Một cuốn phim mang tựa đề “Thế Giới Trong Tăm Tối” diễn tả câu truyện về một nhà khảo cổ danh tiếng tổ chức một cuộc khai quật khoa học ở Giêrusalem.
Ngọn đồi Golgotha được cẩn thận đào bới, kể cả những phiến đá và các hang động của một nghĩa trang bên cạnh cũng được thăm dò khám xét kỹ lưỡng. Vì theo Tin Mừng Thánh Gioan, xác của Chúa Giêsu được chôn cất trong một phần mộ gần nơi Ngài bị án tử hình Thập giá. Sau bao công khó đào bới khám xét, một ngày kia nhà khảo cổ tuyên bố: “Tôi đã tìm được xác ông Giêsu.” Rồi ông tổ chức một cuộc họp báo rầm rộ, quy tụ hàng trăm ký giả, và nhiếp ảnh viên đến để trình bày kết quả mỹ mãn của bao ngày tháng đào bới khảo cứu vất vả. Ông đã trưng dẫn trước mặt mọi người một xác người đã khô đét, nhưng còn có thể nhận ra là tay chân của xác người này bị đâm thủng, cạnh sườn bị đâm thâu và cả những dấu chứng tỏ thân xác ấy bị nhuốm máu qua những vết in trên tấm khăn liệm xác.
Cuốn phim quay lại cảnh mọi người im lặng theo dõi bài thuyết trình của nhà khảo cố. Tình cờ có một phụ nữ phát biểu lớn tiếng: “Đây là sự thật hiển nhiên. Ông ta bị đóng đinh, đã chết và đã được táng xác” và nhà khảo cổ tiếp lời: “Vâng, đúng thế, bị đóng đinh, chết và được an táng. Nhưng làm gì có chuyện Phục Sinh, bởi vì xác ông ta vẫn còn nằm đây.”
Tiếp đến, cuốn phim diễn tả hậu quả của cuộc tìm được xác ông Giêsu:
– Không ai còn mừng lễ Phục Sinh nữa.
– Một linh mục tắt đèn Nhà Chầu, cất Mình Thánh Chúa và đóng cửa nhà thờ.
– Chuông các thánh đường im tiếng.
– Các nữ tu cởi khăn trùm đầu.
– Thánh giá tại nhiều nơi bị hạ xuống.
– Đèn bên những ngôi mộ bị dập tắt.
– Thế giới chìm đắm trong màn đêm u tối dày đặc.
Cuốn phim kết thúc với cảnh chính nhà khảo cổ đang hấp hối. Trước khi trút hơi thở cuối cùng, ông ta đã thú nhận: “Tôi đã đánh lừa thế giới. Chính tôi đã làm giả xác của ông Giêsu và bí mật đặt vào trong mộ mấy năm trước khi khởi sự cuộc đào bới tìm kiếm này.”
Sau lời tuyên bố đó là cảnh hàng ngàn người tuôn đến ngôi mộ thánh ở Giêrusalem như chúng ta chứng kiến hàng năm trong Tuần Thánh. Những ngọn nến được thắp lên và các tín hữu mang những ngọn nến được thắp sáng, ngọn nến của niềm hy vọng đi khắp nơi soi sáng con đường tăm tối. Chuông các nhà thờ ngân vang như báo tin Chúa Giêsu đã Phục Sinh: Tình yêu mạnh hơn tội lỗi. Sự sống mạnh hơn cái chết.
Anh chị em thân mến, câu truyện phim giả tưởng trên đây mang sứ điệp của lễ Phục Sinh mà những người Kitô hữu chúng ta tưởng niệm và mừng kính hôm nay. Đó là cuộc Phục Sinh của Chúa Giêsu không chỉ liên hệ đến cuộc đời của Ngài mà còn trực tiếp liên quan đến vận mạng của toàn thể nhân loại cũng như ảnh hưởng mật thiết đến cuộc sống, niềm tin và hy vọng của tôi cũng như của anh chị em. Vì, nếu Chúa Kitô không sống lại thì chúng ta vẫn còn mang tội lỗi trong mình và không ai giải cứu được chúng ta, không ai đem chúng ta đến gặp Thiên Chúa được. Nếu Chúa Kitô không sống lại, chúng ta sẽ là kẻ vô phúc nhất, ngu đần nhất, vì chúng ta đặt tin tưởng vào một chuyện hão huyền. Nếu Chúa Kitô không sống lại, thì thập giá chỉ là dấu hiệu của ô nhục, những đau khổ của con người không có lối thoát và cái chết của con người là ngõ cụt, là đường cùng.
Nhưng Chúa Kitô đã sống lại. Ngài đã cho chúng ta niềm hy vọng. Ngài đã đem theo những đau khổ của loài người qua bên kia bờ tuyệt vọng, làm cho những quằn quại của kẻ sắp bị cái chết tiêu diệt, nhưng là nỗi đau của người mẹ đang sinh con, nỗi đau làm phát sinh sự sống mới. Chúa Giêsu sống lại, Thập giá không còn là dấu hiệu của ô nhục, nhưng là dấu hiệu của vinh quang.
Mừng Chúa sống lại, người Kitô hữu cũng mừng sự sống lại của chính mình bằng cách đổi mới cách sống của mình, như Thánh Phaolô đã kêu gọi: “Nếu anh em sống lại với Đức Kitô, anh em hãy nghĩ đến những sự trên trời chứ đừng nghĩ đến những sự dưới đất.” Đây không phải là lời khuyên xa lánh các thực tại trần thế. Trái lại, đây là lời mời gọi mỗi người Kitô hữu hãy tìm và thể hiện những giá trị mới của cuộc sống mà Chúa Giêsu đã mạc khải qua các giáo huấn, qua cuộc sống cũng như cái chết của Ngài.
Một em bé nọ thường nghe mẹ em buột miệng thốt lên: “Chúa đã sống lại, ta hãy vui lên!” Mỗi khi gặp điều gì khó khăn trong cuộc sống, bà tự nhủ: “Chúa đã sống lại, hãy vui lên!” Bà thường tự nhủ trong lòng, nhưng khi bà thốt lên thành tiếng, con trai bà cũng nghe được. Em bé bắt chước mẹ, em thốt lên câu đó mỗi khi em gặp điều bất bình, khi bạn bè chơi xỏ, khi gặp điều không được như ý… Và thú thật, khi thốt lên câu: “Chúa đã sống lại, ta hãy vui lên!” thì em bình thản trở lại. Hành động của bà mẹ và em bé kia nói lên cố gắng sống niềm vui Phục Sinh một cách cụ thể, chuyển tải một chân lý nền tảng nhất của đạo Kitô vào trong cuộc sống hằng ngày, qua đó, biểu lộ niềm tin và hy vọng. Tình yêu mạnh hơn tội lỗi. Sự sống mạnh hơn cái chết.
Người Kitô hữu mừng Chúa sống lại cũng được mời gọi làm chứng cho niềm tin về sự sống mới này. Chúa Kitô đã chết và đã sống lại vì chúng ta, chính là để chúng ta không còn sống cho mình nữa, không còn khư khư giữ lấy mạng sống, giữ lấy sự an toàn ích kỷ cho mình, nhưng là sống cho Chúa và như Chúa, hoàn toàn vì Thiên Chúa và cho mọi người. Ước chi Thánh lễ Phục Sinh hôm nay cũng như Thánh lễ mỗi ngày Chúa Nhật giúp chúng ta thực thi cụ thể trong cuộc sống lời chúng ta tuyên xưng: “Chúng con loan truyền Chúa đã chịu chết. Chúng con tuyên xưng Chúa đã sống lại. Chúng con đợi chờ ngày Chúa quang lâm.”
R. Veritas (Trích trong “Niềm Vui Chia Sẻ”)
Nếu không nghe được Youtube hoặc có vấn đề về kỹ thuật, xin để lại lời nhắn ở mục “Comment” phía dưới, chúng tôi sẽ cập nhật lại đường link Youtube.
Thánh Giá – Tình yêu của Thiên Chúa trong đời người.
Theo thánh Gioan, cái chết của Chúa Kitô, trước hết là sự tôn vinh chính Chúa Kitô, tôn vinh tình yêu của Người, một tình yêu hiến dâng mạng sống, một tình yêu chết thay cho người mình yêu, một tình yêu tự hiến thành tấm bánh nuôi sống người mình yêu, một tình yêu tự nguyện trở thành lễ tế hiến dâng Thiên Chúa…
Kế đến là vừa thể hiện, vừa tôn vinh tình yêu của Thiên Chúa, một tình yêu tràn trề, một tình yêu mạnh mẽ, một tình yêu thôi thúc “đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ” (Ga 3, 16-17).
Còn thánh Phaolô lại nhận ra chính cái chết của Chúa Kitô là sức mạnh giải thoát con người: Chính nhờ Chúa Kitô tử nạn và phục sinh mà “ơn tha tội được loan báo cho anh em; và trong khi anh em không thể được giải thoát khỏi tội lỗi mà trở nên công chính nhờ giữ luật Môsê, thì nhờ Người, mọi kẻ tin đều được nên công chính” (Cv 13, 39).
Trong thư gởi tín hữu thành Philipphê, thánh Phaolô còn nói rõ hơn sự được tôn vinh của Chúa Kitô: “Thiên Chúa đã siêu tôn Người, tặng ban Danh hiệu vượt trên mọi Danh hiệu. Và khi nghe Danh Thánh Chúa Giêsu, mọi gối phải bái quỳ để tôn vinh Chúa Cha và tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa” (Pl 2, 10-11).
Như vậy, cùng xác tín với hai tông đồ Gioan và Phaolô, chúng ta khẳng định, nơi Thánh Giá, Thiên Chúa đã biểu lộ tình yêu tuyệt đỉnh của mình.
Đó là tình yêu không cùng của Thiên Chúa Cha hiến dâng Con Một. Đó là tình yêu quyết hy sinh của Thiên Chúa Con để hiến dâng chính mình. Đó là tình yêu tràn đầy sức mạnh của Thiên Chúa Ngôi Ba làm biểu lộ đến vô cùng, khắc sâu đến vô cùng lòng đại lượng của Đấng Chí Thánh là Tình Yêu. Đấng chịu đóng đinh là Đấng được tôn vinh. Thánh Giá, phương tiện treo thân Đấng chịu đóng đinh, ngàn đời xứng danh Thánh Giá Cứu Độ.
Vì thế, không có bất cứ nơi nào, không có bất cứ lối đường nào, ngoài Thánh Giá, mà chính Thiên Chúa, chính tình yêu của Thiên Chúa được tôn vinh. Bởi chỉ nơi Thánh Giá, nơi Đấng chịu đóng đinh, tình yêu tuyệt đỉnh của Thiên Chúa, khuôn mặt rạng ngời lòng xót thương tha thứ của Thiên Chúa được biểu lộ trọn vẹn, mạnh mẽ, vững bền.
Thánh Giá là sự khôn ngoan và quyền năng của Thiên Chúa. Bởi “Sự điên rồ nơi Thiên Chúa thì khôn ngoan hơn loài người, và sự yếu đuối nơi Thiên Chúa thì mạnh sức hơn loài người” (1Cr 1, 24 -25). Thánh Giá đã trở thành dấu chỉ của tình yêu hy vọng và sự sống. Thánh Giá là biểu tượng của Tình Yêu cứu độ. Thánh giá là niềm tự hào và vinh quang của người tín hữu. Thánh Phaolô có một ước muốn: “Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá Đức Giêsu Kitô” (Gl 6,14).
Cái chết của Chúa Giêsu trên Thánh Giá, minh chứng rằng, Người yêu thế gian hơn yêu chính mình. Cái chết ấy còn chứng tỏ, tình yêu Thiên Chúa dành cho ta là thứ tình ở dạng thức cao nhất: Yêu đến tận cùng. Yêu đến tự hiến trọn vẹn. Yêu chấp nhận hiến tế. Yêu chấp nhận hy sinh chỉ vì ích lợi của kẻ khác.
Thánh Giá in sâu vào và gắn chặt với Chúa Giêsu Kitô. Ngay cả sau phục sinh, những thương tích khổ nạn, dấu vết đớn đau của Thánh Giá vẫn hiển hiện, vẫn không bị xóa nhòa. Thánh Giá băng qua lịch sử, xuyên qua thời gian. Nó còn tiếp tục trải dài và hiện diện trong mỗi giây phút cuộc đời chúng ta. Ta yêu mến, tôn thờ Chúa Giêsu trên Thánh Giá. Sự yêu mến và tôn thờ ấy, dẫn ta đến việc tự nguyện đón nhận thánh giá của đời mình, hợp làm một cùng Thánh Giá Chúa, bước theo Chúa, sống như Chúa suốt hành trình dương thế.
Trong xã hội tiêu thụ và hưởng thụ ngày nay, bóng tối của quyền lực, tiền của, danh vọng, lạc thú như che mờ bóng Thánh Giá. Con người lao mình vào bóng tối bằng mọi giá. Xã hội hôm nay cần phải được ánh sáng của Thánh Giá soi dẫn. Từ Thánh Giá Chúa Kitô, tuôn trào tình thương chúc phúc thế gian, sự sống chan chứa cho lòng người.
Bởi thế, suy tôn Thánh Giá chính là suy tôn tình yêu, sự sống của Chúa Kitô. Đó cũng là dịp giúp ta ý thức tình yêu, sự sống ấy đang đồng hành với mình, với cuộc đời của từng con người. Nhờ ý thức, ta không dám trôi theo những cám dỗ của thế gian, không dám đánh mất mình cho những “trái cấm” thế tục…
Để hiểu Thánh Giá Chúa Giêsu.
Trước khi mạc khải về ý nghĩa của mầu nhiệm Thánh Giá, Chúa Giêsu nhắc ông Nicôđêmô về nguồn gốc thần linh của mình: Người là Con Thiên Chúa: “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống.”
Tự nó, thập giá là sự độc ác, sự thua bại đến nghiệt ngã của lòng yêu thương nơi loài người. Nó cũng chính là thực tại đau buồn do con người tạo ra để giết nhau sao cho tàn bạo nhất, rùng rợn nhất. Nhưng để hiểu trọn vẹn ý nghĩa của nó, dù ở bất cứ thời đại nào, loài người phải “đóng đinh” Con Thiên Chúa vào đó.
Bởi chỉ có thể hiểu mầu nhiệm thập giá trong cái nhìn “từ trên cao”, trong cái nhìn của Thiên Chúa – Đấng muốn và đã sai Con Một mình xuống trần gian chịu chết treo trên thập giá – để biến dấu chỉ của sự trừng phạt thành dấu chỉ của tình yêu cứu rỗi. Biến thập giá thành Thánh Giá, biểu tượng của tình yêu chiến thắng mà chúng ta tôn thờ.
“Như Môsê treo con rắn nơi hoang địa thế nào, thì Con Người cũng sẽ bị treo lên như vậy, để ai tin vào Người, thì không bị tiêu diệt muôn đời.” Qua câu chuyện với ông Nicôđêmô, Chúa muốn con người nhìn về thập giá “từ trên cao” theo cái nhìn của chính Chúa. Lúc đó, con người sẽ khám phá ra, Thiên Chúa dùng Thánh Giá để mạc khải tình yêu thần linh, để hòa giải con người với Thiên Chúa và với nhau.
Như lời mời gọi của Chúa dành cho ông Nicôđêmô, cần phải “đặt” Con Thiên Chúa vào Thánh Giá, cần phải “treo” Con Thiên Chúa lên Thánh Giá, để con người hiểu được ý nghĩa của Thánh Giá. Thánh Giá mạc khải cho con người biết tình yêu và sự tha thứ của Thiên Chúa, nhưng đồng thời cũng là dấu chỉ sự khước từ của con người đối với Thiên Chúa, là dấu chỉ sự thù ghét của con người đối với con người.
Nhưng lại là dấu chỉ rõ rệt cho thấy con người say mê quyền hành và danh vọng, muốn làm mọi cách để loại bỏ đối thủ của mình như những người Pharisêu ngày xưa đã dùng thập giá để loại bỏ Chúa Giêsu, Đấng đang lôi kéo dân chúng bỏ họ mà theo Chúa. Cũng có nghĩa là các Pharisêu không muốn chứng kiến việc Chúa đang lôi kéo lòng dân bước ra từ thế giới của tà tâm đến thế giới chính tâm. Họ tức tối. Họ dùng thập giá hòng tiêu diệt Ánh Sáng của trần gian.
Mỗi người Kitô hữu hôm nay, hãy kiểm điểm lại thái độ của mình đối với Thánh Giá Chúa. Phải chăng Thánh Giá Chúa đã bị tục hóa, bị chúng ta biến trở thành món trang sức để khoe của, để củng cố địa vị, để lường gạt anh chị em?
Chúng ta làm dấu thánh giá trên mình, chúng ta mang dấu thánh giá trên áo, trên cổ nhưng chúng ta đã sống ý nghĩa của thập giá như Chúa đã mạc khải như thế nào?
Thập giá đời và Thánh Giá phúc.
Đức Thánh Cha Phaolô VI đã nói: Không thể có một Kitô giáo mà không có đổ máu. Đổ máu là dấu hiệu của chết chóc, của thất bại. Việc đổ máu của Chúa Kitô, trước mặt người đời, trước tất cả mọi phù phiếm của thế gian mang vỏ bộc khôn ngoan, tiến bộ, văn minh…, cũng chỉ là một thất bại lớn, một sự bị đốn ngã nhục nhã.
Nhưng dưới dòng lịch sử của ơn Thánh – một dòng lịch sử chỉ có thể khám phá bởi lòng tin, bởi sự đơn thành, bởi cái nhìn thoát tục không bao giờ bị rào, bị cản của tiến bộ, của văn minh mà con người theo đuổi – việc đổ máu của Chúa Kitô là sự tôn vinh Thiên Chúa và là ơn cứu độ vĩnh cửu của loài người.
Đó cũng là niềm sung sướng của Hội Thánh, bởi không chỉ trong ngày đổ máu của Chúa Kitô là ngày Hội Thánh đã được khai sinh, mà còn là ngày mà Hội Thánh sung sướng tiến vào cuộc sống mới của Thiên Chúa, được sống bằng chính sự sống của Thiên Chúa.
Càng suy niệm, chúng ta thấy nơi Thánh Giá, Chúa như tóm gọn cả một hành trình dài của con người đầy trắc trở, đầy mâu thuẫn, đầy xót xa, biến động. Và những gì diễn ra nơi Thánh Giá cũng như nơi cuộc đời con người vừa như tương tác lẫn nhau, vừa như hoàn toàn đối nghịch nhau.
Thánh Giá như tóm gọn hành trình của một kiếp người, như đang diễn tả toàn bộ mọi trạng thái của kiếp nhân sinh đang trải qua: Yêu thương và thù hận, thành công và thất bại, hy vọng và thất vọng, tin tưởng và sợ hãi, tự do và trói buộc, trung thành và phản bội, hạnh phúc và đau khổ, sự sống và giết chóc…
Đặc biệt, mỗi khi dừng lại ở từng chặng Đường Thánh Giá, Hội Thánh mời gọi mỗi người, không chỉ làm dấy lên trong tâm hồn một cảm xúc đối với cuộc khổ nạn, mà còn là ý thức hồng ân đã được lãnh nhận qua Đường Thương Khó, qua cây Thánh Giá của Chúa Giêsu, và qua đau khổ là mỗi cây thánh giá trong đời mỗi con người, để xây dựng thế giới tốt đẹp bằng cách mang tình yêu vào giữa lòng thế giới, làm cho con người được sống và sống dồi dào.
Chính vì sự liên quan mật thiết giữa Thánh Giá và những gì diễn ra trong đời người, cho ta hiểu rằng, cuộc sống hôm nay không tách rời Thánh Giá. Thánh Giá sẽ biến cuộc sống thành hoa quả ngày mai trong hạnh phúc vĩnh cửu. Bởi Thánh giá bao trùm trên cuộc sống hôm nay, nên ta tin tưởng, giá trị cuộc sống không là những thực tại trần gian nhưng là thực tại Nước Trời.
Chính nơi đó mới là quê hằng sống. Chính nơi đó mới là quê bình yên. Chính nơi đó mới là quê của niềm hy vọng. Chỉ có nơi quê Trời ấy, ta mới thực sự thoát ly bất trung và bội phản, oán ghét và thù hận.
Sẽ không bao giờ còn giết chóc, lừa lọc, gian dối. Sẽ tiêu tan hết những áp bức, những chà đạp, những độc ác… Và lúc đó, công lý được giương cao, hòa bình được trao tặng, sự thật được hoàn lại cho những ai đã từng bị cuộc sống hôm nay giày vò, ức hiếp.
Bởi đó là Nước mà lòng xót thương của Thiên Chúa ngự trị. Mọi người là anh chị em có Thiên Chúa là Cha chung. Nước mà giờ đây Thánh giá đã chiến thắng. Chúa Kitô sẽ giương cao ngọn cờ Thánh Giá như biểu tượng của một tình yêu tuyệt đỉnh, của một sự bình an không cùng mà chính Người đã đi qua cuộc đời này và nay trao lại cho chúng ta trong Nước hằng sống.
Cha Hoàng Kim để lại một bài Thánh Ca thường được hát trong Tuần Thánh, ai hát lên cũng thấy bàng hoàng xúc động:
“Thập giá ngất cao ở trên thế gian này Ôi hỡi thập giá chúa Giêsu. Từ nơi Thánh Tâm yêu thương Ngài, Sông ơn thiêng khơi nguồn chan hòa, Qua ngươi máu cứu độ chảy xuống nơi đây. Ôi hỡi thập giá Chúa Kitô”.
“Thập giá ngất cao ở trên thế gian này, ôi hỡi Thập Giá Chúa Giêsu!” Vâng! thập giá ở đâu mà chẳng có. Mấy chữ “ngất cao ở trên thế gian” vừa như muốn nói lên chiều cao, vừa như cho thấy chiều rộng, vừa như là sự cao cả, quý giá, nhưng cũng nặng nề, lo sợ.
Và Giữa một rừng thập giá của kiếp nhân sinh, lại thấy nổi lên, lại thấy “ngất cao” cây Thánh Giá của Chúa chúng ta. Thánh Giá của Chúa ngất cao là để tỏa bóng, để lôi kéo, để đỡ nâng, để thánh hóa tất cả mọi cây thập giá đời.
Vâng! Thập giá lúc nào mà không có, không mời gọi. Dù run rẩy khi đón nhận, nhưng có ai thoát khỏi thập giá? Thập giá là một người bạn không ai chờ đợi, nhưng nó vẫn cứ đến, vẫn cứ đồng hành trên suốt chặng đường đời của mỗi con người.
Là Kitô hữu, chúng ta hạnh phúc, vì thập giá của chúng ta đong đầy ý nghĩa. Chúng ta biết, thập giá đời mình được tháp nhập, được lồng trong Thánh Giá Chúa Kitô. Thập giá đời dẫu có “ngất cao ở trên thế gian này”, thì mãi mãi vẫn còn đó Thánh Giá Chúa Kitô soi bóng, chiếu sáng ý nghĩa, lan tỏa hạnh phúc, như mặt trời soi vào từng ngõ ngách của trần thế.
Cây thập giá được Chúa Giêsu chọn để làm nơi phó dâng linh hồn trong tay Chúa Cha đã trở nên một báu vật của nhân loại và được gọi là Thánh Giá sau khi Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết và lên trời vinh hiển.
Thiên Chúa đã thánh hóa cây thâp tự: từ một dụng cụ độc ác tàn nhẫn của con người thành công cụ của tình yêu thương, tha thứ. Từ biểu tượng của sự chết đã trở thành biểu tượng giải thoát con người khỏi phải án chết đời đời. Từ sự ô nhục, điên rồ và ngu xuẩn trở nên chiến thắng vinh quang của Đức Kitô.
Người Kitô hữu luôn kính mến và tôn xưng cây thập giá đồng hành với Chúa Giêsu trên đường lên núi Sọ là Thánh Giá. Chúng ta thường đọc trước mỗi chặng đàng Thánh Giá: “Chúng con thờ lạy và ngợi khen Chúa Kitô, vì Chúa đã dùng Thánh Giá mà chuộc tội cho thiên hạ”, thường làm dấu Thánh Giá trước khi cầu nguyện, thường ghi dấu Thánh Giá lên thân mình trước và sau khi dùng bữa, thường ghi dấu Thánh Giá trước bất cứ một nghĩa cử đạo đức nào…, chúng ta thực sự hãnh diện, vui mừng vì Thánh Giá vinh quang của Chúa Giêsu trong chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa:
Vinh quang của ta Là Thánh Giá Đức Kitô Nơi Ngài, ơn cứu độ của ta Sức sống của ta Phục sinh của ta Nhờ Chúa ta được cứu độ Nhờ Chúa ta được giải thoát.
Vậy chúng ta hãy chạy đến với Chúa Giêsu vì chính Người là nguồn sức mạnh duy nhất có thể nâng đỡ và thêm sức cho chúng ta vác thập giá: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng.” (Mt. 1,28).
Xin Chúa ngự trị và cùng vác thập giá với từng người hàng ngày. Nếu ta mang vác những gánh nặng, những trách nhiệm, những lo toan hàng ngày một mình thì sức nặng của cây thập giá đời mình sẽ càng nặng, càng đau đớn, càng u uất… Nhưng nếu ta ngã mình vào Thánh Giá Chúa Giêsu, xin Người đồng hành với, thập giá đời ta, vẫn là thập giá ấy thôi, vẫn nặng nề, vẫn khổ đau, vẫn u uất, sẽ được biến đổi thành những cây Thánh giá phúc, có tình yêu của Chúa, có ơn cứu độ của Chúa, có sức mạnh của Chúa, có sức sống phục sinh của Chúa.
Mãi mãi thập giá không nhẹ. Nhưng tình yêu Thánh Giá sẽ làm thập giá dễ chịu hơn, và chan đầy ý nghĩa.
Lm. JB Nguyễn Minh Hùng
Nếu không nghe được Youtube hoặc có vấn đề về kỹ thuật, xin để lại lời nhắn ở mục “Comment” phía dưới, chúng tôi sẽ cập nhật lại đường link Youtube
Chương 13 của Tin Mừng thánh Gioan là khúc ngoặt của sách Phúc âm này. Bởi lẽ nó kết thúc phần một, quen gọi là “sách các dấu lạ.” Chúa Giêsu chấm dứt sứ vụ công khai của Ngài. Bây giờ chúng ta bước vào phần thứ hai, tựa đề là: sách vinh quang từ chương 13 đến chương 17. Từ then chốt của phần này là “yêu thương.” Ngài sẽ kêu gọi các môn đệ của Ngài vào vương quốc đó và bày tỏ cho họ biết tình yêu thương nào mà Ngài nghĩ tới khi Ngài hiến dâng thân mình cho họ, cho nhân loại. Ngài là hạt lúa rơi xuống đất, chết đi và mang nhiều hoa trái như chính Ngài đã tiên báo ở Chúa Nhật V mùa Chay (Năm B).
Câu mở đầu của Tin Mừng hôm nay (Ga 13,1) liên kết giờ cuối cùng của Chúa Giêsu với biến cố vượt qua. Do đó có sự lựa chọn bài đọc thứ nhất từ sách Xuất hành, đoạn nói về trình thuật Vượt Qua nguyên thủy. Chúa Giêsu sẽ tắt thở vào chính lúc con chiên Vượt Qua chịu sát tế làm lễ toàn thiêu trong đền thờ. Đây là một sự tiên báo, sẽ có biến cố trọng đại thê thảm xảy ra cho Ngài vào giờ này. Giờ Ngài đã chờ đợi từ lâu để làm đầy đủ ý nghĩa “vượt qua.” Máu chiên bôi lên khung cửa nhà các người Do Thái ở Ai cập để cứu họ thoát tay Thiên Thần chinh phạt. Cũng thế, máu con chiên vẹn toàn Giêsu cũng cứu chữa toàn thể nhân loại khỏi chết vì tội lỗi. Ngài cúi xuống rửa chân cho các Tông đồ không chỉ nêu gương sáng cho chúng ta. Những điều Ngài làm khởi sự từ giây phút này đều có quyền năng cứu chữa nhân loại khỏi áp lực của tội lỗi trên cuộc đời họ.
Rửa chân là một phần không thể thiếu của lòng hiếu khách trong văn hóa Do thái. Đường sá ở đó rất bụi bặm. Các khách đến thăm hay đến dự bữa đều phải được rửa chân cho sạch trước khi bước vào nhà.
Thường thường công việc này dành cho thành viên trẻ nhất của gia đình, hay cho đầy tớ hoặc nô lệ hèn hạ nhất của chủ nhà. Chúa Giêsu đảo lộn và bẻ gãy tục lệ đã được duy trì bao đời nay trong xã hội. Đó là điểm quan trọng gây ngạc nhiên cho mọi người có mặt, kể cả các Tông đồ. Giữa bữa ăn, Ngài đứng dậy, tự mình làm công việc rửa chân! Nghĩa là giờ của Ngài đã đến gần, chỉ trong giây phút nữa. Cho nên Ngài đã hạ mình đến tột độ, dốc hết cái tôi của Ngài đi, ngõ hầu dễ dàng chấp nhận Thánh ý Đức Chúa Cha. Ngài bắt đầu chết. Cuộc sống mới của nhân loại sắp ló dạng. Trong cuộc sống này, cộng đồng nhân loại đã có một dấu hiệu chỉ dẫn, mà hành động bất ưng của Chúa Giêsu ngụ ý. Đó là mọi người phải trở thành “kẻ rửa chân,” làm đầy tớ cho những người nghèo khổ, thiếu thốn trong cộng đồng. Tuy nhiên, việc làm của Chúa Giêsu còn mang nhiều ý nghĩa hơn nữa.
Tại sao ông Phêrô từ chối để Chúa rửa chân cho? Ông thừa hiểu việc rửa chân là truyền thống, và ý nghĩa của nó ra sao. Ông có đủ can đảm theo gương Chúa không? Ông không phải là một gã ngốc nghếch, dại khờ. Ông theo Chúa với một mục tiêu đầy tham vọng. Lúc này ông đang bị ngỡ ngàng vì hành động của Chúa, ông chưa dám chấp nhận số phận tệ hại như thế: Làm đầy tớ thiên hạ. Ông chưa sẵn sàng để mọi người hạ nhục. Bị nhục nhã trước công chúng chưa phải là tư tưởng của ông. Ông chưa chấp nhận cho nên ông từ chối để cho Chúa rửa chân.
Nhưng Chúa Giêsu đòi hỏi là Ngài phải rửa chân cho ông. Ông phải học bài học khiêm nhu của Ngài, bằng không, ông sẽ không được dự phần vào “gia sản” của Ngài. Gia sản ấy là cuộc sống mới, tư tưởng mới, thái độ mới, là tình yêu của Chúa Cha, là bác ái với mọi người mà việc rửa chân cho nhau là dấu chỉ. Gia sản ấy là cộng đồng mới, ngôi nhà mới có Chúa Giêsu cư ngụ. Phêrô với ơn Chúa Thánh Thần, nhận ra lời dạy bảo của Chúa, và ông đã chấp nhận.
Tuy nhiên, Chúa không đòi hỏi Phêrô phải có một cuộc tắm rửa toàn diện mà chỉ cần rửa chân khỏi những bụi bặm bên đường. Sau này, các tín hữu của Chúa trên hành trình qua cuộc sống trần gian, cũng vương nhiều bụi bặm. Cuộc thanh tẩy toàn thể không cần thiết nữa (tức không cần rửa tội lại) mà chỉ cần bí tích Hòa Giải, để có thể đồng bàn với Thiên Chúa tình yêu. Suy rộng ra, Hội Thánh luôn phải thanh tẩy mình, làm cho mình được đổi mới luôn, trong sạch luôn để xứng đáng tham dự lễ Vượt Qua với Chúa Kitô.
Sự kiện xảy ra tại bàn ăn, lệnh truyền yêu thương cũng được ban ra tại bàn ăn. Thế thì bàn tiệc Thánh Thể luôn luôn là đề tài để chúng ta suy nghĩ. Bàn ăn phải là nơi chúng ta tha thứ cho nhau, phục vụ nhau tẩy sạch mọi bụi bặm trần gian để có thể đón nhận giới răn mới của Chúa.
Thực ra, về hình thức, giới răn này chẳng có chi mới. Nhưng nội dung của nó thì hoàn toàn mới, và đã trở nên giới răn riêng của Chúa Giêsu, là dấu hiệu để thế gian nhận biết chúng ta là môn đệ của Ngài. Thực ra, yêu thương đối với Chúa Giêsu cực kỳ quan trọng đến nỗi Ngài phải làm gương, trước khi ban ra lệnh truyền, bởi Ngài biết rõ chỉ nhờ yêu thương mà thế gian sẽ được cải tạo, được đổi mới.
Thánh Gioan viết trình thuật này cho cộng đoàn của ngài trong tình hình rất cụ thể của cộng đoàn đó. Vậy thì mục tiêu của ngài là gì? Ngài nhắm đạt tới điều chi? Có lẽ sau khi chịu phép Thánh tẩy, trở lại với Chúa Giêsu, đã có nhiều điều xảy ra cần được tẩy rửa, sửa chữa. Đúng như tình trạng của các giáo xứ chúng ta ngày nay. Thánh Gioan đã dùng ngòi bút của mình mà thôi thúc mọi phần tử trong cộng đoàn tha thứ cho nhau, làm tôi tớ cho nhau, để có thể cùng nhau mừng lễ vượt qua. Thế thì các giáo xứ, các cộng đoàn tín hữu, tu trì ngày nay có cần lời khuyên nhủ của thánh nhân để cũng có thể cử hành lễ Vượt Qua của Chúa Giêsu không ?
Lễ Vượt Qua này bắt đầu bằng nghi thức rửa chân, hạ mình ra không để đón nhận thánh ý Chúa, mà thánh ý Chúa là yêu thương. Thì chúng ta không thể nào làm khác được. Bữa tiệc Mình Máu Thánh Chúa cử hành hằng ngày tại các giáo xứ, các cộng đoàn cũng phải bắt đầu bằng nghi thức rửa chân, xin lỗi nhau và tha thứ cho nhau. Chỉ khi nào chúng ta thành thực trong tâm hồn, ngoài cử chỉ thực hiện nghi thức này, lúc đó mới xứng đáng được Chúa ngự vào lòng. Amen.
Fr. Jude Siciliano, OP
Nếu không nghe được Youtube hoặc có vấn đề về kỹ thuật, xin để lại lời nhắn ở mục “Comment” phía dưới, chúng tôi sẽ cập nhật lại đường link Youtube.
Thứ Sáu Tuần Thánh, từng là một chuyện xấu trước khi là một chuyện tốt lành, ít nhất là từ góc nhìn bên ngoài. Thiên Chúa bị đóng đinh vì mọi thứ xấu xa trên thế giới, là kiêu ngạo, ghen tỵ, bất tín, tổn thương, tư lợi, tội lỗi. Không phải ngẫu nhiên mà Phúc âm bảo chúng ta rằng khi Chúa Giêsu trút hơi thở cuối cùng, bầu trời u ám ngay chính ngọ. Khi Chúa Giêsu treo trên thập giá, dường như ánh sáng chuyển thành bóng tối, tình yêu chuyển thành thù hận, và sự sống chuyển thành sự chết. Như thế có gì là tốt?
Hơn nữa, khi hấp hối, dường như Chúa Giêsu không còn thần thiêng, quyền lực và không thể kiểm soát mọi thứ kể cả những chuyện trong thế giới, lẫn những gì diễn ra trong lòng Ngài. Thế giới dường như chìm vào bất tín, và trong Tin Mừng, Chúa Giêsu, Thiên Chúa nhập thể, dường như chìm vào một hoài nghi bất định, một nỗi hoang mang cực độ đến nỗi thốt lên: “Lạy Chúa, lạy Chúa, sao Chúa bỏ con.” Chuyện gì đang xảy ra thế này? Như thế có gì là tốt?
Để hiểu chuyện gì đã xảy ra trong ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, chúng ta cần phân biệt giữa những gì diễn ra bề ngoài và những gì diễn ra thâm sâu.
Bề ngoài là một chuyện tồi tệ và không thể nào gọi là tốt đẹp được. Những người mộ đạo thành tâm, vì yếu đuối và sợ hãi đã bỏ đi điều tốt đẹp nhất trong mình, và hoặc góp phần khiến Chúa Giêsu bị hành hình, hoặc đứng đó thụ động để chuyện xấu xa này xảy ra. Chỉ có một vài phụ nữ mạnh mẽ không chịu khuất phục nỗi sợ hay sự kích động của đám đông, nhưng lại không đủ sức để làm bất kỳ điều gì ngăn cản chuyện đó. Còn lại tất cả mọi người đều góp phần vào việc đóng đinh Chúa, dù là do ghen tỵ, yếu đuối, hay vô tri. Theo lời của Chúa Giêsu, bóng tối có thời của nó. Tấn bi kịch nhân văn, xã hội, và chính trị trong Thứ Sáu Tuần Thánh là chuyện không tốt. Nó cho thấy phần xấu xa nhất trong nhân loại trước một Thiên Chúa dường như thinh lặng.
Nhưng còn có một điều thâm sâu hơn nữa, một tấn kịch diễn ra bên trong linh hồn Chúa Giêsu, một điều tương phản với tất cả những gì đang diễn ra bề ngoài, trong đám đông đó. Trong sự đấu tranh của Chúa Giêsu để chấp nhận những chuyện đang diễn ra và chấp nhận những gì Chúa Cha đã muốn nơi Ngài, cho chúng ta tấn kịch tôn giáo và luân lý tột cùng: tình yêu chiến đấu và chiến thắng thù hận, tin tưởng chiến đấu và chiến thắng hoang tưởng, tha thứ chiến đấu và chiến thắng cay đắng.
Chúng ta thấy bản hùng ca chiến đấu đó, từ cơn thống khổ của Chúa Giêsu trong vườn Giết-sê-ma-ni khi Chúa đổ mồ hôi máu, khi Ngài thấy trước những thù hằn, làm ngơ, hiểu lầm, chống báng mà Ngài phải chọn để tin tưởng trao phó mạng sống mình.
Nhưng chấp nhận không phải là quy phục, và ngày hôm sau, Thứ Sáu Tuần Thánh, Ngài đã trải qua thử thách cuối cùng. Thiên thần đã tăng sức cho Ngài trong vườn Giết-sê-ma-ni dường như biến mất khi Ngài trên thập giá, và đêm tối hoài nghi bủa vây Ngài đến độ Ngài kêu lên những lời dường như tuyệt vọng: “Lạy Chúa, lạy Chúa, sao Chúa bỏ con.” Sự chấp nhận của Ngài vào thời điểm then chốt này, càng khó khăn hơn đến vô hạn khi dường như Chúa Cha, Đấng làm một với Ngài, dường như vắng mặt. Trước tình cảnh dường như bị bỏ rơi đó, Chúa Giêsu phải có một chọn lựa của đức tin, của yêu thương, và tin tưởng ở mức tột cùng nhất. Chọn lựa đó là gì? Chúa Giêsu làm gì?
Theo lời của nhà thần học Karl Rahner, Chúa Giêsu để mình “chìm vào sự không thể hiểu nổi của Thiên Chúa.” Ngài quy phục Thiên Chúa mà Ngài không thể cảm nhận hay hiểu thấu, nhưng chỉ có thể tin tưởng. Chính nơi đây, Thứ Sáu Tuần Thánh chuyển từ xấu xa thành tốt đẹp, Chúa Giêsu không quy phục cay đắng, bám víu, hay giận dữ nhưng là quy phục tin tưởng, biết ơn và tha thứ. Trong sự quy phục đó, cuộc đấu tranh giữa thiện và tà, cuộc chiến lớn nhất, sự thiện đã thắng.
Đến tận cùng, tất cả những gì sai trái trong thế giới chúng ta sẽ không bị khuất phục trước một uy quyền áp đặt bạo lực, dù cho uy quyền đó có mạnh đến thế nào đi nữa. Bạo lực tốt đẹp sẽ không bao giờ xóa được bạo lực xấu xa. Chúng ta chỉ có thể xóa bỏ những thế lực không ngừng đóng đinh Thiên Chúa khi mỗi người chúng ta, cũng như Chúa Giêsu, có thể bỏ đi những cay đắng, bám víu và giận dữ, để nhường đường cho tin tưởng, biết ơn, và tha thứ. Và tất cả chúng ta phải để mình chìm trong sự không thể hiểu nổi của Thiên Chúa, nghĩa là tin tưởng ngay cả khi chúng ta không hiểu, yêu thương ngay cả khi bị thù ghét, và tha thứ ngay cả khi bị tổn thương.
Tất cả chúng ta đều sẽ có ngày Thứ Sáu Tuần Thánh của mình. Nhìn bề ngoài, chúng luôn luôn xấu xa, nhưng nếu chúng ta bỏ mình để tin tưởng, thì nó sẽ trở nên tốt đẹp.
Rev. Ron Rolheiser, OMI
Nếu không nghe được Youtube hoặc có vấn đề về kỹ thuật, xin để lại lời nhắn ở mục “Comment” phía dưới, chúng tôi sẽ cập nhật lại đường link Youtube.
Tuần thánh bắt đầu bằng Chúa Nhật Lễ Lá: Phụng vụ hôm nay gồm hai phần vui buồn đan xen vào nhau: Trong phần đầu lễ chúng ta cùng nhau rước Chúa Giêsu khải hoàn vào thành Giêrusalem (x Mc 11,1-10). Phần thứ hai là thánh lễ với bài Thương Khó (x Mc 14,1-15,47). Từ đó chúng ta cùng rút ra bài học sống đức tin thế nào trong những hoàn cảnh vui buồn trong cuộc sống
Con đường khải hoàn vào thành Giêrusalem:
Trong giờ phút này, chúng ta hãy chiêm ngắm cảnh tượng Đức Giêsu đang long trọng tiến vào thành Giêrusalem. Ngài khiêm tốn ngồi trên lưng lừa con. Có nhiều người trải áo và rải cành cây trên lối Ngài đi để tỏ lòng tôn kính. Những tiếng reo hò vang dậy: Người ta tung hô Đức Giêsu là Đấng Mêsia, là Vua thuộc dòng dõi Đavid, là Đấng sẽ đến để giải phóng Israel. Đức Giêsu im lặng để dân chúng tung hô hầu ứng nghiệm lời tuyên sấm: “Hãy bảo thiếu nữ Xion: Kìa Đức Vua của người đang đến với ngươi, hiền hậu ngồi trên lưng lừa, lưng lừa con, là con của một con vật chở đồ” (Dcr 9,9).
Con đường thập giá: qua đau khổ vào vinh quang:
Sau những giây phút tưng bừng náo nhiệt này, chúng ta được nghe bài thương khó: Chúa Giêsu hoàn tất mầu nhiệm Vượt Qua, hầu mang lại ơn cứu độ cho loài người. Quả thực, Ngài là Vua, nhưng là Vua Mục Tử: “Đến không đòi được phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người.” Ngài đã chọn con đường cứu thế theo thánh ý Chúa Cha là “qua đau khổ vào trong vinh quang”, qua cuộc Tử Nạn để bước vào mầu nhiệm Phục Sinh.
Con đường sống đức tin hôm nay:
Từ hai biến cố trên, mỗi chúng ta phải sống đức tin thế nào trong cuộc sống đời thường?
– Không ai vô tội: Một trong những bức tranh nổi tiếng nhất của hoạ sĩ Rembrandt thế kỷ 17, là bức họa “Ba Cây Thập Tự.” Khi chiêm ngưỡng tác phẩm này, hầu như ai cũng đều bị thu hút nhìn vào trung tâm của bức tranh: Ở giữa hai cây thập giá của hai kẻ bất lương, thập giá của Đức Giêsu vượt lên cao hơn. Dưới chân thập giá của Chúa là cả một rừng người, trên mặt ai nấy đều lộ vẻ căm thù oán hận, trong đó có cả khuôn mặt của nhà danh họa tác giả bức tranh… Qua đó ông muốn nói rằng: Mọi người chúng ta không ai là không dính líu vào tội đã đóng đinh Đức Giêsu vào thập giá.
– Phải luôn tự kiểm: Mỗi người chúng ta hãy tự kiểm điểm: Nếu có mặt trong thời điểm xảy ra cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu hôm đó, tôi có vác đỡ thập giá cho Chúa như ông Simon Kyrênê đã làm không? Có biểu lộ đức tin và lòng sám hối như người trộm lành trên cây thập giá không? Có can đảm đứng dưới chân thập giá để nhận những lời trăn trối cuối cùng của Chúa như Mẹ Maria và môn đệ Gioan… hay không? Chúng ta cũng đừng nghĩ rằng mình sẽ không chối Thầy như Phêrô, hoặc không hèn nhát trốn chạy như các môn đệ, hay không bán Thầy như Giuđa, hoặc không kết án bất công như Philatô, không hùa theo kẻ mạnh để đàn áp bắt nạt người thấp cổ bé miệng như đám đông dân chúng, không đánh đòn và đóng đinh tay chân Chúa Giêsu vào thập giá như bọn lính hung ác…
– Điều kiện theo Chúa: Đã hơn 2000 năm qua đi, tất cả những gì xảy ra thời Đức Giêsu vẫn còn tiếp diễn. Mỗi người chúng ta cũng được Đức Giêsu mời theo Ngài: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” (Lc 9, 23). Vác thập giá hôm nay chính là đón nhận những sự thử thách như bệnh tật, thất bại gặp phải, những lời nói nhục mạ bất công… Đó là những thập giá do Chúa cho xảy đến để thử thách đức tin của ta và khích lệ ta theo Chúa đến cùng.
– Làm gì trong cuộc sống hôm nay?Trong tuần Thánh, chúng ta hãy năng tham dự các lễ nghi Tuần Thánh tại Nhà thờ để có dịp chiêm ngắm cuộc thương khó của Chúa hầu gia tăng lòng tin yêu để luôn chọn đi theo con đường của Chúa: Con đường hẹp và leo dốc, con đường khiêm nhu dấn thân và phục vụ tha nhân. Con đường này sẽ dẫn chúng ta về tới thành thánh Giêrusalem trên trời.
Lạy Chúa Giêsu, xin dạy con biết luôn tin cậy bước đi theo Chúa, vì xác tín rằng Chúa ngàn lần khôn ngoan và ngàn lần quảng đại hơn con. Xin cho con luôn dấn thân theo Chúa mà không tính toán thiệt hơn, vượt qua mọi nỗi sợ hãi, can đảm lướt thắng những yếu đuối, và biết phó thác trọn vẹn vào tình thương của Chúa. Ước gì khi gặp phải những đau khổ thử thách, chúng con sẽ cảm nghiệm được tình Chúa thương con và trung thành bước theo con đường của Chúa đến cùng. Amen!
Lm Đan Vinh
Nếu không nghe được Youtube hoặc có vấn đề về kỹ thuật, xin để lại lời nhắn ở mục “Comment” phía dưới, chúng tôi sẽ cập nhật lại đường link Youtube.
Chúng ta nghe nói nhiều về các linh mục lạm dụng tình dục (dù chỉ là số ít) và các giám mục không nghiêm nên vẫn bổ nhiệm họ (lax bishops who reassigned them). Có những chuyện về các linh mục biển thủ tiền bạc của các giáo xứ. Đó là những vụ bê bối, tội lỗi và kinh tởm.
Không có gì lạ vì các giáo hoàng, hồng y, giám mục, linh mục, tu sĩ, vẫn là con người, nghĩa là vẫn có thể phạm tội. Khi một người sa ngã, điều đó gây tổn thương và gây “sốc”. Người ta mong đợi các nhà lãnh đạo tinh thần thực hiện điều mình giảng dạy. Nếu không thì chỉ là giả hình (hypocrites). Và chúng ta biết Chúa Giêsu nghĩ gì về những kẻ giả hình rồi. Nhưng điều này cũng không lạ. Nếu bạn nghĩ ngày nay tệ hơn ngày xưa, hãy suy nghĩ về những ngày lễ trọng mà chúng ta cử hành trong Tuần Thánh: Thứ Năm tuần thánh và Thứ Sáu tuần thánh.
Trong khoảng 1 giờ sau khi Chúa Giêsu truyền chức các giám mục và các linh mục đầu tiên – 12 tông đồ – điều gì xảy ra?
Họ đã ngủ khi Chúa bảo họ cầu nguyện và canh thức với Ngài; một người đã phản bội Ngài chỉ vì 30 đồng bạc; một người là giáo hoàng đầu tiên đã chối Chúa 3 lần; và người trẻ đã chạy xa vì sợ trong khi Chúa cần họ nhất. Chỉ có một người trung thành là Gioan còn ở lại với Đức Mẹ đứng dưới chân Thánh giá trên đồi Can-vê vào ngày thứ Sáu – ngày có cách gọi lạ là “ngày tốt lành” (Good Friday).
Không là một khởi đầu tốt đẹp cho các giám mục và linh mục. Chỉ vài giờ sau khi thụ phong chức thánh, 11 trong 12 người đã bỏ rơi Chúa Giêsu. Thật là tồi tệ chưa từng thấy!
Chúng ta có nên tha thứ và bỏ qua tội lỗi và tật xấu của các giáo sĩ? Tuyệt đối không nên! (Absolutely not!). Các giám mục và linh mục có nên ngừng tìm kiếm nhân đức lớn lao, sự thánh thiện, và sự hoàn hảo được Chúa kêu gọi? Không bao giờ! (Never!).
Vấn đề là nếu cuộc sống, sinh lực, sự thánh thiện, và tính hiệu quả của Giáo hội tùy vào nhân đức của các giám mục và linh mục. Chúng ta không tin giáo hoàng, hồng y, giám mục, linh mục, hoặc đức ông. Không, chúng ta chỉ tin vào Chúa Giêsu. Chỉ mình Ngài sẽ không làm chúng ta thất vọng, chỉ mình Ngài không bao giờ phạm tội, chỉ mình Ngài không bao giờ nuốt lời hứa, chỉ mình Ngài xứng đáng được chúng ta tin tưởng tuyệt đối.
Đó là lý do xảy ra bi kịch khi ai đó bỏ Chúa Giêsu và giáo hội vì phạm tội, vì bê bối, dù chỉ là tội nhẹ của một giám mục hoặc linh mục. Nếu đức tin tùy vào chúng ta, đó là đã đặt sai chỗ ngay từ đầu. Các giám mục và linh mục có thể đại diện cho Chúa Giêsu chăm sóc Giáo hội của Ngài, dù lúng túng, nhưng giám mục và linh mục không là Chúa Giêsu và Giáo hội của Ngài.
Một người vợ của một nạn nhân đã nói với một giám mục: “Xin đức cha giúp con lấy lại niềm tin vào giáo hội! Con tin vào đức cha!” Vị giám mục đó trả lời: “Đừng tin tuyệt đối vào tôi. Tôi sẽ cố gắng hằng ngày để giữ niềm tin của chị, cầu nguyện hàng ngày để chị không thất vọng, nhưng hãy tin tôi, chẳng chóng thì chày, tôi e rằng tôi sẽ làm chị thất vọng. Xin chị hãy hoàn toàn tin vào Chúa Giêsu! Không có gì khác là thần tượng!”
Frank Sheed, một thần học gia của thế kỷ 20, nói: “Chúng ta không được rửa tội theo phẩm trật. Chỉ có Chúa là quan trọng nhất. Không có giáo hoàng, giám mục, hay linh mục nào có thể làm gì hoặc nói gì khiến chúng ta muốn từ bỏ giáo hội.”
Hãy cầu nguyện cho các giám mục và linh mục. Chúng ta phải cố gắng sống theo cách sống của Chúa Giêsu, đừng để tội lỗi đẩy chúng ta ra xa.
Trầm Thiên Thuchuyển ngữ từ Archdiocese of New York
*****************************
Lạy Chúa, xin hãy gìn giữ các Linh mục, vì các ngài là của riêng Chúa, đã tận hiến cả cuộc đời để lo việc mở mang nước Chúa.
Xin Chúa gìn giữ các Linh mục vì các ngài sống giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian; những lúc bị lạc thú trần gian cám dỗ xin Chúa ấp ủ các Linh mục trong Trái Tim Ngài.
Xin Chúa hãy gìn giữ và an ủi các Linh mục, trong những lúc các ngài cô đơn sầu khổ; khi suốt cả cuộc đời hy sinh cho các linh hồn bị xem ra vô ích.
Xin Chúa gìn giữ các Linh mục, và xin Chúa thương nhớ, lạy Chúa, các ngài không có ai chỉ trừ một mình Chúa thôi! Các ngài chỉ có con tim của con người với những mỏng dòn yếu đuối của nó.
Xin Chúa giữ gìn các Linh mục trong trắng như Mình Thánh Chúa mà hằng ngày các ngài nâng niu. Xin Chúa thương chúc lành cho các Linh mục, xin thánh hóa mọi tư tưởng, lời nói và việc làm của các ngài. Amen!
Nếu không nghe được Youtube hoặc có vấn đề về kỹ thuật, xin để lại lời nhắn ở mục “Comment” phía dưới, chúng tôi sẽ cập nhật lại đường link Youtube.
Hôm nay Giáo Hội mừng kính Thánh Cả Giuse, mặc dù thánh nhân chỉ xuất hiện vài lần trong các sách Tin Mừng. Nhưng chừng ấy cũng đủ để Giáo Hội có cơ sở để tôn vinh Người trong vai trò cha nuôi của Chúa Giêsu và là bạn trăm năm của Ðức Maria.
Thánh Giuse là mẫu người thầm lặng ít nói. Các sách Tin Mừng không ghi lại lời nào của Người, ngay cả lúc tìm gặp Chúa Giêsu trong đền thờ, thì cũng chính Ðức Maria là người lên tiếng nói với Chúa Giêsu. Thánh Giuse ít nói nhưng người chăm chú lắng nghe các lệnh truyền của Chúa và mau mắn làm theo, nhiều khi các lệnh truyền ấy có vẻ ngang trái bất ngờ. Khi nhận Ðức Maria làm vợ và đưa Mẹ về nhà mình; khi đem gia đình trốn sang Ai Cập; khi hồi hương trở về Nazareth, thánh Giuse luôn luôn trung thành với thánh ý Thiên Chúa mà không đòi hỏi một điều kiện nào. Hễ Thiên Chúa gọi thì Người lắng nghe; Thiên Chúa nói thì Người vâng lời. Thánh Giuse đúng là một người sống đức tin bằng hành động, không lý luận, không thắc mắc, tâm hồn và thân xác Người luôn sẵn sàng dâng hiến để thánh ý Thiên Chúa được thi hành. Và quả thật, nhờ sự cộng tác đắc lực của thánh Giuse, mà kế hoạch nhập thể của Chúa Giêsu được diễn ra hết sức tốt đẹp. Không đòi hỏi được tuyên dương, thánh Giuse đã làm trọn sứ mạng mà Thiên Chúa trao phó cho Người.
Lạy Thánh Cả Giuse, nhiều khi con ham nói mà ít chịu lắng nghe tiếng Thiên Chúa, ham suy luận mà ít chịu vâng phục cách triệt để thánh ý Thiên Chúa. Xin thánh nhân dạy con biết noi gương Người, biết tìm kiếm thánh ý Thiên Chúa trong thinh lặng và biết sống đức tin bằng hành động. Xin thánh nhân nâng đỡ những người cha trong gia đình để họ sống trọn sứ mạng làm chồng, làm cha. Xin thánh nhân phù trợ Giáo Hội Việt Nam trong vai trò hướng dẫn những người Kitô và làm chứng cho đức tin Kitô giữa lòng dân tộc.
Ðức Thánh Cha Nói Về Gương Thánh Giuse:
Anh chị em rất thân mến,
Ngày 19 tháng 3, chúng ta cử hành Lễ Thánh Giuse. Vào trung tâm của Mùa Chay, Phụng vụ trình bày cho chúng ta vị thánh vĩ đại này như là gương mẫu để noi theo, và như là Ðấng bảo vệ để chúng ta cầu khẩn.
Trước hết, thánh Giuse là mẫu gương sống Ðức Tin cho chúng ta. Như Tổ Phụ Abraham, thánh Giuse đã luôn sống trong thái độ hoàn toàn phó thác cho sự quan phòng của Thiên Chúa; vì thế Ngài là mẫu gương khích lệ, nhất là khi chúng ta được mời gọi tin tưởng vào Chúa, dựa trên “Lời Ngài” đã phán, mà không nhìn thấy được rõ ràng Ý Ðịnh của Chúa.
Hơn nữa, chúng ta được mời gọi noi gương Ngài, trong việc khiêm tốn thực thi sự vâng phục, một nhân đức chiếu sáng nơi Ngài trong nếp sống thinh lặng và trong việc làm ẩn khuất. Trường học Nazareth quý giá biết bao cho con người thời nay, bị bao vây bởi một nền văn hóa rất thường đề cao vẻ bề ngoài và sự thành công, đề cao sự độc lập và một quan niệm sai lầm về tự do cá nhân. Ngược lại, thật là cần thiết biết bao, việc phục hồi lại giá trị của sự đơn sơ và vâng phục, sự tôn trọng và yêu mến đi tìm thánh ý của Thiên Chúa.
Thánh Giuse đã sống phục vụ cho vị hôn thê của mình và cho Con Thiên Chúa; và như thế, đối với các tín hữu, thánh Giuse trở thành chứng tá hùng hồn cho biết phải cai trị hay phục vụ như thế nào. Ðặc biệt, tất cả những ai, trong gia đình, trong trường học và trong giáo hội, có trách vụ sống làm cha, làm người hướng dẫn, đều có thể nhìn về thánh Giuse, để được huấn luyện sống tốt lành. Nhất là tôi nghĩ đến những người cha, mừng lễ của họ vào đúng ngày lễ dành cho thánh Giuse. Tôi cũng nghĩ đến tất cả những ai mà Thiên Chúa đã thiết lập trong giáo hội để thực hiện “tình cha thiêng liêng”.
Nguyện xin thánh Giuse, vị thánh mà dân Kitô tin tưởng khẩn cầu, luôn hướng dẫn những bước tiến của đại gia đình Thiên Chúa. Xin thánh nhân hãy đặc biệt trợ giúp cho những ai đang chu toàn vai trò làm cha tự nhiên hoặc thiêng liêng. Xin thánh Giuse hãy cùng đồng hành với những lời khẩn cầu của chúng ta và xin Mẹ Maria khẩn cầu cùng Chúa cho chúng ta, Mẹ là vị hôn thê đồng trinh của thánh Giuse và là Mẹ của Ðấng Cứu Chuộc.
Gioan Phaolô II
(Lễ Thánh Giuse 2002 – bản dịch của Nguyễn Việt Nam)
Nếu không nghe được Youtube hoặc có vấn đề về kỹ thuật, xin để lại lời nhắn ở mục “Comment” phía dưới, chúng tôi sẽ cập nhật lại đường link Youtube.
Cái chết của ông Y Rabin, Thủ Tướng Israel ngày 3/11/1995 đã làm cả thế giới chấn động. Những người Do Thái quá khích giết ông, vì họ không chấp nhận công trình hòa bình ông đang kiến tạo với Palestine và các nước vùng Trung Đông. Cái chết của ông Rabin làm cho thế giới nhớ lại cái chết của Mahatma Gandhi 50 năm trước đây: một người thanh niên Ấn Giáo quá khích đã sát hại vị Cha già của dân tộc Ấn, vì anh không thể chấp nhận việc ngài tha thứ và dạy tha thứ cho người Hồi Giáo. Người ta cũng không thể quên cái chết của Mục sư Martin Luther King năm 1968, vì đã tranh đấu cho quyền bình đẳng của người da đen bằng phương pháp ôn hòa và bất bạo động. Lịch sử nhân loại đã được viết bằng máu của biết bao gương mặt kiến tạo hòa bình như thế. Liệu người ta có thể xếp cái chết của Chúa Giêsu vào hạng những cái chết vì hòa bình không? Đâu là lý do khiến Chúa Giêsu phải chết, một cái chết cũng mang tính cách mạng như chính cuộc sống và sứ điệp của Ngài?
Chúa Giêsu đã chịu treo trên thập giá giữa hai tên trộm cướp. Thời Đế quốc Rôma cai trị Palestine có biết bao người đã chết như thế, nhưng cái chết của Chúa Giêsu có lý do sâu xa hơn bất cứ một cái chết nào. Chúa Giêsu đã có thể lẩn tránh được một cái chết như thế: Ngài đã làm cho kẻ chết sống lại được, thì việc thoát tay kẻ thù đối với Ngài không phải là chuyện khó. Ngài cũng có thể tránh được một cái chết như thế bằng cách thay đổi thái độ đối với những kẻ đang tìm cách hãm hại Ngài. Nhưng Chúa Giêsu đã không hành động như thế. Các sách Tin Mừng thuật lại rằng Ngài đã tự nộp mình cho kẻ thù. Ngài chết để giải phóng con người khỏi tội lỗi và sự chết. Một cuộc giải phóng vượt lên trên và bao trùm mọi thứ giải phóng khác. Từ nay, với cái chết của Chúa Giêsu, sự chết không còn là một thực tại đáng sợ nữa, nhưng nó là cửa ngõ dẫn vào cuộc sống vĩnh cửu.
Thánh Gioan hôm nay đã dùng hình ảnh quen thuộc để diễn tả ý nghĩa đích thực của cái chết của Chúa Giêsu: hình ảnh của một hạt giống bị mục thối đi trong lòng đất để dẫn đến một mùa gặt phong phú. “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình, còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều bông hạt khác.” Cũng vậy, những đau thương Chúa Giêsu sắp trải qua sẽ không kết thúc ở một cái chết cằn cỗi mà sẽ dẫn đến sự phì nhiêu sung mãn của sự sống lại, một sự sống có khả năng tập họp mọi dân nước trong Nước Trời.
Tuy nhiên, là Thiên Chúa nhưng cũng là con người và như mọi con người, Chúa Giêsu cũng đã phải trải qua những giờ phút xao xuyến trong tâm hồn khi phải đương đầu với kẻ thù và cái chết nhơ nhuốc trên thập giá: “Bây giờ tâm hồn Con xao xuyến, Con biết nói gì đây? Lạy Cha, xin cứu Con khỏi giờ này…” Chúa Giêsu đã từng bị cám dỗ xin Cha Ngài giải thoát Ngài khỏi “Giờ” đen tối hay khỏi “uống chén đắng” này. Trong bài đọc 2, chúng ta còn được Thánh Phaolô cho thấy tâm trạng của Chúa Giêsu khi đứng trước “Giờ” của thập giá: “Chúa Kitô đã lớn tiếng và rơi lệ dâng lời cầu xin khấn nguyện lên Đấng có thể cứu Ngài khỏi chết…” Cuối cùng, Chúa Giêsu đã không xin Cha cứu Ngài khỏi chết mà xin cho Danh của Cha được tôn vinh. Điều này có nghĩa là Chúa Giêsu muốn cầu xin Thiên Chúa hãy tỏ ra Ngài là một người Cha, bằng cách hoàn tất công trình yêu thương của Ngài đối với con người, ngang qua cái chết và sống lại của Con của Ngài. Qua lời cầu xin này, Chúa Giêsu cho thấy Ngài đã gián tiếp đón nhận “Giờ” của sự phục vụ cho tới hơi thở cuối cùng trên thập giá, nhưng đồng thời cũng là “Giờ” Con Người bước vào vinh quang. Có điều “vinh quang” ở đây không theo ý nghĩa thường tình của chúng ta. Vinh quang ở đây đòi phải trải qua khổ nhục. Vinh quang của hạt lúa đã trổ bông, nặng trĩu và chín vàng, nhưng là sau khi bị chôn vùi dưới bùn rồi nứt nẻ, bứt phá khỏi hình thức hẹp hòi của vỏ trấu, để giờ này mới trở thành nguồn sống, và lại sẵn sàng nẩy mầm, phát triển, tăng gấp mãi.
Thánh Gioan đã diễn tả chân lý này như một quy luật tất yếu cho sự sống phát sinh và đạt tới ý nghĩa cuối cùng: Hạt lúa và bất cứ thứ hạt giống thực vật nào, đều mang ý nghĩa và sứ mạng truyền sinh, tăng trưởng gấp nhiều lần nguồn sống ẩn chứa trong bản thân. Thế nhưng, muốn thể hiện ý nghĩa và sứ mạng này, nó phải qua tiến trình biến dạng hoàn toàn, phải chết đi. Chúa Giêsu đã chấp nhận quy luật này, và vẫn đang “lôi kéo mọi người theo Ngài”.
Là quy luật, là chân lý Chúa Kitô mạc khải, làm sao con người chúng ta có thể tránh né? Mặc dầu biết rõ mình phải nứt nẻ, bứt phá, lột xác, phải chết đi, mới góp phần làm phát sinh sự sống. Thế nhưng chúng ta vẫn thường coi trọng và bảo vệ cái cũ, những gì là quen thuộc, dễ dãi, dễ chịu hơn là đổi mới. Sống giữa một xã hội đang chủ trương đổi mới, thế mà chỉ mới đặt lại vấn đề đổi mới một số tư tưởng, cách làm ăn, tổ chức đời sống xã hội… cũng đủ làm chúng ta e ngại, lo âu. Nói chi đến thay đổi cả nếp sống trước đây vẫn được tôn trọng. Định luật của sự sống là đổi mới. “Hạt lúa phải mục nát đi trong lòng đất mới nảy sinh nhiều bông hạt.” Chúa Giêsu đã nói đến cái chết của Ngài như một điều kiện cần thiết để đem lại sự sống mới cho mọi người. Ngài phải chết đi để các Kitô hữu được sống, để muôn dân trở thành tín hữu và tất cả đều được cứu chuộc.
Còn chúng ta, được mời gọi theo Chúa Giêsu, chúng ta cũng đừng quên định luật căn bản của sự sống, đó là: “Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, còn ai bằng lòng mất sự sống mình ở đời này thì sẽ giữ lại được cho cuộc sống muôn đời” (Ga 12,25). Đi theo Chúa Giêsu đòi hỏi người môn đệ của Ngài phải chia sẻ cuộc sống và cả cái chết của Ngài. Bài học của thập giá đó là đã có những cái chết không uổng công mà trái lại còn nảy sinh nhiều hoa trái, đó là cái chết vì tình thương, vì hạnh phúc, vì sự cứu độ của kẻ khác, vì sự giải phóng con người đồng loại, vì những cái gì còn đáng quý hơn cả chính mạng sống của mình, vì chính nghĩa, vì công lý, vì hòa bình, vì đức tin…
Ở đây, Chúa Giêsu đặt chúng ta trước một thang giá trị. Chính khi con người biết vượt ra khỏi cái vỏ ích kỷ để sống một cuộc sống quảng đại, vì người khác, dù có phải vì thế mà hy sinh cả mạng sống của mình, con người đã thực sự bước vào cuộc sống mới. Điều Chúa đòi hỏi nơi những kẻ muốn đi theo Ngài thì Ngài thực hiện nơi chính bản thân Ngài.
Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy rõ ý nghĩa cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá. Ngài chết là để đi vào vinh quang của Chúa Cha và trở thành Đấng ban sự sống cho chúng ta. “Nếu ta cùng chết với Ngài, ta sẽ sống với Ngài. Nếu ta cùng đau khổ với Ngài, ta sẽ thống trị với Ngài” (x. Tin Mừng 2,8-12). Ai ham sống, sợ chết, sẽ đánh mất tất cả. Người dám theo Chúa Giêsu mà đánh đổi cuộc sống hiện tại, sẽ được cuộc sống muôn đời.
Trích trong “Niềm Vui Chia Sẻ”
Nếu không nghe được Youtube hoặc có vấn đề về kỹ thuật, xin để lại lời nhắn ở mục “Comment” phía dưới, chúng tôi sẽ cập nhật lại đường link Youtube.
Mùa Chay lại về, Mùa Chay là thời gian thuận tiện để chúng ta kiểm điểm cuộc đời mình và rà soát mọi ngõ ngách của linh hồn, và cố gắng chấn chỉnh để phần nào đền bù tội lỗi của chính mình.
Chúng ta đang sống trong “vùng chiến tranh” nghiêm trọng, và khó tìm thấy hòa bình trong khoảng đó. Điều mà nhiều người khó nhận ra, đó là cuộc chiến đấu xảy ra hằng ngày trong cuộc sống của chúng ta ở ngay trong đầu chúng ta. Kinh Thánh cho biết:“Tất cả cùng ăn một thức ăn linh thiêng, tất cả cùng uống một thức uống linh thiêng, vì họ cùng uống nước chảy ra từ tảng đá linh thiêng vẫn đi theo họ. Tảng đá ấy chính là Đức Kitô. Nhưng phần đông họ không đẹp lòng Thiên Chúa, bằng chứng là họ đã quỵ ngã trong sa mạc” (1 Cr 10:3-5).
Có những đồn lũy nào đó của ma quỷ vây hãm chúng ta hằng ngày mà chúng ta phải nhận biết. Cuộc chiến đang xảy ra trong tư tưởng của chúng ta và ma quỷ lợi dụng chính các nhược điểm đó để tấn công chúng ta. Hãy lưu ý 6 điểm dưới đây. Đừng coi ma quỷ là đồng minh, bởi vì nó xảo trá và quỷ quyệt, nó sẽ lừa dối bạn để bạn lọt vào tròng của chúng.
KHI BẠN BỊ TỔN THƯƠNG
Ma quỷ sẽ tấn công bạn khi bạn yếu đuối, cả thể lý lẫn tinh thần. Chúa Giêsu bị ma quỷ tấn công sau khi Ngài đã ăn chay suốt 40 ngày. Kinh Thánh cho biết:“Người ăn chay ròng rã bốn mươi đêm ngày, và sau đó, Người thấy đói. Bấy giờ tên cám dỗ đến gần Người và nói: “Nếu ông là Con Thiên Chúa thì truyền cho những hòn đá này hoá bánh đi!” (Mt 4:2-3). Ma quỷ đã từng tấn công Chúa Giêsu vào một trong những lúc Ngài suy nhược nhất về thể lý. Có những người “chăm chút” sự yếu đuối của mình và giữ lấy nó. Nếu bạn là người như vậy, bạn sẽ không bao giờ tự do. Ma quỷ “bắt cóc” bạn và cầm giữ bạn.
KHI BẠN MỆT MỎI
Bạn có thường uể oải hoặc mệt mỏi? Thiếu nghị lực và thiếu sinh khí thường là hậu quả của một cuộc tấn công “mở rộng”. Thật vậy, các vấn đề này có thể xảy ra từ các vấn đề khác, kể cả việc mất ngủ và thiếu sức khỏe. Tuy nhiên, một trong các dấu hiệu quan trọng nhất mà bạn bị tấn công tinh thần là lúc bạn cảm thấy mệt mỏi, chính sự mệt mỏi khiến bạn chán nản và ngăn cản bạn làm những điều Thiên Chúa bảo bạn làm. Ngôn sứ Isaia cho biết: “Thanh niên thì mệt mỏi, nhọc nhằn, trai tráng cũng ngả nghiêng, lảo đảo” (Is 40:30), nhưng chờ đợi Chúa bồi bổ sức mạnh và thể hiện sự khôn ngoan để có thể chờ đợi, nghỉ ngơi và cậy nhờ vào Thiên Chúa chứ đừng ỷ vào sức mình.
KHI BẠN BẮT ĐẦU MỘT HÀNH TRÌNH TÂM LINH MỚI
Ma quỷ sẽ tấn công bạn khi bạn bắt đầu một quyết tâm mới về tâm linh. Không có gì nó ghét hơn là bạn quyết định thiết lập mối quan hệ với Thiên Chúa và phát triển đức tin. Ngay sau khi Chúa Giêsu bị ma quỷ cám dỗ, Ngài khởi đầu sứ vụ công khai. Kinh Thánh cho biết: “Từ lúc đó, Đức Giêsu bắt đầu rao giảng và nói rằng: Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần” (Mt 4:17). Nhận biết Chúa Giêsu sẽ bắt đầu sứ vụ, ma quỷ đã ráo riết tấn công Ngài, nhưng Ngài không thoái chí. Khi bạn bắt đầu bất cứ một hành trình tâm linh nào, ma quỷ sẽ tấn công để phá hoại và làm cho bạn chia trí khi cố gắng sống thân mật với Thiên Chúa và mở rộng sứ vụ của Đức Kitô. Đừng để ma quỷ chiến thắng bạn!
KHI BẠN BỐI RỐI
Ma quỷ sẽ tấn công bạn khi bạn thất vọng ê chề. Trong cuộc tấn công tinh thần, ma quỷ dùng nhiều mưu kế để đè nén tâm trí bạn và làm cho bạn cảm thấy thất vọng. Khi bạn ở trong vòng vây của nó, có thể bạn cảm thấy mình gặp nguy hiểm, lo lắng hoặc bối rối. Những lúc đó, cuộc đối thoại đơn giản với người khác (cha mẹ, vợ chồng, bạn bè,…) có thể chuyển thành xung đột, và ý tưởng đơn giản trong đầu của bạn có thể biến thành cảm xúc tiêu cực. Bạn cũng có thể cảm thấy không còn là mình như trước. Điều này không chỉ ở trong đầu của bạn. Trong những lúc như vậy, điều quan trọng là bạn phải cố gắng tập trung vào Thiên Chúa.
KHI BẠN ĐAU KHỔ
Ma quỷ sẽ tìm cách quyến rũ bạn mau chóng chữa trị khi bạn đau đớn và đau khổ. Nó muốn bạn tin nó có mọi cách thức, chứ không phải Thiên Chúa. Nếu bạn gặp rắc rối trong các mối quan hệ, nó sẽ cho bạn các lời lẽ và tư tưởng tồi tệ về người kia để làm cho mối quan hệ rạn vỡ nhiều hơn. Nếu bạn đang chiến đấu với bệnh tật, nó sẽ cố gắng làm cho bạn tin rằngThiên Chúa không hiện diện và chẳng quyết tâm những gì bạn đang chịu đựng. Nếu bạn tìm kiếm Thiên Chúa trong những lúc đó, ma quỷ sẽ làm cho bạn nghi ngờ rằng không biết Thiên Chúa thực sự có tốt lành hay không.
KHI BẠN MỘT MÌNH
Ma quỷ sẽ tấn công bạn khi bạn có một mình vì nó biết rằng bạn rất yếu đuối khi không có mặt người khác. Nó cũng cho rằng đó là lúc bạn dễ sa ngã nhất. Kinh Thánh cho biết: “Đức Giêsu được Thần Khí dẫn vào hoang địa để chịu quỷ cám dỗ” (Mt 4:1). Ma quỷ biết Chúa Giêsu ở một mình nên nó cám dỗ Ngài. Ma quỷ có thể phát hiện khi nào bạn cảm thấy cô đơn. Những lúc đó, nó muốn bạn tin rằng bạn hoàn toàn đơn độc. Thỉnh thoảng bạn cảm thấy như ma quỷ không bỏ mặc bạn một mình, rất cần phải nhớ rằng Thiên Chúa luôn ở bên bạn!
HÃY NHÌN LÊN THIÊN CHÚA
Nếu bạn là chi thể trong Nhiệm Thể của Đức Kitô, hãy chắc chắn rằng ma quỷ luôn cố gắng hủy hoại bạn. Khi mọi thứ không thể đổ lỗi cho ma quỷ, có nhiều điều chứng tỏ hậu quả công việc của nó và phải nhận biết khi nào ma quỷ hoạt động trong cuộc sống của bạn. Nếu bạn không cảnh giác, nó có thể hủy diệt bạn và tách rời chúng ta ra khỏi Chúa Cha. Không có gì để ma quỷ yêu thương, nhưng khi bạn được bảo vệ và được canh giữ, bạn có sức mạnh để đẩy lui mọi cuộc tấn công của ma quỷ.
Lesli White Trầm Thiên Thu chuyển ngữ từ Beliefnet.com
***************************
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã chịu đau khổ và bị cám dỗ. Chúa là Đấng quyền năng đã đến để cứu giúp những người đang bị xiềng xích bởi ma qủy, vì Chúa luôn nâng đỡ những kẻ đi theo Ngài.
Lạy Chúa, xin gìn giữ những kẻ tin vào danh thánh Chúa trong cánh tay Ngài. Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, mà ban niềm hoan lạc bất diệt. Amen!
St. Gregory of Khandzta (759-861)
Nếu không nghe được Youtube hoặc có vấn đề về kỹ thuật, xin để lại lời nhắn ở mục “Comment” phía dưới, chúng tôi sẽ cập nhật lại đường link Youtube.
Bất cứ ai đã đọc sách Xuất Hành trong Cựu Ước, kể lại cuộc hành trình về đất hứa của dân Do thái, đều nhớ câu truyện con rắn đồng. Đó là khi gần đến đất hứa, dân Do thái lại kêu trách Chúa và trách ông Mô-sê. Chúa liền cho rắn bò ra khắp nơi cắn chết nhiều người. Thấy vậy, dân chúng lại ăn năn hối hận, chạy đến kêu ông Mô-sê cứu giúp. Ông Mô-sê cầu xin Chúa. Chúa bảo ông hãy làm một con rắn bằng đồng treo lên cao, để hễ ai bị rắn lửa cắn, nhìn lên rắn đồng thì được khỏi. Rắn đồng đó, như bài Tin Mừng kể lại, Chúa Giêsu dùng làm hình ảnh để chỉ về Ngài: cũng như xưa, rắn đồng bị treo lên, Ngài cũng phải bị treo lên như vậy. Và cũng thế, rắn đồng chữa cho bất cứ ai nhìn lên nó, thì Chúa cũng chữa bất cứ ai tin cậy ở Ngài. Vì thế, sau khi dùng hình ảnh để so sánh, Chúa quả quyết: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống đời đời.”
Quả thật, thập giá của Chúa đem lại sự sống đích thực, sự sống đời đời cho những ai tin tưởng, cậy trông vào Chúa. Bằng chứng cụ thể để bảo đảm điều này là người trộm lành trong Tin Mừng: khi Chúa Giêsu bị đóng đinh vào thập giá trên núi Sọ, thì có hai phạm nhân khác là hai tên trộm cướp, cũng bị đóng đinh như thế ở hai bên Chúa: Đít-ma bên phải và Ghét-ta bên trái. Khi ba thập giá được dựng lên, treo ba thân xác chơ vơ giữa nền trời, người ta nghe tiếng tên trộm Ghét-ta chửi bới, nguyền rủa, nói những lời xúc phạm và đòi xuống khỏi thập giá. Trái lại, tên trộm Đít-ma, như được ánh sáng từ thập giá ở giữa chiếu soi, anh buồn rầu, hối hận tội lỗi tầy trời của mình và quay sang Chúa Giêsu, anh tha thiết thưa: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào nước của Ông, xin nhớ đến tôi.” Trước lời khẩn nài đầy tin tưởng ấy, Chúa nói: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng.”
Trước khi thưa với Chúa Giêsu như trên, người trộm này đã nhìn nhận tội lỗi của mình khi anh đối chất với người bạn tù cùng bị đóng đinh với anh. Anh nói: “Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ! Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm.” Như vậy, dầu sao trong tâm hồn người đạo chích này cũng đã dậy lên những tâm tình thống hối nồng nàn. Dĩ vãng của anh thật tồi tệ, có lẽ tệ hơn cả Ba-ra-ba, vì Ba-ra-ba thì được tha, còn anh lại bị đóng đinh. Đời anh xấu xa quá. Anh biết và thành thật cảm nhận điều đó; đồng thời anh cũng tin nhận Đấng cùng chịu án với anh thật vô tội và qua cung cách của Ngài, anh tin phải là Đấng Thánh. Nên chỉ một tia sáng từ thập giá Chúa chiếu ra đã làm rực sáng đức tin của anh. Anh đã thấy thập giá, anh đã tin vào giá trị của thập giá, và biết Đấng bị đóng đinh là ai, nên anh mới xin Ngài nhớ đến anh khi Ngài về nơi vương quốc của Ngài.
Như vậy, trên núi Sọ, đám đông dân chúng đòi Chúa xuống khỏi thập giá, thì người trộm lại đòi được đưa lên. Quần chúng cầu mong Chúa thuyết giảng một thứ tôn giáo không thập giá, còn người trộm lại tìm được niềm tin khi bị treo trên thập giá. Phải chăng sự hối cải của người trộm là chìa khóa, là gương mẫu cho sự hối cải của chúng ta ngày nay?
Kể từ khi thập hình của người Rô ma được áp đặt cho Chúa Giêsu, thì thập giá đã trở thành Thánh giá, và bóng Thánh giá của Ngài đã bao trùm cả trái đất. Không ai có thể đứng ngoài bóng mát của Thánh giá. Không ai có thể ở ngoài vòng lôi kéo của Chúa Giêsu. Không bao giờ con người có thể loại bỏ Chúa ra khỏi lịch sử của mình nữa.
Thánh giá không chỉ được dựng lên trên nóc nhà thờ, trong cung thánh hay trong nhà của người tín hữu mà còn phải được tôn vinh giữa phố chợ, ở khắp mọi nơi. Chúa Giêsu đã không bị đóng đinh trong một thánh đường, giữa hai hàng nến cháy, nhưng trên thập giá giữa hai người trộm cướp. Ngài đã bị treo lên giữa ngã ba đường để cho mọi người qua lại đều nhìn thấy. Ngài đã chết trước sự chứng kiến của mọi người. Ngài đã chết cho mọi người. Ngài đã chết cho từng người trong nhân loại. Ngài đã chết nhân danh chúng ta để chúng ta được qui tụ vào gia đình con cái của Thiên Chúa.
Khi chiêm ngắm thập giá của Đấng Phục Sinh, chúng ta không ngừng nghe vang dội từ thập giá ấy lời nhắc nhở về một tình yêu thương cao cả dành cho tất cả chúng ta, cũng như nhắc nhở về những tội lỗi chúng ta đã phạm để thúc giục chúng ta ăn năn sám hối. Do đó, sự hối cải của người trộm lành là gương mẫu cho sự hối cải của chúng ta.
Đúng thế, ở trần gian chỉ có một điều xấu xa hơn tội lỗi, đó là không nhìn nhận tình trạng tội lỗi của mình. Không có bệnh, chẳng ai tìm đến bác sĩ. Cũng vậy, không nhận mình tội lỗi, chẳng ai đi tìm Chúa Cứu Thế. Chỉ khi nào cho mình là dại dột hay chỉ khi nào bắt đầu công nhận mình là người tội lỗi, đó là lúc khởi sự bước vào con đường của người trộm lành đưa đến hối cải. Biết mình tội lỗi, đó là điều kiện để hối cải, cũng như biết mình bệnh hoạn là điều kiện để chữa trị.
Trong Mùa Chay này, chúng ta hãy đến với Chúa và hạ mình xuống như người trộm lành, nhìn nhận mình là người tội lỗi và tin tưởng vào lòng khoan dung của Chúa, thì kể cả trong tình trạng xấu xa nhất, chúng ta vẫn được Chúa thương yêu tha thứ.
Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP
Nếu không nghe được Youtube hoặc có vấn đề về kỹ thuật, xin để lại lời nhắn ở mục “Comment” phía dưới, chúng tôi sẽ cập nhật lại đường link Youtube.