NGÀY LỄ CỦA MẸ

Trong nhiều năm qua, tôi có thành kiến với Ngày lễ của Mẹ.  Tôi không chống lại tư tưởng đó, đây chỉ là mối bực bội cá nhân.  Mẹ tôi qua đời cách đây 40 năm, nên chuyện tôi làm ngơ trước Ngày lễ của Mẹ từ trước đến giờ chỉ là thái độ của tôi trước bất công của vũ trụ mà tôi cảm thấy: Mọi người cứ ăn mừng, trừ tôi!

Nhưng thời gian đã chữa lành vết thương và đôi khi làm chúng ta khôn ngoan hơn.  Bây giờ, vào Ngày lễ của Mẹ, tôi luôn luôn ý thức về mẹ và tìm thấy các lý do rất hay để ăn mừng.  Bạn không cần phải còn sống mới nuôi nấng được một người nào đó, và đó chính là trường hợp mẹ tôi.  Chúa Giêsu đã chẳng bảo rằng, chúng ta chỉ tiếp nhận cách tinh tuyền tinh thần của một người nào đó sau khi họ ra đi và tôi biết điều đó đúng.  Bốn mươi năm sau cái chết của bà, tôi ý thức mẹ tôi là ai và những gì bà đã cho tôi một cách rõ ràng hơn so với suốt thời thơ ấu của tôi khi bà còn sống và tình mẫu tử của bà như đang hiển hiện ôm tôi.

Những gì anh chị em tôi và tôi giờ đây ý thức rõ ràng hơn so với khi bà còn sống, là chúng tôi rất may mắn.  Chúng tôi có được một bà mẹ tốt lành.  Đơn giản là như vậy.  Trong những điều thiết yếu, bà đã cho chúng tôi những thứ quan trọng: An toàn, bảo bọc, cảm thấy được người khác mong muốn, cảm thấy mình là quý giá, được ăn no, mặc ấm, một cảm nhận rằng cuộc đời là đẹp, và trên hết thảy, cảm thấy chúng tôi luôn luôn ở trong vòng tay của một Thiên Chúa đáng tin cậy.

Dĩ nhiên, chẳng có điều nào trong số đó hoàn hảo.  Mẹ tôi không phải là Chúa.  Bà có những giới hạn, nguồn năng lượng và nguồn lực nhờ đó bà nuôi dưỡng chúng tôi cũng giới hạn.  Gia đình đông người và lúc nào cũng thiếu tiền.  Chúng tôi có đủ, nhưng chỉ là đủ mà thôi, không hơn.  Chưa bao giờ có dư.  Nó cũng đúng nếu nói về sự quan tâm và tình thương bà dành cho mỗi anh chị em chúng tôi.  Bà không có thì giờ, năng lực hay niềm vui sướng xa xỉ nào để tuôn tràn lên bất cứ riêng ai trong chúng tôi, dù không ai trong chúng tôi nghĩ rằng bà thương mình như đứa con độc nhất.  Tuy vậy, tất cả chúng tôi đều thấy các giới hạn của bà và sống với hệ quả của chúng cho tới hôm nay.

Nhưng các nỗ lực quá mức thường xuyên của bà cũng là một năng khiếu đặc biệt của bà: Giống như Chúa Giê-su, bà nhân bánh mì và cá lên gấp bội lần.  Cách nào đó bà luôn luôn tìm được đủ mọi thứ, thức ăn, áo quần, sách vở, thêm một cái bánh, một dây ruy-băng, hay bất cứ cái gì cho một dịp đặc biệt.  Cách nào đó chúng tôi luôn luôn có những thứ chúng tôi cần, cũng giống như cách nào đó bà đã làm cho cái bàn ăn gia đình dài thêm đủ để mọi người cùng ngồi – hàng xóm, giáo viên, linh mục, người bán hàng, hoặc một ông chú sa cơ lỡ vận – người mà cứ tình cờ đến chơi nhà khi gần bữa ăn.  Bà tin tưởng rằng rồi lúc nào cũng sẽ đủ, và đúng vậy thật.

Và bà là một bổ sung hoàn hảo cho cha tôi.  Phim trường Hollywood hay dịch vụ hẹn hò Công giáo không thể nào sắp xếp được một cuộc hôn nhân tốt đẹp hơn thế.  Họ đã tìm thấy nhau, hai người tri âm tri kỷ, tại một cuộc đi chơi ngoài trời của giáo xứ, tình thương yêu và tôn trọng lẫn nhau của họ là điều mà, có lẽ hơn bất kỳ điều gì khác, đã đem lại cho chúng tôi, những người con của họ, một cảm thức mạnh nhất về sự an toàn, vững chãi, và đức tin.  Cha tôi là kim chỉ nam về đạo đức, bà là trái tim; nhưng họ có thể hoán đổi vai trò này cho nhau và bà có thể đưa ra những thách thức về luân lý còn ông đem đến sự nhạy cảm.  Dù cách nào đi nữa, họ đều làm cùng nhau, và khi họ chết, họ để lại đằng sau một gia đình còn quá non trẻ để có thể tự xoay xở một mình, họ đã cho chúng tôi những gì họ cần phải cho, tất cả những công cụ cơ bản để xây dựng cuộc sống của riêng mình và sống một cách sôi nổi, vui vẻ.

Bà chết vì căn bệnh viêm tụy tạng và đau tim, chỉ ba tháng sau khi bà đã chăm sóc cha tôi trong trận quyết chiến cả năm trời nhưng thất bại với căn bệnh ung thư.  Khi cha tôi sắp chết, một người em của tôi và tôi đưa bà ra hiệu để mua một bộ áo mặc cho dịp tang lễ.  Bà đã quyết định vung tay mua bộ áo đắt tiền nhất bà chưa từng mua.  Khi mặc thử bộ áo, người bán hàng nói: “Bà mặc áo này trông thật tuyệt!  Tôi hy vọng bà thích mặc nó!”  Mẹ tôi chỉ mặc nó có hai lần, một lần trong đám tang ba tôi, và một lần trong đám tang của bà.  Nhận xét trớ trêu của người bán hàng vậy mà đúng.

Không biết lý do gì, mẹ tôi không thích tên Mathida của mình.  Các bà bạn gọi ngắn là Tilly lại càng làm bà không thích!  Tôi không biết khi thân mật, ba tôi gọi bà tên gì nhưng tôi nghi là chẳng phải tên nào trong số hai tên này.

Các nhà nhân chủng học cho rằng mẹ của mình là mối dây cộng sinh của chúng ta với cuộc sống.  Các bà mẹ phải cho chúng ta biết rằng vũ trụ này muốn có chúng ta, và chúng ta đáng yêu chỉ đơn giản chúng ta là chúng ta, rằng tình yêu thương là không cần gắng gỗ mới có được.  Mẹ tôi đôi khi quá bận rộn nên không thể nuôi nấng riêng từng đứa một với cảm giác rằng chúng tôi là duy nhất, là xinh đẹp, là quý giá; nhưng bà đã làm mẹ chúng tôi theo một cách mà chính cuộc sống và vị Chúa tạo dựng cuộc sống đó đã đem lại cho chúng tôi món quà quý giá đó.

Rev. Ron Rolheiser, OMI

ĐƯỜNG GIÊSU, ĐƯỜNG CON ĐI

Trong những ngày đầu tháng 02 năm 1990, có một con đường ở huyện ngoại thành đã được báo chí làm cho nổi tiếng.  Con đường ấy một đầu là giăng ngang biểu ngữ khai trương phòng vật lý trị liệu trá hình, còn đầu kia là sừng sững một khách sạn mini sang trọng làm nhà riêng của người biển thủ, chức danh là giám đốc.  Con đường ấy chợt nổi tiếng vì những vụ tai tiếng.

Từ hai mươi thế kỷ nay, trong Giáo Hội, người ta biết có một con đường thật danh tiếng và luôn luôn nổi tiếng.  Con đường ấy mở ra bằng một tình thương và kết thúc bằng một hạnh phúc.  Con đường ấy trải dài tin yêu để lâng lâng vươn lên sự sống.  Con đường ấy thắp sáng hy vọng để dẫn tới Nhà Cha trên trời.  Đường mở về miên viễn, Đường dẫn đến vĩnh hằng.  Đó là đường mang tên Chúa Giêsu.

1. Đường hy vọng tin yêu.

Nếu có một câu hỏi được các Tông đồ đặt ra nhiều nhất thì đó phải là câu hỏi thuộc về nơi chốn.  “Thầy ở đâu?” là câu hỏi của Gioan đặt ra trong lần đầu gặp gỡ, để được gọi đến xem và bước vào ơn gọi; “Thầy muốn chúng con dọn lễ Vượt Qua ở đâu?” là câu hỏi của các Tông đồ đặt ra để có được địa chỉ chính xác cho Bữa Tiệc Ly; và hôm nay lại là Tôma nôn nóng bật ra câu hỏi “Thầy đi đâu?” trước một tương lai vẫn còn ẩn khuất.

Bận tâm về nơi chốn là bởi vì trong đời theo Chúa, các ông luôn được dẫn vào những cuộc hành trình, mà cuộc hành trình cuối cùng là tiến về Giêrusalem để chứng kiến Thầy mình chịu chết.  Có khối ông đã coi đây là con đường thất bại của Chúa để trở thành con đường thất vọng của mình.  Mấy năm dài miệt mài theo Chúa những mong có ngày tả hữu vinh quang, nào ngờ Người lại bị đóng đinh như tên tử tội.  Công dã tràng!  Khi mọi vốn liếng hy vọng đặt cả vào canh bạc cuộc đời, rồi bỗng dưng lật ngửa trắng tay, người ta như rớt từ trên cao quay cuồng chao đảo.  Thế mới hay ước vọng thì rộng lớn nhưng khung đời lại chật hẹp mà thực tế lại phũ phàng!

“Thầy đi đâu?” Ẩn sâu dưới câu hỏi ấy là một tâm trạng hoang mang trước một quá khứ vừa mới khép lại mà tương lai chưa kịp mở ra.  Tương lai ấy mới mẻ hay chỉ là quá khứ đươc lặp lại ở thì sẽ đến?  Đã một lần vỡ mộng, các Tông đồ băn khoăn là chuyện thường tình.  Giống như đứa trẻ lỡ một lần phải bỏng, hễ thấy lửa là tự nhiên rụt tay lại.  Vì thế, nghe trong câu hỏi “Thầy đi đâu?” có âm hưởng lo âu tự hỏi “mình đi đâu?”

Thất vọng về quá khứ và hoang mang trước tương lai, đó là những con đường các Tông đồ đã nếm trải.  Nhưng mở đầu Tin Mừng hôm nay lại là lời của Chúa Giêsu: “Các con đừng xao xuyến.”  Đó là lời an ủi vỗ về, đồng thời cũng là lời cắt băng khai mở một con đường mới trong hy vọng tin yêu.

2. Đường mang tên Giêsu.

“Ta là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống.”  Trả lời cho Tôma, cùng lúc Chúa Giêsu để lộ cho biết từ nay chỉ có một con đường duy nhất được mở ra trong ơn cứu độ, và tên gọi con đường ấy lại chính là Người.

Người là Đường Sự Thật bởi Người là Chân Lý, một chân lý sống động khả tín làm nền tảng và hướng đi cho mọi cuộc đời, một thực tại năng động đầy Thần Khí làm sức mạnh giải thoát cho mọi kẻ tin.  Đường Sự Thật không phải là một hệ thống tín điều do Chúa Giêsu thiết định, nhưng là toàn thể cuộc sống lời nói việc làm của Người trong ý nghĩa cứu độ.  Nhưng đâu phải ai cũng nhận ra?  Giữa phiên tòa dịp lễ Vượt Qua, trước mặt Chúa Giêsu, Philatô đã hỏi một câu ngớ ngẩn: “Sự Thật là chi? – Quid est Veritas?”  Chúa Giêsu không trả lời, vì Sự Thật hiện thân chính là Người đứng đó.  Có biết đâu hỏi là đã trả lời, chỉ cần sắp xếp lại thứ tự các mẫu tự sẽ thành hàng chữ: “Est Vir qui adest” (x. Tihamet Toth, Chúa Cứu Thế Với Thanh Niên, p. 95).

Người là Đường Sự Sống bởi Người là Sự Sống thượng nguồn phát sinh các sự sống khác trong công trình sáng tạo, và là Sự Sống cội nguồn mà mọi sự sống khác phải tìm về trong công cuộc tái tạo của ơn cứu độ.  Người thông ban sự sống cho mọi sinh linh, và luôn đi bước trước để lôi kéo mọi người về với Sự Sống của Thiên Chúa.  Người chịu chết để nhân loại được sống, và Người sống lại để mãi mãi mở ra nẻo đường dẫn vào cõi sống.  Mọi sự sống trần gian có thể đổi thay tan biến, nhưng Sự Sống Người là vĩnh cữu trường tồn.  Người hằng sống hằng trị muôn đời.

Người là Đường dẫn tới Nhà Cha bởi Người và Cha không thể tách lìa: Chúa Con ẩn mình trong Chúa Cha, và Chúa Cha tỏ hiện trong Chúa Con.  Vẫn là Một từ ngàn xưa và mãi là Một tới ngàn sau.  Thế nên Đường mang tên Giêsu tất yếu cũng là địa chỉ Nhà Cha, và ngược lại tìm đến Nhà Cha cũng là hành trình vào Đường Sự Thật và Sự Sống.

3. Đường con đi.

Dẹp bỏ con đường cũ của thất vọng hoang mang để khai mở con đường mới bằng toàn diện con người mình, Chúa Giêsu muốn truyền lại cho các Tông đồ cái kinh nghiệm hiện sinh phong phú liên kết với Cha qua Chân Lý và Sự Sống; đồng thời đó cũng chính là lời mời gọi Giáo Hội cất bước lên đường với những hành trang đi về hạnh phúc.

Đi trên Đường Giêsu là đi bằng cả niềm tin gắn bó hiệp thông của những con người biết mình có một lý tưởng để theo đuổi, và sẵn sàng hy sinh tất cả để đạt được lý tưởng ấy.  Trút bỏ những hành trang cồng kềnh của danh lợi thú, đoạn tuyệt với những ngõ cụt lối mòn sao gợn sỏi đá của cuộc sống khô khan, chấp nhận canh tân để có được bước đi vừa thanh thót vừa thanh thản của đời nhân đức chính là hát lên khúc ca mới trên con đường mới.  Vì lý tưởng ấy chính là lẽ sống, cũng chính là vinh dự một đời: “Anh em là dòng giống được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là chủng tộc thánh thiện, Dân riêng của Chúa…” (bài đọc thứ hai).

Đi trên Đường Giêsu cũng là đi bằng niềm hy vọng bền vững.  “Thầy đi dọn chổ cho các con.”  Vận mệnh tương lai đã mở ra.  Không còn xa xôi tít tắp, nhưng đã châm rễ từ cuộc đời này.  Sống hôm nay là chuẩn bị sống ngày mai, và ngày mai tại Nhà Cha đã được định hình ngay từ bây giờ trong bước đường lữ thứ của Hội Thánh ở giữa lòng đời.  Đi trong hy vọng là nhận ra rằng con người được tạo dựng để hướng về một cứu cánh, được tái sinh trong giới hạn nhưng không ngừng hướng về vô hạn.  Thiết tưởng lời kinh của Thánh Augustinô có thể là tóm kết của bước đi hy vọng đã biến thành khát vọng: “Lạy Chúa, Chúa dựng nên con để cho Chúa, nên con mãi khắc khoải cho tới khi được nghỉ ngơi trong Ngài.”

Đi trên Đường Giêsu còn là đi bằng cả tình yêu chan hòa phục vụ.  Bài đọc thứ nhất là hình ảnh đẹp về một Giáo Hội trẻ đang cựa mình vươn vai tiến tới.  Có những phân công khác biệt: kẻ phục vụ bàn thánh, người phục vụ bàn ăn; kẻ chuyên chăm rao giảng Lời Chúa, người chuyên lo hạnh phúc anh em.  Nhưng vẫn là nhịp bước đồng hành.  Có thể nói được rằng tình yêu và phục vụ là đôi chân của Giáo Hội lữ hành đặt bước chân mình trong dấu chân Chúa.  Và cũng có thể hiểu được rằng cách nhìn “con người là con đường của Giáo Hội” (Gioan Phaolô II) chính là tốc độ mới của tình yêu chan hòa phục vụ trên Đường Giêsu hôm nay.

Và lời cuối cùng sẽ là một lời kinh, dệt nên khúc hát hy vọng cho những ai đang băn khoăn tìm kiếm một con đường sống, và biến nên hành khúc tin yêu cho những ai đã một lần cất bước hành trình: “Chúa muốn nhận con đường con đi, nên Ngài đã sinh xuống dương gian.  Chúa đã nhận đôi bàn tay con, dìu từng bước, bước đi trên đường.  Chúa ôi, khi nhìn đời con, con không hiểu từng giọt lệ sầu.  Chúa ôi, khi nhìn đời Ngài, con đã gặp đường hướng con đi.”

ĐGM. Giuse Vũ Duy Thống (trích trong “Với Cả Tâm Tình”)

TÌM HIỂU VỀ THÁNG HOA

Giáo Hội đã đặt ra nhiều kinh nguyện để ca tụng, ngợi khen và cầu xin sự chuyển cầu của Đức Mẹ.  Biết bao thi sĩ, nhạc sĩ đã dâng lên Mẹ muôn lời thơ, vạn ý nhạc.  Nhưng nói về Mẹ, viết về Mẹ sẽ không bút nào tả xiết, không lời nào diễn tả cho xứng.  Đã có nhiều đền thánh được Giáo Hội đặc biệt dâng kính Đức Mẹ; Giáo Hội cũng đã đặt nhiều ngày lễ biệt kính các đặc ân và biến cố của Mẹ để tỏ lòng tạ ơn và suy tôn Mẹ.  Và đặc biệt, Giáo Hội đã dành trọn tháng Năm này để biệt kính Mẹ, và tháng này như là thời khắc ưu việt để mọi con cái kết hợp với Mẹ cách riêng từng giây phút trong tình yêu tuyệt vời với Con Mẹ là Chúa Giêsu – Người Con mà Mẹ đã ban tặng cho nhân thế.

Tháng 5 là tháng dâng hoa kính Đức Mẹ Maria.  Giáo Hội dành riêng tháng này để bày tỏ lòng tôn kính, mến yêu đặc biệt nơi Đức Maria là Mẹ của Chúa Giêsu nơi trần thế.  Chúng ta cùng dành thời giờ trong những ngày đầu tiên trong tháng này để tìm hiểu và suy tư về nguồn gốc, ý nghĩa và tác động của tháng Hoa kính Đức Mẹ, vốn đã trở nên hết sức quen thuộc với mỗi người chúng ta.

Những ai đã sống tuổi thiếu niên ở một giáo xứ có truyền thống dâng hoa lên Đức Mẹ trong tháng 5, hẳn sẽ không thể nào quên được bầu không khí linh thiêng đầy hân hoan của những ngày ấy.  Và một em gái nào đã một lần được dâng hoa trong tháng 5, thì suốt đời mình, dù là một bà cụ thất học hay một nhân vật lẫy lừng khắp năm châu, người ấy cũng mãi trung thành với Đức Mẹ, và xem Mẹ là vị trung gian không thể nào thiếu được trên con đường đi đến với Chúa Kitô.

Trong tháng 5, rất nhiều nhà thờ công giáo tại Việt Nam có tập tục truyền thống, đó là bà con giáo dân với lời ca tiếng hát, đều tiến lên dâng hoa chúc tụng cảm tạ và mừng kính Mẹ.  Truyền thống đạo đức này đã có từ rất xưa.  Nó xuất phát từ lòng mến mộ bình dân đối với Đức Mẹ.  Con cái Mẹ muốn tỏ lòng kính yêu Mẹ, một người Mẹ gần gũi, chăm chú đến từng người con, nhất là những đứa con yếu đuối, bệnh tật, nghèo hèn.  Dâng hoa cho Đức Mẹ là một nghĩa cử thật đẹp và mang nhiều ý nghĩa để tôn vinh Mẹ Thiên Chúa, Mẹ Giáo Hội và cũng là Mẹ mỗi người chúng ta.

Trong tháng Năm, khi ngàn hoa với muôn sắc hương nở rộ trong cánh đồng, thì con cái Mẹ cũng chuẩn bị cho những đội dâng hoa, những cuộc rước kiệu, để tôn vinh Mẹ trên trời.  Những điệu ca quen thuộc trìu mến bỗng nổi dậy trong tâm hồn cách thân thương, nhịp nhàng: Đây tháng hoa, chúng con trung thành thật thà.  Dâng tiến hoa lòng mến dâng lời cung chúc.  Hương sắc bay tỏa ngát nhan Mẹ diễm phúc.  Muôn tháng qua lòng mến yêu Mẹ không nhòa…  Đây muôn hoa đẹp còn tươi thắm xinh vô ngần.  Đây muôn tâm hồn bay theo lời ca tiến dâng.  Ôi Maria, Mẹ tung xuống muôn hoa trời.  Để đời chúng con đẹp vui, nhớ quê xa vời…  Muôn dân trên trần mừng vui đón tháng hoa về.  Vang ca tưng bừng ngợi khen tạ ơn khắp nơi.  Ánh hồng sắc hương càng tô thắm xinh nhan Mẹ.  Sóng nhạc reo vang tràn lan đến muôn muôn đời.  Những bài ca này đã trở nên thật gần gũi và rất quen thuộc với mỗi người chúng ta khi Tháng Hoa về.

Tháng Năm là thời điểm chuyển giao của mùa xuân và mùa hè, là thời điểm muôn hoa đua nở, vạn vật tràn đầy sức sống và màu sắc.

Vào những thế kỷ đầu của kỷ nguyên Công giáo, hàng năm khi tháng Năm về, người Rôma đón mừng sự thức giấc sau mùa đông dài của thiên nhiên bằng việc tổ chức gọi những ngày lễ tôn kính Hoa là Nữ thần mùa Xuân.

Dâng hiến trọn một tháng để thực thi một việc sùng kính đặc biệt, là một điều mà Dân Chúa mới thực thi tương đối gần đây.  Truyền thống dâng lên Đức Mẹ những đoá hoa tươi thắm dần được thiết lập qua dòng thời gian.  Các tín hữu Công giáo trong các xứ đạo đã thánh hóa tập tục trên khi tổ chức những cuộc rước kiệu hoa và cầu nguyện cho mùa màng phong phú.

Các tín hữu Công giáo đã mượn chính những cảnh sắc thiên nhiên, những đoá hoa tươi đẹp đó để như gói ghém trọn tâm tình của mình dâng lên Đức Mẹ.  Người ta đi cắt các cành cây xanh tươi đang nở hoa, đưa về trang hoàng trong các nhà thờ và đặc biệt các bàn thờ dâng kính Đức Mẹ.

Từ thế kỷ XIII, một vài xứ đạo ở Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha đã dâng tháng 5 để tổ chức những cuộc rước hoa, để đem hoa đến dâng kính Đức Mẹ.  Nhiều văn nghệ sĩ đã sáng tác các bài ca dùng màu sắc và hương hoa để diễn tả tâm tình con thảo ca tụng các đức tính cao quý của Đức Maria.

Đến thế kỷ 14, Cha Henri Suzo (OP), vào ngày đầu tháng 5, đã dâng lên Đức Mẹ những việc tôn kính đặc biệt và dâng hoa trang hoàng thánh tượng Đức Mẹ.

Vào ngày 1 tháng 5 hằng năm, thánh Philipe de Neri thường tập họp các trẻ em Công giáo đến quanh bàn thờ Đức Mẹ để dâng lên Đức Mẹ những bông hoa tươi thắm đầy hương sắc.  Cùng các bông hoa mùa xuân, thánh nhân cũng dâng cho Đức Mẹ các nhân đức cao đẹp còn ẩn náu trong tâm hồn thơ trẻ của chúng.

Đầu thế kỷ XVII, tại vùng Napoli nước Ý, trong thánh đường kính thánh Clara của các nữ tu Dòng Phanxicô, tháng kính Đức Mẹ được cử hành cách long trọng: Mỗi buổi chiều đều có hát kính Đức Mẹ, ban phép lành Mình Thánh Chúa.  Từ ngày đó, tháng kính Đức Mẹ nhanh chóng lan rộng khắp các giáo xứ trong vùng.

Các linh mục dòng Tên đã tổ chức tháng hoa kính Đức Mẹ trong trường lưu trú của các sinh viên học sinh của Dòng từ các nơi gởi về Roma để được đào tạo.  Mãn khóa học, các sinh viên này, khi trở về quê nhà đã đem theo thói quen và cách tổ chức Tháng Hoa ở Roma truyền bá ra.  Vì thế mà tập tục này được phát triển rộng khắp.  Vào năm 1654, cha Nadasi (SJ) đã xuất bản tập sách nhỏ kêu gọi giáo hữu dành riêng mỗi năm một tháng để tôn kính Đức Mẹ.

Tới đầu thế kỷ XIX, trong Giáo Hội việc tổ chức tháng kính Đức Mẹ đã được tổ chức cách long trọng.  Các nhà thờ chính có linh mục giảng thuyết, và gần như lấy thời gian sau mùa chay là thời gian chính thức để tôn kính Đức Mẹ.

Năm 1815, Đức Thánh Cha Piô VII đã khuyến khích việc tôn sùng Đức Maria trong tháng Năm.  Đức Piô IX đã ban ơn toàn xá cho những ai tham dự việc đạo đức này năm 1889.  Đức Thánh Cha Piô XII, trong Thông điệp “Đấng Trung gian Thiên Chúa”, nhấn mạnh “việc tôn kính Đức Mẹ trong tháng Năm là việc đạo đức được thêm vào nghi thức Phụng vụ, được Giáo hội công nhận và cổ võ.”

Và năm 1965, Đức Thánh Cha Phaolô VI gửi Tông huấn đề cao lòng tôn sùng Đức Mẹ Maria trong tháng 5.  Qua đó, ngài cũng nêu lên những giá trị cao quý của việc tôn kính Đức Mẹ trong tháng Năm: “Tháng Năm là tháng mà lòng đạo đức của giáo dân đã kính dâng cách riêng cho Đức Mẹ.  Đó là dịp để bày tỏ niềm tin và lòng kính mến mà người Công giáo khắp nơi trên thế giới có đối với Đức Mẹ Nữ Vương Thiên Đàng.  Trong tháng này, các Kitô hữu, cả ở trong thánh đường cũng như nơi tư gia, dâng lên Mẹ từ những tấm lòng của họ những lời cầu nguyện và tôn kính sốt sắng và mến yêu cách đặc biệt. Trong tháng này, những ơn phúc của Thiên Chúa nhân từ cũng đổ tràn trên chúng ta từ ngai tòa rất dồi dào của Đức Mẹ” (Tông huấn về việc tôn kính Đức Mẹ, số I).

Đức Thánh Cha mở đầu tông huấn bằng những lời diễn tả tâm tình Tháng kính Đức Mẹ thật đáng để chúng ta ghi nhớ:

“1. Tháng Năm dường như đã đến đây rồi, một tháng mà lòng đạo đức bình dân từ lâu đã dành dâng kính Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa.  Trái tim Tôi vui mừng khi nghĩ đến cánh cửa đức tin và tình yêu thương đang chuyển biến; đức tin và tình yêu thương phải sớm được dành cho Nữ Vương Thiên Đàng tại khắp mọi miền trên trái đất.  Vì đây là tháng mà các Kitô hữu, tại các nhà thờ cũng như tại tư gia, dâng lên Mẹ Đồng Trinh những hành vi kính trọng và tôn sùng yêu mến và sốt sắng hơn; và đây cũng là tháng mà Thiên Chúa đổ xuống trên chúng ta biết bao nhiêu hồng ân lớn lao hơn từ ngai toà của Mẹ chúng ta.

2. Tôi lấy làm vui mừng và an ủi bởi thói quen đạo đức liên kết với Tháng Năm, là tháng dành dâng kính Đức Trinh Nữ và mang lại nhiều lợi ích cho dân Kitô giáo. Bởi vì một cách đúng đắn, Đức Maria được xem như một con đường mà qua đó chúng ta được dẫn tới Chúa Kitô, người nào gặp gỡ Đức Maria thì không thể không gặp gỡ Đức Kitô như vậy. Vì lý do nào khác mà chúng ta lại không tiếp tục trở về với Đức Maria để tìm kiếm Đức Kitô trong cánh tay của Mẹ, tìm gặp Đấng Cứu Độ chúng ta trong, qua và với Mẹ?  Con người cần phải trở về với Đức Kitô trong thế giới đầy lo âu và nguy hiểm, thôi thúc bởi trách nhiệm và nhu cầu cấp bách của trái tim con người hầu tìm thấy một nơi ẩn trú an toàn và một mạch nước sự sống siêu việt.”

Đức Thánh Cha Phaolô VI cũng đã đặt lại chỗ đứng của việc tôn kính Đức Mẹ Maria, nghĩa là việc tôn kính Mẹ Maria phải được đặt vào trong tương quan của mầu nhiệm ơn cứu rỗi, việc tôn kính Đức Mẹ phải được đi đôi với những mầu nhiệm trong cuộc đời của Đức Kitô.  Việc tôn kính Mẹ Maria trong tháng Năm là một truyền thống tốt đẹp, nhưng nhờ Mẹ Maria để đến với Chúa, cùng đích của mọi việc tôn thờ là chính Chúa.  Trong niềm hiếu thảo đối với Mẹ Maria, người Kitô hữu luôn được mời gọi để không ngừng kết hiệp với Chúa.  Người Kitô hữu không nhìn lên Mẹ Maria như một Nữ Thần, mà là một tín hữu mẫu mực, một người tín hữu đã tiên phong trong cuộc hành trình đức tin.

Tháng Hoa về, khắp các nhà thờ Công giáo ở Việt Nam, dù tại các thành thị hay miền nông thôn xa xôi, những tâm tình dâng lên Đức Maria Mẹ Thiên Chúa vẫn thật nồng ấm.  Các bản tiến hoa được dâng lên Đức Mẹ cách long trọng.  Có những đội hoa hàng mấy trăm người.  Nhờ đó, lòng tôn sùng và yêu mến Đức Mẹ không ngừng được cổ võ và thăng tiến.

Tháng Hoa như một dịp đẹp nhất và thuận tiện nhất để tất cả chúng ta cùng tỏ lòng kính yêu Mẹ bằng những bó hoa thiêng, bằng những lời kinh nguyện sốt sắng và tâm tình thảo hiếu biết ơn dâng lên Mẹ hiền qua tràng chuỗi Mân Côi và các bài Thánh Ca du dương về Mẹ trong các Giờ Chầu, Giờ Ðền Tạ tại tư gia hay trong các nguyện đường.  Dĩ nhiên, lòng tôn sùng kính yêu Mẹ Maria của chúng ta vẫn sốt sắng trải dài từng ngày trong suốt năm.  Nhưng tháng Năm lại mang mầu sắc đặc biệt mời gọi, thúc đẩy chúng ta dâng Mẹ những bông hoa thiêng thanh khiết.  Bàn thờ kính Mẹ trong tháng Năm phải đầy hoa tươi, biểu tượng cho lòng tôn sùng biết ơn của chúng ta dâng về Mẹ, biểu tượng cho sự đổi mới cuộc đời của mỗi người chúng ta để chúng ta trưởng thành trong ân sủng Thánh Linh

Ý nghĩa trọn vẹn của Tháng Hoa là: Hoa thiên nhiên đồng nội hòa lẫn với hoa lòng, hoa thánh thiện, hoa mầu nhiệm của Ơn Thánh tươi nở trong linh hồn chúng ta.  Tất cả cùng tỏa hương thơm và khoe sắc trên bàn thờ kính Mẹ.

Để kết thúc, chúng ta cùng thân thưa với Mẹ qua việc dâng lên Người những bông hoa ngát hương đang khoe sắc:

Xin dâng lên Mẹ hoa hồng của lòng yêu mến, xin Mẹ dạy chúng con biết yêu Chúa hết lòng và yêu anh chị em mình như Chúa đã yêu chúng con.

Xin dâng lên Mẹ hoa vàng của niềm tin sắt đá, xin Mẹ dạy chúng con sống phó thác và tin tưởng vào tình thương và sự quan phòng của Chúa như Mẹ.

Xin dâng lên Mẹ hoa xanh của niềm cậy trông và hy vọng, xin đừng để chúng con thất vọng chùn bước trước bất cứ khó khăn nghịch cảnh nào của cuộc sống.

Xin dâng lên Mẹ hoa trắng của sự trinh trong, xin Mẹ giúp chúng con gìn giữ tâm hồn luôn trong trắng, sạch tội.

Xin dâng lên Mẹ hoa tím của những đau thương, bệnh tật, tang tóc, cô đơn, xin Mẹ dạy chúng con biết vui lòng chấp nhận Thánh Giá Chúa gởi đến để trung thành bước theo Đức Kitô, Con của Mẹ.

Thiên Ân

TẢNG ĐÁ LỚN VÀ CÁNH CỬA BỊ KHÓA

Triết gia Soren Kierkegaard đã từng viết, bản văn Tin Mừng mà ông thấy rõ mình trong đó, là câu chuyện kể các môn đệ sau khi Chúa Giêsu chết, họ tự giam mình trong phòng vì sợ, rồi họ trải nghiệm Chúa Giêsu đi qua cánh cửa bị khóa để ban bình an cho họ.  Kierkegaard muốn Chúa Giêsu làm như vậy với ông, đi qua các cánh cửa bị khóa của ông, sự cự lại của ông và để ông được hít thở sự bình yên trong Ngài.

Hình ảnh các cánh cửa bị khóa là một trong hai hình ảnh đặc biệt thú vị trong câu chuyện về ngày Phục sinh đầu tiên.  Hình ảnh kia là hình ảnh tảng đá lớn đã chôn Chúa Giêsu.  Các hình ảnh này nhắc chúng ta nhớ những gì thường tách chúng ta ra khỏi ơn sống lại.  Đôi khi để ân sủng này đi tìm chúng ta, thì ai đó “phải lăn tảng đá” và đôi khi sự sống lại đến với chúng ta qua cánh cửa bị khóa.

Trước hết, về “tảng đá:

Các Tin mừng cho chúng ta biết rằng vào sáng sớm Phục sinh, ba phụ nữ đang trên đường đến mộ Chúa Giêsu, họ mang theo dầu thơm để ướp xác Ngài nhưng họ lo lắng không biết làm sao lăn tảng đá đã bít chặt mộ Ngài.  Họ hỏi nhau: “Ai sẽ lăn hòn đá cho chúng ta?”

Và như chúng ta biết, hòn đá đã được lăn.  Cách nào?  Chúng ta không biết.  Không có ai ở đó khi Chúa Giêsu sống lại.  Không ai biết chính xác hòn đá đó đã lăn đi như thế nào.  Nhưng điều mà Kinh thánh làm rõ là: Chúa Giêsu không tự sống lại.  Chính Thiên Chúa đã làm cho Chúa Giêsu sống lại.  Chúa Giêsu không lăn hòn đá, đó là điều chúng ta thường nghĩ như vậy.  Tuy nhiên, và vì lý do chính đáng, cả Kinh Thánh và truyền thống Kitô giáo đều khẳng định mạnh mẽ, Chúa Giêsu không tự mình sống lại từ cõi chết, Chúa Cha đã làm cho Chúa Giêsu sống lại.  Điều này có vẻ như là điểm không cần thiết để nhấn mạnh; nhưng rốt cuộc, nó có gì khác biệt?

Điều này làm một sự khác biệt rất lớn.  Chúa Giêsu không tự mình sống lại từ cõi chết và chúng ta cũng không thể.  Đó là mục đích.  Để sức mạnh của sự sống lại thấm nhập vào chúng ta, một thứ gì đó từ bên ngoài chúng ta phải loại bỏ tảng đá khổng lồ bất động của sự cự lại của chúng ta.  Đây không phải để phủ nhận chúng ta không có thiện chí và sức mạnh cá nhân; nhưng những điều này, dù quan trọng, không còn là điều kiện tiên quyết để nhận được ân sủng của sự sống lại, mà chính do sức mạnh của sự sống lại, luôn đến với chúng ta từ bên kia.  Chúng ta không bao giờ tự mình lăn được tảng đá!

Ai có thể lăn tảng đá?  Có lẽ đây là câu hỏi chúng ta đặc biệt quan tâm, nhưng chúng ta nên hỏi… Chúa Giêsu đã bị táng xác và bất lực không thể tự dậy, cũng vậy đối với chúng ta.  Giống như các phụ nữ trong ngày Phục sinh đầu tiên, chúng ta cũng lo lắng hỏi: “Ai sẽ là người lăn tảng đá cho chúng ta?” Chúng ta không thể tự mở mộ cho mình.

Thứ hai, các cánh cửa của chúng ta đã bị khóa:

Thật thú vị khi thấy các tín hữu của ngày Phục sinh đầu tiên này trải nghiệm Chúa Kitô phục sinh trong cuộc sống của họ.  Các Tin mừng cho chúng ta biết, họ bị hãi sợ và hoang mang bao trùm nên họ ở trong phòng khóa cửa lại, chỉ muốn tự bảo vệ mình, Chúa Kitô đi qua cánh cửa bị khóa của họ, cánh cửa của sợ hãi, của tự bảo vệ và truyền bình an cho họ.  Họ họp nhau lại trong sợ hãi không phải là họ không có ý chí hay không có đức tin. Trong thâm tâm, họ thật lòng mong mình không sợ, nhưng thiện ý này không phải lúc nào cũng mở cánh cửa của họ.  Chúa Kitô bước vào và ban bình an cho họ dù họ cự lại, dù nỗi sợ hãi và cánh cửa bị khóa của họ.

Các điều này không thay đổi gì từ hai ngàn năm nay.  Là cộng đồng Kitô hay cá nhân, chúng ta vẫn đang loay hoay trong sợ hãi, lo lắng về bản thân, không tin tưởng, không được bình an, cánh cửa của chúng ta bị khóa, ngay cả khi trái tim chúng ta mong muốn hòa bình và tin tưởng.  Có lẽ, giống như triết gia Kierkegaard, chúng ta muốn được đặc ân như đoạn Sách Thánh này, khi Chúa Kitô sống lại đi qua các cánh cửa bị khóa do con người cự lại, và thổi bình an đến cho chúng ta.

Hơn nữa, năm nay, vào thời điểm đặc biệt khi coronavirus Covid 19, đã khóa các thành phố và cộng đồng chúng ta và chúng ta cách ly trong ngôi nhà riêng của mình, đối diện với các tâm trạng hụt hẫng, mất kiên nhẫn, sợ hãi, hoảng loạn và buồn chán.  Và đây, lúc này chúng ta cần một chút gì đó để sống phục sinh, một hòn đá cần phải được lăn đi để cuộc sống được hồi sinh, để có thể đi qua cánh cửa bị khóa của chúng ta và để mang bình an đến cho chúng ta.

Vào cuối ngày, hai hình ảnh, “tảng đá phải được lăn” và “các cánh cửa của nỗi sợ chúng ta” hàm chứa trong chính nó sự thật an ủi nhất của mọi tôn giáo bởi vì chúng tiết lộ điều này về ân sủng của Chúa: Khi chúng ta không thể giúp chính mình, chúng ta vẫn có thể được giúp đỡ và khi chúng ta bất lực để vươn ra, ân sủng vẫn có thể đi qua các bức tường cự lại của chúng ta và mang bình an đến cho chúng ta.  Chúng ta cần phải bám lấy điều này mỗi khi chúng ta bị đổ vỡ không thể cứu vãn được trong cuộc sống chúng ta, khi chúng ta cảm thấy bất lực trong các vết thương và nỗi sợ hãi, khi chúng ta cảm thấy bị tổn thương về mặt tinh thần và khi chúng ta đau buồn vì người thân yêu bị nghiện ngập hoặc tự tử.  Chúa Kitô phục sinh có thể đi qua các cánh cửa bị khóa và đẩy đi bất cứ hòn đá nào chôn chúng ta, nhốt chúng ta, dù vô vọng đối với chúng ta như thế nào.

Rev. Ron Rolheiser, OMI
Nguồn: http://ronrolheiser.com/tang-da-lon-va-canh-cua-bi-khoa/#.Xq5U0ahKguU