, đó là tận hưởng ánh hào quang của danh tiếng, với số khác, là khi họ được hoàn toàn quên lãng, với một số là khi họ đạt đến tột đỉnh sức mạnh, với số khác là khi họ yếu đuối và vô lực, với một số là khi năng lực sáng tạo triển nở, với số khác là khi họ mất hết tự tin vào năng lực của mình.”

Vậy lúc nào thì Chúa Giêsu tạo thành hạt giống của Ngài, sự viên mãn của Ngài?  Với Chúa Giêsu, đây không phải là ngay sau phép lạ làm cho dân chúng kinh ngạc, cũng không phải khi Ngài đi trên mặt nước, hay khi Ngài vang danh khắp cõi Israel đến nỗi dân chúng muốn tôn Ngài lên làm vua.  Không phải như thế.  Vậy lúc nào Chúa Giêsu không còn gì nữa để vươn đến?

Và Henri Nouwen lại một lần nữa cho chúng ta câu trả lời này.  “Tuy nhiên, chúng ta biết một điều, với Con Người, mọi sự đến hồi viên mãn, khi Ngài mất hết tất cả, mất quyền uy để lên tiếng và chữa lành, mất sự thành công và tầm ảnh hưởng, mất môn đệ và bạn bè, thậm chí là mất cả Chúa của mình.  Khi Ngài bị đóng đinh trên cây thập tự, bị tước hết phẩm giá con người, Ngài biết rằng mình đã đến thời điểm đó, và nói, ‘Mọi sự đã hoàn tất!’”

Chữ hoàn tất ở đây có gốc Hy Lạp là Tetelesti.  Đây là một diễn đạt được các họa sĩ dùng để nói rõ rằng tác phẩm đã hoàn thiện và không thêm thắt gì nữa.  Nó còn được dùng để thể hiện việc gì đó đã xong.  Ví dụ như, chữ Tetelesti được đóng dấu trên các bản án sau khi phạm nhân đã mãn hạn tù, còn được ngân hàng dùng đóng trên giấy ghi nợ đã trả xong, được gia nhân dùng khi báo cáo với chủ đã hoàn thành công việc, và được các vận động viên thốt lên khi băng qua vạch đích.

Đã hoàn tất!  Một bông hoa chết đi để tạo thành hạt giống, nên cũng hợp lý khi đây là những lời cuối cùng của Chúa Giêsu.  Trên thập giá, vẫn trung tín đến cùng với Chúa Cha, với lời của mình, với lòng yêu thương mà Ngài đã giảng dạy, Ngài thôi sống và bắt đầu chết, và đấy là khi Ngài tạo thành hạt giống của mình, khi thần khí Ngài bắt đầu ngấm vào thế giới.  Ngài đã đến tâm điểm thâm sâu nhất của mình, cuộc đời Ngài đã viên mãn.

Vậy khi nào chúng ta thôi sống và bắt đầu chết?  Khi chúng ta đi từ đóa hoa nở rộ đến tạo thành hạt giống?  Nhìn qua, thì dĩ nhiên là khi sức khỏe, uy lực, danh tiếng và sự thu hút của chúng ta bắt đầu suy giảm và mờ nhạt đi, bị đẩy dần ra rìa và xuống dốc.  Nhưng khi nhìn qua lăng kính cuộc đời Chúa Giêsu, thì chúng ta thấy rằng khi mờ nhạt đi, như một bông hoa đã qua thời điểm bung nở, chúng ta bắt đầu tạo ra một sự gì đó còn hấp dẫn hơn cả nở hoa.  Đó là khi chúng ta có thể nói, “Đã hoàn tất!”

Rev. Ron Rolheiser, OMI

LỄ KITÔ VUA: DỤ NGÔN HAY MÔ TẢ THẬT

Ngày lễ Kitô Vua, ta tưởng sẽ bắt gặp những đoạn sách thánh với đầy ắp những thuật ngữ của cung đình như Bệ Hạ, Bề tôi, Hạ thần, Triều thiên, Vương miện, thần dân, lãnh thổ, Vương Quốc… (bởi lẽ thời Cựu ước đầy dẫy các vị vua như Saule, Đavít, Salomon…).  Nhưng Giáo Hội lại cho đọc trong bài I, Cựu Ước: một vị vua mục tử, tức vị vua đi chăn chiên.  Trong bài đọc II, trích thư 1Cr, 15, có bóng dáng từ chiến thắng, vương quốc, nhưng lại là thắng xác chết (kẻ thù cuối cùng bị tiêu diệt là sự chết) và Vương quốc trao cho Chúa Cha thì mắt trần chẳng thấy đường biên lãnh thổ.  Còn trong bài Phúc Âm, Giáo Hội cho xuất hiện một vị vua thẩm phán xét xử, nhưng lại xét xử dựa trên những chuyện nhỏ mọn bình thường, ba cái lặt vặt, chứ chẳng động gì đến những chuyện lớn lao như hằng trăm ngàn tỉ (cỡ Vinashin), hoặc buôn lậu trốn thuế vỡ nợ, bể hụi v.v…; và một vị vua thẩm phán xét xử nhưng lại đồng hoá chính mình với kẻ ăn xin.

Câu hỏi mà chúng ta sẽ phải trả lời là: Bài Phúc Âm của Mt 25 nói về ngày phán xét chung, phân biệt hai hạng người bên tả bên hữu, dê với chiên, đó là dụ ngôn nói bóng nói gió hay là mô tả trước ngày phán xét chung sẽ diễn ra như vậy.

Có ba trả lời cho câu hỏi trên.  Trả lời nào cũng có tên tuổi của các nhà chú giải Kinh thánh nổi tiếng cả.

1. Không phải là Dụ ngôn, nhưng là mô tả tiên tri, báo trước ngày chung thẩm

Đức Kitô Vua sẽ xét xử thần dân của muôn thiên hạ dựa trên những việc bác ái yêu thương mà họ làm cho nhau. Bởi vì cái cốt lõi của Kitô giáo, giới răn mới của Đức Kitô là Yêu thương. Mười điều răn cũng tóm về “hai này mà chớ”, trước mến Chúa, sau yêu người.  Mà theo Tin Mừng Gioan, ai nói mến Chúa mà không yêu người là nói dối, vì thế Vua Kitô sẽ xét xử theo luật.  Luật Tình yêu trong những việc cụ thể: cho kẻ đói ăn, kẻ khát uống…

Những chi tiết này rất khớp với “thương người có 14 mối: Thương xác 7 mối”: thứ nhất cho kẻ đói ăn, (2) khát uống, (3) rách rưới ăn mặc, (4) viếng kẻ liệt cùng kẻ tù rạc, (5) cho khách đỗ nhà, (6) chuộc kẻ làm tôi, (7) chôn xác kẻ chết…

2. Chỉ là dụ ngôn

Nhưng lối giải đáp trên cũng gặp vài khó khăn lớn: Bởi nếu số phận đời đời của mình chỉ tuỳ thuộc vào những hành vi bác ái làm cho người khác mà mình làm cũng chẳng cần biết là làm cho chính Chúa, vẫn được vào hưởng Nước Trời, thì địa vị của Đức Tin nằm ở đâu.  Trong khi Tin là một điểm Chúa Giêsu rất nhấn mạnh: Ai tin thì sẽ được cứu rỗi – Ai tuyên xưng Ta trước mặt người đời thì Ta sẽ tuyên xưng người ấy trước mặt Cha Ta.

Nếu phán xét chỉ nhắm vào các việc bác ái, thì ta cứ hùng hục giúp người đói khát đi.  Chẳng cần vào Đạo làm chi, chẳng cần đến nhà thờ làm gì, vì Chúa Kitô Vua đâu có hỏi trong ngày phán xét: người đi nhà thờ tuần mấy lần.  Một năm xưng tội mấy keo?  Ăn chay mỗi năm mấy bận?

Lại còn những câu nói khác cũng của Vua Kitô thẩm phán.  Ai tha thứ sẽ được thứ tha (tha thứ chứ đâu phải là cho ăn cho mặc).  Anh em đừng xét đoán thì sẽ không bị xét xử (không xét đoán đâu phải là cho uống cho ăn), mà vẫn được trắng án, cho qua, không xét xử.

Lại còn những tội trong tư tưởng không bị Vua Kitô Đấng thấu suốt mọi tư tưởng trong tâm hồn, không xét xử các tội đó hay sao?  (Ngài nói: nhìn người nữ mà ước ao phạm tội là đã phạm tội rồi)… Tức là nếu ta cứ vung tiền ra cho kẻ đói ăn, khát uống, mà trong lòng ta chẳng thương người chút nào, thì có được xếp vào bên hữu không?

Vì thế, người ta lại coi đoạn Tin Mừng này cũng chỉ là Dụ ngôn, nhằm nói lên một khía cạnh của Nước Trời như 3 dụ ngôn mà Matthêu kể liền trước đó: Chủ nhà và quản gia tỉnh thức, 10 trinh nữ, các nén bạc.

Dụ ngôn 1 là chủ nhà và quản gia tỉnh thức, vì chủ không biết giờ nào kẻ trộm đến, còn quản gia không biết giờ chủ trở về.  Phải tỉnh thức kẻo chủ sẽ ném vào nơi khóc lóc nghiến răng.

Dụ ngôn 2 là Nước Trời giống 10 Trinh nữ đi đón chàng rể, trong đó 5 cô khờ dại và 5 cô khôn ngoan. 5 cô được gọi là khôn ngoan đâu có phải vì tỉnh thức, cũng ngủ cả, nhưng khôn vì có đem theo dầu.  Dầu, chàng rể, đèn đều là những ẩn ý của dụ ngôn, chứ Nước Trời thật mà như vậy thì hãng dầu nhớt Castrol sẽ không còn dầu để bán, bởi ai trước khi chết cũng sắm cho bằng được một can dầu lửa đốt đèn “Hoa Kỳ”!

Đến dụ ngôn 3: những nén bạc: Khi vua trở lại sẽ tính sổ: cho coi 10 thành, 5 thành, hay phải vào nơi khóc lóc.  Nén bạc, 5 thành, 10 thành … đều là những ẩn ý của dụ ngôn.  Câu cuối của dụ ngôn này (25, 30) khi vua nói với đầy tớ chôn nén bạc không sinh lợi: Hãy tống nó vào nơi tối tăm, ở đó chỉ toàn khóc lóc nghiến răng (câu 30).  Thì câu 31 là khởi đầu bài Tin Mừng mà anh chị em nghe hôm nay: Khi Con Người hiện đến trong vinh quang có thiên thần hầu cận để xét xử.  Chính vì có một loạt các dụ ngôn liên tiếp nhau như vậy, mà một số các nhà chú giải coi đây cũng là một dụ ngôn chứ không phải miêu tả sự thật.

3. Dụ ngôn nghĩa rộng

Nếu chỉ xem đoạn tả trong bài Tin Mừng hôm nay chỉ là một dụ ngôn thuần tuý, tức là một ví dụ cho dễ hiểu thì sẽ có nguy cơ xem thường các hành động yêu thương là cốt lõi của đạo Bác ái.  Vì thế lời giải thứ ba cho câu hỏi: “Bài Tin Mừng này là dụ ngôn hay mô tả thật” sẽ là: Đây là Dụ ngôn theo nghĩa rộng.

– Bởi dụ ngôn có thể là lời tuyên phán long trọng: Những gì từ ngoài vào không làm cho người ta ra nhơ uế.  Nhưng chính cái từ trong con người phát ra mới làm cho nhơ nhớp.

– Dụ ngôn cũng có thể là lời khuyên về cách xử thế: khi đi dự tiệc anh em đừng ngồi vào chỗ nhất.

– Dụ ngôn cũng có thể ám chỉ một hạng người nào đó.  Có 2 người lên đền thờ cầu nguyện: Biệt Phái và người Thu Thuế.

– Dụ ngôn cũng có thể chỉ là một câu tục ngữ: Thầy thuốc hãy chữa lấy mình.

– Hay dụ ngôn thường là những so sánh, ví dụ, ví dầu cầu tre lắt lẻo.  Nước Trời như hạt cải, như nắm men, mẻ lưới…

Vì thế dụ ngôn theo nghĩa rộng vừa là hình bóng ví von vừa là sự thật được mô tả.

Như dụ ngôn hôm nay: phân biệt Chiên và Dê là hình bóng.  Xét xử về bác ái là sự thật.  Nhưng cũng vì là dụ ngôn nên cũng chỉ nói lên một phần nào đó của Nước Trời của thời Cánh chung của ngày Phán xét, tức là Bác ái yêu thương cũng chỉ là một trong nhiều khía cạnh mà Vua Kitô sẽ dựa vào mà xét xử.  Và có lẽ là để xét xử “muôn dân,” những người chưa biết Chúa: “Lạy Chúa có bao giờ con thấy Chúa…” Còn người Kitô hữu chúng ta, có nhiều con đường khác nữa để chúng ta có thể lọt vào cửa Nước Trời như can đảm tuyên xưng Ngài (10,30), thi hành ý Cha trên trời (7,21); sẵn sàng tha thứ (6,14), không đoán xét ai (7,1) v.v…

Một nét sự thật nữa trong dụ ngôn này là Vua Kitô đồng hoá mình với người mọn hèn nhất.

Mỗi lần anh em làm như thế cho kẻ bé nhỏ nhất của Ta là anh em làm cho chính Ta.  Brewer Mattocks đã có một bài thơ đại ý như sau: Một cha xứ nọ muốn trèo lên tận ngọn tháp nhà thờ để gần với mây trời thì gặp được Chúa dễ hơn vì Ngài sẽ ngự đến trong mây trời.  Cha xứ hi vọng giơ tay với được Lời Ngài để đem về cho Dân Chúa.  Thế rồi một ngày từ tháp cao linh mục nghe tiếng Chúa.  Cha xứ vội kêu lên “Lạy Chúa, Chúa ở đâu – Lạy Chúa, Chúa ở đâu” và cha xứ nghe vọng lại tiếng Chúa: “Ta ở ngay dưới kia, trong từng người Dân Ta”.

Một linh mục trông coi xứ nọ
muốn trèo lên ngọn tháp Nhà Thờ
để, càng cao dễ gặp Chúa Trời
đem Lời Người xuống cho Dân mong chờ
Một hôm nọ cha nghe tiếng Chúa,
cha vui mừng hỏi Chúa ở đâu
Lời Ngài vọng lại từ cao:
Con ơi Ta ở nơi từng người Dân Ta.

Lm. Anphong Nguyễn Công Minh, ofm

Ý NGHĨA CỦA VIỆC CẦU NGUYỆN CHO CÁC LINH HỒN

Khi thời tiết trở nên se lạnh và những chiếc lá mùa thu bắt đầu rơi rụng cũng là lúc chúng ta nhớ đến những người thân yêu của mình, những người mà ngày nào đó vẫn còn ở bên cạnh ta nhưng nay không còn hiện diện với ta nữa.  Để nhớ đến các ngài, Giáo Hội Công Giáo dành trọn tháng 11 để cầu nguyện cho các tín hữu đã qua đời.  Tháng này bắt đầu với Lễ Các Thánh và Lễ Cầu Nguyện Cho các Linh Hồn, chúng ta gọi tháng này là tháng cầu nguyện cho các linh hồn trong luyện ngục.

Việc cầu nguyện cho những người đã khuất có nguồn gốc từ Cựu ước.  Trong sách Maccabê ghi lại sự kiện này như sau: “Thực thế, nếu ông không hy vọng rằng những chiến binh đã ngã xuống sẽ sống lại, thì cầu nguyện cho người chết quả là việc dư thừa và ngu xuẩn.  Nhưng vì ông nghĩ đến phần thưởng rất tốt đẹp dành cho những người đã an nghỉ trong tinh thần đạo đức.  Ðó là lý do khiến ông đến dâng lễ tế đền tạ cho những người đã chết, để họ được giải thoát khỏi tội lỗi” (2 Mc 12, 44-46).

Giáo hội từ những thế kỷ đầu đã có truyền thống cầu cho các tín hữu đã qua đời, truyền thống này được cho là khởi đi từ Thánh Augustinô.  “Nếu chúng ta không lưu tâm gì đến người chết, thì chúng ta sẽ không có thói quen cầu nguyện cho họ.”  Tuy nhiên, mãi đến thế kỷ thứ 10, việc cử hành thánh lễ này được tổ chức vào tháng 10.  Khoảng từ năm 988 – 1030, thánh Ôđilô tuyên bố rằng thánh lễ này nên được tổ chức vào ngày 2 tháng 11 trong tất cả các đan viện của Dòng Biển Đức.  Hơn hai thế kỷ sau, tất cả các đan viện của Dòng Biển Đức và Dòng Carthusian tổ chức thánh lễ này vào ngày 2 tháng 11, sau đó truyền thống này được lan rộng trong toàn Giáo hội cho đến ngày nay.

Với truyền thống kính nhớ tổ tiên ông bà, các Tín hữu Công Giáo Việt Nam rất coi trọng tháng này.  Mỗi gia đình thường lau dọn những phần mộ của người thân, xin lễ cầu nguyện, làm việc lành, và nhất là dọn mình lãnh ơn toàn xá để chỉ cho các linh hồn.  Tất cả những gì chúng ta làm là để tìm ơn ích cho các linh hồn, đặc biệt là linh hồn những người thân yêu.  Tại sao những người đang sống lại có thể cầu nguyện cho các linh hồn, và liệu họ có cần lời cầu nguyện của chúng ta không?

Trước hết, truyền thống cầu nguyện cho các linh hồn khởi đi từ giáo thuyết của Giáo hội Công Giáo về Luyện ngục.  Mạc Khải của Thiên Chúa cho chúng ta thấy rằng Thiên Chúa là Đấng đầy lòng thương xót nhưng Ngài cũng là Đấng phán xét công minh.  “Do đó, tội lỗi, vì xúc phạm đến sự thánh thiện và công chính của Thiên Chúa, nên đã sinh ra những hình phạt.  Những hình phạt này được đền bù ở đời này hoặc đời sau.  Quả thế, trong Luyện ngục, các linh hồn “chết trong tình yêu của Chúa và thực tình sám hối, trước khi đền bù cân xứng với tội phạm, phải “thanh tẩy sau khi chết” bằng những khổ hình trong Luyện ngục.”[1]  Tuy Luyện ngục là nơi thanh luyện nhưng Người Công Giáo tin rằng Luyện ngục cũng chính là nơi mà Thiên Chúa diễn tả tình thương của mình dành cho con người, Ngài khao khát tẩy rửa linh hồn chúng ta để chúng ta có thể thông hiệp trọn vẹn với Ngài trong Thiên Quốc.  Hơn nữa, vì Thiên Chúa là Tình Yêu, nên lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa còn lớn hơn sự phán xét công minh của Ngài; vì thế, nhờ sự chuyển cầu của những người còn sống những linh hồn ở trong luyện ngục có thể thoát khỏi các hình phạt do tội gây ra.

Thứ hai, với tư cách là những Ki-tô hữu, chúng ta không thực hiện hành trình đời mình một cách đơn lẻ nhưng cùng với toàn thể anh chị em trong cộng đoàn những người tin.  Sự thông hiệp này không chỉ được diễn tả giữa những người còn sống, mà với cả những người đã qua đời, đây gọi là mầu nhiệm “Các Thánh Cùng Thông Công.”  Theo đó, Hội thánh theo nghĩa rộng gồm ba thành phần: Giáo hội lữ hành (tại thế), Giáo hội khải hoàn (chiến thắng), Giáo hội thanh luyện (khổ đau).  Trong Tông Huấn Giáo Lý Ân Xá, (Indulgentiarum Doctrina) do ĐTC Phaolô VI ban bố ngày 1 tháng 1 năm 1967 xác nhận rằng: “Người Công giáo tương trợ lẫn nhau để đạt đến cùng đích siêu nhiên.  Chứng cớ sự tương trợ này thể hiện nơi Adam, từ ông, tội lan ra mọi người.  Nhưng ta có sự tương trợ lớn nhất, hiệu quả nhất, được đặt trên nền tảng và gương mẫu của Chúa Kitô, liên kết chúng ta với Đấng kêu gọi chúng ta.” [2]  Thật vậy, trong toàn thân thể Giáo hội, tất cả chúng ta được liên kết với nhau nhờ liên kết với Đầu là chính Đức Ki-tô. “Đời sống mỗi người con cái Thiên Chúa trong Chúa Kitô và qua Chúa Kitô được liên kết cách lạ lùng với các anh chị em tín hữu khác trong sự hợp nhất linh thiêng của Nhiệm thể Chúa Kitô, trở thành một nhiệm thể duy nhất.” [3]

Như vậy, trong những ngày lễ này, chúng ta không chỉ nhớ đến những người đã khuất mà còn được mời gọi để cầu nguyên, bố thí và dâng thánh lễ để cầu nguyện cho các ngài.  Đó là một ân huệ cũng như là một cơ hội để diễn tả tình yêu vốn được xem là bản chất của người Ki-tô hữu.

Trước hết, đó là một ân huệ vì qua hành vi này ta thấy được tình yêu lớn lao Thiên Chúa dành cho chúng ta, Ngài luôn luôn kiên nhẫn với những yếu đuối và giới hạn của con cái mình.  Ân sủng của Ngài luôn mở ra cho những ai sẵn sàng đón nhận.  Hơn nữa, khi cầu nguyện cho những người đã qua đời, chúng ta cũng xác tín rằng, đến lượt chúng ta, chúng ta cũng sẽ được đón nhận những ân huệ của Thiên Chúa ngang qua lời cầu nguyện của người thân.  Ngoài ra, khi nhờ lời cầu nguyện của chúng ta, các linh hồn trong luyện ngục được giải thoát khỏi hình phạt và trở về bên Chúa.  Ở bên cạnh Chúa, đến lượt mình, các ngài sẽ chuyển cầu cho chúng ta.  Như thế nhờ vào sự chung hiệp này, chúng ta có một cách thế chắc chắn để cầu xin cho chính bản thân mình.

Thứ đến, việc cầu nguyện cho các người đã khuất là một cơ hội cho mỗi người Ki-tô hữu diễn tả tình yêu của mình đối với tha nhân.  Tình yêu đó trước hết được dành cho những người thân yêu của mình. Những người mà ta vẫn hằng nhớ đến trong lời cầu nguyện cho dù họ đã rời xa ta.  Nhờ sự thông hiệp này, mối dây giữa ta với người thân dường như không bao giờ bị cắt đứt.  Tình yêu này không chỉ giới hạn nơi những người thân mà còn được nới rộng đến những linh hồn mà ta không biết đến tên của họ.  Việc cầu nguyện này cho chúng ta thấy rằng, tình yêu của người Ki-tô hữu vượt qua mọi ranh giới.  Vì thế, tình yêu này cũng nhắc nhớ những người đang sống về mầu nhiệm hiệp thông trong thân thể Chúa Ki-tô.  Tình yêu này được diễn tả một cách rõ ràng khi những người còn sống lãnh nhận được ơn ân xá nhưng lại muốn nhường lại cho các linh hồn.  Đức Phaolô VI đã diễn tả đức ái đó như sau: “Việc sử dụng ân xá cho ta thấy mình gần gũi với nhau trong Chúa Kitô, và đời sống siêu nhiên có thể giúp nhau dễ dàng và gần gũi kết hợp với Chúa Cha.  Dùng ân xá có ảnh hưởng cách hữu hiệu trên đức Ái nơi chúng ta, và tỏ ra đức Ái cách trổi vượt khi ta nhường ân xá cho những anh chị em đã ly trần trong Chúa Kitô.” [4]

Nguyễn Minh Triệu SJ
[1] Tông Huấn Giáo Lý Ân Xá, (Indulgentiarum Doctrina), số 3.
[2] ibid số 4.
[3] ibid, số 5.
[4] ibid, số 9

BÀI GIẢNG LỄ KÍNH CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM

Kính thưa cộng đoàn,

Ngày 19-6-1988 đã in một nét son trong lịch sử Giáo Hội Công giáo tại Việt Nam.  Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã tôn phong 117 vị chân phước tử đạo tại Việt Nam lên hàng hiển thánh, gồm 96 người Việt Nam và 21 vị thừa sai ngoại quốc.  117 thánh tử đạo là con số tiêu biểu cho hơn 100 ngàn Vị Tử Đạo trong thời gian 300 năm Giáo Hội bị bách hại.  Đây là một biến cố quan trọng đối với Dân tộc Việt Nam.  Người Việt Nam vốn đã tự hào về một truyền thống kiên cường trong việc dựng nước và giữ nước, nay càng tự hào hơn vì có những bậc tiền nhân anh hùng kiên vững trong Đức tin.  Quê hương Việt Nam đã xinh đẹp, nay còn xinh đẹp hơn nhờ được tô điểm bằng Đức tin Công giáo.

Tại Quảng trường Đền thờ Thánh Phêrô ở Rôma hôm đó, trước hàng triệu tín hữu, trong số đó có những tín hữu Việt Nam, Vị Cha chung của Giáo Hội Công giáo hoàn vũ đã nhân danh Chúa Ba Ngôi long trọng tuyên bố: kể từ nay, 117 vị Tử đạo Việt Nam được kể vào hàng các thánh và được tôn kính trong toàn thể Giáo Hội.  Để bày tỏ tình thương hiền phụ đối với các tín hữu Việt Nam, vị Thánh Giáo Hoàng đã ngỏ lời với con cháu các thánh Tử đạo bằng ngôn ngữ của họ.  Đây là lần đầu tiên tiếng Việt thân thương của chúng ta được phát âm và xướng lên bởi một vị Giáo Hoàng: “Chào anh chị em Việt Nam thân mến.  Cha gửi lời chào chúng con từ bốn phương trời tuốn về La Mã, vui vẻ hiên ngang mừng các thánh Tử đạo của Giáo Hội chúng con hôm nay.  Xin Chúa chúc lành cho chúng con, và Cha cầu chúc cho chúng con sống xứng đáng là con cháu các vị anh hùng.”

Đã 26 năm từ sự kiện phong thánh, những lời của vị Cha Chung ngỏ lời với con dân Việt vẫn còn vang vọng đâu đây trong tâm khảm của các tín hữu Việt Nam đang sống trong nước cũng như ở hải ngoại.  Bởi lẽ, qua những lời đơn sơ ấy, vị Thánh Giáo Hoàng muốn mời gọi chúng ta tưởng nhớ về một quá khứ đau thương hào hùng của Giáo Hội Công giáo Việt Nam, đồng thời khuyên chúng ta học nơi các ngài bài học sống Đức tin trong cuộc sống hiện tại hôm nay.

Thứ nhất, hồi tưởng về quá khứ.  Giáo Hội công giáo Việt Nam đã trải qua những thử thách đau thương khốc liệt, giống như cộng đoàn tín hữu tiên khởi tại Rôma ở thế kỷ thứ hai.  Hơn một trăm ngàn người Việt Nam đã phải hy sinh mạng sống chỉ vì một lý do là họ tin vào Chúa.  Họ phải chịu biết bao đau khổ và nhục hình: phân biệt đối xử, phát vãng lưu đày và tử hình.  Có thể thế hệ hôm nay sẽ đặt câu hỏi: các Thánh Tử đạo Việt Nam là những ai?  Thưa họ là những giám mục, linh mục, tu sĩ chủng sinh; họ là những người cha, người mẹ, những người con trong gia đình; họ là những người học hành uyên bác nhưng phần lớn trong số họ là những người bình dân; đa phần trong số họ là những người chân lấm tay bùn, vất vả quanh năm với con trâu, cái cày.  Trong số họ cũng có 21 vị là người ngoại quốc.  Các ngài đến từ những đất nước văn minh và đã chọn Việt Nam là quê hương thứ hai của mình.  Các Thánh Tử đạo Việt Nam, không phân biệt Tây hay Ta, nam hay nữ, giàu hay nghèo, trí thức hay bình dân.  Tất cả đều yêu mến Chúa, yêu quê hương Việt Nam và yêu Giáo Hội Việt Nam đến mức sẵn sàng đổ máu đào để làm chứng cho tình yêu ấy.  Vì thành kiến và thù ghét, người ta đã nghĩ ra biết bao hình khổ ghê rợn hầu làm họ chối bỏ Đức tin, nhưng các ngài vẫn can đảm kiên trung trước lời đe dọa của những nhà cầm quyền.

Chủng sinh 18 tuổi, Tôma Trần Văn Thiện, đã nói với quan: “Đạo dạy tôi thờ Thiên Chúa là đạo thật, tôi sẵn sàng chịu chết chứ không bỏ đạo.”  Thấy Tôma Thiện là một chàng trai trẻ có khuôn mặt khôi ngô tuấn tú, quan muốn nhận làm con rể mình, và sẽ đứng ra lo liệu cưới xin.  Nhưng ngài đã từ chối: “Tôi chỉ mong chức quyền trên trời, chứ không màng đến quyền chức trần thế.”  Thánh Tôma đã thấu hiểu lời Đức Kitô trong Tin mừng Luca: “Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy.  Vì người nào được cả thế giới mà phải đánh mất chính mình hay là thiệt thân, thì nào có lợi gì?”  Sách viết về cuộc đời của các Thánh Tử đạo còn kể lại biết bao chứng tá anh hùng của các ngài.  Các ngài không sợ hình phạt, chỉ sợ mất nghĩa cùng Chúa.  Đi ra pháp trường mà các ngài vui vẻ như đi dự hội.  Với các thánh Phạm Khắc Khoan, Nguyễn Văn Hiếu và Đinh Văn Thanh, các ngài đã chia bè và hát kinh Tạ Ơn “TE DEUM” bằng tiếng Latinh ngay trong nhà giam.  Rồi khi ra pháp trường để chịu tử hình, các ngài lại hát bài ca “Alleluia” như trong đêm vọng Phục Sinh.  Chỉ có một Đức tin kiên trung và lòng phó thác trọn vẹn mới có thể đem lại cho các ngài nghị lực và niềm vui như vậy.

Sống đạo đức thánh thiện và trung thành với Đức tin, các ngài còn là những người sống bác ái với mọi người.  Lịch sử các Thánh Tử đạo còn ghi lại thánh y sĩ Phan Đắc Hòa.  Ngài đã sẵn sàng chữa bệnh miễn phí cho người nghèo, sẵn lòng cứu giúp những người túng thiếu.  Hay thánh Martinô Thọ, Ngài thường trồng vườn dâu để có thêm thu nhập giúp người nghèo.  Cụ trùm Đích thì thường xuyên góp nhặt tiền bạc để đi thăm viếng trại cùi và nuôi nấng những người dịch tả trong vùng.  Còn với quan Hồ Đình Hy, ngài luôn giúp đỡ những người bơ vơ, mồ côi ngay ở trong nhà, và khi họ qua đời thì lo an táng đàng hoàng như một người bình thường.

– Ôn lại quá khứ, chúng ta là những tín hữu Công giáo Việt Nam học những bài học cụ thể cho cuộc sống hôm nay.  Quả vậy, lòng tự hào về các bậc Tiền Nhân không phải chỉ được ghi lại trong những pho sách sử mà thôi.  Chúng ta ôn lại truyền thống hào hùng được ghi dấu và thấm đẫm máu đào, không giống như chỉ ôn lại một sự kiện lịch sử xa vời, dù rất đẹp nhưng khô cứng và vô hồn.  Chúng ta tự hào về các Thánh Tử Đạo cũng không giống như kiểu lấy công phúc của các ngài để làm vinh dự cho chúng ta.  Việc ôn lại chứng tá của các Thánh Tử đạo nhắc nhớ mỗi người dân Việt, nhất là những tín hữu Công giáo Việt Nam, dù sống trên miền đất nào, cũng cố gắng noi theo lòng đạo đức của các ngài, gìn giữ Đức tin kiên trung vào Chúa, yêu mến Giáo Hội và sống Đức tin trong cuộc sống hằng ngày.

Cuộc sống và chứng từ của các anh hùng Tử đạo cần phải được kể lại cho mọi thế hệ người Công giáo Việt Nam.  Cùng với lòng tự hào là tâm tình tri ân cảm mến và thiện chí noi gương các ngài để sống Đức tin.  Thời tử đạo dẫn đến máu chảy đầu rơi ngày nay không còn nữa, nhưng những ai muốn trung thành với Chúa thời nào cũng phải cân nhắc khôn ngoan để chọn lựa Chúa hay chọn lựa thế gian; chọn lựa hạnh phúc và niềm vui vĩnh cửu hay chọn lựa vinh quang nhất thời; chọn lựa đường đi trong ánh sáng hay cuộc sống trong bóng đêm.  Môi trường nào cũng vậy, ta luôn phải chọn lựa.  Hoàn cảnh nào cũng thế, ta phải sống khôn ngoan.  Cuộc chọn lựa này nhiều khi làm chúng ta phải vượt lên những ràng buộc khắt khe và có khi phải vượt lên chính mình với trái tim rướm máu.  Nếu những cuộc cấm cách tàn khốc đã lùi vào dĩ vãng thì người tín hữu hôm nay lại phải đối diện với những thử thách của thời hiện đại.  Quả vậy, biết bao trào lưu và lối sống mượn chiêu bài tự do để đi ngược với giáo huấn của Tin Mừng, coi thường hoặc lãng quên những thực hành đạo đức, tôn vinh kỹ thuật một cách quá đáng và lãng quên Thiên Chúa là Cội nguồn mọi sự.  Sáng suốt và khôn ngoan để trung thành với Chúa trong cuộc sống hôm nay, đó là một cuộc tử đạo trường kỳ, dai dẳng suốt cuộc đời.

Ơn gọi tử đạo gắn liền với những ai tin vào Chúa Giêsu và muốn làm môn đệ Người.  Nếu chúng ta được sống trong một xã hội dân chủ, an bình, thì đó đây trên thế giới, vẫn còn những nhà truyền giáo bị hành hung và sát hại, vẫn có những ngôi thánh đường Công giáo bị tàn phá, vẫn còn những tín hữu không dám công khai tuyên xưng Đức tin, vẫn còn những người vì hai chữ Công giáo mà bị phân biệt đối xử.  Đây cũng là những cuộc bách hại mang hình thức mới của thời đại và những tín hữu này đang sống từng ngày chứng tá của mình một cách anh hùng.

Kính thưa Cộng đoàn,

Ngày Thánh Mẫu được tổ chức hàng năm tại Missouri đã trở thành điểm hẹn thân thương cho người Việt Nam đang sống tại Hoa Kỳ cũng như tại nhiều nước trên thế giới.  Chúng ta về đây để gặp gỡ nhau, để chia sẻ những vui buồn và nâng đỡ nhau trong cuộc sống.  Chính Đức Mẹ Maria đã quy tụ chúng ta nơi đây.  Mẹ là điểm nối kết giữa những con Dân Việt đang sống xa quê.  Về với Mẹ, chúng ta được Mẹ vỗ về ủi an.  Về với Mẹ, chúng ta có dịp kể lể tâm sự với Mẹ những băn khoăn trăn trở của cuộc sống trần gian.  Về với Mẹ, chúng ta cũng chiêm ngưỡng vẻ đẹp của Mẹ chiếu tỏa qua các nhân đức và sự trung thành can đảm của Mẹ.  Trong Thánh lễ kính các Thánh Tử đạo Việt Nam, chúng ta cùng nhìn lên Mẹ và ca tụng Mẹ là Nữ Vương Các Thánh Tử Đạo.  Vâng, dưới chân thập giá, Mẹ đứng đó, trong suy niệm và thinh lặng, đau khổ kết hợp với của lễ của Con mình là Đức Giêsu chịu treo trên thập giá.  Mẹ là Đấng Đồng Công cứu chuộc.  Mẹ chia sẻ đau đớn và hiệp thông với Chúa Giêsu.  Mẹ cũng dâng chính bản thân mình làm của lễ lên Chúa Cha.  Mẹ xứng đáng được mang ngành thiên tuế của các vị Tử Đạo.  Về bên Mẹ trong Ngày Thánh Mẫu này, chúng ta xin Mẹ cho chúng ta được lòng cậy trông, chí can đảm và lòng tín thác nơi Chúa trong bất kỳ hoàn cảnh nào.

Đây bài ca ngàn trùng dâng về Thiên Chúa, bài ca thắm nhuộm máu hồng.  Nhìn Chúa đẫm máu trên đồi cao, từng đoàn người anh dũng tiến lên pháp trường.  Một bài ca đẫm máu đào.  Một bài ca hào hùng bất tận.  Bài ca ấy, chính là cuộc đời của các thánh Tử đạo Việt Nam.  Chúng ta, những tín hữu Việt Nam ở trong nước cũng như ở hải ngoại, đang là những người nối tiếp bài ca đã được các ngài xướng lên, để làm vang mãi lời ca tôn vinh Chúa, ca ngợi vẻ đẹp của Giáo Hội và Quê Hương Việt Nam thân thương.

“Cha cầu chúc cho chúng con sống xứng đáng là con cháu các vị anh hùng” – lời chúc thiêng liêng của vị Thánh Giáo Hoàng luôn luôn là một lời mời gọi và là một thông điệp được gửi đến cho mỗi người chúng ta.

Xin Chúa chúc lành cho chúng con.  Xin Mẹ luôn gìn giữ che chở chúng con.  Xin các Thánh Tử đạo Việt Nam cầu bầu cho chúng con.  Amen!

ĐGM. Giuse Vũ Văn Thiên – Missouri, 8-8-2014

HÃY ĐÁ ĐƯỜNG BANH TUYỆT VỜI NHẤT CỦA CẬU ĐI

Chủ đề: “Chúng ta sẽ bị xét xử về cách thức chúng ta đã sử dụng tài năng của mình để làm việc cho nước Chúa.”

Giả sử chúng ta có một người em trai khi sinh ra đã không có bàn tay mặt, còn chân thì chỉ có nửa bàn chân mặt, đến khi lên sáu tuổi nó hỏi bạn: “Anh nghĩ em có thể chơi thể thao ở trường được không?” chúng ta sẽ trả lời nó thế nào?  Ta sẽ gây cho nó những niềm hy vọng hay sẽ cho nó biết thực tế?  Giả sử vài ngày sau, ta và đứa em trai đó đang xem một chương trình truyền hình, chợt nó hỏi ta: “Anh có nghĩ rằng một ngày nào đó em có thể là tay đá bóng thiện nghệ không?” thì ta sẽ trả lời nó thế nào?  Rồi giả sử vài ngày sau nữa, thằng bé nhìn thấy ta đang lật cuốn kỷ lục bóng đá quốc gia ra xem, liền hỏi: “Anh có nghĩ rằng một ngày kia em sẽ chơi bóng giỏi đến nỗi tên em được ghi vaò cuốn kỷ lục bóng đá quốc gia không?” trường hợp này ta sẽ trả lời nó thế nào?

Năm 1953, một cậu bé sáu tuổi là Tom Dempsey đã từng đưa ra chính những câu hỏi trên.  Hệt như cậu em nhỏ trong tưởng tượng của bạn, Tom Dempsey cũng đã chào đời không có bàn tay phải, còn chân thì chỉ có nửa bàn chân phải thôi.  Tom đến trường học và chơi môn bóng đá. Cậu lại còn được chơi trong đội banh trường cao đẳng ở California nữa chứ! và không bao lâu sau, Tom đã trở thành một tay tiền vệ cho đội banh.  Cậu chơi giỏi đến nỗi cuối cùng đội New Orleans Saints đã ký hợp đồng với cậu.

Vào ngày 8 tháng 11 năm 1970, đội Saints đang dẫn đội Detroit với tỷ số 17-16 ngay trước khi trận đấu kết thúc hai giây.  Lúc này đội Saints đang có được trái banh ở lằn mức 45 mét trên sân Detroit.  Huấn luyện viên của đội New Orleanss Saints là J. D. Roberts vỗ nhẹ vào vai Tom và nói: “Cậu hãy bước ra đó và đá một cú tuyệt nhất của cậu nhé!”  thủ môn đặt trái banh xuống ở vạch 8 mét sau hàng tranh cướp bóng thay vì 7 mét để cho Dempsey có thêm chút ít thời giờ để sút bóng đi.  Như thế trái bóng ở vào vị trí cách hai trụ gôn tất cả là 63 mét.

Phần còn lại của câu chuyện đáng ghi vào lịch sử.  Nửa bàn chân mặt của Tom đã sút một cú thật hoàn chỉnh.  Sau này Tom đã nói trong tạp chí Newsweek (Tuần tin tức) như sau: “Tôi không thể ngờ được mình lại đá được quả banh đi xa đến thế.  Nhưng tôi đã trông thấy cánh tay của huấn luyện viên giơ lên và tôi không thể nào diễn tả được tôi đã cảm thấy mình vĩ đại như thế nào!”  Đội Saints thắng cuộc với tỷ số 19-17 và Dempsey đã phá kỷ lục bóng đá quốc gia trong tư thế sút bóng cách gôn xa hơn kỷ lục cũ tới 7 mét.

Câu chuyện trên có liên quan gì đến các bài đọc Thánh Kinh hôm nay- đặc biệt là với chủ đề mà Chúa Giêsu nêu ra trong bài Phúc âm hôm nay?

Xin hãy nhớ lai dụ ngôn Chúa Giêsu nêu ra.  Người phú hộ nọ có 3 người làm công cho mình.  Một anh thì rất có tài.  Anh thứ hai thì vào loại trung bình, anh thứ ba thì tài năng kém.

Một ngày nọ người phú hộ ấy quyết định đi xa một chuyến.  Trước khi đi, ông trao cho mỗi người làm công một số tiền tuỳ theo tài năng.  Anh thứ nhất được 5 ngàn đồng bạc, anh thứ hai được 2 ngàn, anh thứ ba thì một ngàn.  Ba người làm công này phải dùng số tiền để sinh lợi cho ông chủ trong thời gian ông vắng mặt.  Ý nghĩa sâu sắc hơn ẩn chứa đàng sau dụ ngôn này là gì?  Chúa Giêsu đang nêu ra bài học gì qua dụ ngôn ấy?  Ông phú hộ giàu tượng trưng cho ai?  Cuộc du hành ông ấy thực hiện là cuộc du hành nào?  Ba người làm công ấy tượng trưng cho ai?  Số tiền ông trao cho họ tượng trưng cho cái gì?

Ông chủ giàu có lên đừơng đi xa tượng trưng cho Chúa Giêsu, Đấng ngự về trời sau khi phục sinh.  Ngài sẽ trở lại vào ngày thế mạt.

Các người làm công tượng trưng cho chính chúng ta trong lúc Chúa Giêsu vắng mặt, Ngài muốn chúng ta sử dụng những tài năng Chúa ban cho chúng ta vào việc mở mang nước Chúa trên trần gian.  Khi Chúa Giêsu trở lại, Ngài sẽ xét xử chúng ta về việc chúng ta đã sử dụng tài năng chúng ta như thế nào cho công việc của nước Chúa.

Thật thú vị khi nhận thấy rằng trong dụ ngôn của Chúa Giêsu anh chàng kém tài nhất lại là anh chàng không chịu nỗ lực làm một điều gì đó với số tiền được giao phó cho.  Anh ta buộc phải viện ra một cớ để bào chữa cho sự biếng nhác của mình.  Anh ta muốn nói rằng vì có quá ít tiền nên anh ta có thể tự bào chữa cho mình về việc chẳng chịu làm gì hết.

Chúng ta cũng thường có khuynh hướng lập luận tương tự như thế.  Chúng ta lập luận rằng Chúa đã không kêu gọi chúng ta vào bất cứ địa vị cao cả nào trong Giáo Hội.  Vì thế chúng ta có thể dồn tất cả tâm sức thu vén cho riêng mình và để mặc công việc mở rộng Nước Trời cho những vị có phẩm trật cao hơn.  Nói cho gọn, chúng ta đã cư xử giống người làm công thứ ba trong dụ ngôn của Chúa Giêsu.  Và đây chính là chỗ câu chuyện về Tom Dempsey cần phải tham dự vào.  Tom Dempsey có rất ít nếu không nói rằng chẳng có tài năng để chơi bóng đá.  Tuy nhiên cậu ta đã sử dụng tài năng ít ỏi của mình để chu toàn một công việc lớn.  Cậu không những chỉ chơi bóng đá chuyên nghiệp, mà còn lập nên kỷ lục bóng đá chuyên nghiệp hiện còn đứng vững.

Nếu Tom Dempsey sử dụng tài năng ít ỏi của mình để làm việc cật lực vì vương miện trần gian chóng qua này thì chúng ta còn phải cật lực hơn biết bao nhiêu trong việc sử dụng tài năng của mình vì vương miện nước trời là cái tồn tại vĩnh viễn?

Đây là vấn nạn vô cùng quan trọng mà các bài học hôm nay đặt ra trước chúng ta.  Vấn nạn này đặc biệt thích hợp với chu kỳ năm phụng vụ đang sắp sửa chấm dứt.  Thánh Phaolô cắt nghĩa lý do tại sao trong bài đọc thứ hai hôm nay: “Thưa anh chị em, anh chị em đều biết rất rõ ngày của Chúa sẽ đến như một tên trộm vào ban đêm.  Vì thế, chúng ta không nên mê ngủ mà hãy lo tỉnh thức.”

Chúng ta hãy kết thúc với lời cầu nguyện.

“Lạy Chúa xin dạy chúng con biết sống quảng đại
biết phụng sự Chúa cho xứng đáng,
biết cho đi mà không cần tính toán,
biết chiến đấu mà không sợ thương tích,
biết làm việc mà không tìm an nghỉ,
biết xả thân mà không tìm một phần thưởng nào khác ngoài việc biết mình đang thi hành ý muốn của Chúa”.
Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Amen.

Mark Link

ĐỨC TIN VÀ GIỜ HẤP HỐI

Chúng ta thường nuôi dưỡng một sự ngây ngô nào đó về ý nghĩa của đức tin khi đối diện với cái chết.  Chung chung, tín hữu Kitô chúng ta cho rằng ai có đức tin vững mạnh thì đứng trước cái chết họ không sợ hãi và không nghi ngờ.  Hàm ý rằng nếu sợ hãi và nghi ngờ khi sắp chết là dấu hiệu của một đức tin yếu đuối.  Dù đúng là có nhiều người có đức tin mạnh đã không sợ và bình thản trước cái chết, nhưng không phải ai cũng được như vậy và cũng không nhất thiết điều đó là chuẩn mực.

Chúng ta có thể bắt đầu với Chúa Giêsu.  Chắc chắn Ngài có một đức tin vững mạnh, nhưng trước khi chết, Ngài đã kêu lên trong hãi sợ và nghi ngờ.  Tiếng kêu khóc thống khổ của Chúa, “Lạy Chúa, Lạy Chúa, sao Chúa bỏ con” đến từ một nỗi thống khổ thực sự, chứ không phải để tạo hiệu ứng thần linh gì đó như đôi khi chúng ta mặc định theo lòng sùng đạo.  Tiếng kêu đó không hẳn hướng về chúng ta, nhưng là một điều chúng ta nên nghe.  Một vài phút trước khi chết, Đức Giêsu đã sống giây phút thực sự sợ hãi và nghi ngờ.  Đức tin của Ngài đâu mất rồi?  Điều này tùy thuộc vào cách chúng ta nghĩ về đức tin và phương cách cụ thể mà nó có thể diễn ra khi chúng ta sắp chết.

Trong nghiên cứu nổi tiếng của mình về các giai đoạn chết, nữ bác sĩ tâm thần Mỹ Elizabeth Kubler-Ross (1926-2004) đưa ra năm giai đoạn trong tiến trình chết: phủ nhận, giận dữ, mặc cả, trầm cảm, chấp nhận.  Phản ứng đầu tiên của chúng ta khi nhận chẩn đoán cuối cùng là phủ nhận – chuyện này không thể xảy ra được!  Sau đó khi phải chấp nhận thì phản ứng kế tiếp là giận dữ – vì sao là mình!  Và giận dữ nhường chỗ cho mặc cả – tôi còn bao nhiêu thời gian nữa để sống?  Rồi đến trầm cảm, và khi không làm gì được, chúng ta mới chấp nhận – tôi sắp chết.  Tất cả các điều này đều đúng.

Nhưng trong một quyển sách sâu sắc, Ơn sủng khi hấp hối (The Grace in Dying), bà Kathleen Dowling Singh dựa trên kinh nghiệm khi ở bên đầu giường của những người sắp chết, bà đưa ra các giai đoạn khác: nghi ngờ, cự lại và ngây ngất.  Các giai đoạn giúp chúng ta hiểu Chúa Giêsu khi Ngài đối diện với cái chết.

Đêm trước đó ở vườn Giếtsêmani, rõ ràng Chúa Giêsu đã chấp nhận mình sẽ chết.  Nhưng sự chấp nhận này chưa phải là cự lại hoàn toàn.  Nó chỉ xảy ra ngày hôm sau trên thập giá, trong khi trút hơi thở cuối cùng như các Phúc âm tường thuật, Ngài gục đầu xuống và trút hơi thở cuối cùng.  Ngay trước đó, Ngài đã trải qua cơn hãi sợ khủng khiếp, rằng những gì Ngài luôn tin và được dạy về Chúa có thể là không phải.  Có lẽ thiên đàng trống rỗng, có lẽ những gì chúng ta xem là các hứa hẹn của Chúa chỉ là một mơ ước sốt sắng.

Nhưng như chúng ta biết, Ngài đã không nhường bước trước các nghi ngờ đó, đúng hơn là bên trong các bóng tối này.  Chúa Giêsu đã chết trong đức tin – nhưng không trong những gì chúng ta ngây thơ nghĩ về đức tin.  Chết trong đức tin không phải lúc nào cũng chết bình thản, không sợ, không nghi ngờ.

Chẳng hạn linh mục học giả Kinh Thánh nổi tiếng Raymond E. Brown (1928-1998) đã bình giải về nỗi sợ cái chết trong cộng đoàn của Người môn đệ Yêu dấu: “Cùng đích của cái chết và sự bấp bênh của nó đã làm cho những người suốt đời tin vào Chúa Kitô run rẩy.  Thật vậy, không hiếm khi trong cộng đoàn nhỏ các Môn đệ Thánh Gioan đã thú nhận mình nghi ngờ khi trong đầu nghĩ đến cái chết…  Câu chuyện của ông Ladarô trong phần cuối đời sống hoạt động của Chúa Giêsu trong Phúc âm Thánh Gioan là để dạy chúng ta đối diện với thực tế hữu hình, đó là nấm mồ, tất cả chúng ta đều cần nghe, cần nắm lấy thông điệp táo bạo mà Chúa Giêsu đã tuyên bố: “Ta là sự sống…”  Đối với Thánh Gioan, cho dù chúng ta có tuyên xưng lại đức tin bao nhiêu lần, thì thử thách tối hậu vẫn là cái chết.  Dù đó là cái chết của người thân hay của chính mình, đó là giây phút mà chúng ta nhận ra, tất cả đều tùy thuộc vào Chúa.  Trong suốt cuộc đời, chúng ta đã bảo vệ mình trước sự thật phũ phàng này.  Nhưng đứng trước cái chết, tất cả mọi phòng thủ đều rơi rụng.”

Đôi khi những người có đức tin sâu đậm bình thản và yên bình đối diện với cái chết.  Nhưng thỉnh thoảng cũng có người không làm được, nỗi sợ và các nghi ngờ đe đọa họ không nhất thiết đó là dấu hiệu của một đức tin yếu đuối hoặc chùn bước.  Điều này có thể ngược lại, như chúng ta thấy trong trường hợp Chúa Giêsu.  Bên trong tâm hồn của một người có đức tin, nỗi sợ và nghi ngờ khi đứng trước cái chết, điều mà các nhà thần nghiệm gọi là “đêm tối tâm hồn…” và những gì xảy ra bên trong kinh nghiệm này là: sợ và nghi ngờ non nớt mà chúng ta cảm nhận lúc này là chúng ta không thể nhầm lẫn chính mình với nguồn sinh lực của chúng ta cho Chúa.  Khi chúng ta phải chấp nhận chết với niềm tin tưởng bên trong với những gì có vẻ như là sự phủ nhận tuyệt đối, và chúng ta chỉ có thể kêu lên trong thống khổ với một sự trống rỗng rõ ràng, thì không còn có thể nhầm lẫn Chúa với cảm xúc và bản ngã của chính chúng ta.  Trong điểm này, chúng ta trải nghiệm một sự thanh lọc cuối cùng của tâm hồn.  Chúng ta có thể có một đức tin sâu đậm nhưng vẫn cảm thấy nghi ngờ và sợ hãi trước cái chết.  Cứ nhìn vào Chúa Giêsu là thấy.

Rev. Ron Rolheiser, OMI

ĐÔI ĐIỀU SUY TƯ NHÂN THÁNG CÁC LINH HỒN

Ở Việt Nam khoảng ba năm trước đây người ta thấy rộ lên những tin tức về một nhà ngoại cảm nữ ở Hà Nội.  Báo chí trong nước đua nhau ca tụng thành tích của nhà ngoại cảm này về việc nhờ khả năng giao tiếp được với người “cõi âm”, chị ta đã tìm được nhiều ngôi mộ bị thất lạc hay là xác định được nơi chôn cất của những chiến binh bị chết trong chiến tranh.  Qua lời tường thuật của chính đương sự thì năm 1990 khi vừa thi đậu vào đại học, chị ta bị chó dại cắn và qua một cơn bệnh thập tử nhất sinh, chị ta thoát chết.  Từ đó chị ta nhận thấy mình có khả năng tiếp xúc được với người chết nghĩa là có thể nhìn thấy người chết và nói chuyện được với họ.  Nói chuyện trước đông đảo cử tọa tại Hà Nội và trả lời phỏng vấn, nhà ngoại cảm nữ này- đã tốt nghiệp đại học, hiện công tác tại trường đại học Quản Trị Kinh Doanh Hà Nội và cũng là thành viên của Trung Tâm Nghiên Cứu Tiềm Năng Con Người thuộc Liên Hiệp Các Hội Khoa Học – cho rằng chết không phải là hết, và rằng người “cõi âm” rất sợ bị lãng quên, họ mong mỏi sự quan tâm của người thân.

Nêu lên chuyện này chỉ muốn nói lên rằng chính người cộng sản vô thần càng ngày càng tin tưởng có một thế giới khác sau cuộc sống hiện tại, và họ cũng tin rằng người đã qua đời vẫn cần đến người còn sống.  Trong khi đó, thật đáng buồn, không ít người Kitô hữu vốn có niềm tin vào cuộc sống đời sau lại chạy theo cách sống như là chết là hết, và vì vậy họ đã dễ dàng lãng quên những người quá cố.

Tôi nhớ có đọc được ở đâu đó một mẩu chuyện kể rằng một ngày nọ một bà mẹ hối thúc người con trai đi lễ cầu nguyện cho thân phụ của anh vào ngày giỗ của thân phụ anh.  Nhưng người con trai lười biếng không muốn đi lễ đã tìm cách thoái thác cho rằng “Lên thì đã lên rồi, xuống thì cũng đã xuống rồi.  Câu nói của anh thanh niên này cho thấy anh không hề quan tâm đến người cha đã chết, và cũng không hiểu rằng lời cầu nguyện của người còn sống có sức cứu thoát những Linh Hồn khỏi Luyện Ngục.  Nếu anh ta đọc những sách nói về cuộc sống đời sau kể về một số trường hợp các Linh Hồn ở Luyện Ngục được Chúa cho phép trở về trần gian để xin người còn sống cầu nguyện cho họ, thì anh ta sẽ thấy việc cầu nguyện cho người chết là khẩn thiết đến chừng nào.  Nhiều Linh Hồn đã phải ở Luyện Ngục hàng mấy chục năm trời vì thiếu lời cầu nguyện của người còn sống.

Lúc còn ở Việt Nam tôi biết có một gia đình thường xin Lễ và tổ chức đọc kinh cho bà mẹ trong mấy năm liên tiếp sau khi bà cụ mất.  Nhưng rồi đến một năm, gia đình thôi không xin Lễ nữa và những lời kinh cầu nguyện cho bà cụ cũng không còn nữa.  Hỏi ra mới biết những người trong gia đình cho rằng bà cụ đã được lên Thiên Đàng rồi nên không cần phải xin Lễ hay đọc kinh cầu nguyện cho cụ nữa.

Tôi thật sự kinh ngạc và không thể nào đồng ý với lập luận này nhưng là chuyện của gia đình người ta mình đâu có quyền xen vào.  Không biết phải làm gì, tôi đem câu chuyện trình bày với một vị có uy tín với hy vọng tìm được người đồng minh với mình.  Nào ngờ, trái với những gì tôi trông đợi, vị này đã cho tôi câu trả lời cộc lốc: lên Thiên Đàng rồi thì còn cầu nguyện làm gì.

Ai chả biết những Linh Hồn đã được lên Thiên Đàng tức là đã được làm Thánh.  Mà đã làm Thánh thì còn cần ai cầu nguyện cho nữa.  Nhưng vấn đề là làm sao người phàm có thể biết được một Linh Hồn nào đó đã được lên Thiên Đàng.  Căn cứ vào đâu để xác định được rằng bà cụ đã được lên Thiên Đàng.  Điều tôi muốn nói đến là liệu gia đình kia có đúng không khi họ bảo rằng bà cụ đã lên Thiên Đàng?  Bởi vì ai cũng biết một Linh Hồn được lên Thiên Đàng là quyền của Chúa chứ không phải con người có thể định đoạt.  Một Linh Hồn được cứu rỗi là nhờ vào lòng từ bi, nhân hậu và thương xót của Chúa chứ không phải là do công trạng của Linh Hồn đó.

Tôi cũng tin rằng khi ta cầu nguyện cho một Linh Hồn mà Linh Hồn đó đã được lên Thiên Đàng rồi thì vì ở trong một Giáo Hội hiệp thông, một Linh Hồn khác sẽ được Chúa cho hưởng lời cầu nguyện đó.  Và rồi Linh Hồn này khi được lên Thiên Đàng sẽ cầu nguyện lại cho chúng ta.  Do đó lời cầu nguyện không bao giờ là vô ích mà lúc nào cũng cần thiết và có ích cho phần rỗi các Linh Hồn.

Có nhiều người rất quan tâm đến việc cầu nguyện cho các Linh Hồn, nhất là những Linh Hồn mồ côi.  Linh Hồn mồ côi theo cách hiểu thông thường là những Linh Hồn bị lãng quên hay là ít được cầu nguyện cho.  Trong ý nghĩa này có ý kiến táo bạo cho rằng những linh mục cao tuổi sau khi qua đời cũng dễ trở thành Linh Hồn mồ côi.  Là vì đến khi đó thì ông bà cố đều đã mất, anh chị em nhiều khi cũng không còn, linh mục lại không có con cái, giáo dân thì cứ nghĩ linh mục dễ lên Thiên Đàng và thế là linh mục bị rơi vào tình trạng… mồ côi.

Viết đến đây tôi nhớ đến một mẩu chuyện liên quan đến cha Francis Holland, một linh mục người Mỹ được mọi giáo dân trong cộng đoàn của chúng tôi yêu mến.  Một lần cha đến nhà quàn để cùng với giáo dân Việt Nam cầu nguyện cho một giáo dân trong cộng đoàn mới qua đời.  Tại đây cha đã có dịp tham dự một buổi cầu nguyện cho người qua đời theo kiểu Việt Nam.  Buổi cầu nguyện gồm có hát thánh ca, đọc sách Thánh, cầu kinh và cuối cùng thì tất cả những người hiện diện xếp hàng và lần lượt tiến đến trước quan tài rảy nước thánh cho người quá cố.  Cha cũng đi trong hàng người rảy nước thánh cho người quá cố.  Sau đó khi trở về ghế ngồi cha đã nói bằng một giọng rất chân thành rằng cha rất thích buổi cầu nguyện hôm nay và cha mong muốn khi cha chết cũng sẽ có được một buổi cầu nguyện như vậy.  Có phải khi thấy mình tuổi đã già sức đã yếu cha đã mơ hồ nghĩ đến cảnh… mồ côi?

Có một số ý kiến không chấp nhận có Linh Hồn mồ côi.  Những ý kiến này cho rằng không có Linh Hồn nào là mồ côi theo ý nghĩa là không được cầu nguyện cho.  Lý do là vì trong Thánh Lễ hàng ngày ở phần Kinh Nguyện Thánh Thể, linh mục chủ tế đều “Xin Chúa cũng nhớ đến… mọi người đã qua đời trong tình thương của Chúa, xin cho các Linh Hồn ấy được vào hưởng ánh sáng tôn nhan Chúa.  Mặt khác khi lần hạt Mân Côi sau mỗi chục kinh đều có lời cầu “Lạy Chúa Giêsu… xin đem các linh hồn lên Thiên Đàng” hay trong kinh Vực Sâu “Lạy Chúa con, xin ban cho các Linh Hồn được nghỉ ngơi đời đời, và được sáng soi vô cùng.  Lạy Chúa con, xin cứu lấy các Linh Hồn cho khỏi tù ngục mà được nghỉ yên.  Hàng ngày có biết bao nhiêuThánh Lễ được dâng trên địa cầu và có biết bao nhiêu người lần hạt Mân Côi trên thế giới đều nhớ đến mọi Linh Hồn thì không có Linh Hồn nào bị bỏ rơi hay là không được cầu nguyện cho.

Tuy nhiên, thiết tưởng cũng không cần phải đặt nặng vấn đề có hay không có Linh Hồn mồ côi.  Thực tế vẫn có những Linh Hồn cần được cầu nguyện nhiều hơn những Linh Hồn khác như đã được xác nhận trong lời cầu nguyện được Đức Mẹ dạy tại Fatima “…. xin đưa các Linh Hồn lên Thiên Đàng, nhất là những Linh Hồn cần đến lòng Chúa thương xót hơn.  Trong tháng các Linh Hồn chúng ta cần cầu nguyện nhiều hơn cho những Linh Hồn đó.

Giáo Hội đưa tháng Các Linh Hồn vào lịch Phụng Vụ là muốn nhắc nhở người tín hữu nhớ đến và cầu nguyện cho những người đã ra đi trước chúng ta.  Đồng thời Giáo Hội cũng muốn cảnh giác chính người tín hữu về cuộc đời chóng qua ở trần gian này.  “Hỡi người hãy nhớ mình là bụi tro.  Một mai người sẽ trở về bụi tro”. 

Trong cuộc sống ai cũng có những điều để ưu tư, lo lắng, chuẩn bị… nhưng có lẽ ít ai ưu tư, lo lắng và chuẩn bị cho cái ngày ra đi mà không có ai tránh khỏi.  Cái ngày ấy chẳng ai biết trước được.  Xin Chúa cho con luôn biết sẵn sàng để lúc nào cũng có thể cất lên lời hát:

Khi Chúa thương gọi tôi về,
hồn tôi hân hoan như trong một giấc mơ.
Miệng tôi nức vui tiếng cười,
lưỡi tôi vang lời ca hát.
Ngàn dân tung hô, tôi thật vinh phúc
.
(Ngày Về: Kim Long)

Lại Thế Lãng (VietCatholic)