LỢI ÍCH CỦA MỘT LỜI XIN LỖI (có Youtube)

Việc nói lời xin lỗi có thể khó khăn, nhưng nó giúp ích cho tâm trí, thân xác và linh hồn bạn.

Tôi sẽ không thể nào quên việc ông chủ đã la mắng khi tôi mắc một sai lỗi.  Tôi đánh giá cao công việc của mình nên tôi đã nhanh chóng xin lỗi và hứa sẽ sửa chữa, nhưng trong thâm tâm tôi giận sôi lên.  Tôi nghĩ rằng, mình đã không làm gì sai.  Trong đầu tôi, ông ấy mới là người sai và tôi xin lỗi vì đó là cách nhanh nhất để chuồn ra khỏi phòng của ông.  Tuy nhiên, buổi tối hôm đó tôi không thể ngủ được, và tôi bắt đầu ngẫm nghĩ về giá trị mà một lời xin lỗi thực sự có thể đem lại.

Thường thì cái giá của một lời xin lỗi dường như quá cao.  Có một sự lưỡng lự muốn tháo lui, bởi vì bạn cảm giác giống như bị mất một phần nào đó của chính mình khi phải thú nhận là mình sai phạm.  Một khi tôi nhận ra mình đã hành xử sai với một ai đó, tôi trải qua một tiến trình kỳ lạ: cố gắng tự thuyết phục rằng mình là người tốt, mặc kệ lương tâm mình nói gì, kế đến là bào chữa cho hành động của mình và giảm thiểu tối đa những sai quấy mà mình đã làm.  Cuối cùng, vui mừng vì phải ngu muội mà tin rằng chính mình là người sai và mọi người khác đều muốn giúp mình.

Dĩ nhiên, trò lươn lẹo phức tạp này không kéo dài.  Tôi không bao giờ đánh mất cảm giác trăn trở về ý tưởng, cuộc sống sẽ không bình an cho tới khi tôi làm những việc đúng.  Khi sự việc quá tệ, tôi nằm trong bóng đêm ngẫm nghĩ, hoặc là tôi sẽ có một phản ứng căng thẳng đến nỗi huyết áp nhảy vọt.  Tôi cố làm việc chăm chỉ để tránh nói lời xin lỗi – hoặc xin lỗi một cách không chân thành – nhưng cuối cùng nó cũng không thành công.

Lợi ích thể xác và tinh thần của việc xin lỗi

Khi chúng ta tức giận và từ chối nói ra hoặc đón nhận một lời xin lỗi, nó ảnh hưởng đến sức khỏe thể chất của mình.  “Không thể ở yên được – bạn sẽ lăn qua, trở lại trên giường, bạn sẽ thấy tức thở vì những suy nghĩ đầy ắp trong lồng ngực, bạn ăn, uống không kiểm soát, bạn thấy cái đầu muốn nổ tung”.  Đó là lời của Chaline Laino, tác giả của một bài báo nói về lời xin lỗi đem lại lợi ích gì cho sức khỏe trên trang Web MD.

Một lời xin lỗi đàng hoàng cũng ảnh hưởng tốt đẹp trên những người đón nhận nó.  Laino cũng đề cập đến một nghiên cứu năm 2002 do Đại học Hope và Virginia Commonwealth cho thấy: nhịp tim, huyết áp, lượng đường và nét căng thẳng trên gương mặt cũng giảm khi nạn nhân chỉ mới nghĩ đến việc mình được xin lỗi.

Việc xin lỗi cũng có ích khi một người thật sự biết nhận lỗi.  Những lời xin lỗi không chân thành thường chỉ để chữa lỗi – và chúng ta thấy rất nhiều kiểu như vậy trên truyền thông xã hội với những hình ảnh, người nổi tiếng chỉ muốn rút lui sau một cuộc tranh cãi.  Thí dụ, diễn viên Jason Biggs đã một lần viết những lời vô tình trên Tweet sau một tai nạn máy bay.  Anh ta làm nhiều người bất bình và cuối cùng viết như thế này: “Mọi người bị khó chịu, và đó không phải là ý định của tôi.  Xin lỗi những ai đã bị xúc phạm… những lời không cố tình của tôi có lẽ đã nói ra không đúng lúc.  Vì thế, tôi xin lỗi.”

Tôi hiểu là anh ta cố trốn tránh trách nhiệm một cách không thỏa đáng; chỉ xin lỗi một nửa, thật ra là không nhận cái sai của mình.  Nếu là tôi, tôi sẽ cảm thấy tiếp tục ân hận vì điều đó.

Việc xin lỗi ảnh hưởng đến chúng ta, không chỉ ở thể lý nhưng cả trong tinh thần nữa.  Nó có thể giảm bớt những áp lực, lo lắng liên quan, và giúp làm mới lại tương quan trước đây.  Trong một bài viết mạnh mẽ của mình trong Tâm lý học Ngày nay, nhà văn Beverly Engel mô tả một câu nói đơn giản “Mẹ xin lỗi” từ mẹ cô ta, sau ba năm coi nhau như người xa lạ, đã chữa lành tình cảm của cô ấy.

Những oán ghét xưa cũ sẽ tạo thành gánh nặng và tiếp tục ảnh hưởng tới những mối tương giao sau này.  Đôi khi tôi bị cám dỗ không xin lỗi, bởi vì tôi nghĩ là mình sẽ không bao giờ gặp lại người đó nữa và vấn đề đó sẽ qua đi.  Nhưng thực ra, nó không bao giờ là vậy.  Sự tổn thương kéo dài dai dẳng, cuối cùng sẽ tác động đến chúng ta.

Tôi cảm nhận điều này quen thuộc và riêng tư như một mục tử, khi thỉnh thoảng tham gia một nhóm “Rượu không tên” tại nhà thờ để ủng hộ nhóm.  Tại những buổi họp này, tôi nghe vài chia sẻ không sợ hãi, chân thành tự xét những sai sót trong quá khứ, mà tôi chưa gặp bao giờ.  Mười hai bước của AA tập trung vào việc làm bản báo cáo đạo đức, và chỉnh sửa những sai lầm trong quá khứ, và bước thứ 9 là về việc sửa sai.  Ngay cả khi vì không sai lỗi trong quá khứ nên khỏi tiến hành việc này – đây vẫn là thực đối với tất cả chúng ta.

Xin lỗi giúp ích tâm hồn

Trong tác phẩm Mỗi người cần tha thứ cho một ai đó, Allen Hunt viết về một người phụ nữ tên Amy, mà tác giả tranh luận nhiều năm trong những buổi họp ở nhà thờ.  Sự việc tiến triển xấu đến độ, chị ta bỏ nhà thờ này đi lễ ở một nhà thờ khác, và ông nghĩ rằng vấn đề của ông coi như đã xong.

Sau đó nhiều năm, Allen vô tình gặp lại Amy trong một trận đấu tennis.  Tim anh như thắt lại khi cô ta nhận ra anh và bước tới – cô ta đi bước trước và nói lời xin lỗi.  “Cô ta đã thoát ra và đưa cho tôi chìa khóa để mở ra một con đường mới, một con đường không còn chua chát, độc hại đã nằm sâu trong tâm khảm tôi bấy lâu nay”, Hunt đã viết như vậy.  Lời xin lỗi là thuốc giải độc cho một căn bệnh tâm hồn mà đôi khi ta không biết là ta cần nó.

Tôi không chắc là tôi có đủ can đảm như Amy.  Khi tôi sợ nói một lời xin lỗi, là vì tôi không cho phép mình thoát ra khỏi sai lầm của quá khứ, mà khẳng định mình.  Tôi bắt đầu nghĩ rằng những tật xấu của mình không nặng nề lắm, và thú nhận lỗi lầm là gắn mình vào nó.  Mặc dù việc đó không đúng – không ai trong chúng ta được nhận dạng bằng tội lỗi của mình.  Sự nhận lỗi cho phép ta vượt lên trên quá khứ, và bước những bước tiến về phía con người tốt lành, mà ta muốn trở thành.

Ba bước của việc xin lỗi

Rõ ràng là những lời xin lỗi xứng đáng với thời gian và sự nỗ lực, nhưng một lời xin lỗi tốt đẹp là như thế nào?

Một thí dụ dễ hiểu nhất, là lời xin lỗi của nữ diễn viên Reese Witherspoon, sau khi nổi tiếng trong phim ‘Good morning America’, về tội cư xử thô lỗ với cảnh sát vì bị nghi ngờ cô và chồng cô lái xe khi uống rượu.  Trên truyền hình quốc gia cô nói, “Chúng tôi đi ăn tối ở Atlanta, và có uống hơn một ly rượu, chúng tôi nghĩ rằng mình có thể lái xe tốt, nhưng thực ra không nên như vậy.  Điều đó không thể chấp nhận được, chúng tôi rất tiếc và xấu hổ.  Tốt hơn, chúng tôi không nên làm như vậy”.

Lời xin lỗi của Reese Witherspoon gồm ba bước: Trước tiên, cô ta thành thật nhận mình đã sai.  Cô nhận hoàn toàn trách nhiệm mà không cố giải thích hay biện minh.  Cô không cố tình làm việc đó, nhưng thừa nhận mình hoàn toàn làm chủ hành động của mình, và tốt hơn không nên làm như vậy.  Điều này có nghĩa là, lần sau cô sẽ tránh sai phạm lỗi lầm tương tự.  Thứ đến, cô không cho rằng cảnh sát đã làm sai, cô không đổ lỗi cho nhân viên giao thông về sự việc đã diễn ra.  Cuối cùng, Witherspoon đã không chần chừ, mà nhanh chóng nói lời xin lỗi, cho dù sự việc sẽ gây ra xấu hổ cho cô.

Chỉ cần vài câu ngắn ta có thể nói lên một lời xin lỗi đàng hoàng – không cần phải suy đi nghĩ lại.  Có thể nó không dễ dàng nhưng nó đem lại cho ta sự thanh thản, bình an.

(The life-changing benefits of a good apology/Michael Rennier)
Cành Dương chuyển ngữ 

************

Lạy Thánh Thần Chúa, xin giúp con biết dẹp bỏ tự ái, mặc cảm, xin ban thêm ơn can đảm để con có thể mạnh dạn mở miệng nói lời xin lỗi chân thành với những ai mà con đã lỡ xúc phạm, làm tổn thương đến họ, đặc biệt là với những người thân thương trong gia đình.  Và cũng xin cho con biết mở rộng tấm lòng để đón nhận lời xin lỗi từ anh em con.  Amen!

Nếu không nghe được Youtube hoặc có vấn đề về kỹ thuật, xin để lại lời nhắn ở mục “Comment” phía dưới, chúng tôi sẽ cập nhật lại đường link Youtube.

PHẦN THƯỞNG (có Youtube)

“Kẻ nào tiếp đón một tiên tri vì danh nghĩa là tiên tri, thì sẽ lãnh phần thưởng của tiên tri” (Mt 10:41).

Thời nay, mỗi lần đi đâu xa, người ta có thể ghé vào quán cóc bên đường hay tiệm ăn trong phố để mua chút gì lót dạ; người ta cũng có thể thuê một quán trọ bình dân hay khách sạn hạng sang để trú ngụ qua đêm.  Nhưng trong thời tiên tri Elisa, làm gì có được chuyện đó, dù rằng người du hành có nhiều tiền mấy chăng nữa, cũng khó kiếm được hàng quán để ăn uống và nghỉ ngơi.  Thế nên ai khởi sự đi xa, ra khỏi phạm vi gia đình hoặc làng xóm là bắt đầu lệ thuộc vào lòng hiếu khách của những người xa lạ để sống còn.

Elisa vô cùng may mắn khi gặp được người phụ nữ ngoại bang ở thành Sunam đón tiếp và mời dùng bữa với danh nghĩa là một tiên tri, “vị thánh của Thiên Chúa.”  Người phụ nữ này vốn giàu có và đạo đức.  Thấy Elisa thường qua lại thành Sunam nên bà mới bàn với chồng cất một căn phòng trên gác cao, có “một cái giường, một cái bàn, một cái ghế, và một cái đèn, để mỗi khi đến, ông ở đó.”  Trước lòng hiếu khách cao quí đó, tiên tri Elisa muốn thưởng công cho hai vợ chồng.  Thế rồi khi biết người chồng đã già mà vợ lại chưa con, Elisa liền hứa cho bà được “sinh một cậu con trai vào năm tới.”

Đây quả là phần thưởng vượt quá ước mơ.  Nhưng đó cũng mới chỉ là phần thưởng dành cho những người đón tiếp tiên tri.  Còn phần thưởng của Thiên Chúa dành cho những người xử tốt với chính môn đệ Ngài còn đáng mong đợi hơn nhiều.

Ngày xưa, khi dân chúng của một làng hay thành nào đón tiếp Đức Giêsu, lập tức nơi đó nhận được phần thưởng của Thiên Chúa: bệnh nhân được chữa lành, tội nhận được tha thứ, người nghèo được loan báo Tin Mừng.  Còn với nơi nào từ chối đón tiếp Ngài hay các môn đệ, phần dành cho nơi đó chỉ là chút bụi bàn chân.

Người Do thái thường cảm nhận: khi tận tâm đón tiếp vị đại diện của ai là như chân thành đón tiếp chính người đó.  Thành ra khi đón nhận các môn đệ Đức Kitô thì không khác gì đón nhận chính Ngài, mà đón nhận chính Ngài cũng có nghĩa là đón nhận chính Thiên Chúa.

Trong một thế giới, khi chủ nghĩa cá nhân ích kỷ khép kín lòng người, Tin Mừng của Đức Giêsu lại vang lên lời mời gọi mở lòng, hiếu khách.  Nói đúng hơn, Ngài kêu mời con người bước vào hành trình yêu thương mà hình thức đơn giản nhất là việc đón tiếp.  Một nhà tư tưởng đã viết: “Tiếp đón niềm nở chính là hình thức vui tươi của lòng yêu thương.”

Lắm khi người ta dễ dàng tiếp đón các nhân vật nổi tiếng như các đấng tiên tri, người công chính, vị tư tế…, và chắc chắn họ sẽ nhận được ân phúc mà Thiên Chúa ban thưởng cho những con người dấn thân cao cả đó.  Thế nhưng Đức Giêsu còn đi xa hơn khi mời gọi người ta nới rộng sự tiếp đón đến các kẻ bé mọn, người bị bỏ rơi, người già đau yếu, thai nhi vô tội….  Những con người này cũng cần được ân cần tiếp đón như sứ giả của Đức Kitô.  Và chỉ “một bát nước lã” cho họ uống thôi cũng đủ cầm chắc phần thưởng Thiên Chúa trao ban rồi.

Tiếp đón không chỉ thuần túy là mở cửa nhà, mở hầu bao, mở chum nước, nhưng đúng hơn là mở rộng con tim.  Chỉ khi rộng mở tâm hồn, con người mới thật sự lớn lên trong cảm thông, tương quan, tình thân, và hiệp nhất.  Một tác giả đã nhận định: “Sống là phải mở ra.  Như cánh hoa mở ra với mặt trời, như dòng sông mở ra với biển khơi, như cơ thể mở ra với khí trời và ánh nắng.  Mở ra như thế là đòi hỏi thiết yếu của sự sống.”  Phương diện thể chất còn cần mở ra để được sống, huống chi là phương diện tâm linh.

Mở ra nào cũng có nguy cơ tiêu hao mất mát.  Khi can đảm mở rộng con tim là sẵn sàng chấp nhận đau thương rướm máu.  Thế nhưng nếu chỉ lo khép kín trong ích kỷ là tự đi vào huỷ diệt, còn khi biết rộng mở cho yêu thương là bắt đầu tìm gặp sự sống: “Ai cố giữ mạng sống mình thì sẽ mất.  Ai dám mất mạng sống vì Thầy thì sẽ tìm lại được nó” (Mt 10:39).

Yêu thương phải là nền tảng của mọi dâng hiến.  Bởi vì nếu tôi đem cả gia tư vốn liếng mà phát chẩn; và nếu như tôi nộp mình chịu thiêu, nhưng lại không có lòng mến thì cũng hư không vô ích cho tôi (1 Cor 13:3).

Yêu thương làm nên sự sống, nhưng yêu thương nào cũng mời gọi hy sinh hiến dâng.  Hy sinh không phá huỷ con người, cũng không là cách tự tử cuồng tín, song là lối đường tạo nên những người đàn ông và đàn bà cao cả nhất (Noel Question).

Yêu thương khiến người ta tha thiết mở cửa tâm hồn ra với thế giới (dù cửa nhà có đang khép kín) để dám đón nhận tất cả và hy sinh cho tất cả.  Alain Cavalier, người thực hiện cuốn phim về Chị Thánh Têrêsa và được giải thưởng Cannes cao quí đã phát biểu như sau: “Rút mình khỏi thế giới, một mình trong phòng kín… đóng kín lại để mở ra nhiều hơn, tốt hơn.”  Và rồi, nhờ mở ra trong khát mong yêu thương tròn đầy, nên tuy không đi truyền giáo đâu xa hơn bốn bức tường tu viện, Têrêsa vẫn là quan thầy của các vùng truyền giáo, không làm linh mục để hoán đổi một linh hồn tội lỗi, nhưng đã vực dậy bao cõi lòng lao đao lạc lối, không giảng một bài nảy lửa làm rúng động tâm linh, nhưng lại là tiến sĩ của con đường thơ ấu dẫn bao tâm hồn đến với Tình Yêu.

Chị Thánh đã mở trái tim mình để đón tiếp Tình Yêu nên đã lãnh được phần thưởng của Tình Yêu.

Thế ra, tuy không phải là tiên tri hay nhà thừa sai truyền giáo, tuy không phải là linh mục hay thành viên trong các tu viện đó đây, nhưng nếu biết mở lòng cho yêu thương, kính trọng, cầu nguyện và đỡ nâng những bước chân rao giảng Tin Mừng, tôi sẽ có được phần thưởng mà Đức Kitô sẽ dành ban cho các sứ giả kiên trung của Người.

Sưu tầm

Nếu không nghe được Youtube hoặc có vấn đề về kỹ thuật, xin để lại lời nhắn ở mục “Comment” phía dưới, chúng tôi sẽ cập nhật lại đường link Youtube.

GÀ GÁY VÀ NGÃ NGỰA (có Youtube)

Gà gáy và ngã ngựa là hai sự kiện nổi bật trong cuộc đời hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô.  Tiếng gà gáy để phản tỉnh.  Cú ngã ngựa để hết tự mãn.  Phêrô và Phaolô, trước khi là thánh, hai vị cũng là người tội lỗi, yếu đuối, chập choạng trên con đường đức tin.  Các ngài có một quá khứ lầm lỗi.  Phêrô có lần bị Chúa quở là satan; ông đã ba lần chối Thầy.  Phaolô đã năm lần bảy lượt đi lùng bắt và giết chết những ai mang danh Kitô hữu; ông đã can dự vào việc ném đá Stêphanô, vị tử đạo đầu tiên của Giáo hội.  Cả hai đều hăng say năng nổ, muốn dùng sức lực của mình và phương tiện thế gian để bảo vệ Chúa mình tôn thờ, và muốn tiêu diệt những kẻ không theo đạo giống mình.  Chúa Giêsu đã cứu cả hai, mỗi người được cứu một cách.  Tiếng gà gáy và cú ngã ngựa là hai dấu ấn không phai trên hành trình nên thánh.

Tiếng gà gáy phản tỉnh

Sau khi chối Thầy lần thứ ba, từ trên pháp đình Chúa nhìn xuống Phêrô.  Ánh mắt Thầy vẫn trìu mến thân thương như gởi đến ông sứ điệp: Phêrô, sao con lại chối Ta.  Ơn nghĩa Thầy trò ba năm gắn bó chẳng lẽ không còn một chút vương vấn hay sao?  Lại thêm tiếng gà gáy đêm khuya, nhắc nhở lương tâm ông tỉnh ngộ và nhớ lại lời Thầy đã tiên báo: “Trước khi gà gáy, con đã chối Ta ba lần.”  Phêrô lầm lũi ra khỏi pháp đình, nước mắt tuôn trào, tâm hồn trĩu nặng, cõi lòng xốn xang, mình chỉ là cát bụi, phận yếu hèn và quá dễ sa ngã!  Phêrô thổn thức. Mới hôm nào ông còn tuyên bố: “Dù mọi người bỏ Thầy, riêng con thì không bao giờ.”  Thế mà, giờ đây ông lại nhát gan khi đối diện nguy nan nên đã chối Thầy đến ba lần.  Và đêm hôm ấy, tiếng gà gáy đã thức tỉnh tâm hồn Phêrô.  Xuất thân là ngư phủ với bản tính chất phác, chân thật, có sao nói vậy, nên khi lầm lỗi ngài chân thành sám hối và òa khóc như một đứa trẻ.  Đó là hành trình của phàm nhân, những con người luôn mỏng dòn và yếu đuối, nhưng luôn được Thiên Chúa hải hà thương xót, thứ tha và thánh hóa.  Đời ông là giằng co giữa yếu đuối và dũng mãnh, giữa trọn vẹn và dang dở.  Trái tim ông có u tối đi tìm ánh sáng, có nuối tiếc đi tìm lý tưởng.  Đời ông có tự tin gặp vấp ngã, có phấn đấu gặp thất bại.  Tuy nhiên, thánh Phêrô có nhiều đức tính đáng nể phục.  Chính những đức tính sáng chói này sẽ làm lu mờ đi những cái tầm thường nơi con người của ngài.  Nhờ đó, ngài đã xứng đáng với sự tín nhiệm của Chúa.  Thánh Phêrô có lòng quảng đại.  Khi được Chúa gọi, ông nhanh nhẹn bỏ tất cả mọi sự rồi theo Chúa.  Thánh Phêrô có một đức tin chân thành và lòng gắn bó keo sơn với Chúa: “Lạy thầy, bỏ Thầy chúng con biết theo ai vì Thầy có lời ban sự sống đời đời.”  Đức tính đáng cảm phục nhất chính là lòng khiêm nhường.  Đó là nhân đức nền tảng của mọi nhân đức.  Khiêm nhường là mẹ các nhân đức.  Rõ ràng, trong trái tim Phêrô lúc nào cũng yêu Chúa.  Ngay cả khi Chúa bảo Phêrô là Satan thì ngài cũng không giận Chúa.  Chỉ vì sự sợ hãi yếu đuối mà chối Thầy, chứ trong tâm hồn lúc nào Phêrô cũng yêu mến Chúa.  Không phải Phêrô yếu đuối vấp ngã mà Chúa bỏ rơi, chính tình yêu chân thành trong tâm hồn Phêrô mà Chúa đã yêu thương chọn làm Tảng Đá.

Cú ngã ngựa để hết tự mãn

Saolô ở Tacxô, là người Do thái, trí thức, thông thạo nhiều thứ tiếng miền Do thái-Hy lạp, rất sùng đạo theo môn phái Gamaliên ở Giêrusalem.  Là biệt phái nhiệt thành nên Saolô đi lùng sục bắt bớ Đạo Chúa, tham gia vào vụ giết Stêphanô và trên đường Đamat truy lùng các Kitô hữu.  Oai phong trên yên ngựa đang phi nước đại, thình lình, một luồng ánh sáng từ trời loé rạng bao lấy ông, Saolô té nhào từ yên ngựa.  Nằm sóng soài dưới chân ngựa, Saolô nghe được tiếng gọi trong luồng ánh sáng phát ra từ trời: “Saolô, Saolô, sao ngươi bắt bớ Ta?”  Saolô hỏi lại: “Thưa Ngài, Ngài là ai?”  Tiếng từ trời đáp: “Ta là Giêsu Nadarét mà ngươi đang bắt bớ.”  Không thể tin vào chính mình nữa, không ngờ ông Giêsu Nadarét, người đã bị đóng đinh vào thập giá như một tên tội phạm, lại chính là Thiên Chúa quyền năng đã quật ngã mình và đã tự đồng hóa với những Kitô hữu mà mình đang lùng bắt.  Dưới ánh sáng của Đấng Phục Sinh, đôi mắt của Saolô bị mù loà, nhờ đó ngài biết rằng trước đây mình thật là mù quáng.  Nhưng sau đó, qua trung gian của Khanania, đại diện của Giáo Hội, ngài đã được sáng mắt về phần xác và cả phần hồn để nhìn thấy con đường mình được mời gọi bước vào.

Hoàn toàn phó thác, ngài đã thưa với tất cả tâm tình phục thiện: “Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì?”  Con đường đức tin của Saolô đã hoàn toàn thay đổi kể từ lần gặp gỡ hi hữu ngoài sức tưởng tượng ấy.  Sự sống của Chúa Phục Sinh đã làm thay đổi cuộc đời của ông.  Được ơn trở lại từ cú ngã ngựa nhớ đời, Saolô được biến đổi để trở nên chứng nhân vĩ đại là Phaolô,Tông Đồ dân ngoại.  Khi đã biết Chúa Kitô thì “những gì xưa kia tôi cho là có lợi, thì nay, vì Đức Kitô, tôi cho là thiệt thòi.  Hơn nữa tôi còn coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời là được biết Đức Giêsu Kitô,Chúa của tôi.  Vì Ngài, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như đồ bỏ, để được Đức Kitô và được kết hợp với Người.  Được như vậy, không phải nhờ sự công chính của tôi, sự công chính do luật Môsê đem lại, nhưng nhờ sự công chính do lòng tin vào Đức Giêsu” (Pl 3,7-9).   Phaolô hiên ngang được sống và được chết cho Chúa Kitô.  Ngài trở thành một Tông đồ dân ngoại kiệt xuất, thành lập nhiều Giáo đoàn, mở mang phát triển Hội Thánh cách quang minh chính đại, khiến bản thân phải ra toà, tù tội, vất vả trăm đường.  Các mối phúc thật được kết tinh nơi cuộc đời thánh nhân.  Phaolô đã sung sướng tự hào cả khi ý thức những yếu đuối của mình “Ơn Ta đủ cho con vì chưng quyền năng trong yếu đuối mới viên thành” (2Cor 12,9).  Không gì có thể làm nao núng lòng tin mãnh liệt ấy “Chúng tôi bị dồn ép tư bề nhưng không bị đè bẹp; hoang mang nhưng không tuyêt vọng; bị ngược đãi nhưng không bị bỏ rơi; bị quật ngã nhưng không bị tiêu diệt” (2Cor 4,8-9).  Vị Tông đồ dân ngoại đã nhiệt thành loan truyền Chúa Kitô với tất cả thao thức “Khốn thân tôi,nếu tôi không rao giảng Tin mừng” (1Cor 5,14).  Ngài luôn sống trong niềm tin tưởng yêu mến vào Đấng đã kêu gọi Ngài “Tôi sống trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, là Đấng yêu mến tôi và thí mạng vì tôi” (Gal 2,20).  Vì Đức Kitô và vì Tin mừng, thánh nhân đã sống và chết cho sứ vụ.  Cuộc sống bôn ba vì Nước trời được điểm tô muôn ngàn vạn nét đẹp của Phaolô mãi mãi được hát lên như một bài ca khải hoàn “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô?  Phải chăng là gian truân, bắt bớ, đói khát, trần truồng, nguy hiểm, gươm giáo?…  Vì tôi thâm tín rằng sự chết hay sự sống, dù thiên thần hay thiên phủ, dù hiện tại hay tương lai, hay bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ tạo vật nào khác, không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu Thiên Chúa thể hiện cho chúng ta trong Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Rm 8,35-39).

Là người tội lỗi được Chúa nhìn đến

Giáo hội mừng kính hai thánh Tông đồ cùng chung một ngày.  Hai con người khác nhau từ cá tính đến thân thế nhưng cùng chung một ơn gọi từ Chúa Kitô, cùng chung một niềm tin vào Chúa Kitô, chung một sứ mạng Chúa Kitô trao phó và cuối đời cùng chịu tử đạo vì Chúa Kitô tại Roma.  Cùng chia sẻ một niềm tin, cùng thi hành một sứ mạng, Chúa Kitô đã đưa hai ngài đến một cùng đích, một vinh quang đội triều thiên khải hoàn.  Hai con người khác biệt ấy lại có những điểm tương đồng lạ lùng.  Chúa Kitô đã nối những điểm tương đồng ấy để tất cả được nên một ở trong Người.  Thánh Phêrô, trước đây hèn nhát, sợ hãi, chối Chúa, về sau yêu Chúa nồng nàn thiết tha.  Thánh Phaolô, trước kia ghét Chúa thậm tệ, sau này yêu Chúa trên hết mọi sự.  Chúa đã dùng hai sự kiện gà gáy và ngã ngựa để thanh tẩy các ngài.  Trước kia hai vị rất khác biệt, bây giờ cả hai nên một trong tình yêu Chúa.

Sự nghiệp Tông đồ tiếp bước Chúa Kitô, hai vị hiệp nhất trong cùng một lòng chân thành tuyên xưng, hiệp nhất trong một tâm huyết nhiệt thành rao giảng để rồi mãi mãi hiệp nhất trong cùng một đức tin minh chứng.  Mặc dù có nhiều khác biệt về thành phần bản thân, về ơn gọi theo Chúa về hướng truyền giáo, nhưng cả hai vị đã tạo nên sự hiệp nhất trong đa dạng.  Cùng chịu tử đạo.  Cùng trở thành nền móng xây toà nhà Giáo hội. Cùng trở nên biểu tượng hiên ngang của niềm tin Công Giáo.  Hai Vì Sao Sáng được Giáo hội mừng chung vào một ngày lễ 29 tháng 6.  Hai Tông Đồ cột trụ đã trở nên tượng đài của sự hiệp nhất trong Giáo hội.  Hiệp nhất là một công trình được xây dựng với nhiều nỗ lực của con người dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Linh.  “Khác nhau trong điều phụ, hiệp nhất trong điều chính, yêu thương trong tất cả,” đó là khuôn vàng thước ngọc cho tinh thần hiệp nhất trong Giáo hội.

Đón nhận ánh sáng từ nơi Chúa Kitô, hoạt động truyền giáo theo sự dẫn dắt của Chúa Thánh Linh, hai Thánh Tông đồ trở nên nền tảng hiệp nhất.  Hai ngài trở thành chói sáng như hai vì sao trong vòm trời Giáo Hội, đáng được các tín hữu chiêm ngắm noi theo.  Hai ngài đã biết khiêm tốn, nhận mình là thấp hèn tội lỗi rồi mở tâm hồn ra đón nhận tình thương của Thiên Chúa.  Khi trả lời câu phỏng vấn: “Jorge Bergoglio là ai?”, Đức Thánh cha Phanxicô đáp: “Tôi là người tội lỗi được Chúa nhìn đến.”  Và ngài tuyên bố: “Chính tôi là người tội lỗi đây, có gì lạ đâu!  Cái lạ là ở chỗ được Chúa nhìn đến, được Chúa xót thương.  Và từ đó người ta tìm xem Chúa xót thương ở chỗ nào.”

Xin hai Thánh Tông Đồ giúp chúng con luôn biết tín thác vào tình thương của Chúa, luôn biết tiến bước theo các ngài trên con đường theo Chúa.  Amen!

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Nếu không nghe được Youtube hoặc có vấn đề về kỹ thuật, xin để lại lời nhắn ở mục “Comment” phía dưới, chúng tôi sẽ cập nhật lại đường link Youtube.

TRÁI TIM NHÂN HIỀN (có Youtube)

Giáo Hội dành tháng Sáu hằng năm để tôn vinh Thánh Tâm Chúa Giêsu.  Thánh Tâm là biểu tượng của tình yêu Thiên Chúa đối với nhân loại.  Thánh Gioan đã viết: “Người đã yêu thương họ (các môn đệ) đến cùng” (Ga,13,1).  Ý niệm “đến cùng” này được chứng minh qua cái chết trên thập giá, cũng như qua việc trái tim của Chúa bị đâm thâu.  Bởi trên thập giá, Chúa Giêsu đã trở nên người nghèo khó và đau khổ như những kẻ cùng cực nhất trên thế gian.  Cũng trên thập giá, Trái tim Người đã mở ra, như một kho tàng phong phú, rộng mở để ban tặng hết những vật phẩm quý giá cho mọi người.  Chính vì vậy, Giáo Hội ca tụng tình yêu của Chúa và tung hô: Ôi Trái tim nhân hiền!

Đức Giêsu là Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể làm người.  Người đã chia sẻ phận người và đồng hành với con người còn mang nhiều khổ đau.  Trong con người của Chúa Giêsu, trái tim vô hình của Thiên Chúa cao cả, và trái tim hữu hình của con người hữu hạn đã trở nên một.  Vì vậy, trái tim của Người vừa hàm chứa tình yêu bao la của Đấng tạo thành, vừa mang những thổn thức rung động của một con người.  Trái tim ấy vừa yêu thương chúc lành, vừa đồng cảm trước nỗi khốn khó của con người.  Các tác giả Phúc âm đều diễn tả Chúa Giêsu với những cảm xúc rất nhân loại, đồng thời có những nghĩa cử rất thiên linh.  Người vỗ vai an ủi người mẹ trong đau khổ tang thương, đồng thời làm cho người con của bà đã chết được sống lại trong niềm vui của dân làng lối xóm; Người rơi lệ khi chứng kiến nỗi đau của thân nhân ông Lagiarô là người đã chết bốn ngày, đồng thời ra lệnh cho ông bước ra khỏi mồ trong sự ngạc nhiên thán phục của dân chúng.  Qua lời giảng dạy và qua những phép lạ, Chúa Giêsu bày tỏ tình thương của Thiên Chúa.  Qua con người của Đức Giêsu, chính Thiên Chúa cúi mình xuống, trở nên gần gũi con người để cảm thông và chia sẻ nỗi đau của kiếp nhân sinh.

Đức Giêsu là Đấng Thiên sai, đến trần gian để đem ơn cứu rỗi cho con người.  Trong lời giáo huấn, Người lấy lại hình ảnh người mục tử của Cựu ước để diễn tả sứ mạng phục vụ con người.  Người đã khẳng định: “Tôi là mục tử nhân lành…” (Ga 10, 11).  “Mục tử nhân lành” có nghĩa là mục tử có đầy đủ mọi đức tính: bao dung, kiên trì, nhẫn nại, khiêm tốn, tận tình.  Người mục tử chân chính bao giờ cũng lo cho đàn chiên và đặt lợi ích của đàn chiên là ưu tư hàng đầu.  Trong suốt thời gian rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu đã thể hiện là một mục tử nhân lành.  Người luôn quan tâm giúp đỡ những ai đến với Người, bất luận đó là hạng người nào.  Người đón tiếp những người tội lỗi, đối thoại với những người bất đồng ý kiến, thương xót những người cơ hàn khốn khổ.  Hình ảnh một mục tử chăm sóc và chữa lành con chiên bệnh tật, nâng đỡ con chiên yếu đuối, cất công đi tìm con chiên lạc… đã thể hiện rõ nét nơi Chúa Giêsu.

Tiếp nối sứ mạng của Chúa Giêsu, Giáo Hội luôn quan tâm săn sóc người nghèo, nâng đỡ họ về tinh thần cũng như vật chất.  Như vị Ngôn sứ thành Nagiarét đã cần mẫn rảo khắp xứ Palestina để loan báo Tin Mừng, hai ngàn năm qua, Giáo Hội không ngừng đến với mọi nền văn hóa, đối thoại với mọi hệ thống chính trị, nâng đỡ và cứu giúp những người đau khổ, là nạn nhân của chiến tranh, nghèo đói và kỳ thị.  Khi loan báo Tin Mừng qua nhiều ngả đường khác nhau, nhất là bằng những hoạt động bác ái, Giáo Hội trình bày tình thương của Thiên Chúa. Tình thương ấy thể hiện qua Đức Giêsu Kitô.  Ai đón nhận Đức Giêsu là đón nhận tình thương của Thiên Chúa.  Ai thực hành giáo huấn của Đức Giêsu là góp phần diễn tả hình ảnh của Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu.

Chúa Giêsu đã về trời sau khi hoàn tất sứ mạng Thiên Sai, nhưng Người vẫn hiện diện giữa chúng ta như lời Người đã hứa: “Này đây, Thày ở với anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20).  Người hiện diện để tiếp tục tỏ bày tình yêu thương đối với nhân loại.  Người ở giữa chúng ta để cùng vác thập giá với chúng ta giữa cuộc sống đầy lao nhọc và gian nan khốn khổ. “Hãy đến với Ta tất cả, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các ngươi.  Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng, và tâm hồn các ngươi sẽ gặp được bình an.  Vì ách của Ta thì êm ái và gánh của Ta thì nhẹ nhàng” (Mt 11,28-30).  Mỗi chúng ta đều đã hơn một lần trải nghiệm điều này, là nếu trao gửi những lắng lo cho Chúa và trông cậy tín thác nơi Người, Người sẽ nâng đỡ ủi an chúng ta.  Gánh nặng cuộc đời vì thế mà bớt đắng cay.  Cuộc sống trở nên nhẹ nhàng và lạc quan hơn.

Việc tôn sùng Thánh Tâm Chúa không chỉ nhằm nhắc cho chúng ta một câu chuyện dĩ vãng xa xưa, nhưng mời gọi chúng ta hãy sống cụ thể sứ điệp yêu thương trong cuộc sống hằng ngày.  Lời Chúa Giêsu căn dặn các tông đồ vào lúc cuối bữa tiệc ly cũng là lời Chúa căn dặn mỗi người tín hữu chúng ta: “Nếu Thày là Thày và là Chúa mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau” (Ga 13,14).  Đó chính là bài học yêu thương mà Chúa Giêsu muốn để lại cho chúng ta, để rồi mọi thế hệ, bất cứ nơi đâu và trong bất kỳ hoàn cảnh nào, khi chúng ta thực thi đức yêu thương là chúng ta làm cho người khác nhận biết Chúa.

“Lạy Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường trong lòng, xin uốn lòng chúng con nên giống trái tim Chúa” (Kinh cầu Trái Tim).  Lời cầu nguyện rất đơn sơ này diễn tả mong ước cho mỗi người tín hữu trở thành hình ảnh sống động của Chúa Giêsu giữa trần gian.  Hãy sống với nhau bằng trái tim, để làm cho cuộc sống này thấm đượm yêu thương.  Hãy phản ánh “Trái tim nhân hiền” của Chúa Giêsu qua lời nói và việc làm hằng ngày.  Một khi mang trong mình trái tim giống trái tim của Chúa, chúng ta sẽ dễ dàng kết nối yêu thương với mọi người và làm cho yêu thương lan tỏa trong cuộc sống hôm nay.

Gm Giuse Vũ Văn Thiên
Tháng Thánh Tâm Chúa Giêsu 2017

Nếu không nghe được Youtube hoặc có vấn đề về kỹ thuật, xin để lại lời nhắn ở mục “Comment” phía dưới, chúng tôi sẽ cập nhật lại đường link Youtube.

BIẾT SỢ (có Youtube)

Có những người quá nhát sợ.  Gặp con dán hay con chuột cũng co rúm người, mặt cắt không còn giọt máu.  Có những người, trái lại, chẳng biết sợ là gì.  Coi mạng sống nhẹ như tơ.  Lên xe là phóng như bay.  Liều lĩnh thường thiệt mạng.  Nhút nhát quá đâm hỏng việc.  Một đàng bất cập, một đàng thái quá.  Vì thế vấn đề không phải là sợ hay không sợ.  Vấn đề là phải biết phân định.  Biết những gì nên sợ và những gì không nên sợ.  Hôm nay Chúa Giêsu giúp ta phân định để biết sợ và không biết sợ.

Trước hết, Người dạy ta biết phân định giá trị.  Sự sống là quí giá ta phải trân trọng.  Mất sự sống là mất tất cả.  Tuy nhiên sự sống có nhiều cấp độ.  Có sự sống thân xác nhưng cũng có sự sống linh hồn.  Có sự sống đời này nhưng không có sự sống đời sau.  Sự sống đời này là chóng qua.  Sự sống đời sau vĩnh cửu.  Sự sống thân xác mau tàn.  Sự sống linh hồn bất diệt.  Ta phải yêu quí cả hai sự sống.  Nhưng khi không thể giữ gìn vẹn toàn cả hai thì phải biết chọn sự sống cao quí, vĩnh cửu, đó là linh hồn, là sự sống đời sau.

Người cũng dạy ta phân định thời cơ.  Thời cơ chỉ đến một lần.  Lỡ thời sẽ không bao giờ tìm lại được nữa.  Lỡ thời có thể hỏng cả cuộc đời.  Có thời cơ để rao giảng Lời Chúa.  Hiện nay, Lời Chúa bị che giấu, chỉ thì thầm bên tai, còn nhiều người chưa biết.  Ta được cơ hội đóng góp phần mình vào việc rao truyền Lời Chúa.  Nhưng sẽ đến ngày mọi sự kín đáo sẽ tỏ lộ.  Lời Chúa sẽ được mọi người nhận biết.  Bấy giờ cơ hội sẽ hết.  Có thời cơ tuyên xưng danh Chúa.  Khi còn ở trần gian, giữa những người chưa biết Chúa, giữa những thế lực thù địch, trong cơn gian nan, chính là cơ hội cho ta tuyên xưng danh Chúa.  Khi cuộc đời trần gian chấm dứt, cơ hội đó sẽ không còn.

Và sau cùng là phân định nguyên lý.  Thiên Chúa là chủ mọi loài.  Thiên Chúa nắm quyền sinh tử.  Thiên Chúa an bài mọi sự.  Con người chỉ là quản lý của Chúa trong một thời gian, trong một vài lĩnh vực.  Khi thời gian chấm dứt, chính Thiên Chúa xét xử và thưởng công, trừng phạt.

Khi đã có những phân định rõ ràng ta sẽ biết sợ và biết không sợ.

Biết sợ Chúa là Chủ tể mọi loài, mọi sự.  Không những làm chủ thân xác mà còn làm chủ cả linh hồn.  Không những làm chủ đời này mà còn làm chủ cả cuộc đời sau.

Biết sợ mất linh hồn.  Linh hồn là món quà cao quí nhất Thiên Chúa tặng cho con người.  Sự sống của linh hồn là sự sống Thiên Chúa ban, hạnh phúc vĩnh cửu bên Chúa.  Mất linh hồn là mất tất cả.  Như Chúa Giêsu vẫn nhắc nhở: “Được lời lãi cả thế gian mà phải mất linh hồn thì nào được ích gì?”

Biết sợ lỡ thời cơ.  Hãy biết làm việc khi còn ban ngày, khi trời còn sáng, khi ta còn sống.  Thời cơ chỉ đến một lần, nếu ta không tận dụng sẽ lỡ cả một đời.  Như những cô trinh nữ khờ dại chỉ còn đứng ngoài cửa Thiên đàng mà than khóc.  Như người đầy tớ lười biếng chôn giấu nén bạc phải khóc lóc nghiến răng.

Khi đã biết sợ như thế, ta sẽ không sợ người đời, vì người đời chỉ giết được thân xác mà không giết được linh hồn.  Ta sẽ không sợ mất mạng sống, vì sự sống thân xác nay còn mai mất, chẳng tồn tại lâu dài.  Ta sẽ không sợ khổ hình hành hạ thân xác, vì khổ hình rồi cũng sẽ qua.

Nói không sợ cũng không đúng hẳn.  Đau đớn khổ cực ai mà không sợ.  Nhưng như Chúa Giêsu trong vườn Cây Dầu, dù sợ vẫn cứ bước vào cuộc khổ nạn, Người môn đệ vẫn can đảm tuyên xưng danh Chúa, vẫn kiên trì rao giảng Lời Chúa, chấp nhận tất cả những khó khăn hiểm nguy đe doạ, rình rập, chấp nhận những đau đớn thua thiệt chóng qua đời này, với niềm tin vững chắc rằng chính Thiên Chúa là Cha nhân lành an bài mọi sự, Người sẽ ban thưởng cho ta phần thưởng không gì so sánh được, đó là hạnh phúc vĩnh cửu đời sau.

Lạy Chúa, xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa. Amen.

 ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt

Nếu không nghe được Youtube hoặc có vấn đề về kỹ thuật, xin để lại lời nhắn ở mục “Comment” phía dưới, chúng tôi sẽ cập nhật lại đường link Youtube.

 CẦU NGUYỆN CHUYÊN NGHIỆP (có Youtube)

Đức Hồng Y Fx. Nguyễn Văn Thuận thuật trong chứng từ: “Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II là một người cầu nguyện, cầu nguyện không ngừng và tha thiết.  Một ngày ngài vào Nhà Nguyện cầu nguyện đến bảy lần và nhất là cầu nguyện ban đêm.  Vì Đức Giáo Hoàng là bạn của tôi.  Nên hồi còn làm Linh Mục, Giám Mục, rồi Hồng Y, mỗi khi đến Roma thì ngài đến trọ ở nhà tôi.  Nhưng có nhiều lần tôi gặp ngài ban đêm và thấy ngài cứ nằm sấp, hai tay giang ra như hình Thánh Giá như vậy, nằm trên sàn đá ở Nhà Nguyện.  Tôi sợ ngài đau, hoặc bị cảm, sưng phổi, nên tôi phải làm cái nền Nhà Nguyện bằng gỗ cho ngài nằm!”  Đức Hồng Y Thuận nhận xét: “Đức Giáo Hoàng cầu nguyện luôn như vậy, cầu nguyện nhiều lắm, hoàn toàn tín thác, tin tưởng nơi Đức Mẹ.  Vì thế, ngài không tiếc gì và không sợ gì, dám làm những chuyện mà người khác không dám làm.”

Đức Hồng Y Fx. Thuận kể thêm: “Có lần tôi đi qua bên Mêhicô năm 1999.  Đức Thánh Cha tới trước. Ngài đến để công bố Tông Huấn “Giáo Hội tại Mỹ Châu” (Ecclesia in America) và ngày cuối cùng, 26.1.1999, Đức Thánh Cha có cuộc gặp gỡ giới trẻ ở sân vận động.  Gặp xong, khi về nhà, Đức Thánh Cha nói với Đức Sứ Thần Tòa Thánh: “Mệt quá hè!  Thôi đi ngủ!”  Chính Đức Sứ Thần Tòa Thánh về sau thuật lại với tôi: “Lúc ấy tôi mệt quá sức, nên khi nghe Đức Thánh Cha nói: “Thôi đi ngủ!” Tôi mừng quá, vì tôi mệt rã người ra rồi…  Tôi thì sợ không biết Đức Thánh Cha có thức dậy nổi không, nhưng ngài lại dặn dò tôi: “Sáng mai, nếu Đức Cha muốn đồng tế với tôi thì vào Nhà Nguyện, chúng ta đồng tế với nhau.”

Đức Sứ Thần kể tiếp với tôi: Tôi về phòng, ngủ một giấc, ngủ say, sáng hôm sau, thức rồi mà chưa muốn dậy nữa!  Nhưng tôi phải lo, trước 8 giờ, tôi chạy tới phòng Đức Thánh Cha, thấy anh sĩ quan vệ binh Thụy Sĩ gác ở đó, tôi hỏi: Anh có thấy Đức Thánh Cha chưa? – Dạ có! – Anh thấy lúc nào? – Thưa con thấy Đức Giáo Hoàng lúc 12 giờ đêm…  Tôi ngạc nhiên quá hỏi tiếp: Vậy ngài đi đâu? – Thưa đi Nhà Thờ?  Tôi kinh ngạc hỏi lại: Ngài đi Nhà Thờ lúc 12 giờ đêm? – Dạ đúng, ngài đi lúc 12 giờ đêm. – Vậy ngài có về phòng không? – Dạ không!  Ngài có dặn con rằng: Sáng mai, nếu Đức Sứ Thần Tòa Thánh đến tìm cha, thì nói ngài vô Nhà Thờ, cha đợi ngài đồng tế!  Đức Sứ Thần Tòa Thánh nói với Đức Hồng Y Thuận: Mình mệt như vậy, mà Đức Giáo Hoàng thì thức cả đêm!  Lại vào Nhà Thờ ở với Chúa cả đêm.  Và Đức Hồng Y Thuận kết luận: Đối với Đức Thánh Cha, cầu nguyện như thế là chuyện bình thường… (Chứng từ của Hồng Y Fx. Nguyễn Văn Thuận).

Tin Mừng theo Thánh Luca, “Đức Giêsu phán cùng các môn đệ một dụ ngôn, dạy các ông phải cầu nguyện luôn, đừng ngã lòng.”  Cần kiên nhẫn cầu nguyện, tận tình như bà goá nọ, cứ mãi nài van ông thẩm phán thiếu lòng thương xót, minh oan cho bà.  Tuy Thiên Chúa luôn tràn đầy Lòng Thương Xót, nhưng tín hữu cầu nguyện cần đúng đắn nhận thức thân phận thụ tạo, tự hạ, luôn bền chí, chuyên tâm, kiên cường, trong Tin Cậy Mến.

Thành tín cầu nguyện

Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II thường sấp mình cầu nguyện là tấm gương hạ mình sáng chói cho tất cả Kitô hữu noi theo.  Tự hạ với lòng tin chân thành, nồng nhiệt, lời cầu nguyện mới xứng đáng dâng lên Thiên Chúa, chứ không phải chỉ khuya môi múa mép, hay tuân thủ nghi thức bên ngoài.  Nếu không, thì thật đáng buồn, khiến Đức Giêsu lại phải trách: “Ngôn Sứ Isaia thật đã nói rất đúng về các ông là những kẻ đạo đức giả, khi viết rằng: Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta” (Mc 7, 6 ).

Thành tín là chìa khoá mở vào phòng cầu nguyện, là điều kiện tiên quyết để dâng lên Chúa tất cả tâm tình biết ơn, cảm tạ, chúc tụng, ngợi khen biết bao hồng ân Chúa, ban tặng cho tất cả mọi loài thụ tạo trong từng giây phút cuộc đời. Tất cả những gì anh em lấy lòng tin mà xin khi cầu nguyện, thì anh em sẽ được (Mt 21, 22).

Thánh Giacôbê Tông Đồ luôn khuyên nhủ tín hữu xác tín mà cầu nguyện: “Nhưng người ấy phải cầu xin với lòng tin không chút do dự, vì kẻ do dự thì giống như sóng biển bị gió đẩy lên vật xuống” (Gc 1, 6).

Kính mến cầu nguyện

“Thiên Chúa là Tình Yêu” (1Ga 4, 6 và 16), nên cầu nguyện còn là cuộc gặp gỡ nóng bỏng lòng mến của người con với Cha nhân từ.  Ngài không bao giờ từ chối điều gì có lợi ích cho phần rỗi con cái.  “Người cha nào trong các con có đứa con xin bánh mà lại cho nó hòn đá ư?  Hay nó xin cá, lại cho nó con rắn thay vì cá sao?  Hay nó xin quả trứng, lại cho nó con bọ cạp ư?  Vậy, nếu các con là những kẻ gian ác, còn biết cho con cái mình những của tốt, phương chi Cha các con trên trời sẽ ban Thánh Thần cho những kẻ xin Người.” (Lc 11, 11-13).

Kính mến Chúa qua việc lắng nghe, vâng phục tuân giữ Lời Chúa thực thi Thánh Ý.  “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy” (Ga 14, 23).  Lời Đức Giêsu hằng mời gọi luôn tỉnh thức và cầu nguyên, hầu được cứu rỗi.  “Hãy tỉnh thức luôn, cầu nguyện xin cho sức tránh thoát mọi điều sắp xảy đến, và được đứng vững trước mặt Con người”. (Lc 21, 36).

Trông cậy cầu nguyện

Cứ bền tâm vững chí, hoàn toàn phó thác, cậy trông vào quyền năng vô biên của Chúa, người Kitô hữu sẽ không phải chịu thất vọng, không bao giờ về tay trắng.  Cứ kiên trì vững cậy.“Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho.  Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở cho. (Lc 11, 9-10).

Đức Giêsu đã công khai hứa ban cho những ai nhân danh Người mà kêu xin, thì Người sẽ ban cho để Danh Chúa được cả sáng: “Bất cứ điều gì anh em nhân danh Thầy mà xin, thì Thầy sẽ làm, để Chúa Cha được tôn vinh nơi người Con.  Nếu anh em nhân danh Thầy mà xin Thầy điều gì, thì chính Thầy sẽ làm điều đó.” (Ga 14, 13-14).

Dẫu chịu khốn khó, thử thách liên tục, vẫn cứ mãi kiên trì cầu nguyện trong mọi hoàn cảnh, như thánh Phaolô khuyên nhủ tín hữu Roma hãy trung kiên: “Hãy vui mừng vì có niềm hy vọng, cứ kiên nhẫn lúc gặp gian truân, và chuyên cần cầu nguyện” (Rm 12, 12).

“Chúa dạy đọc kinh để giúp con cầu nguyện, nhưng việc chính là gặp gỡ, nói chuyện giữa Cha và con: “Khi con cầu nguyện, đừng lo phải nói gì!  Hãy vào phòng đóng cửa, cầu nguyện với Cha của con cách kín đáo, và Cha con thấy mọi sự, sẽ nghe lời con.”  Không cần hình thức, chỉ cần tâm tình phụ tử” (Đường Hy Vọng, số 127).

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con lửa mến nồng nhiệt, niềm tin chân thành, lòng cậy vững bền, để chúng con luôn khao khát tìm đến với Chúa tâm sự, qua cầu nguyện liên lỉ suốt đời.  Khấn xin Mẹ dạy chúng con siêng năng cầu nguyện, để chúng con biết lắng nghe Lời Chúa, quyết tâm thực hành Thánh Ý, cũng như dâng lên Chúa tất cả niềm vui, nỗi buồn, thành công, lẫn thất bại, để được Chúa yêu thương an ủi, che chở và cứu độ.  Amen!

LM. TRẦN BÌNH AN

Nếu không nghe được Youtube hoặc có vấn đề về kỹ thuật, xin để lại lời nhắn ở mục “Comment” phía dưới, chúng tôi sẽ cập nhật lại đường link Youtube.

MÌNH THÁNH CHÚA (có Youtube)

Làm cách nào bánh và rượu trở thành Mình Máu Thánh Chúa?  Chúa có hiện diện thật sự trong hình bánh và rượu không?  Hay đó chỉ là một biểu tượng?

************

Tình yêu
Khi yêu nhau, người ta muốn gần nhau.  Ở nơi nào cũng thế, con người thời nào cũng vậy.  Tình yêu là một sự kiếm tìm không mệt mỏi, nó là khắc khoải trong trái tim này đói khát trái tim kia.

Chưa yêu, trái tim còn nguyên vẹn.  Khi yêu nhau, trái tim chỉ còn một nửa vì nó cần nửa kia để sống.

Không có tình yêu nào muốn xa nhau, bởi, nửa trái tim kia là mong nhớ.  Chúa Kitô cũng vậy.  Trong mơ ước của Chúa, luôn có bóng hình con người chúng ta, như lời thánh Gioan viết về lời cầu nguyện của Chúa.  “Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu thì những người Cha ban cho con cũng ở đó với con” (Yn. 17:24).  Cái tha thiết của tình yêu ấy đưa trái tim này vào trong trái tim kia.  Họ phải có nhau.

Tình yêu và quà tặng
Yêu nhau người ta thường tặng quà cho nhau.  Chả mấy người yêu nhau mà không trao nhau quà tặng.  Có quà tặng tình thơ tuổi học trò.  Có quà tặng tuổi vào đời.  Có nhiều thứ quà tặng trong tình yêu.  Có quà tặng vợ chồng gởi cho nhau.  Tình yêu cần nhiều ngôn ngữ để diễn tả.  Có người muốn tặng quà để chứng minh tình yêu.  Có người cần quà tặng để biết rõ minh chứng mình được yêu. Quà là dấu chỉ đưa tin cho những trái tim ấy xô dạt nhau vào nhiều say đắm hơn.

Quà không phải là tình yêu, nó chỉ là ngôn ngữ nói về tình yêu.  Quà tặng không thay thế được tình yêu, nó chỉ là tiếng gõ cửa cho trái tim kia mở ra để tình yêu này đi tới.

Cho một phần quà chỉ là cho một phần yêu thương của con tim.  Yêu thương càng đậm thì phần quà cho đi ấy càng nhiều.  Vì thế, có người dám chết cho quê hương.   Có kẻ dám hy sinh mạng sống cho người mình thương.  Cha chấp phận mưa nắng, mẹ thức thâu đêm bên giường con bệnh.  Tình yêu và quà tặng là bến bờ cho nhau gởi nỗi niềm qua lại.

Khi Ðức Kitô yêu thương, Ngài cũng cho đi quà tặng như lời Ngài nói: “Tôi là mục tử nhân lành, mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Yn. 10:11).  Vì quà tặng chưa phải là tình yêu, nó chỉ là một phần yêu thương, nó chỉ là ngôn ngữ diễn tả tình yêu nên người được yêu vẫn chẳng bao giờ thật lòng thỏa mãn với quà tặng mà lại không ngóng trông chính tình yêu sẽ đến.

Kẻ thỏa mãn với quà tặng mà không mong mỏi chính tình yêu, người đó chỉ đi buôn tình yêu chứ không phải là đã được yêu thương.

Kẻ cho quà tặng mà không dám để tình yêu mình thực sự đến với người mình yêu, thì họ đang gạ gẫm chuyện tình chứ họ cũng chưa yêu gì.

Khi tôi đi tìm quà tặng nơi Ðức Vua mà không chiếm hữu chính Ðức Vua làm quà tặng, tôi vẫn còn đứng ngoài sân cửa nhà Ngài, chứ chưa vào trong hoàng cung.

Người tặng quà hay quà tặng?
Tôi xin Ðức Kitô ơn này, ơn kia, tôi xin Ngài cho tôi sức khỏe, công ăn việc làm, là tôi vẫn mới xin những ơn huệ của Ngài.  Trong cuộc đời, tôi chỉ muốn quà tặng nơi Ðức Kitô hay tôi muốn chính Ngài là người cho quà?

Nếu tôi chỉ muốn quà tặng mà không muốn chính người cho quà, tôi sẽ bỏ người cho quà khi tôi không đạt được quà tôi muốn.

Nếu người cho quà biết rằng tôi chỉ muốn quà tặng chứ không muốn chính người cho quà, liệu người ấy có muốn giữ liên hệ với tôi chăng?

Rất nhiều lời cầu xin của tôi chứng tỏ tôi chỉ muốn Chúa cho tôi ơn này, ơn kia chứ tôi không xin chính Chúa.  Bằng chứng là xin ơn mà không được thì bỏ nhà thờ.  Họ chỉ muốn ơn thôi chứ đâu muốn người cho ơn.  Ngày nào tôi ôm trọn được người cho quà là chính Ðức Vua, tôi sẽ có tất cả những gì Ðức Vua có, như lời Kinh Thánh nói: “Trước tiên hãy tìm Nước Thiên Chúa trước rồi mọi sự sẽ được ban cho ngươi sau” (Mt. 6:33).

Khi Ðức Kitô yêu thương thì quà tặng quý nhất chính là con người Ðức Kitô.  Cho một phần quà mới chỉ là cho một phần yêu thương thôi.  Khi nào cho trọn vẹn con người của mình mới là cho tất cả.  Nếu Ðức Kitô chỉ cho một phần quà thì Ngài chưa cho hết.

Tình yêu và biểu tượng
Yêu là muốn gần.  Người ta không thể cứ ở xa rồi gởi biểu tượng của tình yêu thay thế cho tình yêu.  Người ta không thể gởi quà tặng làm kẻ đại diện cho tình yêu để những quà tặng ấy yêu nhau.  Yêu là muốn lại gần.  Yêu là muốn có nhau.  Như vậy làm sao người ta có thể nói Mình Thánh Chúa chỉ là biểu tượng?

Nếu bánh thánh không là sự hiện diện thật của Ngài, nếu Ngài không yêu tôi bằng con người thật thì tình yêu con người và Thiên Chúa sẽ cứ mãi mãi là dang dở.  Chính điều này mới nghịch lý, chính điều này mới khó hiểu chứ không phải sự hiện diện thật sự thịt máu Ngài trong bánh thánh là điều khó hiểu.

Xét trong ý nghĩa yêu là cho đi trọn vẹn, yêu là cho đi tất cả, đương nhiên bánh thánh phải là thịt máu Chúa thật sự.  Vì Chúa muốn ở gần tôi, với tôi, và trong tôi.  Chúa không thể cử một biểu tượng đến ở trong tôi.

Khi nói bánh thánh chỉ là hình ảnh của Chúa, điều ấy mới thực sự khó hiểu.  Vì làm sao một Thiên Chúa là tình yêu, đã chết trọn vẹn cho tôi trên thập giá, lại không muốn ở với tôi trọn vẹn mà chỉ gởi lại một biểu tượng ở lại với tôi mà thôi.

Hai câu hỏi
Khi đặt câu hỏi “làm cách nào” bánh có thể trở thành Mình Chúa là đặt sai câu hỏi.

Câu hỏi này chỉ là phần hậu của câu hỏi “tại sao” bánh lại trở thành Mình Chúa thật.  Thí dụ, làm cách nào tôi gởi cánh hoa cho người tôi thương mến?  Tôi có thể tự chân mình đi tới.  Tôi có thể gởi người thay tôi cầm đến.  Tôi có thể gởi qua bưu điện.  Tôi có thể đặt mua và yêu cầu người bán hoa đem tới.  Có nhiều cách.

Vấn đề là “tại sao” tôi lại tặng hoa cho người đó?

Câu hỏi động lực nào thúc đẩy tôi tặng hoa mới là câu hỏi thiết yếu.  Không có câu hỏi này sẽ không có vấn đề tặng hoa.  Có tặng hoa hay không?  Câu hỏi này xác định có tình yêu hay không.  Khi có tình yêu rồi, khi quyết định tặng hoa rồi, cách nào cánh hoa tới chỉ là câu hỏi phụ thuộc, nó phải bám vào câu hỏi trước.

Cũng như tôi có thể giết một người bằng nhiều cách khác nhau, bỏ thuốc độc, bắn súng, chém bằng dao, xô xuống sông.  Có nhiều cách đưa đến cái chết.  Cách nào, điều ấy không quan trọng.  Trước quan tòa, tôi được tha tù hay kết tội tùy thuộc có một câu hỏi thôi: Tại sao tôi đã giết người, tự vệ hay để vui chơi?

Người nhận thư không băn khoăn, không khắc khoải người đưa thư là đàn ông hay đàn bà.  Chẳng có người yêu nào cầm lá thư, rồi tìm kiếm những dòng chữ trong đó xem cách nào cánh thư bay tới đây, ông bưu điện đi xe đạp hay xe máy.  Nhìn lá thư, tim họ hạnh phúc, họ chìm trong tình yêu.  Họ chỉ hỏi tại sao người ấy lại gửi những dòng chữ này cho tôi.  Câu trả lời xác định hạnh phúc đang có đó: Vì người ấy yêu tôi!

Ðối với Chúa cũng thế.  Không phải làm cách nào bánh rượu trở thành Mình Máu Thánh Chúa. Câu hỏi phải là: Tại sao bánh rượu lại trở nên Mình Máu Thánh Chúa?  Và câu trả lời rất đơn giản, rất chính xác: Vì Chúa yêu tôi!  Chúa muốn ở với tôi.  Chúa muốn gần tôi.

************

Chiếc bánh và tuổi thơ
Bà mẹ nghèo, cứ mỗi chiều thứ tư, lúc bà về nhà, thế nào cậu bé cũng được miếng bánh.  Cậu vô tư nô đùa như thế với lũ bạn trước cổng nhà rồi đợi mẹ về.  Cậu đã ăn miếng bánh như vậy bao nhiêu lần nhưng vô tâm thờ ơ.

Rồi một ngày, cậu băn khoăn, tại sao mẹ lại chỉ mua bánh cho mình vào chiều thứ tư?  Cậu bé bắt đầu tò mò về thắc mắc ấy.  Ngày nọ cậu muốn khám phá cái bí mật kia.  Cũng một ngày thứ tư, lúc bà mẹ ra khỏi nhà, cậu bé chạy dõi theo xa xa.

Thứ tư là ngày hội của các bà mẹ.  Sau phiên hội, các bà ngồi ăn bánh, uống nước trà, chuyện vãn với nhau trước khi về.  Ðứng đàng sau tấm ván cửa sổ, cậu thấy các  bà mẹ ăn bánh vui vẻ, riêng mẹ mình gói miếng bánh vào tấm giấy, cất vào túi.  Bà chỉ uống nước thôi.  Cậu nhìn mà thương mẹ, trong khi các bà kia ăn bánh vui vẻ thì mẹ mình chỉ uống nước.

Bây giờ cậu mới biết tấm bánh mỗi chiều thứ tư do đâu mà có.  Không phải mẹ đi chợ mua, mà mẹ để dành cho mình.  Càng nghĩ cậu bé càng thương mẹ.  Xong họp, các bà mẹ chuẩn bị ra về.  Cậu vội chạy trước, giả bộ như không biết gì, lòng hồi hộp tội nghiệp cho em.  Như mọi lần, về đến cổng bà cũng lại gọi con:

–  Mẹ có quà cho con.

Lần này cậu bé biết rồi. Mẹ có mua đâu, mẹ hy sinh nhịn ăn để dành cho con mà.

Cậu bé cầm miếng bánh ra đầu nhà.  Nó nhìn miếng bánh trên tay và rớt nước mắt.  Hình ảnh mẹ lại hiện lên rõ như ban chiều.  Chung quanh cái bàn, bình nước trà, các bà mẹ vui cười ăn bánh, riêng mẹ mình chỉ uống nước.  Cậu nhớ từng chi tiết, cái dáng điệu không mấy tự nhiên của mẹ, mẹ như rón rén cất miếng bánh vào túi kín đáo không muốn cho ai thấy.  Lúc mẹ làm như thế chắc chắn mẹ nhớ tới đứa con của mẹ.  Thế mà, từ bao lâu nay mình cứ ăn những miếng bánh ấy trong cái vô tâm chẳng biết đến lòng hy sinh của mẹ.

Cậu bé nhìn miếng bánh trên tay, nước mắt lăn dài trên má.  Cậu thấy thương mẹ quá.  Cầm miếng bánh trên tay lần này cậu không dám cắn.  Cậu không thể vứt đi, đấy là tình thương của mẹ.  Cầm mãi, sau cùng cũng phải ăn, đưa miếng bánh lên miệng, nước mắt cứ chảy thôi.  Cậu bé nhai miếng bánh trong mếu máo.

Cậu không thấy cái ngọt của đường nữa mà là cái vất vả của người mẹ hy sinh cho con mình.  Trong chất hy sinh ấy, vị ngọt của miếng bánh không là mùi sữa thơm mà là lòng thương con.

Từ ngày đó trở đi, cứ thứ ba là cậu lại băn khoăn về miếng bánh thứ tư hôm sau.  Miếng bánh trở nên tấm bánh “thánh” vì lòng hy sinh của mẹ.  Cứ mỗi chiều thứ tư, cậu bé bồi hồi biết rằng mẹ lại hy sinh vì con.  Rồi lại ra đầu nhà, đứng ăn miếng bánh trong nước mắt.

Cái ngọt ở đầu lưỡi không phải là đường mà là hy sinh của mẹ.  Một hương vị rất ngọt ngào cho trái tim tuổi thơ biết mình được yêu và biết yêu thương mẹ mình.

************

Lạy Chúa,
Miếng bánh vẫn là một, nhưng cái khác biệt là cậu bé thực sự ý thức được miếng bánh ấy đến từ lòng hy sinh của mẹ.  Nếu không, miếng bánh ấy chẳng có gì thay đổi nơi con người cậu bé, nó chỉ là miếng bột trộn với đường.

Mong sao con cảm nghiệm được Chúa trong bí tích Thánh Thể để con ao ước chuẩn bị thánh lễ như cậu bé chuẩn bị nhận miếng bánh của mẹ bằng nước mắt.

Con tin thật Chúa ngự trong bí tích Thánh Thể.  Con kính thờ Mình Thánh Chúa.  Con muốn hướng lòng con về Chúa mỗi khi đi đường nhìn thấy nhà thờ, vì con tin thật Chúa đang ở đấy với con.

Nguyễn Tầm Thường

Nếu không nghe được Youtube hoặc có vấn đề về kỹ thuật, xin để lại lời nhắn ở mục “Comment” phía dưới, chúng tôi sẽ cập nhật lại đường link Youtube.

TÔI LÀ BÁNH (có Youtube)

Cả các Kitô hữu cũng ngỡ ngàng trước bí tích Thánh Thể.  Ăn thịt và uống máu người mình yêu là điều khủng khiếp chẳng ai dám nghĩ tới.  Nhưng Đức Giêsu lại muốn nuôi cả nhân loại bằng Thịt và Máu Ngài.  Và thực sự Ngài đã nuôi ta bằng cái chết thập giá – ở đó Ngài đã hy sinh Máu Thịt mình.

Đúng hơn, Ngài nuôi chúng ta bằng sự sống của Ngài: sự sống được trao đi qua cái chết tự nguyện, và sự sống được lấy lại qua phục sinh vinh quang.

Đức Giêsu ban cho ta Tấm Bánh (c.51).  Ngài còn tự nhận mình là Tấm Bánh (cc.48.51): Tấm Bánh có sự sống và Tấm Bánh ban sự sống.  Tôi là Tấm Bánh: đó là định nghĩa của Đức Giêsu về mình.  Định nghĩa này có làm ta ngạc nhiên không?  Bánh là cái gì ăn được và đem lại sự sống.  Bánh không sống cho mình, nhưng cho người khác.  Chấp nhận là bánh có nghĩa là chấp nhận mất mình, mà chỉ khi mất mình như thế, bánh mới thật là bánh, mình mới thật là mình.  Thật ra bánh vẫn hiện diện và nên một với người ăn.  Đức Giêsu là Tấm Bánh đặc biệt.  Khi tôi ăn, Ngài thành tôi và biến tôi thành Ngài.  Một sự ở lại hai chiều, một sự hiệp thông sâu thẳm.

“Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi thì ở lại trong tôi và tôi ở lại trong người ấy” (c.56).

Rước lễ là đón lấy dòng sự sống, chấp nhận sống nhờ.  Đức Giêsu sống nhờ Cha và chúng ta sống nhờ Đức Giêsu (c.57).  Như cành nho sống nhờ thân cây nho, chúng ta cũng sống nhờ, nghĩa là sống trong và sống cho Chúa.

Trong nhiều thế kỷ, Hội Thánh đã từng có thái độ nhìn và thờ lạy Thánh Thể hơn là cầm lấy mà ăn.  Động từ ăn được nhắc đến 8 lần trong bài Tin Mừng này, như một lời mời gọi tha thiết của Đức Giêsu.

Ngày nay, người ta rước lễ nhiều hơn trước.  Tiếc thay lắm khi cuộc gặp gỡ này khá vội vã, thiếu chuẩn bị và cũng thiếu đối thoại thân tình.

Tôi lên rước lễ chỉ vì mọi người trong hàng ghế đã lên.  Phút thinh lặng sau rước lễ cũng bị cắt ngắn.  Tôi phải về ngay vì phải lấy xe, vì nhà thờ đóng cửa… Chính vì thế rước lễ chẳng gây được âm vang nào nơi tôi.  Nó trở thành một thói quen, một nghi thức thuần tuý.

Tôi lên ăn một vật thánh, thay vì đón một người.

Ít khi có vị khách quý nào bị thường xuyên tiếp đón lạnh nhạt như thế!  Rốt cuộc chẳng có cuộc gặp gỡ nào xảy ra, nên tôi vẫn cứ là tôi như trước.

Hãy dự lễ như người đi dự tiệc Lời Chúa, Mình Chúa.

Chỉ ai biết ăn, biết thưởng thức và nghiền ngẫm, người ấy mới gặp được sự sống và gặp được Giêsu.

************

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể,
Chúa đến với chúng con dưới dạng tấm bánh bình thường.
Tấm bánh chẳng nói gì, chỉ biết lặng lẽ chờ đợi.
Tấm bánh hiện diện là để phục vụ cho con người.
Tấm bánh quá đỗi mong manh, nhỏ bé, có thể bị ẩm mốc làm hư hoại,
và tan rất mau sau khi được nhận lãnh.

Lạy Chúa Giêsu,
có cái gì tương tự giữa phận làm người và phận làm bánh của Chúa.
Xin cho chúng con biết cách đến với con người hôm nay:
đơn sơ, khiêm hạ, không chút vinh quang hay quyền lực.
Nhờ ăn tấm bánh của Chúa,
chúng con cũng trở nên tấm bánh ngon,
được bẻ ra để đáp ứng khẩu vị của nhiều người.
Ước gì chúng con dám rước Chúa đi vào mọi vùng mờ tối của lòng mình,
để sự hiện diện của Chúa trong con được lớn lên.
Và ước gì chúng con trở thành những Nhà Tạm di động,
đem Chúa đến cho đồng bào và quê hương chúng con. Amen.

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu (Trích trong ‘Manna’)

Nếu không nghe được Youtube hoặc có vấn đề về kỹ thuật, xin để lại lời nhắn ở mục “Comment” phía dưới, chúng tôi sẽ cập nhật lại đường link Youtube.

LINH MỤC, NGƯỜI LÀ AI? (có Youtube)

Trong mắt mọi người, đặc biệt là những phụ nữ đạo đức, linh mục luôn ở một vị thế cao.  Linh mục được mọi người kính trọng, vì họ là người của Chúa mà.  Khi đi lễ, người dân thì phải chen chúc giành chỗ ngồi, còn linh mục đã được chuẩn bị cho sẵn những chiếc ghế êm, có quạt mát.  Của ăn ngon cũng dành cho linh mục.  Người ta không dám xúc phạm đến linh mục vì họ sợ bị Thiên Chúa phạt.  Được một vị linh mục chúc lành, được bắt tay với một vị linh mục, thậm chí được chụp hình chung với một vị linh mục thôi, cũng đủ làm người ta hạnh phúc suốt mấy ngày.  Bề ngoài thì cũng giống như bao nhiêu người khác thôi, nhưng họ có quyền tha tội cho người khác, lời nói của họ có trọng lượng hơn, chỉ cần giang tay, đọc vài lời nguyện, chia sẻ một chút, họ đã có thể kiếm “chút ít” để trang trải cuộc sống rồi.  Linh mục chỉ là như thế thôi sao?

Họ có được những đặc ân như thế, có lẽ bởi vì họ là số ít được tuyển chọn giữa nhiều người.  Đâu phải dễ mà trở thành linh mục.  Phải hy sinh nhiều lắm, phải trải qua bao thăng trầm thử thách, phải ngậm đắng nuốt cay, đánh đổi bao điều, họ mới được trao chức thánh, “hân hoan bước lên bàn thờ” dâng của lễ.  Đã có rất nhiều người cùng đi chung với họ, nhưng đã “bỏ dở cuộc chơi”, đã rẽ sang hướng khác vì thấy con đường này không hợp với mình.  Trong số đó có những người tài giỏi hơn họ, thánh thiện hơn họ, có nhiều hậu thuẫn hơn họ.  Con đường đi tu đâu phải là con đường ai muốn cũng đi được, đâu phải chỉ dùng ý chí mà bước tới.  Nó là cả một ơn gọi, một mầu nhiệm, một “sự điên rồ” không tên. Phải chăng  vì do khó khăn mà đạt được, nên người linh mục cũng mặc nhiên được xếp hơn người khác?

Không, chắc chắn là không phải!

Linh mục là trung gian giữa Thiên Chúa và con người.  Linh mục hệt như Mô-sê, người đã lãnh đạo dân ra khỏi nô lệ Ai Cập, đã trở thành cầu nối giữa dân và Thiên Chúa, đã làm chứng cho giao ước giữa hai bên.  Linh mục chính là những vị tư tế, thay mặt dân dâng lên Thiên Chúa những của lễ và cầu xin ơn lành của Chúa ban xuống cho dân.  Có thể nói, linh mục là trung gian nối kết cái hữu hình với vô hình để qua đó, con người có thể vươn lên tới trời, và Thiên Chúa có thể ngỏ lời với dân.  Người ta tin tưởng linh mục vì người ta cho rằng linh mục là người có thể trò chuyện với Chúa cách thân mật, có một mối tương quan gắn bó và gần gũi với Chúa, và lời cầu nguyện của vị linh mục dễ được Chúa chấp nhận hơn.  Người ta ngưỡng mộ vị linh mục vì thán phục tinh thần từ bỏ của họ, rằng họ đã thanh thoát khỏi bụi trần, không còn vương vấn với hồng nhan, không còn chút dính bén gì với cuộc đua tranh căng thẳng nơi trần thế.  Linh mục là người được ân sủng Chúa bao bọc trọn vẹn.

Từ tính chất thánh thiêng ấy, người ta không làm linh mục như một nghề kiếm sống.  Linh mục tự bản chất không phải là chiếc áo khoác bên ngoài để tô vẻ sự hào nhoáng cho người ta.  Ai sử dụng chức linh mục như phương tiện để thu vén cho bản thân, người ấy thực sự đã đi ngược lại ý muốn của Thiên Chúa, phụ lòng mong mỏi của giáo dân, và cũng phản bội lại chính mình.  Người ta không làm linh mục nhưng  linh mục.  Có một sự khác biệt giữa làm và .  Chức linh mục đụng chạm đến cái cốt lõi của một con người, đụng tới “cái là”, chứ không hệ luỵ ở những gì người đó làm.  Một người khi đã lãnh nhận chức thánh thì dù có xây một trăm nhà thờ to lớn, hay chỉ lủi thủi nơi một nhà nguyện cũ kỹ; dù có nhiều fan hâm mộ hay chẳng ai biết đến; dù mặc trên người những bộ quần áo sang trọng với vòng vàng lấp lánh, đầu tóc chỉnh chu hay mặc những bộ đồ cũ kỹ, tóc tai bù xù… người đó vẫn là linh mục, một linh mục trọn vẹn của Chúa giữa trần gian.

Là linh mục, chính là trở nên như Giêsu, vị linh mục đầu tiên và hoàn hảo nhất.  Đó là con người gắn với Cha không ngơi, và nhờ đó mà luôn có lòng thương cảm dành cho con người, luôn thao thức trước đồng lúa mênh mông không người gặt, và đàn chiên bơ vơ không người chăn dắt.  Họ thổi vào nhân gian luồng gió mới, họ đánh thức con người khỏi giấc mộng mê muội của những cái mau qua.  Họ chiếu sáng thế giới bằng ánh sáng nhân đức và sưởi ấm lòng người bằng ngọn lửa yêu thương.  Có thể nói, linh mục là người mang Thiên Đàng xuống trái đất này, và đưa con người lên cao đụng chạm với Thiên Chúa.  Như Giêsu, họ ý thức rằng họ đến “để phục vụ chứ không phải để được phục vụ”; họ gắn kết cuộc đời mình với mọi con người dù người đó có giàu sang hay nghèo khổ, thánh thiện hay tội lỗi, cao sang hay hèn kém.  Họ đảm bảo cho người ta hạnh phúc Nước Trời “anh sẽ được ở trên Thiên Đàng với tôi”; họ trao ban bình an, sự tha thứ và đưa người ta đến cuộc sống mới tươi đẹp hơn “cứ về đi và từ nay đừng phạm tội nữa.”

Như Giêsu, họ không bao giờ đưa mình lên, còn nếu phải đưa lên, thì đó chính là giương cao trên cây thập giá.  Giáo Hội trao ban tác vụ linh mục cho một người chính là đưa người ấy lên ngọn đồi Canvê.  Nơi đó, từng ngày từng giờ, từng phút giây của cuộc sống, vị linh mục giang đôi tay để dâng lễ tế cuộc đời.  Họ dâng chính mình làm lời cầu nguyện cho dân Chúa.  Họ biến mình làm của lễ tạ tội và xin ơn.  Họ dâng, dâng hết… cho đến khi chỉ còn lại một thân xác chơ vơ, ngậm cười trong bình an và hạnh phúc vì đã vâng theo ý Cha, yêu thương nhân loại và yêu cho đến cùng.  Là linh mục chính là huỷ mình ra không, là cùng đóng đinh với Đức Kitô vì phần rỗi của muôn người.

Đẹp lắm nhưng cũng khó lắm.  Tôi cảm thấy rùng mình khi nghĩ đến điều này nhưng vẫn cố gắng thưa lên cùng Chúa: “Lạy Chúa, xin nhận lấy trọn cả tự do, trí nhớ, trí hiểu … chỉ xin ban cho con lòng mến Chúa và ân sủng Chúa vì được như thế là đủ cho con. Amen!”

Pr. Lê Hoàng Nam, SJ

************

Lời nguyện cho các Linh Mục

Lạy Chúa, xin hãy gìn giữ các Linh mục,
vì các ngài là của riêng Chúa,
đã tận hiến cả cuộc đời
để lo việc mở mang nước Chúa.

Xin Chúa gìn giữ các Linh mục vì các ngài sống giữa đời
nhưng không thuộc về thế gian;
những lúc bị lạc thú trần gian cám dỗ
xin Chúa ấp ủ các Linh mục trong Trái Tim Ngài.

Xin Chúa hãy gìn giữ và an ủi các Linh mục,
trong những lúc các ngài cô đơn sầu khổ;
khi suốt cả cuộc đời hy sinh cho các linh hồn
bị xem ra vô ích.

Xin Chúa gìn giữ các Linh mục,
và xin Chúa thương nhớ, lạy Chúa,
các ngài không có ai chỉ trừ một mình Chúa thôi!
Các ngài chỉ có con tim của con người
với những mỏng dòn yếu đuối của nó.

Xin Chúa giữ gìn các Linh mục trong trắng
như Mình Thánh Chúa mà hằng ngày các ngài nâng niu.
Xin Chúa thương chúc lành cho các Linh mục,
xin thánh hóa mọi tư tưởng, lời nói và việc làm của các ngài. Amen!

Nếu không nghe được Youtube hoặc có vấn đề về kỹ thuật, xin để lại lời nhắn ở mục “Comment” phía dưới, chúng tôi sẽ cập nhật lại đường link Youtube.

TRAO BAN TẤT CẢ VÌ YÊU THƯƠNG (có Youtube)

Kinh thánh (St 22, 1-18) cho biết: Sau nhiều tháng năm chờ đợi mỏi mòn, mãi cho đến trăm tuổi, Cụ Áp-ra-ham mới được diễm phúc sinh đứa con nối dõi tông đường.  I-xa-ác chào đời đem lại niềm vui chan hoà cho Cụ Áp-ra-ham.  I-xa-ác là lẽ sống, là cây gậy chống đỡ tuổi già, là tương lai cho giống nòi và là tất cả của Cụ già trăm tuổi.

Thế mà Thiên Chúa truyền cho Cụ phải sát tế đứa con yêu để tế lễ cho Ngài.

Trời đất như quay cuồng sụp đổ khi Cụ Áp-ra-ham nghe lệnh truyền của Thiên Chúa.

Phải ở trong hoàn cảnh của Cụ già trăm tuổi như Áp-ra-ham mới cảm nhận thấm thía nỗi đau thương và mất mát vô cùng lớn lao của một người cha phải sát tế đứa con một rất đỗi yêu quý của mình.  Nếu không vì tình thương lớn lao đối với Thiên Chúa, Cụ Áp-ra-ham không thể nào thực hiện được sự hiến dâng đau lòng đó.

Cụ Áp-ra-ham sẵn sàng hi sinh tất cả vì Thiên Chúa là Đấng mà Cụ thần phục và mến yêu.

Nhưng Thiên Chúa chỉ thử lòng Cụ Áp-ra-ham thôi.  Ngài không nỡ để cho một người cha phải gánh chịu nỗi đau thương lớn lao đến thế.

Trích đoạn Tin Mừng trong ngày lễ hôm nay cũng đề cập đến một người Cha khác đã thực hiện một sự trao ban triệu lần cao cả hơn.

Vì quá yêu thương nhân loại lỗi lầm, vì không muốn cho muôn người phải lâm vào cảnh đau khổ trầm luân vì tội lỗi ngút ngàn của họ, Thiên Chúa Cha đã trao ban Con Một vô cùng yêu quý của Ngài, để Con của Ngài chết thay cho nhân loại, để cho những ai tin vào Con Ngài thì được cứu sống và được sống muôn đời:

“Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.  Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ” (Gioan 3, 16-17).

Xưa kia, Thiên Chúa không nỡ để cho I-xa-ác phải chết dưới lưỡi dao run rẩy của Cụ Áp-ra-ham, không để cho thân xác của I-xa-ác phải chịu thiêu đốt trên bàn thờ để làm hy lễ cho Ngài, nhưng đã đến một thời, Thiên Chúa Cha lại để cho Con Một Ngài, là Ngôi Hai Thiên Chúa, phải chịu đóng đinh, chịu quằn quại đau thương và chịu chết trên thập giá để đền cho hết tội lỗi chúng ta và ban lại cho chúng ta sự sống đời đời.

Tôi tớ thấp hèn liều mình chết thay cho chủ nhân quyền quý, dân đen cùng khốn chết cho hàng vua chúa cao sang hay con chó trung thành liều chết để cứu mạng chủ cũng còn là điều dễ hiểu. Đằng nầy Ngôi Hai Thiên Chúa là Chúa Tể đất trời lại hiến thân chết thay cho loài người hèn mọn thì quả là điều vượt quá trí tưởng tượng con người.

“Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người hiến mạng vì bạn hữu mình” (Gioan 15, 13) và không có tình yêu nào sánh ví được với tình yêu khôn vời của Thiên Chúa dành cho nhân loại.

*********

Khi được người khác biếu tặng một món quà, ai trong chúng ta cũng đều nhớ ơn ân nhân và tìm cách đền đáp lại bằng món quà tương xứng.

Khi được Chúa Trời cao cả ban tặng chính Con Một Ngài để cứu mạng cho chúng ta, khi được Chúa Giêsu hiến thân chịu chết để cứu ta khỏi chết muôn đời, có bao giờ chúng ta nghĩ đến việc đền đáp công ơn cao dày đó?

Để đền đáp phần nào tình thương trời bể của Thiên Chúa Cha, Đấng đã trao ban Con Một mình cho nhân loại, để đền đáp sinh mạng của Chúa Giêsu đã trao hiến cho bạn và cho tôi, chúng ta hãy dâng cho Ngài một hiến lễ tương tự, dù vạn lần nhỏ bé hơn.  Đó là “hiến dâng thân mình chúng ta làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa” (Rôma 12, 1).  Đó cũng là nguyện ước của chân phước An-rê Phú Yên hôm xưa: “đem cuộc sống báo đền cuộc sống; lấy tình yêu đáp trả tình yêu.”

Lm Trần Ngà

*********

Giữa một thế giới đề cao quyền lực và lợi nhuận, xin dạy con biết phục vụ âm thầm.
Giữa một thế giới say mê thống trị và chiếm đoạt, xin dạy con biết yêu thương tự hiến.
Giữa một thế giới đầy phe phái chia rẽ, xin dạy con biết cộng tác và đồng trách nhiệm.
Giữa một thế giới đầy hàng rào kỳ thị, xin dạy con biết coi mọi người như anh em.
Lạy Chúa Ba Ngôi, Ngài là mẫu mực của tình yêu tinh ròng, xin cho các Kitô hữu chúng con trở thành tình yêu cho trái tim khô cằn của thế giới.  Xin dạy chúng con biết yêu như Ngài, biết sống nhờ và sống cho tha nhân, biết quảng đại cho đi và khiêm nhường nhận lãnh.
Lạy Ba Ngôi chí thánh, xin cho chúng con tin vào sự hiện diện của Chúa ở sâu thẳm lòng chúng con, và trong lòng từng con người bé nhỏ.

Rabbouni

Nếu không nghe được Youtube hoặc có vấn đề về kỹ thuật, xin để lại lời nhắn ở mục “Comment” phía dưới, chúng tôi sẽ cập nhật lại đường link Youtube.