NIỀM TÂM SỰ CỦA CHÚA GIÊSU (có Youtube)

Lệnh truyền của Chúa Giêsu là một lời tâm sự của người yêu nói với người yêu, đó là: “Các con hãy ở lại trong tình yêu của Thầy” (Ga 15,9).

Lệnh truyền này không mang tính nghiêm khắc nhưng là trao ban, là chia sẻ hạnh phúc của tình yêu.  Chúa Giêsu đã nâng các tông đồ lên ngang tầm với mình, Ngài nói: “Thầy không gọi các con là tôi tớ, Thầy gọi các con là bạn hữu.”  Từ hàng tôi tớ trở nên bạn hữu là sự cách nhau một trời một vực.  Người tôi tớ không được phép biết việc chủ làm; người tôi tớ chỉ biết hầu hạ.  Ngược lại, bạn hữu là người chia sẻ, là người đồng hành.  Nhưng từ tôi tớ lên bạn hữu, con người đâu có thể thực hiện được, nếu không phải là chính Thiên Chúa nâng con người lên.  Vậy lý do nào để Chúa Giêsu kết luận điều này?  Ngài giải thích: “Vì tất cả những gì Cha Ta nói với Ta, Ta cũng tỏ cho các con biết” (Ga 15, 15).  Chúa Giêsu đã không dấu điều gì.  Đó là tiếng nói của người yêu để trao cho các tông đồ, và qua các tông đồ tiếng nói của Chúa Giêsu đến với toàn thể Hội Thánh, đến với toàn thế giới về một sứ điệp Tình yêu dành cho tất cả mọi người, rằng: “Thiên Chúa yêu thương con người và yêu đến tận cùng.”

Tại sao lại gọi là “Yêu đến tận cùng?”  Vì lời mời gọi của Chúa Giêsu đã nêu rõ “Các con hãy ở lại trong tình yêu của Thầy.”  Ở lại trong tình yêu của Thầy có nghĩa là Chúa Giêsu gìn giữ, Chúa Giêsu thánh hóa.  Chúng ta được ở lại trong tình yêu của Thầy, cũng đồng nghĩa với việc chúng ta nên bạn hữu với Thầy.  Trò lại được gọi là bạn hữu.  Tất cả những điều này là đặc tính của tình yêu.  Tình yêu đích thực không tính toán, luôn đi bước trước, quảng đại cho đi và chấp nhận tất cả.  Chúa Giêsu đã không đòi một điều kiện nào, ngoại trừ một yếu tố duy nhất là “Các con hãy giữ lệnh truyền của Thầy” (Ga 15,10).  Và lệnh truyền của Thầy rất ngắn gọn, đầy đủ mà không ra ngoài tình yêu. “Điều Thầy truyền là các con hãy yêu thương nhau” (Ga 15,17).

Đức Giêsu không chỉ dạy chúng ta ở lại trong tình yêu của Chúa mà còn trao cho chúng ta một mẫu gương để chúng ta “hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con” (Ga 15,12).  Với một tiêu chuẩn và cách thức trên, Đức Giêsu đã tự hạ mình xuống để trao ban cho con người những gì là cao cả nhất của Thiên Chúa.  Vì Thiên Chúa là tình yêu.  Thế nên, trao ban cho con người là Thiên Chúa đã nâng con người lên bằng với Ngài.  Chúng ta không hiểu theo nghĩa tuyệt đối việc Chúa Giêsu đã dùng ngôn ngữ của loài người để diễn tả.  Gọi là bạn hữu, có nghĩa là nâng lên ngang hàng, để đồng hưởng một tình yêu như Đức Giêsu là đầu nói với thân mình, hay như Đức Giêsu là chồng nói với Hội Thánh là hiền thê.  Vậy còn gì nữa mà Ngài không cho chúng ta giá trị của một tình yêu đích thực?  Còn gì nữa để chúng ta dám đòi hỏi?  Cho nên, Đức Giêsu đưa ra lệnh truyền hôm nay không phải là một mệnh lệnh nghiêm khắc nhưng chúng ta khẳng định lại một lần nữa, đó là một niềm tâm sự.

Một niềm tâm sự của một người đã cho người mình yêu đến tận cùng.  Đây cũng là tiêu chuẩn để trắc nghiệm: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người dám hiến mạng vì người mình yêu” (Ga 15,13).  Đức Giêsu đã cho đến tận cùng.  Cho Máu, cho Nước từ Trái Tim Ngài chảy ra; cho quyền năng của Thiên Chúa hạ cố đến viếng thăm con người.  Cho tình yêu đích thực của Thiên Chúa đến với một tình yêu bất trung, bội phản, và hay thay đổi của con người.  Cho hạnh phúc vĩnh cửu đi vào trong thế giới của con người.  Một hạnh phúc của con người nay còn, mai mất nay lại được đạt tới hạnh phúc vĩnh cửu đời đời.  Chẳng lẽ, chúng ta không thấy tất cả những điều ấy là một huyền nhiệm sao?  Chúng ta không thấy đó là một đặc tính đích thật của tình yêu, trao ban, hiến thân hay sao?  Vì vậy, chúng ta không còn gì để nói, không còn gì để đòi hỏi mà chỉ còn lãnh nhận với lòng biết ơn.  Và lòng biết ơn đó là gì?  Là hãy sinh hoa trái cho Thiên Chúa.  Hoa trái ấy không phải là tự chúng ta làm được nhưng là hoa trái mà Chúa sẽ ban cho, chúng ta đừng để hư mất.  Ngoài ra, Chúa Giêsu còn tiên liệu trước cho chúng ta trong những gì vượt quá khả năng của con người, Ngài căn dặn: “Những gì các con xin Cha nhân danh Thầy, Người sẽ ban cho các con” (Ga 15, 16).  Vì vậy, hãy lấy danh Đức Giêsu Kitô để xin và Thiên Chúa Cha sẽ ban cho chúng ta.

Điều mà Chúa Giêsu tâm sự: “Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu các con” “ở lại trong tình yêu của Thầy”, chính là để bảo vệ và nâng đỡ.  Thế nên chúng ta được ở lại trong tình yêu của Thiên Chúa là Cha.  Với tất cả điều này, người Ki tô hữu hôm nay không còn gì phải phàn nàn, không còn gì phải lo âu hay sợ hãi.  Họ được từng bước mời gọi, họ được từng bước trao ban.  Chúng ta hãy cố gắng mỗi ngày, không phụ tình yêu thương của Chúa:

– Hãy biến những trìu tượng thành thực tế;

– Hãy hiện thực hóa khái niệm về một tình yêu cao vời và siêu nhiên;

– Hãy thực hành trong chính những người thân yêu của gia đình, những người bé mọn trong xã hội để chứng tỏ tình yêu Thiên Chúa đã được thể hiện trong đời sống của mỗi người chúng ta;

– Hãy đáp lại lời mời gọi của Chúa bằng việc chúng ta đối xử với nhau theo gương của Đức Giêsu Kitô đã yêu và đã ban trao.

Một lần nữa, Chúa lại cho chúng ta một đơn vị, một mô hình thực tế nhất và dễ dàng nhất để chúng ta thực hiện mỗi ngày, đó là YÊU THƯƠNG NHAU.  Với tiêu chí đó, chúng ta sẽ không thiếu bất kỳ một cơ hội nào, chúng ta không thiếu một giây phút nào, vì lúc nào chúng ta cũng có thể yêu thương nhau.  Và đó cũng sẽ là những nét đặc trưng để chúng ta đáp lại tình yêu cao vời và nhiệm mầu của Thiên Chúa.

Lạy Chúa Giêsu Kitô,

Chúng con chỉ còn biết im lặng, để tôn thờ và yêu mến Chúa.  Vì Chúa đã dùng tất cả quyền năng và thượng trí, để trao cho chúng con một tình yêu lớn lao.

Xin cho chúng con biết thực hành trong đời sống mỗi ngày, với Chúa và với nhau, để chúng con không phụ tình yêu thương muôn đời của Chúa, để cho mỗi người chúng con được ở lại trong tình yêu Chúa đến muôn đời.

Xin cho mỗi người chúng con khi được lời Chúa hứa, là được bảo đảm cho sự sống đời đời.  Và trong tình yêu ấy, chúng con cũng sẽ hy vọng được gặp lại nhau như Chúa đã yêu chúng con, và chúng con được ở lại trong tình yêu Chúa muôn đời.  Amen!

Lm. Phêrô Nguyễn Hồng Phúc

Nếu không nghe được Youtube hoặc có vấn đề về kỹ thuật, xin để lại lời nhắn ở mục “Comment” phía dưới, chúng tôi sẽ cập nhật lại đường link Youtube.

TÌM HIỂU GỐC TÍCH THÁNG HOA ĐỨC MẸ (có Youtube)

Là người Công giáo Việt Nam, nhất là những người đã lớn lên trong một xứ đạo miền Bắc, Trung hoặc Nam, có lẽ không ai lạ gì sinh hoạt tôn giáo trong tháng Năm, tháng Hoa Đức Mẹ.  Khi ngàn hoa xanh, đỏ, trắng, tím, vàng nở rộ trong cánh đồng, thì con cái Mẹ cũng chuẩn bị cho những đội dâng hoa, những cuộc rước kiệu, để tôn vinh Mẹ trên trời.  Những điệu ca quen thuộc trìu mến bỗng nổi dậy trong tâm hồn cách thân thương, nhất là bài “Đây Tháng Hoa” của nhạc sĩ Duy Tân với điệu  2/4 nhịp nhàng:

“Đây tháng hoa, chúng con trung thành thật thà.  Dâng tiến hoa lòng mến dâng lời cung chúc.  Hương sắc bay tỏa ngát nhan Mẹ diễm phúc.  Muôn tháng qua lòng mến yêu Mẹ không nhòa.

– Đây muôn hoa đẹp còn tươi thắm xinh vô ngần.  Đây muôn tâm hồn bay theo lời ca tiến dâng.  Ôi Maria, Mẹ tung xuống muôn hoa trời.  Để đời chúng con đẹp vui, nhớ quê xa vời.

– Muôn dân trên trần mừng vui đón tháng hoa về.  Vang ca tưng bừng ngợi khen tạ ơn khắp nơi.  Ánh hồng sắc hương càng tô thắm xinh nhan Mẹ.  Sóng nhạc reo vang tràn lan đến muôn muôn đời”.

Nếu có ai tự hỏi: Tháng Hoa có từ đời nào?  Do ai khởi xướng? thì câu trả lời cũng không khó khăn gì.

Gốc tích như thế này:

Vào những thế kỷ đầu, hàng năm, khi tháng Năm về, người Rôma tôn kính sự thức giấc sau mùa đông dài của thiên nhiên bằng những cuộc tổ chức gọi là những ngày lễ tôn kính Hoa là Nữ thần mùa Xuân.  Các tín hữu Công giáo trong các xứ đạo đã thánh hóa tập tục trên.  Họ tổ chức những cuộc rước kiệu hoa và cầu nguyện cho mùa màng phong phú.

Có nơi người ta tổ chức các cuộc “Rước xanh.”  Người ta đi cắt các cành cây xanh tươi đang nở hoa,  đưa về trang hoàng trong các nhà thờ và đặc biệt các bàn thờ dâng kính Đức Mẹ.  Các thi sĩ cũng như các thánh đua nhau sáng tác những bài hát, bài giảng ca tụng những ngày lễ đó cũng như ca tụng Đức Mẹ.

Đến thế kỷ 14, linh mục Henri Suzo dòng Đaminh, vào ngày đầu tháng 5, đã dâng lên Đức Mẹ những việc tôn kính đặc biệt và lấy hoa trang hoàng tượng Đức Mẹ.

Thánh Philipe đệ Nêri, cũng vào ngày 1 tháng 5, thích tập họp các trẻ em lại chung quanh bàn thờ Đức Mẹ, để cùng các bông hoa mùa xuân, Ngài dâng cho Đức Mẹ các nhân đức còn ẩn náu trong tâm hồn non trẻ của chúng.

Đầu thế kỷ 17, tại Napoli, nước Ý, trong thánh đường kính thánh Clara của các nữ tu Dòng Phanxicô, tháng Đức Mẹ được cử hành công cộng: Mỗi chiều đều có hát kính Đức Mẹ, ban phép lành Mình Thánh.  Từ ngày đó, tháng Đức Mẹ nhanh chóng lan rộng khắp các xứ đạo.

Năm 1654, cha Nadasi, dòng Tên, xuất bản tập sách nhỏ khuyên mời giáo hữu dành riêng mỗi năm một tháng để tôn kính Đức Mẹ Chúa Trời.

Đầu thế kỷ 19, hết mọi xứ trong Giáo hội đều long trọng kính tháng Đức Mẹ.  Các nhà thờ chính có linh mục giảng thuyết, và gần như lấy thời gian sau mùa Chay là thời gian chính thức để tôn kính Đức Mẹ.  Trong việc này linh mục Chardon đã có nhiều công.  Không những ngài làm cho lòng sốt sắng trong tháng Đức Mẹ được phổ biến trong nước Pháp mà còn ở mọi nước Công giáo khác nữa.

– Đức Giáo Hoàng Piô 12, trong Thông điệp “Đấng Trung gian Thiên Chúa”, cho “việc tôn kính Đức Mẹ trong tháng Năm là việc đạo đức được thêm vào nghi thức Phụng vụ, được Giáo hội công nhận và cổ võ”.

– Đức giáo Hoàng Phaolô 6, trong Thông điệp Tháng Năm, số 1 viết: “Tháng Năm là Tháng mà lòng đạo đức của giáo dân đã kính dâng cách riêng cho Đức Mẹ. Đó là dịp để bày tỏ niềm tin và lòng kính mến mà người Công giáo khắp nơi trên thế  giới có đối với Đức Mẹ Nữ Vương Thiên đàng.

Trong tháng này, các Kitô hữu, cả ở trong thánh đường cũng như nơi tư gia, dâng lên Mẹ từ các tấm lòng của họ những lời cầu nguyện và tôn kính sốt sắng và mến yêu cách đặc biệt.  Trong tháng này, những ơn phúc của Thiên Chúa nhân từ cũng đổ tràn trên chúng ta từ ngai tòa rất dồi dào của Đức Mẹ” (Dictionary of Mary, Catholic book Pub. 1985, p. 236)

Một câu truyện cũ đáng ta suy nghĩ:

Ở thành Nancêniô trong nước Pháp, có một gia đình trung lưu.  Vợ đạo đức, chồng hiền lành nhưng khô khan.  Vợ luôn cầu xin Chúa mở lòng cho chồng sửa mình , nhưng chồng cứng lòng mãi.  Năm ấy đầu tháng Hoa Đức Mẹ, bà sửa sang bàn thờ để mẹ con làm việc tháng Đức Mẹ.  Chồng bà bận việc làm ăn, ít khi ở nhà, và dù ông ở nhà cũng không bao giờ cầu nguyện chung với mẹ con.  Ngày lễ nghỉ không bận việc làm thì cũng đi chơi cả ngày, nhưng ông có điều tốt là khi về nhà, bao giờ cũng kiếm mấy bông hoa dâng Đức Mẹ.

Ngày 15 tháng Sáu năm ấy, ông chết bất thình lình, không kịp gặp linh mục.  Bà vợ thấy chồng chết không kịp lãnh các phép đạo, bà buồn lắm, nên sinh bệnh nặng, phải đi điều trị ở nơi xa.  Khi qua làng Ars, bà vào nhà xứ trình bày tâm sự cùng cha xứ là cha Gioan Vianey.

Cha Vianey là người đạo đức nổi tiếng, được mọi người tặng là vị thánh sống.  Bà vừa tới nơi chưa kịp nói điều gì, cha Gioan liền bảo:

– Đừng lo cho linh hồn chồng bà. Chắc bà còn nhớ những bông hoa ông vẫn đem về cho mẹ con bà dâng cho Đức Mẹ trong tháng Hoa vừa rồi chứ?

Nghe cha nói, bà hết sức kinh ngạc, vì bà chưa hề nói với ai về những bông hoa ấy, nếu Chúa không soi cho cha, lẽ nào người biết được?

– Cha sở nói thêm: Nhờ lời bà cầu nguyện và những việc lành ông ấy đã làm để tôn kính Đức Mẹ, Chúa đã thương cho ông ấy được ăn năn tội cách trọn trong giờ chết. Ông ấy đã thoát khỏi hỏa ngục, nhưng còn bị giam trong luyện ngục, xin bà dâng lễ, cầu nguyện, làm việc lành thêm cầu cho ông chóng ra khỏi nơi đền tội nóng nảy mà lên Thiên đàng.

Nghe xong lời cha Gioan,  bà hết sức vui mừng tạ ơn Đức Mẹ. (Sách Tháng Đức Bà, Hiện Tại xuất bản, 1969, trang 10).

Nếu chỉ vì mấy bông hoa mọn dâng kính Đức Mẹ cũng được Đức Mẹ ban ơn cứu rỗi lớn lao như vậy, thử hỏi, những ai trong tháng Năm này tham dự dâng Hoa, rước kiệu, đọc kinh Mân côi, hơn nữa, họ dâng lên Mẹ những hoa tin, cậy, mến, hy sinh, đau khổ, bệnh nạn… chắc sẽ còn được Đức Mẹ ban muôn ơn trọng hơn nữa vì Mẹ thích những bông hoa Xanh của lòng Cậy, hoa Đỏ của Lòng mến, hoa Trắng của lòng trong sạch, hoa Tím của hãm mình, hoa Vàng của niềm tin, hoa Hồng của kinh Kính mừng lắm lắm.

Thánh Anphongsô Ligori quả quyết rằng: “Nếu tôi thật lòng yêu mến Mẹ, thì tôi chắc chắn được lên thiên đàng”.

Thánh Bênado diễn tả văn vẻ hơn: Được Mẹ dẫn dắt, bạn sẽ không ngã.  Được Mẹ che chở, bạn sẽ không sợ.  Được Mẹ hướng dẫn, bạn sẽ an lòng.  Được Mẹ ban ơn, bạn sẽ đạt đích mong chờ.

Lm. Đoàn Quang, CMC

Nếu không nghe được Youtube hoặc có vấn đề về kỹ thuật, xin để lại lời nhắn ở mục “Comment” phía dưới, chúng tôi sẽ cập nhật lại đường link Youtube.

MỌI VẬT ĐỀU VỀ PHE THIÊN CHÚA (có Youtube)

Nếu đứng về phía Thiên Chúa, ta sẽ không ngã lòng vì phía mà ta đã chọn sẽ luôn luôn chiến thắng, không bao giờ bị chê cười.  Thiên Chúa là Đấng chiến thắng, và sự dữ là kẻ chiến bại.  Thực tại luôn luôn đứng về phía Thiên Chúa.

Sự dữ nhất thiết là bất ổn, bởi lẽ nó đi ngược lại bản chất của mọi vật.  Mọi định luật về bản tính con người của ta thúc đẩy ta hướng về phía thánh thiện, tương tự như việc giữ gìn sức khoẻ vậy.  Nếu ta chăm sóc thân xác đúng cách, hợp vệ sinh, ắt chúng ta khoẻ mạnh.  Nếu ta không tuân thủ, ắt sẽ đau ốm bệnh hoạn… và hẳn ít người sẽ chịu khó săn sóc thân thể nếu chưa từng bị trừng phạt và nhắc nhở do việc vi phạm cố ý các quy tắc vệ sinh gây nên.

Ta hoàn toàn tự do, có thể phá vỡ lề luật Thiên Chúa đã thiết lập, ở lãnh vực này hoặc lãnh vực khác.  Nhưng ta sẽ không tránh né được sự trừng phạt do việc phá luật đó.  Nhảy từ cửa sổ xuống đất không hề phá được luật hấp dẫn, nhưng liệu đấy, coi chừng mất mạng đó!  Nên nhớ là bao giờ thiên nhiên cũng đứng về phía Thiên Chúa; nó có thể cưỡng lại ý muốn của ta, nhưng không khi nào chống lại Thiên Chúa.  Và điều này cũng đúng như thế trong lãnh vực luân lý lẫn vật lý.

Khi người ta phạm tội, Thiên Chúa không cần can dự ra tay trừng phạt, bởi lẽ ta không thể nào chống lại Thiên Chúa mà không tự chống lại mình.  Đó là bản chất con người được Thiên Chúa tạo ra như thế.  Nếu ta phá vỡ qui luật tiết độ, ta sẽ bị nhức đầu.  Thiên Chúa không phái cơn nhức đầu đó đến cho ta bằng một chiếu chỉ đặc biệt nào cả, Ngài đã thiết lập sẵn trong ta qui luật này: hễ làm điều xấu, sẽ nhận được hậu quả xấu xa.  Thi sĩ Francis Thompson diễn tả rằng ngay cả các đồ vật cũng chống lại ta khi ta không dùng chúng đúng với mục đích của Chúa.  Ông ta đã gọi các đồ vật đó là các “đầy tớ”:

“Tôi đã cám dỗ các đầy tới của Ngài,
Để rồi chỉ thấy tính kiên định của chúng phản lại tôi.
Bởi chúng trung thành với Ngài
Chúng hờ hững với tôi.
Ra chúng chân thật mà lại phản bội,
Chúng lừa dối mà lại chân thành.”

Khi thánh Phêrô chối Chúa, gà gáy làm ông đau khổ.  Cả đến con gà cũng chống lại Phêrô.  Thiên nhiên đứng về phe Thiên Chúa mà!

Khi ta chối bỏ lề luật luân lý, ta sẽ chịu đau khổ…  Không hẳn vì ta cố ý làm xấu cho bằng vì ta đã thách thức một sức mạnh dũng lực hơn ta: đó là thực tại.  Khi phạm tội, ta gây nên một hậu quả mà ta không định trước được; đối với các hành động thiện hảo thì lại không gây ra các hậu quả đó.  Ví dụ, nếu tôi dùng cây viết chì để viết, nó vô hại.  Nhưng nếu tôi dùng nó để đục lon sữa bò, nó sẽ gãy ngay thôi.  Tôi đã dùng cây viết chì ngược với mục đích của nó, thế là tôi phá huỷ nó.

Nếu tôi sống với mục đích cao thượng hơn… phù hợp với chân lý và tình yêu… tôi sẽ hoàn thiện cuộc đời tôi.  Nếu tôi chỉ biết sống theo bản năng thú vật, ắt tôi sẽ ê chề tựa như thể tôi dùng dao lam để gọt đá tảng vậy.

Sự dữ hằng tàn phá chính bản ngã ta.  Nếu tôi sống đúng như tôi phải sống, tôi sống thành nhân.  Nếu tôi sống tuỳ hứng, tôi trở thành thú vật, một con vật bất hạnh.  Đây chẳng phải là kết quả do tôi xếp đặt, thế mà tôi vẫn không thể nào thoát khỏi được.  Người ăn nhậu triền miên không hề có chủ tâm tàn huỷ sức khoẻ mình; nhưng thực sự kẻ ấy đang cố huỷ diệt mình.  Kẻ tham mê ăn uống không kể gì đến bệnh tật về tiêu hoá, nhưng thực sự kẻ ấy sẽ mắc loại bệnh ấy.  Tên ăn trộm không muốn bị bắt bỏ tù, nhưng rồi hắn sẽ vô tù.

Khi người lữ khách chối từ tuân theo các bảng chỉ dẫn đường đi, dĩ nhiên anh ta vẫn có thể tiếp tục dấn bước nhưng cuối cùng rồi sẽ thất vọng vì không đến được đích.  Sự vô trật tự là một ông thầy nghiêm khắc, chậm rãi nhưng chắc chắn.  Dân Tây Ban Nha có một câu tục ngữ “Ai phỉ nhổ Thiên Chúa là phỉ nhổ chính mình.”  Sự dữ có thể chiến thắng trong chốc lát.  Trận đầu nó thắng đấy, nhưng kết cục nó sẽ thua.

Caesar đã xây dựng đường xá hầu đánh thắng, chinh phục toàn thế giới bằng quân sự, nhưng trên những con đường này, thánh Phêrô và Phaolô đã đi rao giảng Tin mừng.  Bởi vậy, cuối thế kỷ này ta sẽ chứng kiến các nhà khoa học và triết gia sẽ lục lọi các giỏ rác trong các đại học hầu nhặt nhạnh những Chân lý thánh thiện mà thế kỷ 18 và 19 đã loại bỏ.

Bởi lẽ sự thiện thì trường tồn, còn sự dữ thì tiêu vong.

Đức cha Fulton Sheen
(Nguyên tác: Way to Happiness)

Nếu không nghe được Youtube hoặc có vấn đề về kỹ thuật, xin để lại lời nhắn ở mục “Comment” phía dưới, chúng tôi sẽ cập nhật lại đường link Youtube.

AI ĐỔI ĐỜI AI (có Youtube)

Cuộc gặp gỡ với Đức Giêsu Phục Sinh trên đường đi Damas đã đổi đời Phaolô.  Từ một người nhiệt thành với truyền thống tổ tiên, làm Phaolô hăm hở đi bắt các Kitô hữu về “trị tội”, trở thành một tông đồ hăng say làm chứng tin mừng Đức Giêsu Phục Sinh.  Niềm tin vào Đức Giêsu Phục Sinh làm Phaolô và các Kitô hữu trở thành những con người khác, như dấu chỉ Thiên Chúa đang hiện diện và yêu thương con người.

I. Phaolô làm chứng Đức Giêsu đã phục sinh

 Trước khi ngã ngựa trên đường Damas, Phaolô là một người rất đặc biệt.  Ngài là một biệt phái, nghĩa là, một người rất nhiệt thành với lề luật Do Thái, và sẵn sàng làm tất cả để bảo vệ lề luật.  Phaolô đã từng là người giữ áo cho những người ném đá thánh Têphanô.  Phaolô đã được phép của các người cầm quyền để đi lùng bắt các Kitô hữu Do Thái đem về Yêrusalem để trị tội.  “Có lúc, những người bắt bớ các con, cứ tưởng rằng đó là việc tôn thờ Thiên Chúa” (Ga.16, 2).  Nhưng với biến cố Damas, Phaolô đã trở thành con người khác.

Trước khi gặp gỡ Đức Giêsu Phục Sinh, với Phaolô, Do Thái giáo là tôn giáo duy nhất đúng.  Tất cả những gì trái với quan niệm truyền thống cha ông để lại, là sai lầm và phải loại bỏ.  Những ai cố tình đi theo một niềm tin khác, phải bị trừng phạt.  Đó là lý do tại sao Phaolô đi lùng bắt Kitô hữu ở Damas. Sau biến cố Damas, Phaolô đã thay đổi cái nhìn và thay đổi lập trường sống.  Do Thái giáo vẫn đúng đó, nhưng “cái khác” vẫn có thể là sự thật.  Đức Giêsu Phục Sinh là một thực tại mà Phaolô đã được gặp gỡ, cảm nghiệm, và rồi trở thành chứng nhân cho Ngài.  Phaolô được ơn mở mắt để nhìn ra thực tại Đức Giêsu Phục Sinh; qua biến cố ngã ngựa, ông không thể phủ nhận được điều trước đó ông đã một mực chối từ, ông đã nhận ra sự thật, và kể từ đó Phaolô đã rao giảng cho dù bị ghét và bị tìm giết.

Đức Giêsu Phục Sinh đã đổi đời Phaolô.  Từ một người không tin vào Đức Giêsu, Phaolô trở thành chứng nhân nhiệt thành của Đức Giêsu Phục Sinh.  Từ một người lùng bắt người khác, giờ đây lại là kẻ bị lùng bắt.  Biến cố gặp gỡ Đức Kitô Phục Sinh trên đường đi Damas đã làm Phaolô thành một người hoàn toàn khác, đến độ ngài nói: “Kể từ khi tôi biết Đức Giêsu Phục Sinh, tôi coi mọi sự như phân bón.  Kể từ khi biết Đức Giêsu, tôi coi mọi sự như thua lỗ bất lợi cả trước cái lợi tuyệt vời là được biết Đức Giêsu Kitô Chúa tôi” (Pl.3, 8-9).  Phaolô đã được Thiên Chúa biến đổi qua cuộc gặp gỡ với Đức Giêsu Phục Sinh.

II. Đời sống của một người tin vào Đức Giêsu Phục Sinh

 Trong thư thứ nhất của thánh Gioan, Kitô hữu được nhắn nhủ: “Chúng ta đừng yêu bằng lời nói và miệng lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm.”  Đức tin phải chi phối cách sống của Kitô hữu.  Đức tin không có việc làm là đức tin chết.  Đức tin của Kitô hữu không chỉ là chấp nhận một mệnh đề là đúng, nhưng còn là cái biết chi phối toàn bộ đời sống của họ.  Chính việc làm của Kitô hữu giúp cho người khác thấy đức tin của họ.

Lời Chúa trong thư của thánh Gioan hôm nay còn cho Kitô hữu hiểu hơn nữa về Thiên Chúa và về con người.  Nếu lòng chúng ta không cáo tội chúng ta, thì chúng ta được mạnh dạn đến cùng Thiên Chúa; nhưng nếu lòng chúng ta cáo tội chúng ta, thì chúng ta biết Thiên Chúa là Đấng cao cả hơn lòng chúng ta, và Người biết mọi sự.  Thiên Chúa nhân từ và yêu thương chúng ta hơn chúng ta có thể tưởng được.  “Như trời cao hơn đất bao nhiêu, tư tưởng của Ta cũng vượt xa tư tưởng của các ngươi bấy nhiêu.”  Đừng bao giờ ép Thiên Chúa phải phạt người khác theo phán đoán của mình.  Thiên Chúa không phạt ai cả, Ngài chỉ biết yêu thôi.  Đau khổ là do con người làm cho nhau hoặc tự chuốc lấy cho mình mà thôi.

Thiên Chúa là Đấng Tuyệt Vời mà con người không thể hiểu thấu.  Ngài nhân từ yêu thương con người hơn con người có thể nghĩ có thể ngờ.  Ngài yêu thương con người ngay khi con người còn là tội nhân, xấu xa hư hỏng.  Không ai có thể ngờ Ngài đã cho Đức Giêsu phục sinh.  Không ai dám ngờ rằng Thiên Chúa có thể chấp nhận để con người giết Con Ngài.  Không ai dám ngờ rằng Thiên Chúa vẫn yêu thương con người đến độ Lời của Ngài nhập thể làm người, ngay cả khi con người đang phản bội và xa lánh Ngài.  Thiên Chúa nhập thể là điều vượt sức hiểu của con người, và vượt ngay cả sức hiểu biết của thiên thần.  Thiên Chúa là Đấng vượt quá lòng chúng ta có thể ngờ, và bây giờ Ngài vẫn đang tiếp tục làm những điều kỳ diệu và tuyệt vời cho mỗi người chúng ta, trong đời mỗi người chúng ta.

III. Thầy là cây nho các con là nhành

Tương quan giữa Thiên Chúa, Đức Giêsu, và chúng ta, được Tin Mừng theo thánh Gioan diễn tả như tương quan giữa người trồng nho, cây nho và nhành nho.  Đức Giêsu là cây nho, chúng ta là nhành.  Một nhành chỉ sống được và sinh hoa trái nếu nhành đó liên kết với thân cây, để lấy nhựa sống từ cây.  Giữa chúng ta và Đức Giêsu, có một mối dây rất gần gũi và mật thiết, như nhành và cây.  Nhành nào tách khỏi cây, sẽ khô héo và chết.  Tương tự vậy, chúng ta sẽ khô héo và chết nếu chúng ta không liên kết với Đức Giêsu.  Đức Giêsu là sức sống của mỗi người chúng ta.

Thiên Chúa như người chủ vườn nho.  Ngài chăm sóc cây nho và nhành nho.  Ngài muốn cây nho nhành nho sinh nhiều hoa trái.  Ngài chăm bón cắt tỉa, để nhành nho sinh trái nhiều hơn.  Hình ảnh Thiên Chúa như người chủ vườn rất quen thuộc đối với Đức Giêsu.  Người chủ vườn trông nom, chăm bón vun trồng để cây nho nhành nho sinh trái.  Thiên Chúa chăm sóc mỗi người chúng ta như vậy.  Nếu Ngài có cắt tỉa, là để chúng ta sinh nhiều hoa trái hơn.

Tương quan giữa Đức Giêsu và Thiên Chúa như tương quan giữa cây nho và ông chủ vườn.  Cây nho luôn tùy thuộc chủ vườn.  Người chủ vườn luôn quan tâm và chăm bón để cây nho có nhựa sống cung cấp cho nhành cây, để sinh nhiều hoa trái.  Đây là hình ảnh, nó chỉ diễn tả phần nào sự thật.  Thiên Chúa luôn có sáng kiến tuyệt vời, để làm những điều kỳ diệu, và ngay cả có thể làm cho những cành nho như thể khô đét có được sức sống và sinh trái.  Thiên Chúa là người chủ vườn tuyệt vời.  Thiên Chúa làm chúng ta có sức sống và sinh trái qua Đức Giêsu.

Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm

Nếu không nghe được Youtube hoặc có vấn đề về kỹ thuật, xin để lại lời nhắn ở mục “Comment” phía dưới, chúng tôi sẽ cập nhật lại đường link Youtube.

THÁNH MARCÔ, THÁNH SỬ (có Youtube)

Thánh Marcô, mặc dù mang tên Roma, nhưng lại là người Do Thái, và còn được gọi theo tên Do Thái là Gioan.  Tuy không thuộc nhóm Mười Hai Tông Đồ, nhưng rất có thể ngài đã quen biết Chúa Giêsu.  Nhiều văn gia Giáo Hội phát hiện ra chữ ký kín ẩn của thánh Marcô trong Phúc Âm của ngài, trong trình thuật người thanh niên bỏ chạy với một mảnh vải trên người, khi Chúa Giêsu bị bắt trong vườn Cây Dầu: ý nghĩa ở đây là chỉ có mình thánh Marcô đề cập đến chi tiết ấy.  Điều này còn trùng hợp với một chi tiết khác: Marcô là con trai bà Maria, một góa phụ giàu có, sở hữu ngôi nhà, nơi các tín hữu Jerusalem tiên khởi thường tụ họp.  Theo một truyền thống cổ xưa, ngôi nhà này chính là ngôi nhà có phòng Tiệc Ly, nơi Chúa Giêsu đã ăn bữa Tiệc Ly và thiết lập bí tích Thánh Thể.

Marcô có bà con với thánh Barnabas; ngài đã đồng hành với thánh Phaolô trong cuộc truyền giáo lần thứ nhất, và ở bên cạnh vị Tông Đồ dân ngoại trong những ngày cuối đời của ngài.  Tại Roma, Marcô còn làm môn đệ của thánh Phêrô.  Trong Phúc Âm của ngài, với ơn linh hứng Chúa Thánh Thần, thánh Marcô đã trung thành trình bày giáo huấn của vị Tông Đồ trưởng.  Theo một truyền thống cổ xưa được thánh Jerome kể lại, sau khi hai thánh Phêrô và Phaolô chịu tử đạo, thánh Marcô đã sang Alexandria, giảng đạo, thành lập giáo đoàn và trở thành giám mục tiên khởi ở đó.  Vào năm 825, thánh tích của ngài được dời từ Alexandria về Venice, thành phố hiện nay nhận ngài làm quan thầy.

  1. Marcô, người phụ tá của thánh Phêrô.

Ngay từ khi còn rất trẻ, Marcô đã thuộc vào nhóm các tín hữu tiên khởi ở Jerusalem, những người quen biết và được sống bên cạnh Đức Mẹ và các Tông Đồ.  Mẹ của ngài là một trong những phụ nữ đã lấy tài sản chu cấp cho Chúa Giêsu và mười hai Tông Đồ.  Marcô cũng có bà con với thánh Barnabas, một trong những nhân vật chính yếu trong thời kỳ đầu, và là người đầu tiên dìu dắt ngài trong công cuộc rao giảng Phúc Âm.  Marcô đồng hành với thánh Phaolô và thánh Barnabas trong hành trình truyền giáo lần thứ nhất, nhưng khi đến đảo Cyprus, Marcô cảm thấy không thể tiếp tục được nữa nên đã từ giã và trở về Jerusalem.  Thánh Phaolô dường như rất thất vọng về tính thay đổi của Marcô.  Về sau, khi trù định cho hành trình truyền giáo lần thứ hai, thánh Barnabas muốn đem theo Marcô, nhưng thánh Phaolô nhất định không chịu vì nhớ lại sự việc trước đó.  Cuộc tranh luận giữa thánh Phaolô và thánh Barnabas căng thẳng đến nỗi sau cùng hai vị đã chia tay, mỗi người tiến hành chương trình của riêng mình.

Khoảng mười năm sau, chúng ta lại thấy Marcô tại Roma, lần này ngài giúp đỡ thánh Phêrô.  Lời thánh Phêrô đã viết trong thư: con tôi là Marcô, minh chứng mối liên hệ lâu bền và gần gũi giữa hai vị.  Thời gian ấy, Marcô là thông dịch viên cho vị Tông Đồ trưởng, việc này đem lại một lợi điểm mà chúng ta nhận ra trong Phúc Âm được ngài viết sau đó ít năm.  Mặc dù không ghi lại một bài giáo huấn dài nào của Chúa, nhưng bù lại, thánh Marcô đã mô tả rất sinh động về những biến cố trong cuộc sống của Chúa Giêsu với các Tông Đồ.  Trong các trình thuật của ngài, chúng ta thấy hiện lên những thị trấn nhỏ ven bờ biển Galilê; chúng ta cảm nhận được những lời bàn tán của đám đông đi theo Chúa Giêsu, chúng ta như thể tiếp xúc với những cư dân của các địa phương ấy, nhìn thấy những việc kỳ diệu của Chúa Giêsu, và những phản ứng tự phát của nhóm Mười Hai.  Tóm lại, chúng ta thấy mình như giữa đám đông dân chúng, được chứng kiến các biến cố Phúc Âm.  Qua những mô tả sinh động, thánh Marcô đã in đậm vào linh hồn chúng ta một hấp lực dịu dàng nhưng không sao cưỡng lại của Chúa Giêsu mà dân chúng và các Tông Đồ đã cảm nghiệm được trong cuộc sống với Thầy Chí Thánh.  Thánh Marcô đã trung thành ghi lại những hồi tưởng thân mật của thánh Phêrô với Thầy Chí Thánh: những ký ức ấy không phai nhòa theo năm tháng, nhưng càng ngày càng sâu đậm và sinh động hơn, càng thấm thía và hứng thú hơn.  Có thể nói Phúc Âm thánh Marcô là tấm gương sinh động về giáo huấn của thánh Phêrô.

Thánh Jerome cho chúng ta biết, theo thỉnh nguyện của các tín hữu Roma, Marcô, môn đệ và thông ngôn của thánh Phêrô, đã viết Phúc Âm theo những gì ngài đã được nghe thánh Phêrô giảng dạy.  Và chính thánh Phêrô, sau khi đã duyệt bản Phúc Âm ấy, đã dùng quyền bính chấp thuận cho sử dụng trong Giáo Hội.  Đây thực sự là sứ mệnh chính trong cuộc đời thánh Marcô: trung thành ghi lại những lời giảng của thánh Phêrô.  Ngài đã để lại cho hậu thế biết bao ích lợi!  Ngày nay, chúng ta thực sự phải mang ơn thánh Marcô vì nhiệt tâm ngài đã đặt vào công việc và lòng trung thành với ơn linh hứng của Chúa Thánh Thần!  Ngày lễ kính thánh Marcô là dịp để chúng ta xét lại việc hằng ngày chúng ta đọc Phúc Âm, lời Chúa nói trực tiếp với chúng ta, như thế nào.  Chúng ta có thể tự hỏi đã bao lần chúng ta đã sống như người con hoang đàng, hoặc áp dụng cho mình lời cầu khẩn của anh mù Bartimaeus: Lạy Chúa, xin cho con được nhìn thấy – Domine, ut videam!  Hoặc lời thỉnh nguyện của người cùi: Lạy Thầy, nếu Thầy muốn, xin cho tôi được sạch – Domine, si vis, potes me mundare!  Bao lần chúng ta cảm thấy tận đáy lòng rằng Chúa Kitô đang nhìn và mời gọi chúng ta hãy sát bước theo Người, kêu gọi chúng ta hãy vượt thắng một thói xấu nào đó làm chúng ta xa cách Người, hoặc như các môn đệ trung thành, hãy sống nhân ái hơn nữa với những người khó hòa hợp với chúng ta?

  1. Là khí cụ của Chúa, chúng ta phải luôn sẵn sàng thực hiện một cuộc khởi đầu mới.

Thánh Marcô đã giúp đỡ thánh Phêrô nhiều năm tại Roma, ở đó, chúng ta còn thấy ngài phụ giúp thánh Phaolô nữa.  Quả thế, con người mà thánh Phaolô thấy không thể sử dụng trong hành trình truyền giáo lần thứ hai thì nay lại là một niềm an ủi, và là một người bạn trung thành.  Vào khoảng năm 66, thánh Tông Đồ đã viết cho Timothy: Con hãy đem Marcô đi với con, vì anh ấy rất hữu ích cho công việc phục vụ của cha.  Sự kiện đảo Cyprus một thời hết sức ảm đạm, thì nay dường như đã bị quên lãng hoàn toàn.  Giờ đây, thánh Phaolô và thánh Marcô là bạn hữu và đồng sự của nhau trong công cuộc quan trọng là mở rộng vương quốc Chúa Kitô.  Thực sự đây là một tấm gương lớn lao và cũng là một bài học tuyệt vời cho chúng ta học biết: đừng bao giờ kết luận dứt khoát về một ai, khi nào cần thiết một ai, chúng ta hãy biết cách nối lại mối dây thân hữu mà đã có lúc xem như đã tan rã hoàn toàn!

Giáo Hội hôm nay nêu lên mẫu gương thánh Marcô.  Thật là một hy vọng và ủi an khi chiêm ngưỡng đời sống vị sử gia thánh thiện này.  Mặc dù có những yếu đuối, nhưng chúng ta vẫn có thể như ngài, tin tưởng vào ơn Chúa và sự phù trợ của Mẹ Giáo Hội.  Những thất bại và những hành vi nhát đảm của chúng ta, dù lớn hoặc nhỏ, phải làm chúng ta khiêm tốn hơn, liên kết chúng ta mật thiết hơn với Chúa Giêsu, và kín múc từ nơi Chúa nguồn sức mạnh mà chúng ta đang thiếu thốn.

Chúng ta đừng để những bất toàn nên cớ làm chúng ta xa cách Chúa hoặc từ bỏ sứ mạng tông đồ, mặc dù đôi khi chúng ta đã không đáp ứng đúng mức với ơn Chúa, hoặc chúng ta đã ngần ngại khi được nhờ cậy.  Những hoàn cảnh như thế, nếu có khi nào xảy ra, chúng ta không nên ngạc nhiên, bởi vì như lời thánh Phanxicô Salê đã nói, Không có gì phải ngạc nhiên vì bệnh tật là bệnh tật, yếu đuối là yếu đuối, và gian ác là giac ác.  Tuy nhiên, hãy hết sức gớm ghét điều bạn đã xúc phạm đến Chúa, và với lòng tin tưởng vào lòng thương xót của Chúa, hãy quảng đại quay lại con đường mà bạn đã từ bỏ. Những thất bại và những hành vi nhát đảm rất quan trọng.  Chúng khiến chúng ta trở về bên Chúa để nài xin ơn tha thứ và trợ giúp của Người.  Nhưng Chúa vẫn tin tưởng chúng ta, và chúng ta vẫn cậy trông ơn Chúa, nên chúng ta hãy lập tức làm lại và quyết tâm trung thành hơn trong tương lai.  Với ơn phù trợ của Đức Mẹ, chúng ta sẽ biết cách rút ra điều hữu ích từ những yếu đuối, nhất là khi kẻ thù, những kẻ không bao giờ nghỉ ngơi, ra sức làm chúng ta thất đảm và từ bỏ cuộc chiến.  Chúa Giêsu muốn chúng ta thuộc về Người mặc dù chúng ta đã có một lịch sử yếu đuối với những sai phạm.

  1. Sứ vụ tông đồ.

Hãy đi khắp thế gian và rao giảng Tin Mừng cho mọi thụ tạo.  Hôm nay, chúng ta đọc những lời này trong Ca Nhập Lễ.  Đây là sứ vụ tông đồ Chúa đã ban và thánh Marcô đã ghi lại.  Về sau, được ơn Chúa Thánh Thần thúc đẩy, thánh nhân đã minh chứng lệnh truyền ấy đã được thực hiện khi ngài chép Phúc Âm: Các tông đồ ra đi và rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và củng cố tin mừng bằng những phép lạ kèm theo.  Đó là những lời thánh Marcô kết thúc Phúc Âm của ngài.

Thánh Marcô đã trung thành với sứ vụ tông đồ mà ngài đã nghe qua lời giảng của thánh Phêrô: Hãy đi khắp thế gian.  Chính thánh Marcô và Phúc Âm của ngài đã là một thứ men hiệu quả cho thời đại ngài.  Chúng ta cũng phải trở nên một thứ men tốt cho thời đại chúng ta.  Nếu sau lần nhát đảm, thánh nhân đã không khiêm nhượng và dũng cảm làm lại, có lẽ giờ đây chúng ta không có những kho tàng lời giảng và việc làm của Chúa Giêsu để thường xuyên suy gẫm, và nhiều người, nếu không nhờ ngài, chắc cũng chẳng bao giờ biết được Chúa Giêsu là Đấng Cứu Độ của nhân loại.

Sứ mạng của thánh Marcô – cũng như của các Tông Đồ, của các nhà truyền giáo, của các tín hữu tốt lành luôn ra sức sống đúng với ơn gọi của mình – chắc chắn không phải là một sứ mạng dễ dàng.  Chúng ta biết ngài đã chịu tử đạo.  Ắt hẳn thánh nhân đã trải qua kinh nghiệm chịu bách hại, mệt mỏi, và hiểm nguy trong việc theo bước Chúa.

Chúng ta hãy cám tạ Thiên Chúa, cũng như các tín hữu thời các Tông Đồ, vì sức mạnh và niềm vui Chúa Kitô đã được truyền lại đến ngày nay cho chúng ta.  Mọi thế hệ Kitô hữu, mọi cá nhân đều được mời gọi lãnh nhận sứ điệp Phúc Âm và truyền thụ lại cho người khác.  Ơn Chúa không bao giờ thiếu: Non est abbreviata manus Domini – Cánh tay Chúa không bị thu ngắn.  Người tín hữu biết Chúa đã thực hiện các phép lạ từ nhiều thế kỷ trước kia, và hiện nay Người vẫn đang thực hiện.  Với ơn Chúa giúp, mỗi người chúng ta cũng sẽ thực hiện những phép lạ nơi tâm hồn thân nhân, bạn bè, và những người quen biết, nếu chúng ta sống trong mối kết hợp với Chúa Kitô qua lời cầu nguyện.

*********************

Lạy Chúa là Thiên Chúa của chúng con,
Có rất nhiều điều trong chúng con đã che lấp lời của Chúa
Và ngăn trở chúng con trở thành Giáo Hội thật sự của Chúa.
Hôm nay, chúng con cầu xin Chúa:
Xin hãy gọi chúng con, như Chúa đã gọi Máccô xưa kia,
Để chúng con nói và sống Lời Chúa.
Xin Chúa hãy linh ứng chúng con qua Chúa Thánh Thần
Và xin hãy dạy chúng con sống trong hy vọng
Rằng vương quốc của Chúa sẽ đến
Và ở lại giữa chúng con
Nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con
Bây giờ và muôn đời.

Sưu tầm

Nếu không nghe được Youtube hoặc có vấn đề về kỹ thuật, xin để lại lời nhắn ở mục “Comment” phía dưới, chúng tôi sẽ cập nhật lại đường link Youtube.

GIÀU SANG, QUYỀN LỰC (có Youtube)

Thời trước, người ta ít nói đến “sống trên đời” cho bằng việc rỗi linh hồn.  Họ không lưu tâm nhiều đến những vấn đề kinh tế, chính trị như chúng ta ngày nay.  Họ chú tâm nhiều về những vấn đề luân lý, đạo giáo.  Ngày nay, sức lôi cuốn của Trời Cao đã giảm bớt đối với nhiều người, và người ta quan tâm gắn bó với trần thế nhiều hơn.  Khát vọng tìm kiếm Thiên Chúa đã và đang nhường chỗ cho khát vọng săn đuổi giàu sang, quyền lực.  Thần tượng của thế kỷ này không phải là các thánh, mà là những kẻ đạt tới “đỉnh cao”.

Xoay quanh việc xác định tầm mức quan trọng cho các tiêu chuẩn thành công trên đời này, người ta có hai thái độ trái ngược nhau.  Liệu có nên tôn sùng và tìm kiếm sự thành công, cho đó là điều thiện hảo nhất trong cuộc đời hay không?  Hay ngược lại, phải kết án chuyện đó bởi vì nó xấu xa?  Những kẻ đầy tham vọng chấp nhận thái độ cực đoan đầu.  Thái độ sau là của hai nhóm phản kháng: nhóm vô chính phủ – lên án mọi thứ quyền bính, và nhóm Cộng sản – phỉ báng mọi người giàu có.

Chỉ có một tiêu chuẩn đúng đắn và đầy đủ lý lẽ để đánh giá các quan điểm trên đây.  Đó chính là cuộc đời của Chúa chúng ta.  Những chuyện thuật lại trong Tin Mừng cho thấy rằng quyền lực và giàu sang đều là những lý tưởng và tham vọng chính đáng, nhưng chúng phải tuân theo một số qui định mà thế gian này thường không đếm xỉa gì đến.  Những qui định này được mặc khải cho ta qua cuộc đời ẩn dật của Chúa Giêsu tại Nazareth.  Đó là hai điều này: không ai có thể cầm giữ quyền bính nếu kẻ ấy không học biết vâng phục, như Đức Kitô hằng vâng phục cha mẹ mình vậy.  Và không ai có thể tận hưởng giàu sang được nếu kẻ ấy không học biết cách từ bỏ nó, như Chúa đã làm, Ngài đã chọn cho mình một nghề khởi đầu là nghề thợ mộc nghèo nàn.

Vậy thì, ở đây là Uy Quyền đã trở thành Hèn Kém, Chủ trở nên nô lệ, vị Chúa Tể trở nên kẻ phục vụ.  Qui phục Chúa Cha là khúc dạo đầu cho các phép lạ và quyền lực kế tiếp.  Và chúng ta cũng phải bắt chước như thế.  Hết thảy mọi thứ quyền lực… chính trị, công nghệ, xã hội, kinh tế… đều phải qui phục Quyền Năng trên cao và phải khép mình vào kế hoạch của Thiên Chúa trước đã, sau đó mới có thể chính đáng qui phục kẻ khác được.  Quyền lực không phải được kiểm tra từ phía dưới, kiểu như thái độ thách thức vô chính phủ hoặc đảo chánh, mà chính nó phải biết tự giới hạn từ trên xuống.  Quyền lực trần thế có quyền yêu cầu mọi người tuân phục chỉ khi nào biết vâng phục Đấng Toàn Năng trên cao.  Quyền bính trần thế được tôn trọng khi phù hợp với ý muốn của Đấng Tạo Hoá.  Kẻ cầm quyền chỉ được tôn phục khi họ biết tôn kính Thiên Chúa.

Với giàu sang cũng vậy: Chúa đã dạy ta rằng không ai trở nên giàu sang nếu họ không học biết từ bỏ nó.  Những năm ẩn dật ở Nazareth không phải có ý nhắn nhủ ta phải tôn vinh sự nghèo khổ, cam chịu những điều kiện sống tồi tệ nhếch nhác, hoặc sống gian khổ trong cảnh đói rách bần hàn.  Chúa chúng ta nghèo khó thật sự.  Ngài lao động cật lực mới kiếm đủ ăn đủ mặc.  Ngài là một thợ mộc nghèo nàn, nhưng Ngài cũng là một Thiên Chúa giàu sang, làm chủ cả thế giới.  Ngài còn là vị Thiên Chúa quyền uy nhưng lại tự mình trở nên hèn kém.  Giàu sang và quyền uy tự bản thân của chúng đều không có gì xấu xa, bởi vì chúng thuộc về Thiên Chúa.

Bởi thế người Cộng sản căm thù kẻ giàu có chỉ vì họ giàu.  Người Cộng sản không hề tìm thấy sự tán đồng của Kitô giáo trong việc đó.  Không ai có quyền khinh miệt người giàu có, nếu cũng như Chúa, họ đã chứng tỏ rằng mình không bị đam mê chiếm hữu ràng buộc… và như thế, họ cũng không muốn miệt thị ai cả.  Cuộc sống đạm bạc ở Nazareth không phải là để lên án sự phú quý hoặc tôn vinh sự nghèo hèn: mà là minh họa cho học thuyết tuyệt diệu về việc từ bỏ.  Các môn đệ theo Chúa Kitô, họ cũng dứt bỏ được của cải để tìm kiếm vinh quang Thiên Chúa, dù rằng sản nghiệp của họ chỉ vỏn vẹn một ít ngư thuyền và lưới đánh cá, và quí báu nhất là ý chí của họ.

Thiên Chúa không hề xúi kẻ nghèo chấp nhận sự nghèo đói, hay bảo ta phải đi tìm kiếm bần cùng.  Ngài không tôn vinh người nghèo cũng như kẻ giàu.  Nhưng Ngài đã khen ngợi người nghèo khó kia, kẻ đã một thời gian giàu sang, nay vui lòng sống nghèo khổ… chính người nghèo, do sẵn sàng từ bỏ mọi sự, mà trở thành có mọi sự – kẻ nào không muốn gì cả, lại có tất cả.  Bởi vì Thiên Chúa không hề khuyên răn phải “từ bỏ” sự phú quý để được sự “hư không”; đúng hơn, Ngài thừa nhận việc đánh đổi sự phú quý để được giàu có lớn lao hơn trên Nước Trời.  Ngài không bảo “Phúc cho kẻ nghèo” hay “Phúc cho kẻ giàu.”  Ngài bảo “Phúc cho ai có tinh thần nghèo khó.”

Cuộc đời ẩn dật ở Nazareth không chỉ nói lên lý lẽ đơn giản về “thanh bần” hoặc “yếu hèn trong sự thánh thiện”; bản thân những điều này không phải là nhân đức theo nghĩa của đạo Công giáo.  Bài học Nazareth dạy ta biết về sự giàu sang của những ai đạt tới tinh thần khó nghèo bằng sự từ bỏ, và về quyền lực của những ai biết trở nên hèn kém để phục vụ anh em.  Chúa của chúng ta là Đấng duy nhất từ xưa tới nay đã đồng hành với thế giới mà hết thảy những người, giàu hoặc nghèo, chủ hoặc tớ, mạnh mẽ hay yếu đuối đều được quyền gọi Ngài là Chúa, đều có quyền thành tâm gọi Ngài là đồng loại với mình, Ngài là Người như ta.

Đức cha Fulton Sheen
(Nguyên tác: Way to Happiness)

Nếu không nghe được Youtube hoặc có vấn đề về kỹ thuật, xin để lại lời nhắn ở mục “Comment” phía dưới, chúng tôi sẽ cập nhật lại đường link Youtube.

NGHE-BIẾT-THEO (có Youtube)

Những dấu hiệu để nhận ra người thân quen là gương mặt và giọng nói.

Tuy cách nhau, nhưng nhớ đến ai, ta vẫn hình dung ra được gương mặt người ấy; nghe giọng nói qua điện thoại, ta nhận ra ngay người thân quen của ta là ai.

Chính Chúa Giêsu đã xác nhận: “Các chiên Ta thì nghe tiếng Ta, Ta biết chúng và chúng theo Ta” (Ga. 10,27), hay “Ta biết các chiên Ta và các chiên Ta biết Ta” (Ga. 10,14).

Động từ “biết” trong Kinh Thánh có một ý nghĩa đặc thù diễn tả tình yêu thương kết hợp nơi thân xác của vợ chồng để cả hai trở nên một như Chúa Cha biết Chúa Con và Chúa Con biết Chúa Cha.  Khi nghe Thiên Thần báo tin: “Này Trinh nữ sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên là Giêsu…”, Trinh nữ Maria đã trả lời: “Việc đó xảy đến thế nào được, vì tôi không biết đến người nam?”

Như thế “biết” là không chỉ có ý nghĩa thuần túy thuộc phạm trù nhận thức mà còn bao gồm cả về phương diện tình cảm.  Biết là thân thương, trìu mến, gắn bó, kết hợp.

“Ta biết các chiên Ta

Chúa Giêsu đã tự xác nhận mình là Mục Tử.  Ngài là chủ đàn chiên chứ không phải người chăn thuê và là một Mục Tử Nhân Lành.  Khác với chủ chăn đích thực, người chăn thuê, vì đàn chiên không thuộc về anh ta, anh ta không thiết gì đến đàn chiên, nên khi thấy sói đến, anh ta bỏ chiên mà chạy, mặc cho sói vồ lấy chiên và làm cho chúng chạy tán loạn.

Người Chăn Chiên Nhân Lành ấy biết đàn chiên của mình là con cái cùng một Cha, cùng chung một mái nhà, là anh em, là bạn hữu chứ không phải là tôi tớ…, biết từng con chiên một, biết đàn chiên yếu đuối hay sa ngã, biết chúng đang phải sống một kiếp sống hủy diệt vì tội lỗi, biết chiên đang khát vọng tìm một đồng cỏ xanh tươi, một dòng suối mát cho cuộc sống để nghỉ ngơi…

Vì yêu thương đàn chiên, muốn giải cứu chúng khỏi kiếp sống diệt vong ấy để được sống hạnh phúc viên mãn nơi Nhà Cha trên trời, người Mục Tử Nhân Lành đã xuống thế mang thân phận thấp hèn của con chiên, đã hy sinh mạng sống vì đàn chiên để từ sự phục sinh của người Mục tử Nhân Lành, đàn chiên được sống trong an bình và hy vọng.

Chúa Giêsu chịu chết và phục sinh, Mục Tử Nhân Lành đã trở nên nguồn ơn cứu độ cho toàn thể nhân loại, cho từng con người.  Ngài muốn chăn dắt, gìn giữ, nuôi sống từng con chiên một trong đàn chiên.  Mục Tử Nhân lành biết các chiên của mình là như thế đó!  Và dung mạo của Chủ Chăn ấy là nhân lành, yêu thương, biết các chiên, hy sinh mạng sống vì đàn chiên và bảo vệ đàn chiên là như thế đó!”

Là con chiên thuộc đàn chiên của Mục Tử Nhân Lành, ta đã biết chủ chăn, nghe tiếng Đấng ấy như thế nào?  Đã cảm nhận được sự hy sinh, bảo vệ, chăm sóc qua cái “ biết” của Mục Tử ấy chưa?

và các chiên Ta biết Ta, chúng nghe tiếng Ta

Nhờ dấu hiệu nào giúp chúng ta “ biết” Chủ Chăn?

Qua Kinh Thánh và nhất là qua Tin Mừng và phép Thánh Thể, ta biết Ngài, nghe tiếng Ngài kêu gọi. Ngài là Đấng Phục Sinh, nghĩa là Đấng Hằng Sống.  Ta sẽ biết rõ Ngài hơn, nhiều hơn, thân mật hơn, nếu ta sống và đi vào cuộc sống với, sống cùng các chiên khác.

Chúng ta đọc Kinh Thánh để nhận biết Người Chăn Chiên, để nghe tiếng Đấng ấy kêu gọi, nhưng ta nhận biết và nghe được tiếng gọi ấy bằng cách nào?  Bằng phân tích, lý luận hay bằng tình cảm tin yêu?

Ba người ngồi trao đổi với nhau về bản dịch Kinh Thánh.

Ông thứ nhất nói:

– Tôi thích bản dịch A.  Nó sáng sủa hơn những bản dịch trước.  Bản dịch này đọc dễ hiểu hơn.

Ông thứ hai nhận định:

– Tôi thì thích bản dịch B hơn.  Bản dịch vừa rõ ràng lại vừa văn chương, rất thích hợp cho chúng ta cầu nguyện.

Ông cuối cùng nhỏ nhẹ nói:

– Phần tôi, tôi thích bản dịch của mẹ tôi nhất.  Mẹ tôi dịch Thánh Kinh ra thực thế, làm cho Thánh Kinh dễ dàng áp dụng vào đời sống hằng ngày.

 Mỗi ngày, có thể ta sẽ viết thêm một trang mới vào cuốn sách Tin Mừng sống của thời đại bằng chính những việc ta làm, bằng những lời ta nói.  Nếu những lời nói và hành động của ta không phản ảnh được những giá trị của Tin Mừng, thì những lời nói và hành động ấy cũng chẳng nói lên được gì cả.

Sống và thực hành lời Chủ Chăn kêu gọi: hãy sám hối và tin vào Tin Mừng, nhiệt thành tham dự Thánh Lễ để từ đó sống kết hợp với Ngài là ta biết và nghe tiếng Mục Tử Nhân Lành kêu gọi.  Bổn phận của con chiên là biết nghe tiếng của chủ chăn.  Chỉ có một tiếng thôi, không có tiếng nào khác để chiên nghe theo mà được yên ổn, an vui, sống hạnh phúc ngoài tiếng Giêsu.  Nhưng chỉ có thế thôi thì chưa đủ, chưa trọn vẹn bổn phận mà còn phải bước theo sự dìu dắt của Mục Tử nhân lành.

và chúng theo Ta” (Ga. 10, 27)

Đã biết Chủ Chăn, và đã phân biệt được tiếng gọi của Ngài với tiếng gọi của người chăn chiên thuê, ta phải mau mắn, tin tưởng đi theo.  Đi theo để được chăm sóc, được bảo vệ khỏi mọi hiểm nguy trong bất cứ hoàn cảnh nào.

Không như người chăn thuê, khi thấy sói rừng đến thì bỏ mặc đàn chiên mà chạy thoát thân; trái lại, Mục Tử Nhân Lành của ta sẵn sàng thí mạng sống mình vì đàn chiên.  Đi theo và tin tưởng phó thác vào sự bao bọc chở che của Chủ Chăn đã lấy mạng sống Ngài để bảo vệ, cứu thoát ta khỏi tội lỗi và cái chết hủy diệt, để đưa ta vào sự sống Phục sinh vĩnh cửu như tác giả Thánh vịnh 22 đã cảm nghiệm:

Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì.
Trong đồng cỏ xanh tươi, Ngài cho tôi nằm nghỉ.
Ngài đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi.
Ngài dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính, vì danh dự của Ngài.
Lạy Chúa, dầu qua thung lũng tối tăm,
con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng.
Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm…

 Thế nhưng, ta có sẵn sàng chịu nghe tiếng của Chủ Chăn để tìm về với Ngài mỗi khi đi lạc đường, có sẵn sàng đi theo Ngài để cho Ngài bảo vệ, chăm sóc hay lại tìm cách tách rời đàn chiên để đi tìm những bãi cỏ tiền tài, danh vọng, bãi cỏ ý riêng… thay vì gặm cỏ xanh tươi, uống nước dòng suối mát nơi đồng cỏ Tin Mừng và Thánh Thể!

Phải coi chừng chủ chăn giả hay người chăn thuê, vì đàn chiên không thuộc về ngưới ấy, nên họ thiếu trách nhiệm với đàn chiên, ích kỷ sợ nguy hại đến bản thân mình hơn đến số phận của đàn chiên.  Ngược lại, Mục Tử nhân lành là người yêu thương, bảo vệ, chăm sóc đàn chiên, biết từng con chiên một.

Tiêu chuẩn cuối cùng để phân biệt chủ chăn đích thực và người chăn chiên thuê là thí mạng sống vì đàn chiên.  Chỉ có Mục Tử Nhân Lành Giêsu là Đấng đã làm như thế cho đàn chiên của mình.

Là chiên trong đàn chiên của Chúa, có ba điều ta cần phải suy xét và thực hành trong cuộc sống của mình là:

Chiên Ta nghe tiếng Ta, chúng biết Ta và chúng theo Ta.  Sống và thực hành ba điều đó không phải chỉ để mưu tìm hạnh phúc cho riêng mình mà còn phải cùng Mục Tử nhân Lành thực hiện một sứ vụ khác, một nỗi trăn trở khác là: “Ta còn những chiên khác không thuộc đàn này, cả những chiên đó ta cũng phải mang về đàn, chúng sẽ nghe tiếng ta.  Và sẽ chỉ có một đàn chiên và một chủ chiên.”

Khi gặm cỏ, gặp những chiên khác chưa thuộc đàn chiên của Chủ Chăn Giêsu, chúng ta có thái độ nào?  Đố kỵ hay thân thiện, nhường nhịn chia sẻ hay ganh ghét tranh phần, yêu thương hay thù hận, tiếp đón giúp đỡ hay làm ngơ bỏ mặc, cộng tác hay dửng dưng, đối thoại hay khép kín?

Ghen ghét, đố kỵ, phân cách, tự mãn, tự kiêu, ích kỷ… có giúp gì được cho mong ước quy tụ những chiên khác chưa thuộc về đàn chiên của Mục Tử Giêsu thành một đàn chiên duy nhất và chỉ một chủ chiên mà thôi không?

Lm Trịnh Ngọc Danh

Nếu không nghe được Youtube hoặc có vấn đề về kỹ thuật, xin để lại lời nhắn ở mục “Comment” phía dưới, chúng tôi sẽ cập nhật lại đường link Youtube.

NỖI LÒNG NGƯỜI CHĂN CHIÊN (có Youtube)

Tình thương thúc đẩy, chàng chuẩn bị lương thực, với cây gậy gỗ, chàng dẫn chiên lên đường. Ðường lên núi chỉ có mình chàng.  Trên trườn núi mênh mông, chàng tiếp tục đi, can đảm.  Chàng chỉ có một niềm vui: tình thương cho bầy chiên.  Bầy chiên gặp cỏ non thì hớn hở.  Chúng ham ăn, quên người chăn.  Chàng ngồi đó, trên bờ đá.  Ánh nắng làm bóng chàng đổ dài trên nền cỏ.

Nghĩ đến những ngày sắp tới dài dằng dặc.  Có thể là mưa.  Có thể là gai góc.  Và có thể là mệt mỏi.  Chàng ngần ngại cho cuộc sống.  Nhưng còn bầy chiên thì sao?  Tình thương dành cho bầy chiên lại níu kéo chàng về với bổn phận.  Cõi lòng chàng, can đảm, trìu mến lại trải rộng theo bầu trời.

Chàng chấp nhận tất cả sương gió, nguy hiểm, vì bầy chiên.  Chàng chấp nhận hy sinh, nỗi vắng và nỗi đắng vì bầy chiên.  Nhưng bầy chiên chẳng biết nỗi lòng chủ mình.  Chúng cứ thản nhiên như lạnh lùng với chủ.

************************

Sau những ngày đầu bình yên. Chàng đã nghe tiếng sói rừng sủa văng vẳng đâu đó.  Bây giờ là chiến đấu với giao tranh.  Ðêm đêm, chàng thức giấc một mình nhìn núi lặng lẽ mà nghe xao xuyến.  Riêng chiên cứ ngủ yên vô tư.  Mỗi khi gió trời chuyển mưa là chàng ướt lạnh.  Lạnh cả thân xác và lạnh cả tâm hồn vì yêu thương chiên.

Sói đã đến vào một tối.

Chiến đấu nào mà không cam go.  Bởi thế, chẳng mấy ai là người chấp nhận gian nan vì kẻ khác. “Kẻ làm công thì không màng đến chiên, khi thấy sói đến thì bỏ chiên mà chạy trốn.  Chỉ có người chăn chiên thương chiên mình thì mới thí mạng sống vì chiên” (Yn 10,1-14).  Chàng chiến đấu bảo vệ chiên.  Chân rướm máu vì núi đá.  Tay ê ẩm vì phải chống cự.  Trận chiến nào cũng có phần thua thiệt.  Lời Kinh Thánh đã loan báo: “Cứ chủ chiên mà giết thì đàn chiên sẽ tan tác” (Mt 26,31).  Biết thế, sói tấn công chàng, sói muốn ăn thịt chiên.  Nỗi đau của chàng không phải là thương tích chàng phải mang, mà là những tiếng kêu của chiên con bị thương.  Nhìn vài con chiên nhỏ phải đi tập tễnh, lòng chàng như tơ chiều chùng xuống.  Thương yêu quá đỗi.  Chiên thì chẳng biết tâm sự chủ mình.  Chúng cứ vô tư.

Ðó có là tâm tình của Chúa đối với con người?

************************

Người chăn chiên biết đâu là cỏ non.  Nơi nào có suối trong lành.  Chiên chẳng biết gì.  Nhưng làm sao để chiên nghe lời chủ.  Ðấy là nỗi khổ tâm của người chăn chiên.  Ðó là nỗi khổ tâm của Chúa đối với nhân loại.

Khi chợt thấy bãi cỏ xanh trước mắt, mầu xanh quyến rũ.  Bầy chiên nôn nao ùa tới.  Cũng như con người trong lúc hoang vu, buồn chán, chợt thấy bóng hạnh phúc mờ ảo, cứ ngỡ là cơn mưa tươi mát, đã sa ngã.  Người chăn chiên thì biết đám cỏ xanh kia tuy có đẹp nhưng nó mọc trên đám bùn, nơi đó đầy đỉa độc và rắn xanh.  Nếu chiên đến ăn sẽ sa lầy, sẽ bị đỉa cắn, sẽ bị rắn độc giết chết.  Ðằng sau mầu xanh đẹp mắt là thuốc độc.  Nhưng chiên đâu biết thế.  Chiên cứ muốn xuống.  Chiên chẳng nghe lời chủ.  Và người chăn chiên se sắt cõi lòng khi thấy chiên mình chết.

Chúa cũng vậy, bao lần con người đã đi tìm hạnh phúc giả trong tội lỗi.  Những hạnh phúc giả vì bất trung trong tình nghĩa vợ chồng.  Những hạnh phúc giả vì gian tham bất chính, vì những rung cảm trái phép.  Chẳng ai muốn hạnh phúc giả.  Chỉ vì lười biếng đi tìm hạnh phúc thật nên thấy bất cứ đám cỏ xanh nào cũng chạy lại.  Chúa biết rõ đâu là hạnh phúc đem bình an.  Chúa cản ngăn và con người đã than trách.  Chúa đau lòng.  Nhưng biết làm sao.  Vì thương chiên mình nên vẫn phải ngăn cấm.  “Chúa thương ai Người mới sửa dạy, Người nhận ai làm con, Người mới cho đòn.  Vì còn gì là con nếu người cha không dạy” (Hr 11,5-10).  Sửa dạy thì có đau đớn.  Nhưng nếu không sửa dạy thì người cha không còn là cha nữa.

************************

Trên đường dẫn chiên đi, bao lần chiên kêu gào oán than chủ.  Chiên cứ muốn dừng nghỉ, nhưng chủ biết phải đi nữa mới có cỏ tốt, suối lành.  Chủ cũng biết chẳng mấy chốc nữa mùa đông lại về.  Phải vội vã mà lên đường.  Chiên nào có hiểu vậy.  Chúng mỏi chân.  Chúng chán nản.  Nhìn lịch sử cứu độ, khi Maisen dẫn dân qua sa mạc về Ðất Hứa, đã chứng minh rõ ràng điều đó.

Cũng trên đường đi ấy, có những liên hoan của bầy chồn, bầy heo đứng ca múa bên đường.  Có những con chiên nghe tiếng cười đùa của bầy chồn, vui tai, xuôi lòng muốn ở lại.  Nhưng chủ biết rằng nếu con chiên nào ở lại với bầy chồn, bầy cáo, chúng sẽ suốt đời cô đơn.  Bầy chồn sẽ chẳng bao giờ săn sóc chúng, mà chúng phải nô lệ bầy chồn.  Trên đường đời của con người cũng thế.  Bao lần đi với Chúa, những tông đồ của Chúa đã muốn rẽ lối, phân vân ở ngã ba đường.  Họ thấy con đường theo Chúa sao mà dài.  Họ chẳng thể nhìn thấy đồi cỏ ở xa xa.  Họ muốn theo lối rẽ để ở lại vui chơi theo tiếng mời gọi của thần tượng ảo ảnh.  Trên đường về Ðất Hứa, dân Chúa đã bao lần than trách Maisen, họ đã dừng lại để thờ các tượng thần mà họ nghĩ là sẽ cho họ khoái lạc.

Sói rừng bao giờ cũng khôn ngoan.  Chúng mang bộ mặt của những con thỏ hiền từ.  Chờ chiên đến gần, chúng sẽ vồ bằng răng nhọn.  Chúng đứng bên đường nhởn nhơ nô đùa.  Bầy chiên phải theo chủ hoài thì nản lòng, muốn bỏ đồi cỏ xanh ở đàng kia.  Chúng muốn đến làm bạn với bầy sói.  Riêng chủ thì biết đằng sau tiếng cười là nước mắt.  Bên này là nỗi vui, bên kia là chết chóc.  Người chăn chiên thương chiên mình thì phải ngăn cản.  Nhưng bầy chiên đâu hiểu thế.  Không nghe lời thì người chăn chiên phải dùng roi mà đánh.  Mỗi vết roi là lòng chủ lại thêm đau.  Tâm hồn chủ chiên thì tan tác mà chiên cứ oán than.

Ðời người cũng vậy.  Có người cha nào không lo âu khi thấy con mình đùa với vực thẳm.  Chúa biết con người nghèo đói hạnh phúc.  Chúa biết trong thực tế, cuộc sống của con người có nhiều nỗi đắng, con người dễ bị cám dỗ ăn những đám cỏ dại.  Chúa biết con người không muốn bị sửa trị vì có đau đớn.  Biết vậy, Chúa đã căn dặn: “Bị sửa phạt thì chẳng có vui, chỉ có buồn, nhưng nhờ đó mà được luyện tập và về sau mới thấy sinh lợi: tức hoa quả của bình an” (Hr 11,11).

************************

Tuy nhiên vẫn có những con chiên bỏ đàn, ở lại với bầy chồn, bầy cáo và nhận quê hương đó làm của mình.  Ðã bao lần Chúa ngậm ngùi xót thương mà chẳng làm gì được.  Khi một tâm hồn muốn bỏ chiên đàn mà đi, Chúa xót thương cho Chúa vì đã mất một người con.  Ðể cứu vãn, Chúa dùng gậy mà đe dọa.  Nhưng Chúa không thể đánh chết chiên mình được.  Nó quyết định đi thì Chúa chỉ biết đứng nhìn, nuối tiếc mà thôi.  Người chăn chiên thật thì thương chiên của mình.

Người chăn chiên bao giờ cũng khôn ngoan.  Biết nơi nào có thể cho chiên dừng nghỉ, uống nước. Người chăn chiên biết từng con suối: “Ta đến để chiên Ta có sự sống và có một cách dồi dào” (Yn 10,10).  Khi bất hạnh làm con người khổ thì bất cứ an ủi nào cũng như suối trong.  Người ta dễ bị cám dỗ bỏ đời sống đức tin, muốn bám víu vào thú vui của trần thế.  Chỉ có Chúa thấy rõ, đấy không phải là bóng mát hạnh phúc, suối trong bình an.  Ðấy chỉ là bóng đen của những cơn mưa sắp đổ xuống.  Thay vì phải đi nhanh, phải chạy trốn, con người lại muốn ẩn trú trong những bóng đen ấy.  Rồi từ đó, bất hạnh lại nẩy sinh bất hạnh.  Túng thiếu lại nẩy sinh túng thiếu.

Vì bản tính của chiên là chiên, nên những con chiên bỏ đàn đi, nó sẽ chẳng bao giờ tìm được căn tính của mình.  Từ đó, cuộc đời sẽ trôi dạt, hạnh phúc sẽ là những bóng mây chợt qua.  Khi tôi lìa xa Giáo Hội là đàn chiên Chúa, tôi sẽ thao thức, bất an.

************************

Trên đường đi đến đồng cỏ, chắc chắn sói sẽ đến.  Chắc chắn có giao tranh, Nhưng hạnh phúc của bầy chiên là chủ chiên không bao giờ bỏ bê.  “Chiên của mình, Ta gọi tên từng con một” (Yn 10,3).  Sói rừng chỉ bắt được những con chiên bỏ đàn đi rong chơi một mình.  Giáo Hội là nhiệm thể có lửa của Chúa Thánh Thần sưởi ấm.  Những viên than nằm riêng rẽ chẳng bao lâu gió sẽ làm nguội tắt.  Nó tự làm cho đời sống mình nên khô cằn và cũng làm cho bếp than kém hồng vì mất đi một phần tử.

Cũng trên đường đi đến đồng cỏ, núi đá có thể làm đau chân chiên con.  Nó có thể mang thương tích và chẳng thể kịp với đàn chiên.  Nhưng chỉ cần cất tiếng kêu là chủ sẽ đến và bồng nó trên vai mà dẫn đi.  Người chủ thương chiên mình thì chẳng bao giờ vì chiên con yếu đuối không đi kịp đàn chiên mà bỏ rơi nó.  Chủ chiên hãnh diện vì những con chiên khỏe mạnh nhưng lại thương những con chiên bé bỏng, yếu sức.  Chúa cũng vậy, một tâm hồn mang nhiều thương tích là tâm hồn được Chúa yêu thương đặc biệt: “Có cần lương y, hẳn không phải là người lành mạnh, mà là người đau ốm” (Lc 5,13).  Khi người ta trách Chúa tại sao lại ngồi chung bàn ăn với người tội lỗi.  Chúa đã trả lời như thế.  Câu trả lời ấy cho tôi nhiều an ủi.

Trong cuộc sống, Chúa chẳng bao giờ quên những tâm hồn lạc lõng. “Ai trong các ông giả sử có một trăm con chiên và lạc mất một con, há người ấy lại không bỏ 99 con còn lại mà đuổi theo con lạc cho đến khi tìm ra con chiên lạc đó sao?” (Lc 15,4-7).  Chính vì thế mà Chúa đã đến.  Chỉ cần cất tiếng kêu, Chúa sẽ đến như người chăn chiên bồng chiên mình trên vai mà đi.  Trong vòng tay chủ chiên, con chiên đã mang thương tích sẽ được ngủ bình yên vì người chăn chiên quá thương nó.

Người chăn chiên mừng vui biết bao khi tìm thấy chiên mình.  Nhưng nếu chiên không về thì sao?

– Nỗi nhớ thương sẽ hằn sâu trong tim và người chăn chiên sẽ mãi mãi thao thức.  Sợ nó chết trên đường cô độc, người chăn chiên sẽ dõi theo vết chân nó, vì nó vẫn thuộc đàn chiên mình.

Ðó là nỗi lòng của Chúa, người chăn chiên tốt lành.

Lm Nguyễn Tầm Thường –  trích trong Nước Mắt và Hạnh Phúc

Nếu không nghe được Youtube hoặc có vấn đề về kỹ thuật, xin để lại lời nhắn ở mục “Comment” phía dưới, chúng tôi sẽ cập nhật lại đường link Youtube.

MƯỜI ĐIỀU RĂN CỦA LÒNG THƯƠNG XÓT (có Youtube)

Trong số Mười Điều răn, có một điều bắt đầu bằng chữ ‘Giữ’ Giữ ngày Chúa nhật.  Nó nhắc cho chúng ta nhớ về một điều mình đã biết.  Có các giới răn của lòng thương xót ghi sẵn trong DNA của chúng ta. Chúng ta đã biết, nhưng cần phải nhớ rõ ràng hơn.  Đó là gì?

Mười Điều răn của Lòng thương xót

  1. Nhớ rằng lòng thương xót nằm sâu thẳm nhất trong trái tim Thiên Chúa.

Hiếm có điều nào thể hiện yếu tính Thiên Chúa hơn là lòng thương xót.  Lòng thương xót là yếu tính của Thiên Chúa.  Kinh thánh dùng những từ ngữ như trìu mến yêu thương và cảm thương để cố gắng định nghĩa lòng thương xót Chúa, nhưng khái niệm kinh thánh trọng tâm, nắm bắt từ khái niệm hesed của Do Thái, bao hàm một mối quan hệ yêu thương, ôm lấy và tha thứ ngay cả khi và nhất là khi chúng ta không thể vươn đến hay xứng đáng với những gì Chúa ban cho chúng ta.

  1. Nhớ rằng lòng thương xót là yếu tính của mọi tôn giáo.

Bên trong tôn giáo và linh đạo, bên trong mọi đức tin, có ba điều cần phải nằm ở vị trí trọng tâm, là hành đạo đúng hợp, vươn đến người nghèo, và lòng cảm thương.  Xét tận cùng, chúng không đối nghịch nhau, nhưng là những mảnh hỗ trợ của một lòng đạo toàn diện.  Nhưng việc hành đạo và vươn đến người nghèo là sự mở rộng của tình yêu Thiên Chúa chứ không phải của bản ngã con người, chúng cần được căn cứ trên cảm thương, trên lòng thương xót.  Sâu thẳm bên trong mọi tôn giáo là một lời mời: Hãy động lòng thương, hãy thương xót như Thiên Chúa thương xót.

  1. Nhớ rằng tất cả chúng ta luôn mãi cần lòng thương xót.

Thiên đàng sẽ nhảy mừng vì một người có tội ăn năn hoán cải hơn là vì chín mươi chín người công chính.  Liệu Thiên Chúa yêu mến người có tội hơn là người công chính?  Chẳng có ai là công chính.  Đúng hơn là, chúng ta cảm nhận được tình yêu Thiên Chúa rõ ràng hơn khi thú nhận mình là người có tội.  Không một ai trong chúng ta đủ tầm.  Nhưng, như thánh Phaolô đã không ngừng dạy rằng, chúng ta không cần phải đủ tầm.  Đó chính là ý nghĩa của lòng thương xót.  Lòng thương xót dành cho những người không xứng đáng.

  1. Nhớ rằng, khi được nhận lòng thương xót, chúng ta phải thương xót người khác.

Chúng ta chỉ đón nhận và cảm kích lòng thương xót của Chúa và của người khác, khi chúng ta cũng thực hiện lòng thương xót đó với người khác.  Lòng thương xót phải đổ tràn qua chúng ta.  Nếu chúng ta không chuyển lòng thương xót đến với người khác, thì chúng ta sẽ trở nên nuông chiều bản thân và khắc nghiệt với người khác.

  1. Nhớ rằng chỉ có thực hành lòng thương xót mới cho chúng ta tự do.

Đón nhận và trao đi lòng thương xót, là điều duy nhất giải thoát chúng ta khỏi chiều hướng bẩm sinh của mình là mưu cầu bản thân, tự bào chữa cho mình và phán xét người khác.  Không có gì giải thoát chúng ta khỏi bạo chúa bản ngã cho bằng thực hành lòng thương xót.

  1. Nhớ rằng lòng thương xót không mâu thuẫn với công lý, nhưng là thành toàn cho công lý.

Như hồng y Walter Kasper đã nói rất khôn ngoan, “Lòng thương xót là một dạng nước làm mềm vải, xói mòn giáo lý và giới răn, xóa bỏ ý nghĩa trọng tâm và nền tảng của chân lý.”  Đây chính là những gì mà người Pharisiêu cáo buộc Chúa Giêsu.  Lòng thương xót là khi công lý phải nhường bước.

  1. Nhớ rằng chỉ có thực hành lòng thương xót mới làm cho Nước Chúa trị đến.

Chúa Giêsu hứa với chúng ta rằng người hiền lành sẽ thừa hưởng địa cầu, người nghèo sẽ được ăn uống dư dật, và mọi nước mắt sẽ được lau khô.  Chuyện này chỉ có thể xảy ra khi lòng thương xót thế chỗ của tư lợi.

  1. Nhớ rằng lòng thương xót cần phải được thực hành chung.

Sống lòng thương xót trong đời mình mà thôi, thì không đủ.  Lòng thương xót bị đẩy ra ngoài rìa khi xã hội không để tâm đủ đến những con người yếu đuối hay túng quẫn, và cũng bị đẩy ra rìa khi giáo hội xét đoán.  Chúng ta phải tạo một xã hội thương xót và một giáo hội thương xót.  Chỉ mình lòng thương xót mới có thể cho người yếu đuối được sống.

  1. Nhớ rằng lòng thương xót kêu gọi chúng ta làm việc cả mặt thiêng liêng lẫn vật chất.

Đức tin Kitô giáo đòi buộc chúng ta biểu lộ lòng thương xót song song, vừa cụ thể vừa thiêng liêng.  Những việc làm lòng thương xót phần xác kinh điển là: Cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho khách đậu nhà, cho kẻ rách rưới ăn mặc, viếng người bệnh, thăm kẻ tù rạc, và chôn cất kẻ chết.  Những việc thương xót phần hồn kinh điển là: dạy bảo kẻ mê muội, an ủi kẻ âu lo, răn dạy kẻ có tội, tha kẻ dễ ta, nhịn kẻ mất lòng ta, cầu cho kẻ sống và kẻ chết.  Thiên Chúa ban cho chúng ta nhiều ơn khác nhau và tất cả chúng ta đều hơn người khác ở một điểm nào đó, nhưng lòng thương xót thì được biểu lộ trong mỗi một người chúng ta, không chừa một ai.

  1. Nhớ rằng cuộc sống của chúng ta là đối thoại giữa lòng thương xót của Thiên Chúa và sự yếu đuối của con người.

Điều duy nhất làm chúng ta xứng đáng là vì chúng ta bất xứng.  Chúng ta luôn mãi bất toàn, dù cho có mạnh mẽ, chân thành, thiện ý đến đâu chăng nữa.  Chỉ có lòng thương xót, khi đón nhận và trao đi lòng thương xót, chúng ta mới có thể ra khỏi những lo lắng, băn khoăn và vô vị cuộc đời mình.  Chỉ khi biết lòng thương xót, chúng ta mới biết tri ân.

Năm 2016 Đức Giáo hoàng Phanxicô muốn tất cả chúng ta sống một năm của lòng thương xót, để suy ngẫm mầu nhiệm lòng thương xót là “giếng nước niềm vui, thanh thản và bình an.”  Đức Giáo Hoàng tin rằng Lòng thương xót là bí mật để cho thế giới thấy dung nhan đáng tin của Thiên Chúa, gương mặt khả tín của Giáo hội, và để cho chúng ta bước đi vững vàng trong cuộc sống.

Rev. Ron Rolheiser, OMI

Lạy Chúa Giêsu xin ban cho con có lòng thương xót và biết thực hành lòng xót thương như Cha trên trời là Đấng đầy lòng xót thương.  Amen!

Nếu không nghe được Youtube hoặc có vấn đề về kỹ thuật, xin để lại lời nhắn ở mục “Comment” phía dưới, chúng tôi sẽ cập nhật lại đường link Youtube.

NGĂN CẢN (có Youtube)

Trong buổi tối ngày Chúa nhật Phục Sinh, các tông đồ tụ họp trong một căn phòng ở tầng trên, các cánh cửa đều đóng kín.  Trong căn phòng này, tâm hồn các ông đầy nỗi ám ảnh vì sự vắng mặt của Đức Giêsu, và đầy những ký ức đắng cay – ngọt ngào về Người.  Chính tại nơi đây, vị Thầy đã rửa chân cho họ, và cử hành bữa Tiệc Ly với họ.  Nhưng cũng chính tại nơi đây, họ đã thề hứa trung thành với Người, một sự trung thành mà thậm chí ngay trong đêm hôm đó họ đã vi phạm.

Các tông đồ đều bị thương tích theo tính cách cá nhân – do nỗi sợ hãi, hoài nghi, tội lỗi, đau khổ và thất vọng.  Nhưng họ cũng bị thương tích theo tính cách tập thể nữa, bởi vì sự hiệp nhất giữa họ đã bị phá vỡ: có hai người trong số họ vắng mặt, một người bị chết (Giuđa), người kia thì đang bị khủng hoảng đức tin (Tôma).  Giống như tất cả những người đang đau khổ, họ đã tạo ra một hàng rào chung quanh họ.

Đức Giêsu không chờ đợi họ đến với Người.  Người đã đến với họ, trong khi họ vẫn còn đang sợ hãi và đầy tội lỗi (do sự hèn nhát và phản bội của họ).  Bằng một động tác mạnh mẽ, Người đã bẻ gãy hàng rào đó, và đến đứng giữa họ.  Người không la rầy, hoặc thậm chí quở trách họ, vì đã không làm tròn phận sự đối với Người.  Ở đây không hề có cảnh la rầy, buộc tội.  Người biết cảm giác của họ ra sao, do đó, Người không hề đụng chạm vào những vết thương của họ.  Thay vào đó, Người đã mang lại cho họ điều mà họ cần một cách tuyệt vọng.  Người nói với họ “Bình an cho anh em.”  Người nói câu này không chỉ một lần, mà đến hai lần, để đảm bảo rằng câu nói đó thấm sâu vào tâm hồn họ.  Trong khi đón nhận sự bình an của Người, thì họ cũng được đón nhận cả ơn tha thứ nữa.

Đột nhiên, một điều vĩ đại nhất và tuyệt vời của ơn bình an đánh động tâm hồn họ: cái chết, sự dữ, và sự phản bội đã bị chế ngự.  Lòng tốt, tình yêu, sự sống đã chiến thắng.  Đức Giêsu khiêm tốn đã chiến thắng, vượt lên trên tất cả những sức mạnh của sự dữ đã từng dàn hàng chống lại Người.  Một cuộc khởi sự tươi mới có thể diễn ra.  Kết quả là tâm hồn họ được tràn đầy niềm vui.

Phương pháp của Đức Giêsu thật êm dịu.  Nơi Người, không hề có nét khắc nghiệt.  Đức Giêsu khiêm tốn, Đấng chiến thắng vượt lên trên cái chết, đã ban lòng can đảm cho các tông đồ hiện đang bị nghiền nát của Người, chữa lành những vết thương, đổi mới niềm hy vọng của họ, ban sự sống và sức mạnh cho họ.  Từ tình trạng hoàn toàn sụp đổ và thất bại, xuất hiện một nét gì đó mới mẻ một cách dứt khoát. Kết quả là họ không chỉ tin tưởng nơi Đức Giêsu, mà còn có lòng tự tin nữa.  Thật là một niềm vui khi đồng thời vừa được nhận biết, vừa được yêu mến một cách trọn vẹn.

Biến cố Phục sinh không lấy đi nỗi đau khổ, hoặc loại trừ nỗi sợ hãi của chúng ta.  Nhưng sự Phục sinh giới thiệu một yếu tố mới cho cuộc sống, đem lại ý nghĩa và soi sáng cho nỗi đau khổ của chúng ta bằng niềm hy vọng.  Tất cả đều trở nên khác biệt, bởi vì Đức Giêsu đang sống động và nói những lời nói ban bình an cho chúng ta, giống như Người đã từng nói với các tông đồ.  Khi bị sa ngã vì những thử thách và cám dỗ, chúng ta có thể rút ra được lời động viên từ câu chuyện các môn đệ của Đức Giêsu, tất cả họ đều đã từng bị sa ngã trong suốt cuộc khổ nạn của Người.

Do đó, giữa chúng ta có một niềm vui âm thầm và một cảm giác an bình, bởi vì chúng ta biết rằng sự sống mạnh mẽ hơn cái chết.

Sưu tầm

*********************

Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh,
Xin ban cho con sự sống của Chúa, sự sống làm đời con mãi mãi xanh tươi.

Xin ban cho con bình an của Chúa, bình an làm con vững tâm giữa sóng gió cuộc đời.
Xin ban cho con niềm vui của Chúa, niềm vui làm khuôn mặt con luôn tươi tắn.
Xin ban cho con hy vọng của Chúa, hy vọng làm con lại hăng hái lên đường.
Xin ban cho con Thánh Thần của Chúa, Thánh Thần mỗi ngày làm mới lại đời con.

Nếu không nghe được Youtube hoặc có vấn đề về kỹ thuật, xin để lại lời nhắn ở mục “Comment” phía dưới, chúng tôi sẽ cập nhật lại đường link Youtube.