LINH ĐẠO I-NHÃ – LINH ĐẠO CỦA CON TIM

Trong bài thao luyện Tiếng Gọi Vua Đời Tạm Giúp Chiêm Ngắm Cuộc Đời Vua Hằng Sống, thánh I-nhã nói rằng có hai kiểu đáp trả trước tiếng gọi của Thiên Chúa.  Một kiểu đáp trả đến từ con người lý trí.  Kiểu thứ hai đến từ con người quảng đại và hào hiệp.  Chúng ta có thể gọi kiểu đáp trả đó là sự đáp trả của con tim.

Thánh I-nhã mở đầu Linh Thao của ngài với 20 ghi chú nhằm giải thích mục đích của những bài thao luyện cũng như đưa ra vài lời khuyên và chỉ dẫn cho người hướng dẫn tĩnh tâm.  Chính những chỉ dẫn đầu tiên này đã giải thích điều thánh nhân muốn nói ngang qua những bài tập thiêng liêng.  Tập thể dục giúp điều hòa thân thể và tăng cường sức khỏe.  Và theo thánh I-nhã, Linh Thao hữu ích trong việc “giúp tăng cường và nâng đỡ chúng ta trong nỗ lực đáp trả ngày càng trung tín hơn với Tình Yêu Thiên Chúa.

Hãy để ý điều mà thánh I-nhã không nói đến.  Ngài không nói Linh Thao được biên soạn để đào sâu sự hiểu biết của chúng ta hoặc để gia tăng ý muốn của chúng ta.  Ngài không giải thích những mầu nhiệm thiêng liêng cho chúng ta hay khai sáng tư tưởng của chúng ta.  Chúng ta dễ thấy có những bài tập đặt nặng về trí hiểu, nhưng đây không phải là mục đích.  Mục đích của những bài thao luyện là một sự đáp trả vững tâm.  Thánh I-nhã theo đuổi sự đáp trả của con tim.

“Con tim” không có nghĩa là cảm xúc (mặc dù từ ngữ này bao gồm ý nghĩa cảm xúc).  Từ ngữ này ám chỉ tới định hướng bên trong tâm hồn chúng ta.  “Con tim” này là điều mà Chúa Giêsu nhắc đến khi Ngài dạy bảo chúng ta hãy tích trữ kho tàng trên trời thay vì tích trữ của cải trần thế: “Vì kho tàng của anh ở đâu, thì lòng anh ở đó” (Mt 6, 21).  Đây là “tấm lòng” mà Chúa Giêsu đã trăn trở khi ngài nói: “vì tự lòng phát xuất những ý định gian tà, những tội giết người, ngoại tình, tà dâm, trộm cắp, làm chứng gian và vu khống.”  Chúa Giêsu nhận thấy rằng tấm lòng (con tim) của chúng ta có thể dần xa rời hành động của chúng ta: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta” (Mt 15, 8).  Trong cảm thức này, con tim – lời đáp trả toàn diện – mới thực sự là mối bận tâm của Linh Thao.

Trên đây là ý nghĩa cổ xưa của từ ngữ “con tim” theo truyền thống Kinh Thánh, nhưng thực tế chúng ta còn lưu lại những vết tích của ý nghĩa này trong tiếng Anh đương đại.  Khi chúng ta nói với ai đó: “trái tim tôi dành cho bạn,” chúng ta muốn nói lên một điều gì đó vượt lên trên cảm nghĩ bận tâm hay lo lắng.  Chân thành mà nói, câu nói này thông truyền ý nghĩa về sự gắn kết hết lòng với ai đó.  Nó mang ý nghĩa xa hơn câu nói “tôi hiểu bạn” (về mặt trí năng).  Nó cũng mang ý nghĩa xa hơn câu nói “tôi thông cảm với bạn” (về mặt cảm xúc).  Nó có ý nghĩa đại loại như câu “tôi ở đây, tôi ở bên bạn.”  Đó là cách diễn tả một chọn lựa căn bản.

Ngày nay, chúng ta thường nói về một người tỏ ra thiếu hăng say trong một dự án: “Hắn ta làm việc thật vô tâm.”  Chúng ta cũng thường nói điều này khi cung cách hành xử của người ấy không xứng hợp với ước muốn thâm sâu nhất của chính anh ta.  Chúng ta cũng nói như thế với chính mình mỗi khi vô tình làm tổn thương những người thân yêu hoặc làm những điều mà chúng ta biết là mâu thuẫn với bản chất của chúng ta.  “Cái tâm” ở đây là điều mà thánh I-nhã bận tâm.  Chúng ta có thể nghĩ về linh đạo I-nhã như một cách xếp đặt con tim cho đúng.

Thánh I-nhã hiểu được điều này vì đó là điều đã xảy ra cho ngài.  Ngài đã trải qua một cuộc hoán cải sâu xa trong lúc hồi phục vết thương, nhưng đó không phải là một sự biến đổi về trí hiểu hay ước muốn.  Trước cuộc hoán cải – và về sau – ngài luôn là một Kitô hữu “chính truyền” luôn tuân theo những thực hành tôn giáo được mong đợi nơi ngài.  Chuyện đó không hề thay đổi.  Cuộc hoán cải của ngài bao gồm những khao khát và dấn thân sâu xa nhất, mà điểm quy chiếu cốt yếu của chúng là phẩm tính của con người trước mặt Thiên Chúa.  Qua thời gian, hiểu biết về tôn giáo trên lý thuyết lẫn thực hành của thánh nhân hiển nhiên được đào sâu, nhưng quan trọng nhất là chính con tim của ngài được biến đổi.

Qua bao năm cầu nguyện sốt sắng và được người khác linh hướng, thánh I-nhã đã khai triển nhiều cách thức để lắng nghe ngôn ngữ con tim.  Đây chính là loại ngôn ngữ bày tỏ những ý định của Thiên Chúa và thôi thúc chúng ta quảng đại đáp trả.  Điều chúng ta tin và điều chúng ta làm thì quan trọng thật đấy, nhưng thánh I-nhã còn quan tâm hơn nữa đến tình trạng tâm hồn của mỗi người chúng ta.

Tuy nhiên, hầu hết chúng ta vẫn gặp phải một cám dỗ dai dẳng là muốn biến Linh Thao hay bất kỳ một cuộc canh tân thiêng liêng nào đó trở thành vấn đề của việc thay đổi tư duy.  Thực vậy, nguy cơ này nảy sinh ngay cả trong một cuốn sách kiểu như cuốn Linh Thao – một cuốn sách đề ra những ý tưởng, quan niệm và nguyên tắc giúp mở rộng tầm hiểu biết của chúng ta về linh đạo I-nhã.  Thật là quan trọng để ý thức ngay rằng hiểu biết không phải là mục tiêu cuối cùng của chúng ta trong Linh Thao.  Chúng ta có thể biết rất nhiều thứ, nhưng có thể điều này chẳng ảnh hưởng gì đến cách chúng ta sống.  Mục tiêu của Linh Thao là sự đáp trả của con tim – điều thật sự làm thay đổi trọn cả con người chúng ta.

Thiên Chúa đã huấn luyện con tim thánh I-nhã ngang qua nhiều thị kiến thần bí mà thánh nhân nhận được ngay từ khi bắt đầu hành trình thiêng liêng.  Một thị kiến kiểu như thế đến với thánh nhân vào lúc ngài đang băn khoăn xem có nên đọc ba hay bốn lời cầu nguyện với Chúa Ba Ngôi chăng – mỗi lời cầu nguyện hướng đến một ngôi riêng rẽ – Cha, Con và Thánh Thần – và lời nguyện thứ tư hướng đến Một Thiên Chúa Duy Nhất.  Một lần, khi đang thong dong cầu nguyện ngoài trời ở trên bậc tam cấp của một tu viện, thánh nhân bất chợt nghe tiếng Ba Ngôi Chí Thánh như tiếng nhạc của ba phím đàn đang hòa thanh (ba nốt nhạc cấu thành một hợp âm).  Khi khác, thánh nhân nhận được một thị kiến về cách thức Thiên Chúa sáng tạo thế giới, làm như thánh nhân thấy “một vật thể trắng sáng phát ra những tia sáng” và “Thiên Chúa làm thành ánh sáng.”  “Kẻ ấy không biết giải thích những điều này thế nào,” thánh nhân viết về mình trong ngôi thứ ba số ít (“kẻ ấy”).  Dẫu sao, thánh I-nhã đã đáp trả bằng con tim của ngài: “Nước mắt trào ra, kẻ ấy thổn thức không sao kìm hãm được.

Sự đáp trả của con tim là nền tảng của Linh Thao.  Công cuộc sáng tạo là một dòng chảy những quà tặng của Thiên Chúa, và sự đáp trả của con người là tiếp điểm để dòng chảy ấy trở về với nguồn mạch là chính Thiên Chúa.  Sự đáp trả của con người là sự lựa chọn tự do để cho cuộc sáng tạo của Chúa diễn ra.  Cuộc sáng tạo ấy giúp chúng ta hiểu biết, yêu mến Thiên Chúa và muốn sống với Ngài mãi mãi.

Ngay từ đầu Linh Thao, thánh I-nhã đề nghị thao viên cầu nguyện trước Chúa Giêsu Kitô trên thập giá.  Thánh nhân chân nhận Chúa Kitô là Đấng Tạo Hóa, là Thiên Chúa của Nguyên Lý Và Nền Tảng.  Dường như Thánh I-nhã muốn nói: “Hãy trò chuyện với Chúa về cách thức Ngài sáng tạo thế giới vì tình yêu.”  Không có gì khó hiểu hay trừu tượng về một Thiên Chúa của lý trí, nhưng về một Thiên Chúa của Tình Yêu được chiêm ngắm trong khuôn mặt Đức Giêsu Kitô.  Đó là Chúa Kitô theo Thánh Phao-lô trong thư gửi cho các tín hữu ở Cô-lô-xê và Ê-phê-xô.  Đó là Chúa Kitô trong lời tựa Tin Mừng theo thánh Gio-an: “Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành.”  Đây là Con Thiên Chúa, là Alpha và Omega (Khởi Nguyên và Cùng Đích) trong sách Khải Huyền của tác giả Gio-an.

Hành trình thiêng liêng của chúng ta là một nỗ lực để trả lời câu hỏi: “Cả cuộc sống này có ý nghĩa gì?”  Đây là câu trả lời của thánh I-nhã: một hình ảnh về Thiên Chúa trong con tim của chúng ta, chứ không phải trong trí hiểu.  Hình ảnh đó là họa thuật về Đấng Tạo Hóa như một Đấng ban tặng dư dả. Ngài không ngừng trao ban những món quà và mời gọi chúng ta đáp trả – một chọn lựa tự do để chúng ta có thể quay trở lại với Ngài trong niềm tri ân cảm mến.  Đó là một hình ảnh mà chỉ con tim mới có thể đáp lời.

Truyền Thông SJVN

NHẠY CẢM VÀ ĐAU KHỔ

Daniel Berrigan từng viết một câu nói bất hủ:  “Trước khi thật tâm theo Chúa Giêsu, trước hết bạn hãy xem thử mình, khi nhìn vào bên trong, sẽ tốt đẹp được đến đâu!”

Khi nói thế là ông đang cố nêu bật một chuyện thường bị hiểu lầm sâu sắc từ mọi khía cạnh, cụ thể là tại sao và thế nào mà một tôn giáo đích thực lại đem đau khổ đến cuộc đời chúng ta.

Một mặt, chuyện quá phổ biến là niềm tin rằng nếu bạn chào đón Thiên Chúa vào đời mình, thì bạn sẽ có một đường đi dễ dàng hơn trong đời, Chúa sẽ cho bạn tránh khỏi nhiều bệnh tật và đau khổ thường tác hại lên người khác.  Ngược lại, nhiều người lại nuôi cảm giác, thậm chí là một niềm tin rằng Thiên Chúa muốn cho chúng ta đau khổ, rằng có một mối ràng buộc cố hữu giữa đau khổ và chiều sâu, rằng càng đau đớn thì càng có tinh thần thiêng liêng.  Tất nhiên, có phần nào sự thật thâm sâu trong đó, chiều sâu thiêng liêng liên kết bất phân ly với đau khổ, và Thập giá Chúa Kitô đã biểu lộ điều này, cũng như Kinh Thánh nói rằng Thiên Chúa thanh luyện những người đến gần Ngài.  Nhưng có vô số cách hiểu lầm điều này.

Chúa Giêsu nói rằng chúng ta phải mang lấy thập giá hằng ngày mà theo Ngài, và rằng theo Ngài nghĩa là chấp nhận một đau khổ đặc biệt.  Nhưng chúng ta sẽ hỏi:  Tại sao lại thế?  Tại sao khi chúng ta chú tâm vào Chúa Giêsu thì đau khổ đi sâu vào cuộc đời chúng ta hơn?  Và điều ngược lại có đúng hay không?  Một tôn giáo thật đi ngược lại với bản tính thịnh vượng của chúng ta hay sao?  Chẳng lẽ đau khổ là thâm sâu còn vui mừng là nông cạn?  Và, chuyện này nói lên điều gì về Thiên Chúa?  Thiên Chúa ái khổ ư?  Tại sao Thiên Chúa muốn và đòi chúng ta phải đau khổ?  Tại sao nhất thiết một dòng chảy đau đớn phải đi kèm với việc thật tâm theo Chúa?

Đau đớn sẽ đổ sâu trong chúng ta hơn khi chúng ta thật tâm theo Chúa, không phải bởi Thiên Chúa muốn thế hay bởi đau đớn thì có phúc hơn vui mừng.  Không phải như vậy.  Đau khổ và đau đớn không phải là điều Chúa muốn, chúng là những thứ tiêu cực, bị xóa sổ trên thiên đàng.  Nhưng, khi chúng ta thật tâm theo Chúa, chúng sẽ đổ tràn sâu hơn trong đời chúng ta là bởi khi thật sự mở ra với Thiên Chúa, chúng ta sẽ không cố níu giữ sự bảo vệ sai lầm cho bản thân mình, và như thế sẽ nhạy cảm hơn để cuộc đời đổ đầy vào chúng ta cách tự do và sâu sắc hơn.  Trong sự nhạy cảm đó, chúng ta sẽ thôi vô thức vặn vẹo mọi thứ để nhằm giữ cho mình được an toàn và không phải đau đớn.  Nói đơn giản, chúng ta sẽ cảm nghiệm một đau đớn sâu sắc hơn trong đời, bởi chúng ta nhạy cảm hơn, sẽ cảm nghiệm mọi sự sâu sắc hơn.

Ngược lại cũng đúng.  Nếu ai đó, quá vô cảm, trơ như đá, thì sự vô cảm của người đó sẽ khiến họ miễn nhiễm và những đau khổ và đau đớn của người khác hiếm khi làm phiền họ.  Tất nhiên, người đó cũng sẽ không cảm nghiệm được ý nghĩa và niềm vui một cách thật sâu sắc, và đó là cái giá của sự vô cảm.

Vài năm trước, Michael Buckley, tu sỹ dòng Tên ở California, đã giảng trong thánh lễ đầu tay của một linh mục.  Trong bài giảng, cha Buckley không hỏi linh mục tân chức rằng liệu cha có đủ mạnh để làm linh mục không, mà lại hỏi liệu cha có đủ yếu để làm linh mục hay không.  Khi chỉ ra nghịch lý này, cha Buckley giúp trả lời câu hỏi: tại sao đến gần với Chúa hơn lại cũng có nghĩa là đến gần với đau khổ hơn.  Liệu người này có đủ bất lực để không thể gạt đi những đau khổ lớn trong đời mình, để sống với một sự thất bại nhất định, để cảm nhận thế nào là một con người bình thường?  Liệu cuộc đời của cha có những bối rối, nghi hoặc bản thân, hay dằn vặt trong lòng?  Liệu cha có phải đương đầu với sợ hãi, có những lúc nản lòng, hay chấp nhận hạ bớt những kỳ vọng của mình?

Rồi cha Buckley tiếp tục so sánh giữa Socrates và Chúa Giêsu, nêu bật rằng Socrates bằng nhiều cách kêu gọi muốn có con người mạnh mẽ hơn.  Như Chúa Giêsu, Socrates cũng bị kết án tử hình một cách bất công, nhưng không như Chúa Giêsu, ông không bao giờ sợ hãi và run rẩy hay “đổ mồ hôi máu” trước cái chết của mình.  Ông uống thuốc độc và bình thản ra đi.  Còn như chúng ta biết, Chúa Giêsu không trải qua cái chết với sự bình thản như vậy.

Một phán xét hời hợt, sẽ nói rằng phản ứng khác nhau là bởi cách chết khác nhau, đóng đinh thập giá thì kinh khủng hơn uống thuốc độc nhiều.  Nhưng, dù lập luận này có phần đúng, nhưng không phải là nguyên do thật sự.  Tại sao Chúa Giêsu đấu tranh vật lộn hơn Socrates trong cái chết?  Bởi sự nhạy cảm vô cùng của Ngài.  Chúa Giêsu đơn giản là ít khả năng hơn trong việc bảo vệ khỏi nỗi đau.  Ngài cảm nhận mọi sự thật sâu sắc và hệ quả là dễ mẫn cảm với đau đớn thể xác và tinh thần, nhạy cảm hơn với sự chối bỏ và khinh dễ của con người, xúc động hơn trước tình yêu và thù ghét.

Socrates là một con người vĩ đại và anh hùng, nhưng không như Chúa Giêsu đã khóc thành Jerusalem, ông không bao giờ khóc thương Athens, không bao giờ biểu lộ nỗi buồn sầu và đau đớn khi bị bạn bè phản bội.  Ông mạnh mẽ, tự chủ, bình thản, và không bao giờ xúc động quá mức.  Còn Chúa Giêsu, lại yếu hơn trong việc bảo vệ mình khỏi những đau đớn, và hệ quả là, đôi khi Ngài xúc động tột cùng.

Rev. Ron Rolheiser, OMI

HÃY CHO HỌ ĂN

Tin Mừng Thánh Gioan hôm nay thuật lại Đức Giêsu làm phép lạ năm chiếc bánh và hai con cá cho năm ngàn người đàn ông ăn no dư thừa, chưa kể phụ nữ và trẻ em, còn dư mười hai thúng.  Đôi bờ đói no của nhân loại hôm nay vẫn còn xa cách vời vợi hơn bao giờ.  Nên năm chiếc bánh và hai con cá của cậu bé dâng hiến hẳn âm thầm gửi đến Kitô hữu nhiều thông điệp sâu xa thấm thía.

Chiếc bánh thứ nhất: Yêu thương

Vừa gặp lại các Tông Đồ trở về sau một hành trình Đi Gieo, Đức Giêsu vui mừng thân thương nhắc nhở các ông vào nơi thanh vắng nghỉ ngơi.  Nhưng thấy đám đông người lũ lượt tìm đến, thì Người chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt.  Và Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều (Mc 6, 34).  Tình yêu tha nhân, lòng thương xót của Đức Giêsu, vô cùng mãnh liệt, ưu tiên trổi vượt, lấn át và vô hiệu hóa những chương trình, dự tính, ý muốn riêng tư của ngay chính Người.

Chiếc bánh thứ hai: Trách nhiệm

Đức Giêsu hăng say giảng dạy dân chúng cho đến nhá nhem tối mới tạm ngừng.  Người hỏi Philipphê: “Ta mua đâu được bánh cho những người này ăn?”  Người hỏi như vậy có ý thử ông, vì chính Người đã biết việc Người sắp làm (Ga 6, 5).  Thánh Maccô ghi lại chi tiết khá minh bạch:  Vì bấy giờ đã khá muộn, các môn đệ đến gần Người và thưa: “Xin Thầy cho dân chúng về, để họ vào thôn xóm, làng mạc chung quanh mà mua gì ăn.”  Người đáp: “Thì chính anh em hãy cho họ ăn đi” (Mc 6, 35-37).  Tuy câu nói của Đức Giêsu qua hai thánh sử khác nhau về hình thức, nhưng cùng chung một ý tưởng.  Đó là thay vì để các môn đệ tránh né bổn phận chăm sóc cộng đoàn, thì Đức Giêsu trao trách nhiệm chính thức cho các ông phải quan tâm giải quyết những nhu cầu chính đáng, cấp bách của cộng đoàn, không thể vịn cớ gì lạnh lùng lảng tránh, từ chối.

Chiếc bánh thứ ba: Quảng đại

“Một trong các môn đệ, tên là Anrê, em ông Simon Phêrô, thưa cùng Người rằng: “Ở đây có một bé trai có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng bấy nhiêu thì thấm vào đâu cho từng ấy người” (Ga 6, 9).  Đây là điều Đức Giêsu đang trông chờ ngay từ đầu vụ việc.  Tuy Chúa quyền năng vô song, tác tạo và biến hóa mọi sự, nhưng Chúa luôn đòi hỏi, cần có sự đồng điệu, hợp tác, dâng hiến của con người, vì Người tôn trọng sự tự do, không ép buộc bất cứ ai.

Cậu bé rộng rãi, quảng đại, nhân ái, đã không ích kỷ giữ bánh và cá cho riêng mình, mà với cả tấm lòng thành, hoàn toàn dâng hiến tất cả, chia sẻ, cho đi mọi sự cho Chúa.  Người luôn chờ đợi một tấm lòng hiến dâng trọn vẹn như thế. “Ta muốn tình yêu, chớ không muốn hy lễ.  Ta muốn sự hiểu biết Thiên Chúa hơn là của lễ toàn thiêu” (Hs 6, 6).  Chính Đức Giêsu cũng tái xác nhận: “Ta muốn lòng nhân, chứ đâu cần lễ tế” (Mt 9, 13).

“Kitô giáo là cho đi.”   Chúng ta phải cho đi, dù phải đến mức đau đớn nhất.  Để trở thành một tình yêu thương thật, thì tình yêu thương phải có cái giá của nó.  Đối với Chúa Giêsu, cái giá đó là tình yêu chúng ta.  Ngay cả Thiên Chúa cũng có cái giá của tình yêu:  Ngài đã trao ban con một Ngài cho chúng ta.”  (Mẹ Têrêsa Calcutta).

Chiếc bánh thứ tư: Nhân hậu

“Bấy giờ Chúa Giêsu cầm lấy bánh, và khi đã tạ ơn, Người phân phát cho các kẻ ngồi ăn, và cá cũng được phân phát như thế, ai muốn bao nhiêu tuỳ thích.” (Ga 6, 11).  Từ năm chiếc bánh và hai con cá dâng hiến của cậu bé, Đức Giêsu đã biến ra nhiều cho cả vạn người ăn dư thừa.  Sự cho đi dẫu nhỏ bé, chẳng đáng kể, lại được tình yêu hồi đáp bằng đại lượng kỳ diệu.  Lòng nhân hậu của Chúa khôn lường vô cùng.  Người tiếp tục chạnh lòng thương dân chúng đói khát, làm phép lạ hóa bánh và cá ra nhiều thêm lần thứ hai.  (Mc 8, 1-10).  Bởi vì “Thiên Chúa là Đấng từ bi và nhân hậu, Người đại lượng và chan chứa tình thương, Người không nỡ xử với ta như ta đáng tội và không trả cho ta theo lỗi của ta.” (Tv 103, 8-10)

Đức Giêsu giảng dạy và hóa bánh ra nhiều nuôi dân chúng hôm nay, là dấu chỉ Người sẽ còn tận tình chiêu đãi dân chúng bữa tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Thánh thể sau này.  Các Tông đồ sau khi tham dự sứ mạng rao giảng, cũng được Đức Giêsu trao phó công việc chăm sóc và nuôi dưỡng đoàn chiên.

Chiếc bánh thứ năm: Công bình

“Bấy giờ Chúa Giêsu cầm lấy bánh, và khi đã tạ ơn, Người phân phát cho các kẻ ngồi ăn, và cá cũng được phân phát như thế, ai muốn bao nhiêu tuỳ thích.”  Không phân biệt nam nữ, già trẻ, giầu nghèo, chức tước, địa vị, Đức Giêsu phân phát bánh và cá tùy theo nhu cầu mỗi người.  Hết thảy đều no đầy phúc đức.  Hồng ân Thiên Chúa luôn phổ quát, công bình và phong phú cho mọi người, như hạt giống gieo vãi, như mưa sa, nắng ấm.  Bởi vì “Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính” (Mt 5. 45).

Con cá thứ nhất: Thanh bần

Trong tinh thần nghèo khó, thanh bần, Đức Giêsu không muốn hoang phí bỏ đi bánh và cá dư thừa, vì còn bao kẻ đói khát đang còn mong chờ được trao tặng lương thực. “Khi họ đã ăn no nê, Người bảo các môn đệ: “Hãy thu lấy những miếng còn lại, kẻo phí đi.”  Họ thu lại được mười hai thúng đầy bánh vụn do năm chiếc bánh lúa mạch người ta đã ăn mà còn dư.”  Tần tiện, tiết kiệm để chia sẻ với người cơ nhỡ, cũng như trân trọng dành dụm của ngọc thực để tích cốc phòng cơ, đó chính là một khía cạnh của đức thanh bần.

“Đừng rộng rãi với của người ta, đừng keo kiệt với của riêng con, đừng phung phí với của công cộng.” (Đường Hy Vọng, số 412)

Con cá thứ hai: Thiên Quốc

“Thấy phép lạ Chúa Giêsu đã làm, người ta đều nói rằng: “Thật ông này là Đấng tiên tri phải đến trong thế gian.”  Vì Chúa Giêsu biết rằng người ta sẽ bắt Người để tôn làm vua, nên Người lại trốn lên núi một mình.” (Ga 6, 15).  Hưởng phúc lợi tràn trề, được chữa bệnh, được cho ăn no nê, dân chúng hăm hở muốn tôn vinh Đức Giêsu làm hoàng đế, vì thấy Người đúng là Đấng Messia mà họ hằng mong đợi, sẽ giải thoát dân Do Thái khỏi ách đô hộ của La Mã.  Đó cũng là cơn cám dỗ thứ ba của Đức Giêsu trong hoang mạc, quyền lực thế gian.

Lúc này, Đức Giêsu nhìn thấy rõ tà tâm trong lòng dân chúng háo lợi, thực dụng, chỉ muốn người lãnh đạo cung phụng cho họ, theo ý muốn thấp hèn của họ mà thôi.  “Các ông đi tìm tôi, không phải vì các ông đã thấy những dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê” (Ga 6, 26).  Trong khi Nước Chúa đâu lệ thuộc vào thế gian phù phiếm, mau biến đổi và hư nát.  Bởi chưng, “Nước Thiên Chúa không phải là chuyện ăn uống, nhưng là sự công chính, bình an và hoan lạc Trong Thánh Thần.” (Rm 14, 17).

“Với năm cái bánh và hai con cá của em bé, Chúa đã làm phép lạ nuôi năm ngàn người.  Chúa vẫn toàn năng, nhưng Chúa yêu thương thiện chí của con.” (Đường Hy Vọng, số 824)

Lạy Chúa Giêsu, chúng con thường thiếu lòng quảng đại, không dám cho đi những gì chúng con đang có, chỉ vì sợ mất mát, thua thiệt, chì vì thiếu Tình Yêu, thiếu niềm tin và thiếu lòng cậy trông vào Chúa Quan Phòng.  Xin Chúa mở lòng trí chúng con, thấu hiểu ý nghĩa cao trọng của phép lạ hóa bánh ra nhiều, để chúng con sẵn sàng cho đi mọi sự, kể cả bản thân, với tình yêu tha thiết chân tình, như cậu bé dâng hiến tất cả bánh và cá cho Chúa dưỡng nuôi tha nhân.

Lạy Mẹ Maria, Mẹ đã dâng hiến trọn đời cho Chúa, xin cầu bầu, dạy bảo, hướng dẫn chúng con noi theo Mẹ, hiến dâng lên Chúa tất cả mọi sự, từ thân xác, tâm hồn đến linh hồn, để có thể phục vụ hữu ích cho tha nhân.  Amen.

Alphonse Marie Trần Bình An

THINH LẶNG

Trong cuộc sống thường nhật ai ai cũng bị cuốn hút vào guồng máy xã hội, công ăn việc làm lôi kéo, và bận rộn với bổn phận và trách nhiệm trong đấng bậc của mình… bị kẹt cứng vào các lợi nhuận, sự hưởng thụ, sự tranh đua v.v…

Chúng ta không có thời giờ ngắm nhìn phong cảnh hay thưởng thức một bài thơ tuyệt tác, một bài văn hay, không có chút thời giờ nào cho con cái hay người thân, vì đôi khi đi làm về nhà, còn đem theo cả sấp hồ sơ…

Để quân bình trong cuộc sống, chúng ta cần phải có những nhịp dừng lại để giải độc tiếng ồn trong thể xác và trong tâm linh.

Dừng lại để dành thời giờ nghỉ ngơi giữa đồng quê, đi hái hoa bắt bướm với con cái, vợ chồng cùng đi dạo trên bờ biển để lắng nghe tiếng sóng vỗ bập bềnh vào bờ đá, tiếng  dào dạt của làn nước xô đẩy những hạt cát,  sung sướng cảm nhận sự cọ sát êm ái dưới đôi chân trần trên nền cát ướt mịn màng mát rượi…

Dừng lại để tìm lại vài điều thú vị trong sự lười biếng của tuổi thơ, nằm nướng trong chăn mền ấm áp vào những buổi sáng không phải tất bật vội vàng đến sở v.v…

Dừng lại để có dịp được nằm trên bãi cỏ xanh mượt mà, dưới gốc cây cổ thụ, ngắm nhìn những tia nắng xuyên qua cành lá đang rung rinh đong đưa theo chiều gió… mơ mộng thương nhớ đến những kỷ niệm đẹp trong đời mà đã bao năm vì bận rộn mình chưa hề nhớ đến…

Dừng lại để tìm lại những hành động, những cử chỉ hạnh phúc đơn sơ với người thân yêu, hay những thiếu sót đối với mọi người và với chính mình, hầu tự tìm ra sự sửa đổi…

Dừng lại để cảm nếm sự yên ắng cô đọng thật giản dị của đời thường… Lúc này, ta đang chìm sâu vào những khoảng lặng sâu xa của tâm hồn, ta đang hạnh phúc thưởng thức chính mình.

Lắng nghe tiếng vi vu của gió, tiếng ca hót của chim, tiếng róc rách của nước chảy, tiếng nhạc du dương của dương cầm, tiếng xôn xao của trẻ thơ chơi đùa…

Những tiếng ấy không thể phá vỡ sự im lặng mà chúng đang dệt thành thinh lặng trong nội tâm mình. Hãy để cho âm thanh và màu sắc của nó thấm vào hồn ta, vào thể xác thư giãn của ta.  Các bạn hãy thưởng thức và biết ơn thời gian “thinh lăng” tuyệt vời này nhé.

Thinh lặng có hai chiều kích ớng nội và hướng ngoại hỗ tương cho nhau,

Hướng ngoại, tương quan với người khác, với thế giới trong môi trường sống của mình.

Hướng nội, rút lui vào nội tâm, thinh lặng, suy tư.  Nhờ sự tương quan hướng nội và hướng ngoại này mà con người có thể tìm gặp chính mình và gặp Đấng Tạo Dựng nên mình giống hình ảnh Ngài.

Nhà văn St. Exupéry cho thấy sự thinh lặng hướng nội (nói cách khác, thinh lặng của sa mạc) là một nơi ưu tuyển đối với ông để đạt được sự chín chắn nhân bản và tâm linh.  Sa mạc là bậc thầy dạy chân lý và tình yêu.

Tôi tự nhủ rằng , những khoảng không gian rộng lớn của thinh lặng từng đi qua cuộc đời tôi, tôi nợ chúng tất cả những gì tốt đẹp mà tôi có.  Bất hạnh cho ai chưa từng biết đến thinh lặng…..

Thinh lặng đến với tôi như một bậc thầy đáng kính yêu, và giống như một phần trời tuôn xuống con người để làm cho tốt hơn.

Từng lớp mênh mông, thinh lặng đến từ trời cao, từ những khoảng không gian liên hành tinh, từ những vùng yên tĩnh của trăng lạnh.

Thinh lặng đến từ sau không gian bên kia bờ thời gian, từ trước khi hiện hữu các thế giới, và từ nơi mà các thế giới sẽ không còn.

Bấy giờ tôi dừng lại lòng tràn đầy yêu thương và tôn kính.

(trích Những Nẻo Đường Thinh Lặng.  Michel Hubaut)

Pascal cũng có những trải nghiệm thinh lặng khi ông ở trong một cánh đồng bao la ở Phi Châu, nơi mà gió mạnh thổi xoáy, dưới trời sao những đêm ở Port Royal,

Chính tại đấy mà tôi biết được những giờ thực sự trong cô tịch đầu tiên, tại đấy lần đầu tiên tôi đã lắng nghe sốt sắng thời khắc rơi vào sự thinh lặng vĩnh cửu của Sa Mạc.

Trên mảnh đất khô cằn này, nơi mà không bao giờ con người đặt cơ ngơi, tôi có cảm giác mình vượt ra khỏi các giới hạn thông thường của cuộc sống, và tiến lên, run rẩy vì chóng mặt, đến bờ của CÕI VĨNH HẰNG

(trích Những Nẻo Đường Thinh Lặng.  Michel Hubaut)

Thinh lặng!  Thinh lặng!  Ta đang chìm sâu cả tâm hồn lẫn thể xác vào thinh lặng, như  đang ngâm mình trong bể tắm, hồi sức cho mìnhTa để cho mọi sự vật tỏ mình ra trong thinh lặng, chúng đang thỏ thẻ và ta đang lặng lẽ lắng nghe, đón nhận…

Chúng ta hãy biết quý trọng sự thinh lặng, hãy tập sống thinh lặng với Thiên Chúa, chắc chắn một ánh sáng kỳ diệu thế nào cũng chiếu tỏa trên bạn.

Hằng năm chúng tôi có những nhịp dừng lại trong thinh lặng, tham dự các khóa tĩnh tâm 3, 5 hay 7 ngày theo phương pháp Linh Thao (thao luyện linh hồn) của Thánh Ignazio Loyola, Thánh Tổ Dòng Chúa Giêsu (Dòng Tên).  Trong những ngày này chúng tôi hoàn toàn thinh lặng cả bên trong lẫn bên ngoài để linh hồn mình lắng nghe tiếng Thiên Chúa trong Lời Ngài.  Chỉ những giờ huấn đức của linh mục hướng dẫn, chúng tôi có thể hỏi hoặc chia sẻ một chút trong đề tài mà thôi.  Chúng tôi giữ thinh lặng một cách rất trân trọng và lịch sự, tôn trong sự thinh lặng của người khác nên tâm hồn rất êm ả, thanh thoát thể xác trong một không gian lặng lẽ, một thời gian êm trôi thật thanh bình, chan chứa một niềm vui sâu sắc trong trí tâm thân.  Chúng tôi đang ngụp lặn trong bể tình thương bao la của Thiên Chúa.  Tất cả chúng ta đều có nhu cầu cần sự thinh lặng, rất cần thiết như nhu cầu để yêu và được yêu.

Thinh lặng là một nghệ thuật đòi hỏi tâm hồn bạn tĩnh lặng, là lúc mặt hồ tâm hồn bạn không hề gợn sóng, mầu nhiệm của Thiên Chúa sẽ được chiếu tỏa trên đó, giúp bạn lắng nghe tiếng Chúa.

Xin Chúa phán môt lời thì linh hồn con…

Tâm hồn bạn đang chìm đắm trong một không gian tĩnh tại để bạn có thể:

  • Dũng cảm mỉm cười tha thứ cho người đã làm tổn thương bạn nặng nề.
  • Để bạn có đủ bao dung không trả đũa một lời nguyền rủa, một lời sỉ nhục, một lời nói vô liêm sỉ.
  • Để bạn thành thật nhìn sâu vào tâm hồn bạn, hầu vớt ra khỏi đó những rong rêu của ích kỷ, của ghen tương, của tham sân si.
  • Để kiên nhẫn tập cho mình không bị ảnh hưởng bởi những cơn sóng dữ của cuộc đời.
  • Để trân trọng một tình cảm chân thành đối với người bị thương tích trong tâm hồn hay trong thể xác

Tuy nhiên, bất cứ một việc gì trong đời sống luôn luôn có mặt trái của sự việc, trong số những người thinh lặng ta gặp cả các vị thánh lẫn những tên tội phạm.

Ta cần cảnh giác khi sự thinh lặng không xuất phát từ nội tâm chân chính, không hướng về Thiên Chúa và tha nhân, thì sự thinh lặng của con người sẽ là một sự hàm hồ, thiếu nhân đức.  Không phải bất cứ sự thinh lặng nào cũng đương nhiên là lành mạnh, là dấu chỉ của sự khôn ngoan hay của chiều sâu nội tâm.

Đó là những sự:

  • Thinh lặng khinh bỉ (không thèm nói, không đếm xỉa đến)
  • Thinh lặng dửng dưng (nhìn kẻ khác với cái nhìn trịch thượng)
  • Thinh lặng ngạo nghễ (của kẻ tự mãn, kiêu ngạo)
  • Thinh lặng lạnh lùng (không chấp nhận sự thinh lặng tốt của ai kể cả Thượng Đế)
  • Thinh lặng kiêu căng (không chấp nhận cái tốt của người khác)
  • Thinh lặng lười biếng (không muốn góp công, góp của giúp tha nhân)
  • Thinh lặng của kẻ ngu (không biết nói gì, nhưng câm lặng để mọi người tưởng mình sâu sắc)
  • Thinh lặng oán hờn (gặm nhấm vết thương và cách biệt người bất đồng ý kiến với mình)
  • Thinh lặng hèn nhát (thu mình để khỏi bị liên lụy)
  • Thinh lặng đồng lõa (đồng tình giữ kín với sự dữ)
  • Thinh lặng phản bội (trốn tránh không đưa ra chứng từ mà mọi người chờ đợi)

Trong thinh lặng ta có thể tẩy rửa mình, nhưng cũng có thể hủy diệt mình.

Elisabeth Nguyễn

THẮNG-THUA

Có một hòa thượng lên núi chặt củi, trên đường trở về, ông phát hiện cậu thiếu niên nọ đã bắt được một con bướm và đang cố gắng khom hai bàn tay lại để giữ cho nó khỏi bay.

Nhìn thấy người tu hành, cậu cất lời: “Thưa hòa thượng, cháu và ngài đánh cược một ván được không?”

Hòa thượng hỏi lại: “Cược thế nào?”

“Ngài đoán xem con bướm trong tay cháu sống hay chết?  Nếu ngài đoán sai, bó củi sẽ thuộc về cháu,” – cậu thiếu niên trả lời.

Vị hòa thượng nọ đồng ý và đoán: “Con bướm trong tay cháu chết rồi.”

Cậu thiếu niên cười lớn đáp: “Ngài đoán sai rồi.”  Nói đoạn, cậu mở tay ra, con bướm từ trong bay lên.

Hòa thượng nói: “Được, gánh củi này thuộc về cháu.”  Nói xong, ông đặt gánh củi xuống, vui vẻ bước đi.

Cậu thiếu niên không biết vì sao hòa thượng lại có thể vui vẻ đến như vậy, nhưng nhìn gánh củi trước mặt, cậu ta cũng không để tâm lắm mà vui vẻ gánh gánh củi về nhà.

Nhìn thấy con về, người cha liền hỏi số củi đó ở đâu ra, cậu mới đem chuyện kể lại cho cha nghe.

Nghe hết câu chuyện của con trai, đột nhiên ông giơ tay tát con một cái, giọng giận dữ: “Con ơi là con!  Con hồ đồ quá rồi!  Con nghĩ là mình đã thắng sao?  Ngay cả khi con đã thua, con cũng không hề biết mình đã thua đấy.”

Lời cha nói khiến cậu con trai ngơ ngác, không hiểu gì.  Người cha liền lệnh cho cậu ta gánh bó củi lên vai, hai cha con mang củi đến trả cho nhà chùa.

Nhìn thấy vị hòa thượng nọ, người cha liền cất tiếng: “Thưa thầy, con trai tôi đắc tội với thầy, xin thầy lượng thứ.”

Hòa thượng gật đầu, mỉm cười nhưng không nói gì.

Trên đường trở về nhà, cậu thiếu niên sau một khoảng thời gian băn khoăn cuối cùng cũng đã nói ra những nghi vấn trong lòng.

Người cha thở dài nói: “Vị hòa thượng đó cố ý đoán con bướm chết, như thế con mới thả nó ra và thắng được gánh củi.  Nếu ông ấy nói con bướm còn sống, con sẽ bóp chết con bướm và con cũng sẽ thắng cược.  Con cho rằng vị hòa thượng đó không biết con tính toán gì sao?  Người ta thua một bó củi nhưng đã thắng được thứ giá trị hơn rất nhiều, đó là lòng từ bi.  Còn con, con đã thua, đã để mất thứ quý giá đó mà chẳng hề hay biết.”

Câu chuyện có thể rất đơn giản nhưng đó là bài học cho chúng ta trong cuộc sống.  Thắng-thua, thành-bại, được-mất, là những chuyện thường xuyên giày vò cuộc sống của con người.  Có những lúc chúng ta tự cho rằng mình đã thắng nhưng trên thực tế, có khi chúng ta đã thua nhiều hơn mà chẳng hề hay biết.  Có những lúc chúng ta nghĩ rằng mình đã mất trắng tay, nhưng đó lại là lúc chúng ta được.  Có những lúc chúng ta nghĩ rằng mình đã được, đã có, đã nắm tất cả như chú bé nắm con bướm trong tay, vênh vang gánh bó củi trên vai, nhưng đâu biết rằng chúng ta đang thua những cái lớn lao hơn, giá trị vĩnh cửu hơn.  “Được lời lãi cả và thế gian, mà mất linh hồn nào được ích gì!” (Mt. 16,26).  Xin Thiên Chúa ban ơn khôn ngoan để giúp chúng ta hiểu rõ hơn giá trị sâu sa đích thực về cái được-mất, thắng-thua, và thành-bại trong cuộc sống.  Amen!

Sưu tầm

VẮNG VẺ

Số người mắc bệnh thần kinh ngày nay càng ngày càng nhiều.  Và một trong những lý do đưa đến bệnh đó là nếp sống càng ngày càng ồn ào xô bồ.  Ngoài đường thì tiếng xe, tiếng máy, tiếng người ồn ào suốt ngày; trong nhà thì các thứ tiếng nói, tiếng hát, tiếng nhạc từ các máy radiô, tivi, cassette; rồi còn những tiếng khác từ các rạp hát, các loa phóng thanh v.v…  Ở giữa bao nhiêu là tiếng động ồn ào đó, con người ngày nay như bị quay cuồng, bị li tâm, bị trống rỗng, thần kinh thì căng thẳng, và nội tâm thì nghèo nàn.

Để thoát ra khỏi bầu khí ồn ào căng thẳng đó hầu tìm lại phần nào yên tĩnh, trầm lặng, nội tâm… người ta đã tìm đến với Yoga, với Thiền, với những phương pháp dưỡng sinh…  Những hình thức này càng ngày càng lôi kéo được nhiều người tham gia.  (Đó cũng là một phản ứng tất nhiên để đánh quân bình lại với những hoạt động quá náo nhiệt ồn ào đã nói ở đầu).  Ở những nước công nghiệp phát triển, vào mùa hè, người ta tạm nghỉ việc, rời bỏ nếp sống đô thị náo nhiệt và tìm đến nghỉ ngơi ở vùng yên tĩnh hơn như miền quê, miền biển, miền núi…  Và ngay ở Liên hợp quốc cũng có một căn phòng đặc biệt, phòng này không trang trí gì cả, rất trống trải nhưng rất yên tĩnh, dành cho các nhà ngoại giao, các nhà chính trị nếu cần tìm một chút bầu khí trầm tĩnh thì đến đấy trong một thời gian nào đó…  Tất cả những cố gắng và những sáng kiến vừa kể trên cũng là một phản ứng tất nhiên của con người để đánh quân bình lại với cuộc sống đã quá ồn ào như đã nói ở trên.

Như thế, chúng ta thấy được rằng một bầu khí yên tĩnh, một thời gian trầm lặng là điều rất cần thiết cho con người.  Nó cần thiết vừa để cho thân xác nghỉ ngơi, vừa để cho tinh thần con người thư giãn, vừa để cho trí óc con người sáng suốt nhìn lại cuộc sống mình, kiểm điểm và rút ưu khuyết điểm để định hướng cho cuộc sống trong giai đoạn tới.  Sau khi các tông đồ đi hoạt động truyền giáo một thời gian trở về, Đức Giêsu đã bảo các ông chèo thuyền qua phía bên kia hồ, yên tĩnh hơn để tĩnh dưỡng xác hồn “Các con hãy lui vào nơi vắng vẻ…”

Lời khuyên này của Chúa ngày nay vẫn được những người tu hành, các giám mục, linh mục, tu sĩ, đặc biệt coi trọng.  Hằng năm, hàng tháng các vị đó vẫn có những cuộc tĩnh tâm, có khi kéo dài một tháng, có khi một tuần, có khi một ngày, hay ít ra cũng một buổi.  Trong thời gian đó, họ sẽ kiểm điểm đời sống, cầu nguyện, định hướng cho hoạt động sắp tới…

Còn đối với giáo dân, cuộc sống chạy đua với miếng cơm manh áo khiến chúng ta không có nhiều thời giờ rảnh rỗi để làm những cuộc tĩnh tâm như vậy.  Tuy nhiên, chúng ta đừng quên rằng yên tĩnh là một nhu cầu cần thiết cho cuộc sống, cuộc sống càng ồn ào chừng nào thì nhu cầu yên tĩnh càng cần thiết chừng ấy.  Cho nên dù bận rộn, thỉnh thoảng chúng ta cũng hãy cố gắng đi tìm một chút yên tĩnh cho tâm hồn mình.  Nhưng có nhiều thứ yên tĩnh:

  • Không phải thứ yên tĩnh chỉ vì vắng tiếng động bên ngoài. Có những người vì quá quen với ồn ào nên khi phải ở một nơi im lặng thì chịu không nổi, muốn phát điên lên.  Chúng ta không đi tìm thứ yên tĩnh đó.
  • Chúng ta cũng không đi tìm thứ yên tĩnh trống rỗng, nghĩa là bên ngoài đã hoang vắng mà trong tâm hồn cũng hoang sơ, cằn cỗi.
  • Thứ yên tĩnh mà chúng ta cần đi tìm là thứ yên tĩnh tràn đầy hương vị ngọt ngào… Yên tĩnh bên ngoài để cho bên trong tâm hồn có được những ý hướng cao thượng, những nhận định sáng suốt, những sức mạnh an ủi khích lệ…  Có một nhạc sĩ đã viết lên những câu nhạc như thế này: “Ta hãy làm thinh chớ nói nhiều, để nghe dưới đáy nước hồ reo, để nghe tơ liễu rung trong gió, và để xem trời giải nghĩa yêu…”  Đó là thứ yên tĩnh ngọt ngào, phong phú, là chính thứ yên tĩnh ta cần đi tìm.

Nhưng tìm ở đâu bây giờ?  Thưa thứ yên tĩnh đó ta có thể tìm thấy trong bầu khí trầm mặc ở nhà thờ, trong những giây phút cầu nguyện, và ngay trong chính tâm hồn mình.  Nghe nói đến đây chắc chắn nhiều bạn trẻ thấy ngán!  Đúng thế, chắc hẳn có nhiều lần chúng ta cũng đã đến nhà thờ, cũng đã cầu nguyện… nhưng thấy nó buồn tẻ làm sao, chỉ muốn ngủ gục thôi.  Tại vì chúng ta như bị bó buộc phải đi vào cảnh yên tĩnh đó một cách miễn cưỡng, cho nên chúng ta chỉ gặp được cái thứ yên tĩnh chỉ vì vắng tiếng động bên ngoài, hay chỉ gặp thứ yên tĩnh trống rỗng như đã phân loại ở trên.  Muốn tìm thấy yên tĩnh đích thực, nghĩa là thứ yên tĩnh ngọt ngào, phong phú thì chúng ta phải tự nguyện tìm yên tĩnh, và để trọn tâm hồn của mình lắng đọng trong cõi yên tĩnh đó.

Augustinô sau một thời gian tuổi trẻ chạy theo danh vọng, tiền tài, khoái lạc đã bắt đầu thấy chán chường.  Một hôm chàng cầm theo một quyển sách vào ngồi trầm tư trong khu vườn vắng vẻ.  Đột nhiên, chàng nghe vang lên một tiếng trẻ con “Hãy cầm lấy mà đọc.”  Augustinô ngó xuống thì thấy tay mình đang cầm quyển Thánh Kinh.  Chàng mở ra và đọc, đọc được câu “Anh em đừng chạy theo xác thịt nữa nhưng hãy sống theo Thánh Thần Chúa.”  Câu nói ấy của thánh Phaolô trong thư ngài gửi giáo dân Rôma đã là khởi đầu cho một cuộc sống mới của thánh Augustinô.  Tất cả khởi đầu từ một giây phút yên tĩnh của tâm hồn.

Tóm lại, điều chúng ta cần ghi nhớ trong bài Tin Mừng hôm nay là lời Chúa khuyên: “Chúng con hãy lui vào nơi vắng vẻ…”  Để thực hiện lời Chúa, thỉnh thoảng chúng ta hãy để cho tâm hồn mình lắng đọng lại, hãy tạm quên đi bỏ đi những ồn ào bên ngoài để đi sâu vào tâm hồn mình, thỉnh thoảng chúng ta hãy cầu nguyện thật sự, thỉnh thoảng chúng ta hãy vào nhà thờ với ước muốn thật sự tìm gặp ở đấy sự yên tĩnh cho tâm hồn.

Và cầu mong chúng ta sẽ gặp được điều mà chúng ta tìm kiếm.

Sưu tầm

ĐỨC TIN ĐÍCH THỰC

Đức tin là một ơn ban của Chúa.  Người tín hữu đón nhận ơn này khi lãnh nhận Bí tích Thanh tẩy (còn gọi là Bí tích Rửa tội).  Như thế, người không được rửa tội thì không có Đức tin.  Sự tin tưởng mà họ có nơi bạn bè và những người thân quen không được gọi là Đức tin mà đó chỉ là “niềm tin.”

Giáo lý công giáo dạy: Đức tin là một nhân đức “đối thần”, tức là nó giúp ta hướng thẳng về Chúa.  Gọi là nhân đức “đối thần” để phân biệt với các nhân đức khác như khôn ngoan, công bình can đảm, tiết độ.  Bốn nhân đức này được gọi là bốn “nhân đức trụ”, có nghĩa chúng làm nền tảng cho các nhân đức luân lý khác cần thiết cho đời sống con người.  Bốn nhân đức trụ này, cũng như các nhân đức luân lý, khi sinh ra, chúng ta chưa có, phải do học hành và luyện tập mới có được.

Đức tin là một ơn ban của Chúa, nên có người nhận được và có người lại không.  Nói cách khác, có người sẵn sàng mở lòng đón nhận, nhưng cũng có người khép kín khước từ.  Con người được tự do chọn lựa tin vào Chúa hay khước từ Ngài.  Tin vào Chúa, đó là một đề nghị được đặt ra cho chúng ta.  Đó không phải là mệnh lệnh hay một điều ép buộc.  Vì thế, trong Giáo Hội, không bao giờ bắt ép ai theo Đạo.  Nếu có ép buộc một người nào phải lãnh nhận Bí tích Thanh tẩy, thì việc lãnh nhận Bí tích sẽ không thành sự, nghĩa là chẳng mang ơn ích gì.  Trong trường hợp này, người bị ép buộc cũng không phải là người công giáo đúng nghĩa.  Khi nói đến quyền tự do tin hay không tin Chúa, nhiều người đã phê phán Giáo Hội ép buộc người ta theo Đạo khi rửa tội cho trẻ em.  Câu trả lời của Giáo Hội rất rõ ràng: cũng như cha mẹ muốn điều tốt cho con mình nên phải dạy chúng từ khi còn nhỏ mà đâu có hỏi xem chúng có đồng ý hay không.  Khi trẻ lên 5 tuổi, cha mẹ bắt ép chúng mới đi đến trường học.  Vậy, việc dạy con những điều hay lẽ phải, việc cho con đi học mặc dù chúng không thích có bị phê phán là thiếu tự do hay không?  Giáo Hội chủ trương rửa tội cho con trẻ, vừa muốn cho chúng có một nền tảng giáo dục từ ban đầu, vừa qua đó để xin ơn Chúa xuống nơi tâm hồn em bé qua việc lãnh nhận Bí tích.

Vì là một ơn ban, nên có người giữ được mà cũng có người đánh mất.  Vì thế, trong ngôn ngữ bình dân, chúng ta vẫn gọi người này người nọ là “mất Đức tin.”  Người mất Đức tin là người tuyên bố công khai bỏ Đạo, còn người lười biếng đọc kinh, không đến nhà thờ hoặc người đang sống trong ngăn trở thì chưa thể căn cứ vào đó mà kết luận là một người mất Đức tin.  Tuy vậy, tình trạng khô khan lười biếng thường dẫn đến tình trạng Đức tin phai nhạt và rồi mất Đức tin.

Có người có Đức tin đích thực, lại có người có Đức tin giả tạo.  Người có Đức tin đích thực thì luôn tìm kiếm Chúa và cầu nguyện với Ngài, vì họ xác tín Chúa đang hiện diện trong cuộc đời họ.  Người có Đức tin giả tạo thì chỉ hời hợt bề ngoài, gió chiều nào xoay chiếu ấy, đời sống mang nhiều khuôn mặt khác nhau.  Đối với người có Đức tin giả tạo, Giáo Hội chỉ như một tổ chức trần tục, tham gia cho vui, không hề gắn bó và yêu mến.  Thánh Luca ghi lại phép lạ Chúa Giêsu chữa lành mười người phong cùi trên đường đi Giêrusalem (x. Lc 17,11-19).  Mười người trong họ đều có lòng tin.  Nhờ lòng tin đó mà họ được chữa lành.  Tuy vậy, chỉ có một người trong họ trở lại để tôn vinh Thiên Chúa, mà người ấy lại là người Samaria, tức là người ngoại thường bị người Do Thái khinh bỉ.  Như thế, Đức tin đích thực không mang những nhãn hiệu hào nhoáng hay vỏ bọc bề ngoài.  Chín người kia chỉ chú ý đến mục đích khỏi bệnh.  Lòng tin của họ là lòng tin vì bản thân, ích kỷ và vụ lợi.  Người Samaria là người có lòng tin đích thực.  Anh vừa được chữa bệnh phong cùi, vừa được mở con mắt tâm hồn để nhận ra chân lý.  Lòng tin của anh đã cứu chữa anh. ”  Lời tuyên bố của Đức Giêsu cho thấy “tin” là một điều kiện cần thiết để chữa lành.  “Tin” cũng có một sức mạnh phi thường để chữa lành, không chỉ những chứng bệnh nan y mà còn chữa lành những tâm hồn đau thương vỡ nát.  Đức tin đích thực dẫn ta đến gặp gỡ Chúa, tôn nhận Ngài là đích điểm đời ta.  Đức tin đích thực giúp ta nhìn nhận xa hơn để đến với tha nhân, xây dựng một cuộc sống công bằng nhân ái với hết mọi người.

Người tín hữu là người được ban ơn Đức tin, và để Đức tin lớn lên mỗi ngày, họ phải trau dồi đạo đức, chuyên tâm cầu nguyện và thực thi bác ái.  Đức tin không phải là một “tấm thẻ ưu tiên” hay “tấm bùa hộ mệnh” để rồi ai sở hữu là tất nhiên được cứu rỗi.  Tâm hồn đón nhận Đức tin phải như mảnh đất tốt, để nhờ đó mà hạt giống được gieo vào nảy nở đâm bông kết trái (x. Mt 13,1-9).

Có người có Đức tin mạnh mẽ, lại có người có Đức tin non yếu.  Các thánh tử đạo là những người có Đức tin mạnh mẽ.  Các ngài không sợ chết.  Vì Đức tin khẳng định với các ngài rằng ai trung tín với Chúa sẽ được sống đời đời dù có phải tù đày hay phải chết phần xác.  Những người có Đức tin non yếu chỉ tin vào Chúa khi gặp hạnh phúc may mắn, nhưng khi gặp thất bại gian nan thì họ bỏ Chúa, thậm chí phủ nhận vị trí của Ngài trong đời họ.  Cũng có khi họ chọn lựa thế gian và lợi lộc vật chất hơn là chọn lựa Chúa.  Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Con Người cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt thiên thần của Thiên Chúa.  Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì sẽ bị chối trước mặt các thiên thần của Thiên Chúa” (Lc 12,8).  Mạnh mẽ tuyên xưng Đức tin chính là bảo chứng cho việc chúng ta được cứu rỗi trong ngày sau hết của cuộc đời.

Tân ước dẫn chứng rất nhiều tấm gương về Đức tin.  Người phụ nữ xứ Canaan đã kiên nhẫn nài nỉ xin Chúa chữa cho con gái bà khỏi bệnh.  Mặc dù Chúa Giêsu đã trả lời bà bằng một câu xem ra không có hy vọng, bà vẫn kiên trì và bà đã được như lòng mong ước (x. Mt 15,21-28).  Với vị Đại đội trưởng đến xin Chúa chữa cho đầy tớ ông được khỏi, Chúa Giêsu đã khen ngợi ông:  “Tôi không thấy một người Israen nào có lòng tin như thế” (Mt 8,19).  Lòng tin nơi ông mạnh mẽ đến nỗi ông so sánh quyền lực của Chúa với một vị chỉ huy, chỉ cần truyền lệnh là mọi sự đâu vào đấy.

Bạn thân mến, chúng ta là người tín hữu, vì chúng ta đã được lãnh nhận Bí tích Thanh tẩy.  Bí tích này làm cho chúng ta trở nên con người mới, giống như Chúa Giêsu Kitô.  Tuy được mặc lấy Chúa Giêsu, nhưng chúng ta còn là con người, bị tác động bởi biết bao những cám dỗ.  Chính sự yếu đuối của thân phận con người nơi thân xác chúng ta cũng là một trong những nguy cơ làm cho chúng ta phai nhạt tình yêu và lòng tín thác đối với Chúa.  Chính vì vậy, Đức tin phải được tuyên xưng nơi môi miệng, phải được sống nơi cuộc đời và phải được loan truyền cho anh chị em xung quanh.

Chúng ta cùng chiêm ngắm và noi gương Đức Trinh nữ Maria thành Nagiarét.  Mẹ là mẫu mực của các tín hữu trong hành trình theo Chúa.  Mẹ được chúc phúc vì Mẹ đã tin những gì Chúa phán cùng Mẹ sẽ thành hiện thực.  Đức tin đã giúp Mẹ vượt qua những gian khổ trong cuộc đời.  Nhờ Đức tin, Mẹ nhìn thấy thánh ý Chúa trong những biến cố đau thương và luôn một niềm trung tín.  Đức tin của Mẹ là Đức tin đích thực.  Xin Mẹ giúp chúng ta biết tin như Mẹ đã tin và sống như Mẹ đã sống.

Gm Giuse Vũ Văn Thiên
Nguồn: gphaiphong.org

HÀNH TRÌNH ĐỜI SỐNG TÂM LINH THEO THÁNH BONAVENTURA

Nhân ngày lễ thánh Bonaventura (15/7), BBT xin giới thiệu suy tư của nhà linh đạo này về hành trình tâm linh của Kitô hữu.

Con người vốn mỏng giòn và yếu đuối nên luôn phải đối diện với những bấp bênh trong cuộc sống thường ngày.  Sự nghiệt ngã của cuộc đời có thể nhấn chìm họ vào trong khổ đau, bất hạnh và vô vọng.  Thực tế phũ phàng đó, thúc đẩy con người luôn khao khát kiếm tìm ý nghĩa đích thực của cuộc đời là Hạnh Phúc Vĩnh Cửu.  Trong tác phẩm “Bonaventura, Hành trình của con người lên tới Thiên Chúa” bản dịch của Lm Nguyễn Đoàn Tân, Học viện Phanxicô 2007, thánh Bonaventura, tiến sĩ Chí ái phác họa cho chúng ta con đường và cách thức mà mỗi người có thể vượt qua để đạt tới Thiên Chúa là hạnh phúc vĩnh cửu của đời mình.

I. Các Chặng Đường dẫn tới Thiên Chúa

1. Khao khát tìm kiếm Thiên Chúa

Con người khao khát, khắc khoải tìm kiếm Thiên Chúa, lòng khao khát này “vượt trên mọi hiểu biết”, thúc đẩy con người vượt ra khỏi chính mình để tìm kiếm Thiên Chúa.  Đây cũng là kinh nghiệm của thánh Bônaventura: “Được thúc đẩy bởi gương sáng của thánh Phanxicô, tôi đã hằng ao ước sự bình an này.”

Trong bước khởi đầu này việc cầu nguyện sẽ giúp con người hướng tâm hồn mình lên, để tìm kiếm Hạnh phúc vĩnh cửu: “Cầu nguyện là người mẹ và là nguồn mạch phát xuất động tác đi lên của tâm hồn hướng thượng.”  Ở bậc này, thụ tạo xung quanh trở thành tấm gương phản ánh những điều chúng ta tìm kiếm.

2. Vũ trụ là tấm gương

Với lòng khao khát, ước muốn Thiên Chúa thì vũ trụ, con người và vạn vật trở nên tấm gương.  Khi nhìn vào tấm gương này, chúng ta thấy chính mình, và nhìn qua tấm gương chúng ta thấy thế giới khác với chính mình: “Thật thế, trí năng phải cậy tới nhận thức khả giác để biết tất cả những gì xa lạ với nó, nghĩa là biết tất cả những gì không phải là nó.”

Kế tiếp, thánh Bonaventura sử dụng thuyết Lan tỏa để giải thích dấu tích của Thiên Chúa trong vũ trụ. Theo đó, thế giới thụ tạo như tấm gương phản ánh dấu tích của Thiên Chúa ở khắp mọi nơi, chỉ đường cho chúng ta tìm kiếm Người.

3. Phương tiện nhìn thấy: giác quan

Để nhìn thấy các dấu tích của Thiên Chúa, chúng ta dùng đến giác quan của mình: “Hãy nhìn cho kỹ, bạn sẽ thấy Thiên Chúa gần bạn biết bao.”  Nhờ các giác quan thể lý, qua các hoạt động: phát sinh, khoái cảm và phán đoán, các dấu vết của Thiên Chúa trong vũ trụ đi vào trong ý thức của chúng ta.  Ngài nói: “Theo cách đó toàn bộ thế giới khả giác đi vào trong tâm linh con người.”

Thánh Bonaventura trở về với tri thức luận của Platon bằng cách vượt qua thế giới khả giác đưa chúng ta đến chân lý khả niệm: “Chúng ta nhờ tới một ánh sáng nội tâm, ánh sáng này tự biểu lộ ra trong các nguyên lý của các khoa học và của chân lý tự nhiên, vốn là bẩm sinh đối với con người.  Các thứ đó đều thuộc về một bậc nhận thức cao hơn, ở đó cảm năng không còn chỗ nữa.”  Tuy nhiên, cũng theo thánh Bonaventura thì do hậu quả của tội lỗi, tâm trí con người u mê và đầy dục vọng nên mắt của con người “mù lòa” và không nhìn thấy các thực tại, dấu vết của Thiên Chúa trong vũ trụ.  Vì thế, con người cần thiết phải trải qua việc thanh luyện.  Trong khi thanh luyện, nhờ ánh sáng vĩnh cửu soi sáng, các giác quan thể lý biến đổi thành các giác quan tinh thần và “chúng ta được đưa dẫn tới tấm gương của tâm hồn, trong đó các thực tại thần linh sáng ngời.”

4. Chiêm ngưỡng Thiên Chúa

Cùng với ân sủng của Thiên Chúa ban cho thân thể ta và bằng con mắt đã thanh tẩy qua các nhân đức Tin-Cậy-Mến, chúng ta chiêm niệm về Thiên Chúa.  Khi suy niệm bằng các giác quan của tinh thần: “Linh hồn ta có thể thấy, nghe, ngửi, nếm và ôm lấy Đức Lang quân.”  Và khi đó linh hồn được chuẩn bị để đạt tới những trạng thái xuất thần.

5. Phó thác hay an nghỉ trong Chúa

Đến đây lý trí của chúng ta phải nhường chỗ cho ý chí.  Chính nhờ lòng khao khát cháy bỏng, linh hồn được sắp xếp theo từng cấp bậc để tiến đến sự kết hợp với Thiên Chúa, nghĩa là được thanh tẩy, được soi sáng và trở nên hoàn thiện.  Trong giai đoạn này, con người có thể chiêm ngưỡng tính duy nhất thần linh qua Tên Gọi nguyên thủy là Hữu Thể và chiêm ngắm Ba Ngôi diễm phúc trong danh hiệu Thiện Hảo.

Thánh Bonaventura theo thuyết Lan tỏa đã quan niệm rằng: Sự Thiện thông truyền viên mãn làm phát sinh Chúa Con và Chúa Thánh Thần.  Trong các Ngôi vị, sự Thiện cao nhất đòi hỏi một tình yêu hiến thân vô biên; sự Thiện vô biên tạo nên sự đồng bản thể thuyệt đối dẫn đến có sự tương đồng sâu xa và sự bình đẳng giữa Ba Ngôi.  Vì vậy, khi linh hồn ta chiêm ngắm sự Thiện Hảo chính là Ngôi Con, nhờ Người chúng ta mới có thể đi vào sự kết hợp với Ba Ngôi trong xuất thần.

II. Các nỗ lực của con người trong đời sống đạo đức

Sau khi vạch ra cho chúng ta con đường tri thức để tìm kiếm Chân lý vĩnh hằng là chính Thiên Chúa, thánh Bonaventura tiếp tục nêu ra những tiêu chuẩn giúp con người thực hành để đạt được Thiên Chúa là điều Thiện Hảo và Hạnh Phúc.  Theo ngài, có ba hành động: thanh tẩy đưa đến bình an, sáng soi đưa đến Chân lý, hoàn hảo đưa đến đức ái.  Ba hành động này đưa chúng ta đến Chúa Cha, nguồn mạch bình an; đến Chúa Con, nguồn mạch Chân lý, đến Chúa Thánh Thần, lửa bác ái yêu thương.

1. Sự thanh tẩy (Thanh đạo)

Sự thanh tẩy làm cho các khả năng của giác quan phục tùng lý trí, đến lượt lý trí qua hành động của mình làm cho các giác quan thể xác biến thành các giác quan tinh thần.  Theo thánh Bonaventura, sự thanh tẩy đòi hỏi con người phải trải qua một quá trình không thiếu phần khắc nghiệt: “Sự thanh luyện cũng đưa vào khuôn phép hoặc huấn luyện con người bên ngoài, con người cũ, gọi như thế là để đối lập với con người bên trong, con người mới.  Sự thanh luyện cấu tạo và sắp xếp các cảm giác bên ngoài, bên trong (ký ức, tưởng tượng, cảm giác) và các đam mê.  Sự thanh luyện làm cho các khả năng trên trở thành ngoan ngoãn phục tùng lý trí.  Lý trí hành động do Chúa Thánh Thần.  Như thế con người trở thành chủ nhân ông của bản thân, không còn lệ thuộc sự sợ hãi bên ngoài, không còn bị thiêu đốt bên trong bởi các thèm muốn, con người được bằng yên.”

Theo thánh Bonaventura, chúng ta nhất thiết phải trải qua việc thanh tẩy vì: hậu quả của tội lỗi nên các hình ảnh của thế giới làm cho ta mù quáng, không thể trở vào nội tâm nhờ trí thông minh.  Tương tự con người không thể trở về với chính mình và khao khát sự ngọt ngào nội tâm và niềm hoan lạc thiêng liêng, vì bị dục vọng lôi kéo.  Hậu qủa là họ không nhận ra hình ảnh của Thiên Chúa trong chính tâm hồn mình.

Trải qua con đường thanh luyện nhờ các nhân đức Tin, Cây, Mến, linh hồn con người sẽ được thanh tẩy, được soi sáng và nên hoàn hảo, nhờ thế: “Hình ảnh Thiên Chúa được tái tạo và linh hồn nên phù hợp với Giêrusalem thiên quốc.”

Con đường thanh luyện diễn ra như sau: Đức tin sẽ phục hồi thính giác và thị giác thiêng liêng, Đức cậy phục hồi thính giác thiêng liêng và Đức mến phục hồi vị giác và xúc giác thiêng liêng.  Các giác quan thể xác khi phục hồi sẽ trở thành các giác quan thiêng liêng, nhờ đó, con người có thể lắng nghe lời dạy của Chúa Kitô, chiêm ngắm ánh sáng huy hoàng của Ngài, và ôm trọn Ngôi Lời nhập thể và đến với Ngài trong tình yêu ngây ngất.

Đến đây, sự cảm nghiệm của con tim sẽ lấn át việc vận dụng lý trí.  Sau khi các giác quan thiêng liêng được phục hồi thì: “Linh hồn thấy, nghe, ngửi, nếm và ôm được những gì là đẹp đẽ, du dương và ngọt ngào nhất.”  Vai trò của lý trí phải nhường chỗ cho ý chí của con người.  Con người bỏ lại sự suy tư của lý trí, để “ôm trọn tâm tư ước muốn phải được đưa về Thiên Chúa và được biến đổi trong Người.”

2. Sự soi sáng của ân sủng (Minh đạo)

Sự soi sáng gồm việc đưa lý trí vào kỷ luật.  Linh hồn sáng lên nhờ suy tư và học hỏi.  Linh hồn học tập ăn ở phù hợp với bản chất, với các ưu đãi, với các cùng đích của mình, đồng thời chế ngự tính thất thường, phóng túng và các lôi cuốn của bản năng.

Thiên Chúa là nguồn ánh sáng lan tỏa “chiếu xuống trên tâm hồn chúng ta như những tia sáng,” giúp con người tự mình có thể tìm đường về với Thiên Chúa là nguồn ánh sáng thật, càng đến gần ánh sáng thì ánh sáng càng tỏa rạng làm thay đổi tâm hồn chúng ta: “Thấy được ánh sáng làm cho kẻ khôn ngoan phải ngây ngất ngưỡng mộ.”  Sự khao khát ước muốn, dẫn chúng ta đến những thay đổi và hành động theo tiếng lương tâm.  Hành động này giúp chúng ta hiểu biết Đức Kitô chịu đóng đinh và tiến tới việc: tin vào Đức Kitô, trông cậy vào Người, yêu mến Người và nên đồng hình đồng dạng với Người.  Nhờ đó, Đức Kitô vừa là ánh sáng soi chiếu cho chúng ta thấy các vẻ đẹp hài hòa của Thiên Chúa, vừa là phương tiện truyền thông các vẻ đẹp hoàn hảo ấy cho chúng ta.  Đồng thời Ngài cũng là tấm gương, trong đó chúng ta soi mình, biết mình để sửa đổi và trở nên giống Ngài.  Nhờ ánh sáng của Đức Kitô soi dẫn, chúng ta mới có thể đi vào trong sự hiệp thông với Ba Ngôi Thiên Chúa.

3. Sự hoàn thành toàn vẹn trong sự hoàn hảo (Hiệp đạo)

Đây là hành động hướng dẫn con người đến một sự hiểu biết thực nghiệm hoặc đến một ý thức đời sống thần linh đã có trong bản thân.  Thánh Bônaventura gọi đó là sự khôn ngoan và hành động của sự khôn ngoan là “sursum actio” (hành động nâng lên cao).

Con đường hiệp nhất tìm ra và cho linh hồn biết thực tại về đời sống con người, nghĩa là bác ái, nghĩa là tham dự vào đời sống thần linh trong Đức Kitô, hoặc như là sự hiệp thông của linh hồn vào sự hiệp thông ban sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi cực thánh.

Trên ba con đường thanh tẩy, soi sáng, kết hợp của thánh Bonaventura đều có chiêm ngưỡng riêng, sinh ích lợi riêng cho tâm hồn, trước lúc bước vào hai thể thức chính thức chiêm ngưỡng, là chiêm ngưỡng bằng trí tuệ và chiêm ngưỡng theo ơn khôn ngoan.

III. Kết luận

Sau khi chỉ cho con người “Hành trình lên tới Thiên Chúa”, thánh Bonaventura chia sẻ cho chúng ta kinh nghiệm thiêng liêng của ngài về việc gặp gỡ Thiên Chúa trong đời sống đức tin.  Điểm nhấn tư tưởng của ngài là hai con đường thiêng liêng, giúp con người nâng mình lên để gặp gỡ Thiên Chúa và hưởng trọn niềm hạnh phúc vô biên.

Trong niềm tin Kitô giáo, đời sống của chúng ta là một cuộc hành trình về với Thiên Chúa, nếu được thấm nhuần tư tưởng của thánh Bonaventura thì thế giới khả giác, sự rung nhịp của con tim và sự soi sáng của ân sủng là phương tiện dẫn ta đến cùng đích của đời người.

Quang Huyền
Nguồn: http://ofmvn.org/

LOAN BÁO TIN MỪNG

Lịch sử truyền giáo ở Việt Nam ghi lại tên tuổi hai vị giáo sĩ truyền giáo nổi tiếng: Đức Cha Lambert de la Motte và Đức Cha Francois Pallu.  Vào thế kỷ 17, Toà Thánh đã đặt hai giám mục này làm Giám Quản Tông Toà đầu tiên ở Việt Nam: Đức Cha Lambert de la Motte phụ trách Đàng Trong (từ sông Gianh trở vào Nam) kiêm Campuchia, Lào, Thái Lan. Đức Cha Francois Pallu phụ trách Đàng Ngoài (từ sông Gianh trở ra Bắc) kiêm Trung Quốc.

Đức Cha Francois Pallu là người pháp, từ bỏ gia đình và quê hương vào ngày 3.1.1662, ngài dùng tàu buồm vượt qua Địa Trung Hải rồi men theo đường bộ một thời gian lâu dài, qua hết các nước Trung Đông, Vịnh Ba Tư, Ấn Độ mới đến Thái Lan.  Năm 1670, trên đường đến miền Bắc Việt Nam, lúc đi ngang qua Huế, thuyền của ngài bị một cơn bão đánh giạt vào Philippin.  Ngài bị người Tây Ban Nha bắt bỏ tù rồi đem giải về Tây Ban Nha.  Với sự can thiệp của Toà Thánh, Tây Ban Nha trả tự do cho Đức Cha.  Tuy phải trải qua nhiều gian khổ, nhưng tim ngài vẫn luôn sáng chói một niềm hy vọng.  Ngài nói: “Tôi phải đem Tin Mừng đến tận Trung Quốc.”  Vừa được trả tự do, ngài tìm mọi cách đến Bắc Kinh, và cuối cùng thân xác ngài được chôn vùi tại đây theo như ngài mơ ước.  Một câu nói của ngài đáng cho chúng ta ghi nhớ: “Tôi tự cho mình hạnh phúc nếu có thể đem xương cốt mình bắc một nhịp cầu tới Bắc Việt và tới Trung Quốc!”

 ************************

Thưa anh chị em, cuộc đời truyền giáo của Đức Cha Francois Pallu tại đất nước ta cũng như biết bao nhà truyền giáo khác trên thế giới gắn liền với đời tông đồ và cái chết tử đạo của mười hai Tông Đồ.  Chính Chúa Giêsu tuyển chọn Nhóm Mười Hai để nhóm này ở lại bên Ngài và để được huấn luyện.  Mục tiêu của huấn luyện là để các ông trở nên những người được Chúa Giêsu sai đi rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa.  Ngay từ khi còn ở trần gian, Chúa Giêsu đã thấy mình đứng trước một cánh đồng mênh mông, có biết bao nhiêu người cần được nghe Tin Mừng cứu độ.  Ngài thấy mình cần những cộng tác viên nhiệt thành cho công cuộc truyền bá Tin Mừng.  Chúa Giêsu đã trao tất cả những gì mình có cho Nhóm Mười Hai: quyền rao giảng, chữa bệnh, trừ quỷ.  Hoạt động của các ông là một sự nối dài và mở rộng sứ vụ của mình Chúa Giêsu.

Chia tay Thầy Giêsu, Nhóm Mười Hai lên đường.  Đâu là hành trang của người tông đồ?  Chúa Giêsu trả lời: “Không được mang gì khi đi đường.”   Không bánh trái, không bao bì, không tiền bạc, không mặc hai áo.  Như thế, các ông lên đường với tất cả sự nhẹ nhàng.  Càng nhẹ nhàng thì càng dễ thi hành sứ mạng và càng được tự do hơn.  Tuy nhiên sự nhẹ nhàng này thật là một thách đố.  Khi người tông đồ phải lên đường với hai bàn tay trắng, không có lộ phí, không có lương thực dự trữ, lúc đó họ phải hoàn toàn lệ thuộc vào lòng nhân hậu của Thiên Chúa và lòng tốt của tha nhân.  Ra đi tay trắng như thế là chấp nhận mọi bất trắc có thể xẩy ra dọc đường, nhưng cũng là đặt mình thường xuyên dưới sự quan phòng của Chúa.  Chính Chúa lo mọi sự cho tôi, để tôi chuyên tâm lo việc của Chúa.  Sự an toàn của tôi không dựa vào những phương tiện trần thế, nhưng vào chính Thiên Chúa.

Chúa Giêsu cũng dạy cho các ông biết thái độ phải có khi đến với dân chúng.  Nếu được đón tiếp thì hãy ở lại, không tìm một nhà khác tiện nghi hơn.  Người tông đồ cần có đời sống nghèo, đón nhận những gì được trao cho mình với lòng biết ơn.  Nếu không được đón tiếp thì cũng không nên nản lòng.  Cử chỉ giũ chân ra đi cho thấy người tông đồ chẳng hề muốn lấy đi điều gì ở nơi đã từ chối đón tiếp mình.

Anh chị em thân mến, hôm nay, Chúa Giêsu Phục Sinh cũng sai chúng ta đến với thế giới.  Thế giới không phải là chuyện xa xôi.  Thế giới là nơi chúng ta đang sống, đang làm việc.  Thế giới là gia đình, bạn bè, là trường học, cơ quan, xí nghiệp.  Thế giới là nơi giải trí, nơi du lịch, bãi biển.  Thế giới là sách báo, phim ảnh, video, quảng cáo.  Thế giới là mọi ngành khoa học, nghệ thuật, văn chương.  Chúng ta ở trong thế giới và Chúa muốn sai chúng ta đi vào thế giới của mình trong tư cách là người Kitô hữu.  Kitô hữu là người có khả năng biến đổi thế giới mình đang sống để nó biến thành thế giới của Thiên Chúa.  Các Tông Đồ đã rao giảng, đã mời gọi con người hoán cải để đón nhận Nước Thiên Chúa gần bên.  Tất cả những gì phá huỷ phẩm giá con người, loại trừ sự sống của Thiên Chúa, đều phải bị loại trừ.  Kitô hữu là người phải hoán cải trước khi mời gọi người khác hoán cải, phải tỉnh thức trước khi đánh thức người khác, phải thuộc về Chúa trước khi trừ quỷ.

Thế giới hôm nay cũng là một thế giới bị thương tích, cần được chữa lành.  Bệnh tật của thân xác và bệnh tật của tinh thần vẫn hoành hành trên thế giới.  Con người đau khổ vì mất lòng tin, lo âu, tuyệt vọng.  Con người nô lệ cho chính những sản phẩm của mình.  Tiến bộ khoa học kỹ thuật lại đặt ra những vấn đề mới mà tự sức con người không giải quyết được.  Kitô hữu là người tiếp nối sứ mạng của Chúa Giêsu, băng bó vết thương của thế giới bằng sự hiện diện đầy yêu thương.

Chúng ta không rõ nếu hôm nay Chúa Phục Sinh chỉ thị cho chúng ta, thì Ngài sẽ nói gì trước khi Ngài sai chúng ta ra đi.  Chắc Ngài sẽ nói khác với đoạn Tin Mừng hôm nay, những ý chính vẫn không thay đổi.  Ngài dạy chúng ta tin cậy vào quyền năng của Thánh Linh hơn là vào khả năng và phương tiện tự nhiên của mình.  Ngài nhắc nhở chúng ta tín thác vào Cha trên trời, và chuyên cần cầu nguyện, vì chẳng ai có thể rao giảng Tin Mừng nếu không có tình bạn thân thiết với Chúa.

Mỗi Thánh Lễ Chúa Giêsu tập họp chúng ta lại thành một cộng đoàn môn đệ của Ngài, để rồi sai chúng ta ra đi loan truyền Tin Mừng Phục Sinh của Ngài cho mọi người ở mọi nơi.  Tin Mừng này chỉ có thể được công bố bằng cuộc sống làm chứng của mỗi người chúng ta và của Giáo Hội, một cuộc sống trung thành với Chúa Giêsu nghèo khó và chịu đóng đinh thập giá.  Đó là bằng chứng đáng tin của tình thương cứu độ mọi người.

Trích trong “Niềm Vui Chia Sẻ”

************************

Lạy Chúa Giêsu,

Xin sai chúng con lên đường; nhẹ nhàng và thanh thoát, không chút cậy dựa vào khả năng bản thân hay vào những phương tiện trần thế.

Xin cho chúng con làm được những gì Chúa đã làm: rao giảng Tin Mừng, trừ quỷ, chữa lành những người ốm đau.

Xin cho chúng con biết chia sẻ Tin Mừng với niềm vui của người tìm được viên ngọc quý, biết nói về Ngài như nói về một người bạn thân.

Xin ban cho chúng con khả năng đẩy lui bóng tối của sự dữ, bất công và sa đọa.

Xin giúp chúng con lau khô những giọt lệ của bao người đau khổ thể xác tinh thần.

Lạy Chúa Giêsu, thế giới thật bao la mà vòng tay chúng con quá nhỏ.  Xin dạy chúng con biết nắm lấy tay nhau mà tin tưởng lên đường, nhẹ nhàng và thanh thoátAmen!

Rabbouni

THÁNH BÊNÊĐICTÔ, TU VIỆN TRƯỞNG

Thánh Bênêđictô, tổ phụ các dòng tu bên tây phương, sinh khoảng năm 480 tại Nursia.  Hai nguồn chính về cuộc đời thánh Bênêđictô là cuốn Dialogue (đối thoại) của thánh Grêgôriô Cả và cuốn qui luật của chính thánh nhân.  Cuốn Dialogue thâu thập các phép lạ được coi là do thánh nhân thực hiện.  Giá trị của các phép lạ này tùy theo thẩm quan và theo cách thức phê phán của mỗi người, nhưng cung ứng cho chúng ta những sự kiện quí giá.  Cha mẹ ngài có lẽ thuộc vào hàng quí tộc ở miền quê.  Ngài lớn lên tại gia đình.  Năm 14 tuổi, ngài được gửi tới Roma để bổ túc việc học hành.  Các độc giả ngày nay có thể ngạc nhiên khi thấy có chị vú nuôi Cyrilla của ngài đi theo.

Sự suy đồi của Roma làm cho người thiếu niên nhà quê này khiếp sợ.  Dầu có vú nuôi đi theo, thánh nhân trốn khỏi kinh thành hai hay ba năm sau đó.  Ngài biết rằng Thiên Chúa muốn gọi mình sống đời tu trì.  Cùng với vài người đạo đức, ngài lưu lại ít lâu ở Enfide, cách Roma 35 dặm.  Sau đó một mình lên đường, ngài tìm sống đời ẩn dật.  Tại Subianô, ngài gặp một ẩn sĩ tên là Rômanô, vị ẩn sĩ hỏi:

– Bạn ơi, bạn đi đâu vậy ?

– Tôi trốn thế gian và đi tìm cô tịch.

Rômanô khen ngợi ý định đạo đức của thánh nhân, khuyên ngài hãy kiên trì và ban cho những lời khuyên nhủ quí báu.  Thầy cho ngài một bộ áo nhà tu là một tấm da cừu và chỉ cho ngài một cái hang. Nhận bộ áo nhà tu, Bênêđictô lần mò tới cái hang ở giữa triền dốc Montê Calvô.  Ngài đã giam mình ở đó 3 năm, thinh lặng cầu nguyện, và ăn chay hãm mình.  Thực phẩm ngài dùng là rễ cây và ít mẩu bánh thầy Romanô gởi tới bằng một cái thúng cột giây thả xuống.

Quỷ dữ tức giận vì các nhân đức của thầy dòng trẻ tuổi.  Chúng dùng nhiều chước cám dỗ để lôi kéo ngài bỏ sa mạc trở về thế gian.  Ngài thường làm dấu thánh giá để xua đuổi các cơn cám dỗ.  Một lần kia bị cám dỗ nghịch với đức trong sạch, ngài liền cởi áo và lăn mình vào bụi gai đến chảy máu ra.  Từ đó tư tưởng xấu hoàn toàn bị đè nén và không còn quấy rầy ngài nữa.

Tuy nhiên, các mục đồng đã khám phá ra ngài và danh thơm nhân đức của ngài đã lan rộng.  Một tu viện gần đó mời ngài về làm bề trên.  Nhưng khi muốn chỉnh đốn những lạm dụng và muốn áp dụng một qui luật, ngài đã bị một số thầy dòng bực tức khó chịu.  Họ còn đi đến quyết định hãm hại người khác.  Đến bữa ăn thánh Bênêđictô làm dấu thánh giá trên chén rượu như thói quen, chén liền vỡ tan.  Ngài nói với họ:

– Xin Chúa tha thứ cho các anh. Tại sao các anh làm như vậy?  Tôi đã chẳng nói với các anh rằng: chúng ta không thể sống chung được với nhau là gì?  Vậy các anh hãy đi tìm một bề trên khác hợp ý các anh hơn.

Rồi thánh nhân tìm lại cô tịch để sống thân mật một mình với Thiên Chúa.  Dầu vậy danh tiếng của thánh nhân lan rộng tới Roma.  Ngài không thể sống cô độc một mình được nữa.  Nhiều người tìm đến xin làm môn đệ ngài.  Tiếp nhận họ, ngài đã phải thiết lập 12 tu viện nhỏ.  Có những gia đình quí phái mang con đến gởi thánh nhân.  Chúng ta phải kể đến trong số này hai thiếu niên Placidê và Maurô là những người sau này đã trở nên các vị thánh.

Nhân đức các phép lạ của thầy dòng cao cả này đã gây nên nỗi ghen tức và cả đến việc vu oan nữa.  Thánh Grêgôriô cho chúng ta biết rằng: vì bị một linh mục ghen ghét xua đuổi, Bênêđictô phải dời bỏ Subianô.  Thi sĩ Marcô lại nói rằng: Ngài đã được Chúa gọi đến Cassinô.  Dầu sự thực có thế nào đi nữa, thì vào khoảng giữa năm 520-530, thánh Bênêditô cùng với vài người bạn đã rời bỏ Subiacô tới Cassinô.  Trên núi Cassinô có một ngôi đền cổ và một cánh rừng dâng kính thần Apollô.  Ngài rao giảng Tin Mừng cho dân cư vùng này và phá rừng khai hoang.  Sau khi triệt hạ ngôi đền cổ, ngài đã thiết lập hai nhà nguyện kính thánh Gioan tẩy giả và thánh Martinô.  Đó là nguồn gốc của tu viện nổi danh Montê Cassinô.  Thánh Bênêđictô đã sống tại đây cho tới hết đời.  Cũng tại đây, ngài đã trước tác một bộ luật dòng ảnh hưởng rất lớn trong đời sống tu trì của Giáo hội.  Theo luật sống này, một ngày của tu sĩ được phân phối cho ba hoạt động chính là cầu nguyện, học hành, và lao động.

Mọi hoạt động của thánh nhân đều nhằm thi ân.  Người ta còn kể lại nhiều phép lạ ngài đã thực hiện.  Chẳng hạn như ngài chữa cho nhiều người phong hủi, trừ quỉ và làm cho nhiều người chết sống lại, ngài còn được ơn thấu suốt bí mật tâm hồn và bí mật về tương lai.  Chúng ta ghi lại giai thoại về cuộc tiếp xúc giữa thánh nhân với vua Tôtila.  Nhà vua muốn kiểm chứng tin đồn rằng: thánh nhân biết được những điều bí mật.  Ông cho biết mình sẽ đến thăm thánh nhân.  Nhưng thay vì đích thân đến, ông lại sai một viên chức tên là Riggon, ăn mặc như nhà vua và có đoàn tùy tùng đông đảo.  Thánh nhân vẫn ngồi khi thấy ông tới và nói với ông:

– Con ơi! Cởi áo ra đi.  Nó không phải là của con.

Đến lượt Tôtila, ông đến thăm người của Chúa, ông quỳ dưới chân thánh nhân, nhưng đã ngạc nhiên khi nghe ngài nói:

– Hãy giảm bớt những bất công đi, bởi vì ông đã gây quá nhiều sự dữ. Ông sẽ tiến vào Roma, cai trị trong chín năm.  Năm thứ 10 ông sẽ từ trần.

Lời tiên báo của thánh nhân đã được thể hiện đầy đủ.  Ngài còn cho biết rằng tu viện Monte Cassinô sẽ bị tàn phá.  Lời tiên báo này cũng đã xảy ra.  Năm 590, tu viện bị người Combarde cướp phá.  Năm 1943, bọn đồng minh tàn phá dữ dội tu viện.

Thánh nhân tiếp tục làm nhiều phép lạ, do lòng bác ái thúc đẩy.  Vào cuối đời, ngài được thị kiến, thấy địa cầu chói sáng và linh hồn của thánh Germain được các thiên thần đưa về trời.  Ngài cũng đã thấy linh hồn của em mình là thánh nữ Scolastica về trời như vậy.  Bốn mươi ngày sau cái chết của người em gái, thánh nhân cho biết về cái chết của em mình.  Sau khi đào mộ cho mình, thứ bảy ngày 21 tháng 3 năm 543 (hay 547) ngài từ trần như lời loan báo trước.  Từ cuối thế kỷ VIII, ngài đã được kính nhớ vào ngày 11 tháng 7.

Thánh Bênêđictô đã nêu gương cho chúng ta về đời sống đạo đức, nhiệm nhặt và âm thầm.  Ước gì chúng ta, những người mang danh Kitô hữu; chúng ta cũng biết hy sinh, thầm lặng trong công việc.  Nhất là những việc bác ái, giúp đỡ anh chị em xung quanh chúng ta.  Để nước Chúa được rạng rỡ vinh quang.

 Sưu tầm