DÕI THEO BƯỚC CHÚA (có Youtube)

Người ta kể rằng năm ấy dù mới lên mười tuổi, cậu Chai-san đã được bố cho đi theo một đoàn lữ hành phải vượt cao nguyên trùng điệp với những đỉnh đồi, những ngọn núi vừa hùng vĩ vừa thơ mộng.  Đêm đến đoàn lữ hành trú ngụ trong những chiếc lều vải thô sơ.  Một đêm nọ cậu bé Chai-san cảm thấy có một sức mạnh từ bên trong thúc đẩy cậu trốn ra khỏi lều.  Và kìa, giữa miền núi cao, bầu trời đầy trăng sao lấp lánh như bao trùm lấy cậu.  Một cảm giác hạnh phúc nhẹ nhàng xâm chiếm tâm hồn Chai-san.  Cậu có cảm tưởng như cả vũ trụ xinh đẹp này đã được tạo dựng để ban tặng cho cậu, và nó đang nâng tâm hồn cậu lên với Đấng Tạo Hóa.

Bỗng chốc bầu khí yên tĩnh và an bình bị xáo trộn vì tiếng gọi của người cha: “Chai-san, mày trốn đi đâu rồi?  Trở vào lều đi”.  Chai-san miễn cưỡng trở vào lều và tiếc nuối nói với cha: “Bố ơi, bầu trời trăng sao đẹp quá chừng!”.

Thưa anh chị em,

Trong truyền thống Thánh Kinh cũng như trong hầu hết các tôn giáo, núi cao thường được xem như là nơi gặp gỡ giữa trời và đất, giữa Thần Linh và con người.  Những mạc khải quan trọng trong Kinh Thánh đều diễn ra trên núi cao.  Môsê đã được kêu mời lên núi Sinai để gặp gỡ Giavê Thiên Chúa và đón nhận lề luật cho Dân Chúa.  Êlia đã ròng rã 40 đêm ngày lên núi Horeb để gặp Chúa.  Êlisê cũng lên núi Carmel để gặp Chúa.  Và Chúa Giêsu cũng khởi sự đời công khai bằng 40 đêm ngày chay tịnh trên núi cao, rồi trong ba năm sứ vụ, Ngài vẫn thường lặng lẽ một mình lên núi để cầu nguyện cùng Cha Ngài.

Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã đưa ba môn đệ thân tín nhất lên núi Thabor để tỏ vinh quang của Ngài cho các ông.  Từ trên núi cao, Phêrô, Giacôbê, Gioan đã nhận ra được con người và sứ mệnh của Chúa Giêsu.  Từ trên đỉnh cao, các ông thấy vinh quang của ngài như một lời hứa được thực hiện, như thành tựu của một sứ mệnh, như đích điểm của một con đường, con đường thập giá dẫn đến vinh quang.

Thế nhưng, người ta không lên núi cao để ở lại đó, mà là để nhìn rõ hơn con đường phải đi.  Đối với Chúa Giêsu, con đường phải đi đó chính là con đường lên Giêrusalem với cuộc tử nạn đang chờ đợi Ngài.  Và Ngài đã xuống núi để giáp mặt với cuộc đời, để tiếp tục hành trình xuyên qua khổ nạn và cái chết thập giá.  Từ trên núi cao, Chúa Giêsu cũng muốn đưa ba môn đệ thân tín của Ngài trở lại cuộc đời, trở lại với những thử thách, chống đối đang chờ đợi trước mắt các ông.

Thật vậy, cuộc tỏ vinh quang của Chúa Giêsu trên núi đã xảy ra sau khi Phêrô tuyên xưng: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”.  Lời tuyên xưng này lại gắn liền với lời Chúa Giêsu loan báo cuộc Thương Khó của Ngài và kèm theo lời mời gọi: “anh em hãy bỏ mình, vác thập giá đi theo Thầy” (Mt 16,24).  Vậy là đúng vào lúc các môn đệ đã nhận ra Chúa Giêsu là Đức Kitô, là Đấng Cứu Thế, thì trước mắt các ông hình ảnh một Đấng Cứu Thế oai hùng lẫm liệt theo các ông quan niệm, bắt đầu tan biến, để hiện ra một Đấng Cứu Thế đau khổ, bị đày đọa, bị khai trừ, bị giết chết.  Hình ảnh đó thật là khó hiểu đối với các môn đệ, vì lòng tin của các ông còn mộc mạc, phàm tục.  Cho nên, chẳng lạ gì, Phêrô đã lên tiếng khuyên can Chúa Giêsu đừng đi theo con đường đau khổ đó làm gì.  Nhưng thật không may cho ông, vì Chúa Giêsu cứ khăng khăng một mực, lại còn quay sang mắng ông: “Satan, cút đi!”  Vì ông đã tự đồng hóa với Satan cám dỗ Chúa trong sa mạc.

Rồi bây giờ thì lại cũng chính Phêrô đã dám đề nghị cắm lều ở lại trên núi Thabor, vì ở đây sướng quá, khỏi phải đi qua con đường đau khổ mà ông đã khuyên can Thầy.  Nhưng rồi, mở mắt ra, ông thấy chỉ còn một mình Chúa Giêsu trên đỉnh núi.  Ánh sáng rực rỡ đã tan biến, và Chúa Giêsu còn đánh thức các ông dậy, giục các ông xuống núi, đi lên Giêrusalem với Ngài để chịu tử nạn như Thầy đã báo trước.

Chính trong giờ phút biến hình rực rỡ vừa rồi, ông Môsê và ngôn sứ Elia đã đàm đạo với Chúa Giêsu về “cuộc ra đi” Ngài sắp hoàn thành tại Giêrusalem, và tiếng Chúa Cha phán: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hết lòng quý mến.  Các ngươi hãy vâng nghe lời Ngài”.  Lời đó chính là để công nhận, để tán thành bước đường vượt qua đau thương của Chúa Giêsu, và mời gọi các môn đệ hãy đi theo Thầy.  Vì thế, mấy Thầy trò lại xuống núi.  Và Phêrô cũng như các môn đệ khác phải đi theo sau Thầy qua con đường khổ nạn thập giá mới đến ánh sáng vinh quang Phục Sinh.

Không phải không có lý do mà phụng vụ năm nào cũng đặt bài Tin Mừng Chúa hiển dung sáng láng hôm nay vào giữa Mùa Chay.  Giáo Hội muốn đưa chúng ta lên núi, hé mở cho chúng ta chiêm ngưỡng một chút vinh quang phục sinh của Chúa Giêsu, để chúng ta thêm tin tưởng vào Ngài, để chúng ta có những giây phút nghỉ ngơi lấy sức trước khi xuống núi, trở về với cuộc sống bình thản trên các nẻo đường phẳng lặng hay đầy sóng gió đưa đến núi Can-vê.  Chúng ta cần được Chúa đến gần, đưa tay đập vào người như “đã đến gần, vỗ vào người các môn đệ”, để thức tỉnh chúng ta, để chúng ta biết chuẩn bị sẵn sàng đón nhận mọi gian nan đau khổ trên đường đời.

Con đường Thương Khó của Chúa khởi đầu từ khi Ngài xuống núi.  Rồi đây, Ngài cũng sẽ biến hình “không còn hình tượng người ta nữa”, để dạy chúng ta biết phải đi qua con đường thập giá mới đến vinh quang khải hoàn sống lại.  Trong ngôn ngữ La-tinh, người ta chơi chữ: “Per crucem ad lucem”, nghĩa là “qua thập giá đến ánh sáng”.  Qua Thứ Sáu Tử Nạn mới đến Chúa Nhật Phục Sinh.  Đường thánh giá không dừng lại ở nấm mồ, nhưng mở ra trong niềm vui tưng bừng của ngày sống lại.  Đó là quy luật của muôn đời.

Trong cuộc hành trình đức tin của chúng ta, cũng có những giây phút chúng ta được đưa lên núi cao để gặp Chúa, núi cao của Thánh lễ, núi cao của những giờ phút dành cho việc cầu nguyện.  Nhưng chúng ta không lên núi để ở đó mãi, mà là để trở lại với cuộc đời với muôn thử thách, đắng cay, với những gặp gỡ từng ngày.  Chấp nhận cuộc sống với tinh thần lạc quan, chấp nhận chiến đấu mà không buông xuôi bỏ cuộc, sống như thể là tiếp tục con đường Chúa Giêsu đã đi qua.  Chấp nhận những người anh em chúng ta gặp gỡ trên đường đi, chấp nhận những khác biệt, những bất toàn của người anh em cùng đồng hành, sống như thể là dõi bước theo đường Chúa đã đi qua.

Xin ánh sáng Phục sinh của Đức Kitô luôn dẫn bước chúng ta trên đường, để chúng ta biết đón nhận và sống trọn từng phút giây cuộc sống.  Xin ánh sáng Phục Sinh của Đức Kitô chiếu dọi và hướng dẫn cuộc hành trình đức tin của chúng ta được tiếp tục trên dấu chân của Ngài.

R. Veritas
Trích từ “Niềm Vui Chia Sẻ”

Nếu không nghe được Youtube hoặc có vấn đề về kỹ thuật, xin để lại lời nhắn ở mục “Comment” phía dưới, chúng tôi sẽ cập nhật lại đường link Youtube.

ĐI VÀO MÙA CHAY (có Youtube)

Biết căn nguyên của một từ đôi khi rất hữu ích.  Theo ngôn ngữ học, trong tiếng Anh cổ, mùa chay có nghĩa là mùa xuân.  Theo tiếng La-Tinh, mùa chay có nghĩa là chầm chậm.  Như vậy, theo từ nguyên học, mùa chay báo gọi mùa xuân đến và mời gọi chúng ta giảm nhịp sống để nhìn lại cuộc đời mình.

Dù qua cách nghĩ thông thường, mùa chay mang một vài nét cổ truyền nhưng mùa chay chính là thời gian kêu gọi chúng ta chay tịnh, gạt qua những thú vui thông thường và lành mạnh nào đó để chuẩn bị tốt hơn cho đại lễ Phục Sinh.

Một trong những hình ảnh giúp ích cho điều này là ý niệm về Sa Mạc trong Kinh Thánh.  Qua Kinh Thánh chúng ta biết rằng, để chuẩn bị cho việc rao giảng Tin Mừng, Đức Giêsu đi vào sa mạc bốn mươi đêm ngày để chay tịnh và, theo Phúc Âm thánh Mác-cô, Đức Giêsu còn chịu Xa-tan cám dỗ, sống với thú hoang, và được các thiên thần che chở.

Mùa Chay luôn được hiểu là thời gian chúng ta noi theo Đức Giêsu, một cách ẩn dụ Đức Giêsu trải qua bốn mươi ngày trong sa mạc, không sống bằng thực phẩm thông thường, để có thể đối diện với “Xa-tan,” “thú hoang” và thấy “các thiên thần” hiện đến, che chở khi chúng ta không còn tự lo cho mình được nữa.

“Xa-tan” và “thú hoang” ám chỉ đặc biệt đến các xáo trộn trong tâm hồn mà chúng ta thường hay phủ nhận hoặc đơn giản không dám đối diện – đó là các chứng hoang tưởng, nổi giận, ghen tương, xa lánh mọi người, ảo tưởng, tự kiêu, ham muốn, những tổn thương chưa lành, rắc rối trong đời sống tình dục, không có khả năng cầu nguyện, kém lòng tin, và các che giấu về mặt đạo đức.  Thực phẩm thông thường làm sao nhãng cuộc sống, nó che không cho chúng ta đối diện với các xáo trộn sâu kín núp bóng dưới bề mặt cuộc sống.

Mùa chay kêu gọi chúng ta ngưng dùng các thực phẩm này, các thực phẩm ngăn không cho chúng ta đối diện với cô tịch trong tâm hồn.  Mùa Chay kêu gọi chúng ta đối diện với bé mọn, yếu mềm, e sợ của mình, và mở lòng để thấy cái xáo trộn của sa mạc, để các thiên thần có dịp nuôi sống chúng ta.  Đó là lý tưởng Ki-tô giáo về mùa chay, đối diện với chính những xáo trộn của mình.

Để bổ sung, tôi đề nghị ba hình ảnh đầy tính thần thoại, mỗi hình ảnh giúp giải thích một khía cạnh của mùa chay và việc giữ chay:

Trong mỗi nền văn hóa đều có các câu chuyện cổ, các huyền thoại dạy chúng ta lúc này lúc kia trong đời, phải biết ngồi giữa tro tàn.  Chẳng hạn, ai cũng biết chuyện Cô Bé Lọ Lem.  Theo nghĩa đen Cinderella có nghĩa là cô bé (puella) ngồi trong tro tàn (cinders).  Bài học rất rõ ở đây là: Trước khi trở nên xinh đẹp, trước khi có thể kết hôn với hoàng tử hay công chúa, trước khi đi dự tiệc, trước hết bạn phải nếm trải thời gian ở một mình giữa tro tàn nhem nhuốc, hèn mọn, quay về với với bụi đất và chờ đợi.  Mùa chay là mùa dành thời gian ngồi trong tro tàn.  Không ngẫu nhiên khi chúng ta bắt đầu Mùa Chay bằng việc xức tro lên trán.

Thứ hai là hình ảnh ngồi dưới sao Thổ, làm đứa con của sao Thổ.  Người xưa tin rằng sao Thổ là sao của buồn chán, u sầu.  Do đó không ngạc nhiên khi thấy ai đó rơi vào bùa mê của nó, chính xác khi họ cảm thấy buồn và thất vọng.  Thật vậy, người xưa tin rằng trong đời, ai cũng phải trải qua một khoảng thời gian nào đó làm đứa con của sao Thổ, nghĩa là, ngồi trong buồn chán, nặng nề, kiên nhẫn chờ đợi để một điều quan trọng nào đó tự biến chuyển trong tâm hồn mình.  Thỉnh thoảng những người lớn tuổi hay các vị Thánh cũng tự nguyện đặt mình ngồi dưới sao Thổ, như Đức Giêsu đi vào sa mạc, họ sẽ ngồi trong tình trạng buồn chán, nặng nề, hi vọng rằng, nỗi u sầu này có một ý nghĩa đưa họ đến một chiều sâu nội tâm mới mẻ nào đó.  Đó cũng là chức năng của mùa chay.

Cuối cùng một hình ảnh quý giá, lưu truyền trong những thần thoại cổ xưa, hình ảnh các giọt nước mắt nối kết chúng ta lại với dòng chảy cuộc đời, với nguồn mạch sự sống.  Nước mắt, như chúng ta biết, là nước muối mặn.  Không phải không có ý nghĩa sâu sắc.  Đại dương là nước muối mặn và, như chúng ta biết, tất cả sự sống đều bắt nguồn từ đó.  Vì vậy, trong ý tưởng nhiệm mầu và nên thơ, nước mắt nối kết chúng ta lại với nguồn mạch sự sống, nước mắt tái sinh, thanh lọc chúng ta trong sự tận hiến cuộc đời, và nước mắt làm tâm hồn sâu đậm, để tâm hồn nếm trải nguồn mạch sự sống.  Với sự thật đó, và khi tất cả chúng ta đều trải nghiệm sự thật đó, nước mắt chính là đi vào sa mạc để chay tịnh, là vật dẫn truyền đến chiều sâu mới mẻ của tâm hồn.

Sự cần thiết của mùa chay được trải nghiệm khắp nơi: Nếu không được thăng hoa thì có thể chúng ta sẽ không bao giờ đạt được cái siêu phàm.  Để thật sự đi vào đại tiệc trước hết phải có chay tịnh.  Để đi vào Phục Sinh một cách đúng đắn trước hết phải có một khoảng thời gian của sa mạc, tro tàn, buồn chán và nước mắt.

Rev. Ron Rolheiser, OMI

Nếu không nghe được Youtube hoặc có vấn đề về kỹ thuật, xin để lại lời nhắn ở mục “Comment” phía dưới, chúng tôi sẽ cập nhật lại đường link Youtube.

BA MÓN ĂN MÙA CHAY (có Youtube)

Không biết từ bao giờ, trong ngôn ngữ nhà đạo, hai quy định về ăn chay và kiêng thịt đã đứng chung với nhau trong một cụm từ và trở thành nét thực hành đạo đức tiêu biểu của các tín hữu Việt Nam trong Mùa Chay.  Nhưng chỉ biết đích xác rằng kể từ ngày 16 tháng 6 năm 1934, tại Sàigòn, Đức cha Dumortier đã ra một kinh bổn bằng thơ lục bát hẳn hòi hai mươi hai câu, quy định tên những loại chim, không chỉ được phép ăn trong dịp chay kiêng, mà xem ra còn gợi ý khuyến khích: “Đặt làm một bổn ra đây, Những ngày kiêng thịt, chim này nên ăn.  Ai ai cũng phải siêng năng, Đọc cho thuộc lảu kẻo ăn mà lầm”.

Kể cũng vui.  Bốn mươi mốt thứ chim nêu ra trong bổn kinh ấy thật đa dạng: con có (con cót); thằng có (thằng cộc, thằng nông, thằng bè, thằng chài); già có (già đây); lão có (lão nhược).  Thôi thì đủ cả.  Song những thứ chim ấy hiện nay không còn nhiều, có loại đã từ lâu vắng bóng trên cánh đồng Việt Nam, có loại đã trở thành quý hiếm, chỉ xuất hiện trên thực đơn của các nhà hàng quý tộc.

Không sao.  Dù chẳng còn chim trên bàn ăn trong những ngày kiêng, nhất là sau dịch cúm gia cầm, tín hữu vẫn cứ bước vào Mùa Chay với Thứ Tư Lễ Tro và Thứ Sáu Tuần Thánh “ăn chay kiêng thịt” theo Giáo luật quy định đường hoàng.  Để bù lại sự thiếu vắng ấy, xin đề nghị ba món ăn khác, là đặc sản đồng thời cũng là nhu yếu phẩm bổ dưỡng của Mùa Chay.

  1. Món thứ nhất: Ăn chay cầu nguyện

Tất nhiên, Mùa Chay phải có “ăn chay”, nhưng ăn chay như thế nào mới là chuyện đáng nói.  Ngày xưa, quan niệm về ăn chay thường đặt nặng chữ “ăn” đến nỗi quy định rạch ròi cả giờ giấc lẫn liều lượng như “sáng sơ, trưa no, chiều đói” hoặc tổng quát hơn như “một bữa no, hai bữa đói”, khiến đám trẻ cứ ngẩn tò te thòm thèm ăn vụng, và cánh người lớn xem ra cứ phải kiếm việc gì đó để làm cho qua cơn vật vã. Ngày nay, cách nhìn về ăn chay đã khác, không đặt nặng chữ “ăn” nữa, nhưng nhấn tới chữ “chay” nhiều hơn.  Người ta vẫn giữ chay theo quy định từ xưa, nhưng “văn hóa ẩm thực” ấy đã được lồng trong “văn hoá tình thương”.  Người ăn chay không giảm bớt khẩu phần để có dư một chút mà bỏ vào quỹ tiết kiệm sinh lời, nhưng đơn giản hóa bữa ăn thường ngày để thực tập đời sống khổ hạnh mà thông phần vào cuộc Thương khó của Chúa Kitô, và để chia sẻ một phần đời sống của mình cho những anh chị em đang gặp phải cảnh túng quẫn cơ hàn.

Không phải vô tình mà món “ăn chay kiêng thịt” đã được đưa ra ngay từ đầu Mùa Chay, mà hữu ý cho thấy đây là món ăn cần có cho một bữa tiệc tâm hồn.  Người ta ăn chay không nguyên vì giá trị thực tiễn của việc ăn chay, mà vì khởi đi từ việc ăn chay ấy, sẽ nhận ra tiếng gọi đi sâu hơn nữa vào trong đời sống tiết chế, để nhìn lại bản thân mà gặp gỡ Thiên Chúa và tha nhân một cách mới mẻ hơn.  Chả thế mà cụm từ “ăn chay kiêng thịt” đã dần dà nhường bước cho những cụm từ “ăn chay hãm mình” hoặc “ăn chay cầu nguyện”, vốn là những kiểu nói diễn tả sinh hoạt tâm linh hơn là những sinh hoạt bên ngoài. Nghe thanh tao hơn và ý nghĩa cũng thanh thoát hơn.

Chúa Giêsu đã khởi đầu sứ vụ công khai bằng việc ăn chay trong tinh thần chiến đấu và cầu nguyện ấy (Lc 4,1-4).  Người vào sa mạc giữa không gian cát đá, chịu đói khát để kiểm nghiệm thân phận yếu đuối loài người.  Người cắt đứt với những thói quen thường nhật để rút lui từ cõi tĩnh lặng cầu nguyện.  Người trút bỏ mọi nhu cầu ăn uống để chỉ nhận thấy một nhu cầu chính đáng là đói khát sự vô biên.  Không bận vướng điều gì bên ngoài, Người chỉ còn một bận tâm duy nhất là chu toàn thánh ý: “Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra” (Mt 4,4).  Như vậy, “ăn chay cầu nguyện” chính là điều kiện để bước sang cuộc sống mới mẻ hơn, không phải là để đổi món ăn cho hợp khẩu vị thời thượng, cũng không phải là để có vóc dáng thon thả theo yêu cầu thẩm mỹ “người mẫu thời trang”, mà là để gặp gỡ Thiên Chúa một cách tròn đầy hơn theo cung cách “người mẫu Tin Mừng”.

  1. Món thứ hai: Ăn năn sám hối

Nếu “ăn chay cầu nguyện” được xem là món chính, nặng về đời sống tâm linh, thì “ăn năn sám hối” phải được nhìn như món chuyên trị đời sống luân lý.  Ngày xưa các thánh ẩn tu thường kết hợp hai món ăn này để có sản phẩm “ăn chay đánh tội” vừa cầu kỳ, vừa ly kỳ khó có ai theo nổi.  Ngày nay cách chế biến có vẻ khéo hơn, nên người ta đã quen với loại thực phẩm tổng hợp mang tên “ăn chay lánh tội”, và vì thế mới dễ dàng đưa vào thực đơn Mùa Chay một món thiết yếu, chính là món “ăn năn sám hối”.  “Ăn năn sám hối” cũng là món ăn đấy thôi: món ăn màu tím.  Âm thanh có vẻ gợi đến một thức ăn loại củ như “củ năn củ khoai, củ mài củ sắn”, nhưng ý nghĩa lại vượt quá tầm vóc của hoa màu ruộng đất để trở thành lời tuyên xưng vào lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa, “Đấng tìm kiếm và cứu chữa những gì đã bị hư đi” (Lc 19,10).

Không biết chữ nghĩa tự điển giải thích ra sao, nhưng từ góc độ Mùa Chay, “ăn năn sám hối” là một động từ bao gồm hai động tác không thể tách rời của một người chân thành kiểm điểm lại đời sống của mình trước mặt Thiên Chúa.  “Ăn năn” là động tác nhìn vào chính mình để nhận ra những tội lụy của một đời xa vắng, đã dẫn tới sa ngã và xa lìa tình thương của Chúa; còn “sám hối” là động tác nhìn lên Thiên Chúa để khám phá nơi Ngài một tình yêu như trái tim người cha, như tấm lòng người mẹ bao dung thương xót, cho ta được tin yêu mà hy vọng đổi đời.  “Ăn năn” giục ta nhìn lại quá khứ, “sám hối” dìu ta đến với tương lai.  Thiếu một trong hai động tác này, món ăn sẽ kém bổ dưỡng.  Chỉ  đăm đăm nhìn vào tội mình mà quên đi tình thương Thiên Chúa, sẽ có nguy cơ rơi vào thất vọng.  Cũng là hối hận, nhưng xem ra hối lỗi thì ít mà hận mình lại nhiều.  Ngược lại, chỉ hơn hớn nhìn lên Thiên Chúa mà chẳng màng chi đến lời nói “không” với tội lỗi mình, sẽ dẫn tới thái độ ỷ lại đeo bám.  Tiếng là hối cải, nhưng không biết hối lỗi, làm sao có thể cải thiện đời sống?

Nếu “không thánh nhân nào lại không có quá khứ, cũng như chẳng tội nhân nào mà không có tương lai”, thì ăn năn sám hối đã trở thành địa chỉ hội ngộ đổi đời.  Nói theo kiểu đong đưa của thánh Augustinô, ăn năn sám hối là điểm gặp gỡ giữa sự khốn cùng của tội lỗi con người với sự khôn cùng của tình yêu Thiên Chúa, giữa nỗi miseria của nhân loại với lòng misericordia của Thiên Chúa luôn sẵn sàng cứu độ.

Trong thực tế mục vụ Mùa Chay, món “ăn năn sám hối” được gặp thấy nơi tòa Giải Tội vốn là Bí tích của lòng thương xót, để nghe vẳng bên tai lời dịu dàng của Chúa Giêsu dành cho ông Giakêu năm nào: “Hôm nay Ta muốn ở lại nhà ông” (Lc 19,5); và “Hôm nay nhà này được ơn cứu độ” (Lc 19,9).

  1. Món thứ ba: Ăn ngay ở lành

Hai món “ăn chay cầu nguyện” và “ăn năn sám hối” chỉ có thể phát huy tác dụng khi được phối hợp chặt chẽ với món “ăn ngay ở lành”, vốn là thực phẩm đời thường của bất cứ ai, nhưng lại là món ăn đạo giáo chẳng sai chút nào.  Thực ra, trong “ăn năn sám hối” đã  hàm chứa quyết định “dốc lòng chừa cải”, nhưng chính khi thực thi đổi đời bằng việc ăn ngay ở lành trước mặt Thiên Chúa và trước mắt loài người, tín hữu mới đi đến cùng trong những thực hành đạo đức Mùa Chay, Mùa Chay có xức tro trên đầu tỏ lòng sám hối và cũng có xức dầu thơm xây dựng nếp sống mới giữa cộng đoàn.  Đây không phải là thứ “tùy chọn” theo kiểu chọn thêm tính năng nơi các điện thoại di động hay gia giảm phụ tùng cho các đời xe, có thì sang hơn mà không có cũng chẳng kém cạnh gì.  Ngược lại, “ăn ngay ở lành” phải được xem như món ăn chính “nếu ai không nhớ, sẽ không lớn nổi thành người” (x. Đỗ Trung Quân, Quê Hương).

Trong thường nghiệm, người ta sống không bằng những gì mình ăn vào, mà bằng những gì mình tiêu hóa được;  trong cuộc sống đức tin, người ta cũng chỉ minh chứng được sức khỏe tâm hồn khi thực hiện những nét đổi đời cụ thể như canh tân đời sống, hay đổi tính hạnh, định hướng lại cách cư xử cho mới đẹp hơn, tốt lành hơn, sáng trong hơn, thánh đức hơn… Có mấy lần người Giuđêa đến nhận phép Rửa, Gioan Tẩy Giả đã khuyên họ rất rõ rằng: “Hãy làm việc lành cho xứng với lòng sám hối” (Mt 3,8).  Thiết nghĩ đó cũng chính là định hướng cho món ăn thứ ba ở đây.

Về mặt xã hội, “ăn ngay ở lành” là phẩm chất của một cuộc sống ngay thẳng, chẳng những không xâm phạm gì đến quyền lợi của bất cứ ai, vì biết trọng lẽ công bình; mà còn hiền lành trong cách cư xử, sẵn sàng thực thi bác ái liên đới với mọi kẻ xung quanh.  Vì thế, ăn chay cũng đồng nghĩa với ăn ngay ở lành, nếu không, thà “ăn mặn nói ngay” còn hơn!  Về mặt tôn giáo, “ăn ngay ở lành” còn là một chứng tá đức tin của những con người biết lấy đời sống trong sáng ngay lành của mình để chứng minh cho những người khác về sự hiện diện của một Thiên Chúa tốt lành đã thương kêu gọi mọi người đến với tình thương cứu độ.  Ăn ngay ở lành, theo nghĩa này, đã bỏ xa quy định “ăn chay kiêng thịt” để trình làng cả một biến tấu “kiêng ăn” kể ra không xiết: kiêng ăn gian ăn tham, ăn quỵt ăn bẩn, ăn trộm ăn cắp…

Với món “ăn ngay ở lành”, đạo không còn bị đóng khung trong khuôn viên nhà thờ nữa, mà đã thực sự mở ra với đời cho thênh thang sánh bước về nguồn cứu độ.  Cùng trong ý tưởng ấy, có lạc quan lắm không khi nghĩ rằng: một người nếu thiện tâm ăn ngay ở lành mong ơn cứu độ, sẽ có những điều thuận lợi để gặp được chính Chúa đúng thời đúng lúc, như cụ Simêon (Lc 2,25-32)?

Tóm lại, Mùa Chay mà chỉ nói chuyện ăn uống thì coi chừng bị quở “chước mốc, ma quỷ cám dỗ”, nhưng đề cập tới ba món đặc sản Phúc Âm quả cũng rất nên.  Của đáng tội, chỉ tại ngôn ngữ Việt Nam phong phú quá không thể không móc nối ghi nhận.  Song nói đi cũng cần nói lại.  Ba kiểu nói đều có chữ “ăn” thật đấy, nhưng không ăn bằng miệng mà ăn bằng lòng!  Ba món ăn nhưng chỉ một tấm lòng chân thành của người tín hữu tìm về trong Mùa Chay trước tấm lòng yêu thương ngàn đời của Thiên Chúa, để quyết tâm xây dựng một cuộc sống mới.  Cuộc sống ấy dù không khác với cuộc sống này nhưng theo một tinh thần khác, tinh thần của Phúc Âm.

Khi ăn khẩu vị sẽ đến.  Cầu chúc mọi người khi nhấm nháp những món ăn trên sẽ cảm nghiệm được khẩu vị thánh đức.  Và lòng hẹn lòng:

Ăn chay cầu nguyện đêm ngày,
Ăn năn sám hối giải bày tâm can,
Ăn ngay hợp với ở lành.
Mùa Chay ba món thực hành từ nay.

ĐGM Vũ Duy Thống (trích trong cuốn “Từng Bước Một Thôi”)
Nguồn: http://gpphanthiet.com

Nếu không nghe được Youtube hoặc có vấn đề về kỹ thuật, xin để lại lời nhắn ở mục “Comment” phía dưới, chúng tôi sẽ cập nhật lại đường link Youtube.

THỬ THÁCH VÀ LỰA CHỌN (có Youtube)

Trình thuật về các lần cám đỗ được coi như phần mở đầu giúp người tín hữu hiểu được điều sâu kín nhất trong tâm hồn Đức Giêsu.  Đó là một bản Tin Mừng thu gọn, một thứ hướng dẫn.  Những ai muốn hiểu rõ về cuộc đời công khai của Đức Giêsu, cần phải để ý điều này: nếu muốn hiểu biết điều gì trong đó, hãy luôn nhớ lại ba lựa chọn căn bản này của Đức Giêsu.

Cuộc thử thách và lòng trung thành

Thời gian 40 đêm ngày Đức Giêsu trải qua trong sa mạc đánh dấu việc khởi đầu một cuộc phiêu lưu, cuộc phiêu lưu của Giao Ước Mới.  Cuộc phiêu lưu này tái hiện quãng thời gian 40 năm dân Do-thái đã trải qua trong cuộc Xuất hành, đồng thời nhắc lại 40 ngày đêm ông Mô-sê đã ở trên núi Xi-nai.

Còn hơn thế nữa, khoảng thời gian này không chỉ là một cuộc khởi đầu, nhưng còn là một cuộc sáng tạo với những yếu tố như cuộc sáng tạo vũ trụ: sa mạc (miền đất trống rỗng, hoang vu), và sự thử thách.

Trong cuộc sáng tạo, A-đam đã phải chịu thử thách, đã đứng trước một lựa chọn, trong đó ông phải bày tỏ tự do của mình.  Cũng vậy, với biến cố hôm nay, với cuộc thử thách và lựa chọn trong sa mạc, Đức Giêsu đã bày tỏ tự do của mình, đã thể hiện sự gắn bó với Thiên Chúa, và cho thấy bản tính sâu xa của Người: Con Thiên Chúa và Con Loài Người.

Thực vậy, sa mạc và thử thách luôn là những cơ hội để bày tỏ lòng trung thành hay thái độ bất trung (A-đam, sự kiện con bò vàng …).  Lần đầu tiên trong suốt lịch sử cứu độ, Đức Giêsu thực hiện điều mà trước đây, cả A-đam lẫn ÍT-RA-EN không thể thực hiện: lòng trung thành với Thiên Chúa.

Nhờ sự trung thành với căn tính Con Người và Con Thiên Chúa, Đức Giêsu mở ra con đường cho Giao ước Mới, con đường đặt nền tảng trên lòng trung thành, một yếu tố mà con người có thể thực hiện được với nỗ lực và tự do của mình.  Và lòng trung thành này được biểu hiện qua việc nhìn nhận Lời Chúa là của ăn, nhìn nhận thánh ý Chúa Cha có giá trị ưu tiên tuyệt đối, nhìn nhận Thiên Chúa là Chúa duy nhất.

Một cuộc chiến đấu

Con người vẫn thường nghĩ về Đức Giêsu như Đấng có uy quyền, Đấng bày tỏ các mầu nhiệm và thực hiện những điều lạ lùng.  Về phần mình, Đức Giêsu lại đề ra một cuộc chiến đấu.

Quả thực, qua các cám dỗ tại sa mạc, Đức Giêsu đã thể hiện trọn vẹn tính cách con người.  Mặc dù có thể, Người đã không sử dụng các phép lạ cho riêng mình để loại bỏ đi những yếu tố vẫn gắn liền với thân phận con người.

Đức Giêsu muốn uống lấy chén đắng, Người muốn cứu nhân loại chứ không cứu lấy bản thân mình.  Chính ý tưởng này còn đưa đến cho Người nhiều thử thách khác, không kém phần cam go, nhưng Người đã vượt qua.  Thử thách cuối cùng là cái chết, Người cũng đã đón nhận, bởi vì Người hiểu rằng, chính trong tâm tình tự hiến vì yêu thương, Người nhận lấy vinh quang của cuộc chiến đấu, đồng thời đem lại vinh quang cho tất cả những ai bền lòng vững chí.

Suốt cuộc đời của Đức Giêsu là một cuộc chiến đấu liên lỉ chống lại sự dữ, chống lại quyền lực xấu xa đang đè nặng trên cuộc sống của con người.  Người muốn giải phóng họ khỏi những quan niệm, những cách sống đang làm vướng bận mối tương giao của họ với Thiên Chúa, hay làm cho mối tương giao đó không được trong sáng, không đạt tới ý nghĩa thâm sâu.  Chẳng hạn như sau khi chứng kiến phép lạ hoá bánh ra nhiều, dân chúng đã muốn tôn Người làm vua, nhưng Người đã lánh đi (Ga 6,15), hoặc khi Phê-rô lên tiếng can ngăn Đức Giêsu, xin Người đừng lên Giê-ru-sa-lem, Người đã không xiêu lòng trước thử thách, nhưng đã quyết liệt khước từ và nặng lời trách móc Phê-rô (x. Mt 16,23).

Như thế, Đức Giêsu không muốn sống an toàn, trái lại, Người lao vào một cuộc đấu tranh, chấp nhận những mất mát thua thiệt về phía mình, kể cả sự sống.  Người hiểu rằng, để khai sinh một nhân loại mới, một ý nghĩa mới cho cuộc sống của con người, cần phải chiến đấu, phải hy sinh, phải liều lĩnh.  Nếu không có can đảm vượt lên trên cái nhìn bình thường, vượt lên trên sự an toàn cho riêng mình, thì nhân loại không thể nào được cứu vớt, được giao hoà với Thiên Chúa.

Cuối cùng, cuộc chiến đấu này đã dẫn đưa Người tới cái chết trên thập giá, và Người đã chiến thắng nhờ sự Phục sinh.  Sự kiện này cho thấy rằng cuộc chiến đấu của Người không phải là vô nghĩa, và con người có thể đạt tới chiến thắng vinh quang nhờ lòng trung thành, nhờ thái độ tuân phục thánh ý Thiên Chúa.

Vì vậy, xét theo cái nhìn bình thường, Đức Giêsu đã hành động như là không yêu mến con người; Người đã mở ra một cuộc chiến và mời gọi họ dấn thân, chứ không đem đến cho họ sự an toàn.  Tuy nhiên, chính cuộc chiến do Đức Giêsu khởi đầu lại là con đường duy nhất để đạt tới vinh quang đích thực.  Trong cuộc chiến đấu của mình, Đức Giêsu đã liên đới với tất cả những người đau khổ, liên đới với thân phận làm người của nhân loại; Người hành động như thế vì yêu mến họ, yêu mến cách tận tình, muốn đưa họ tới sự sống chân thật.  Bình an do Đức Giêsu đem đến là bình an được chiếm đoạt bằng sức mạnh, bằng sự trung tín với Lời Chúa.

Chiến dấu từng ngày và suốt đời

 Ba cám dỗ, hay ba chọn lựa, vẫn thường xảy ra trong suốt dòng lịch sử.  Mỗi người sẽ gặp phải những thử thách và họ sẽ ngã gục như A-đam và dân It-ra-en, nếu họ không nhìn vào Đức Giêsu, và không noi theo gương của Người.

Cuộc chiến đấu ấy, thử thách ấy vẫn diễn ra cách này cách kia theo nhiều hình thức khác nhau; mỗi thời mang một vẻ khác, mỗi giai đoạn lại có vẻ tế nhị hơn, quyết liệt hơn, nhưng bao giờ cũng vẫn là sự chọn lựa giữa Thiên Chúa và trần gian.  Đó là một cuộc chiến đấu dài, rất dài, không bao giờ chấm dứt; người ta phải chiến đấu đến giây phút cuối cùng, mà không được quyền bỏ cuộc, rút lui.

Vậy, đâu là những thử thách vẫn thường xảy ra mà không khi nào Đức Giêsu nhượng bộ?

Thứ nhất: Con người được dựng nên không phải chỉ vì những lương thực trần gian.  Họ còn có những lương thực thiêng liêng và chính thứ lương thực này mới cần thiết.

Thứ hai: Con người được dựng nên không phải để cảm nghiệm về Thiên Chúa mà thôi.  Họ cần phải hiệp thông với Người, như một đứa con, với lòng tin tưởng tuyệt đối.  Đó không phải là mối tương giao đặt nền tảng trên lòng yêu mến.  Họ ở trong Người, không một chút nghi ngờ, không một khoảng cách.

Thứ ba: Con người được dựng nên không phải để thống trị anh em mình, không phải để bắt người khác thần phục mình.  Trái lại, mọi người đều là con một Cha; tất cả đều quy hướng về Thiên Chúa.  Hơn nữa, họ không được dựng nên để phục lạy các ngẫu tượng, nhưng là để thờ phượng Thiên Chúa:

Như vậy, vấn đề được đặt ra chính là căn tính của con người.  Họ được sáng tạo theo hình ảnh của Thiên Chúa Ba Ngôi và Ba Ngôi Chí Thánh không ngừng làm cho họ nên giống hình ảnh của Người.  Đó là chương trình đã có từ thời sáng thế, và hôm nay vẫn đang được thực hiện.  Chương trình này vẫn đang bị đe doạ vì những ham muốn chống đối của con người, và Thiên chúa không ngừng bày tỏ lòng yêu thương của Người:

Chính trong việc cử hành Thánh Thể,
Đức Kitô ban mình làm lương thực để nuôi sống con người.
Đức Kitô xoá tan mọi khoảng cách và nghi ngờ,
Ngài đến ở với chúng ta qua việc rước lễ.
Đức Kitô quỳ gối trước mặt chúng ta,
rửa chân cho chúng ta,
biến chúng ta thành một dân biết phục vụ,
sắn sàng quỳ gối để rửa chân và giúp đỡ người khác.

Con người không được dựng nên cho riêng mình.  Cộng đoàn ngày Chúa Nhật là cơ hội để chúng ta thấy rõ căn tính của mình.  Trong cộng đoàn này, chúng ta chia sẻ với nhau những thành quả do cuộc chiến đấu của Đức Kitô, đồng thời trở nên hình ảnh của Thiên Chúa.

Đi vào Mùa Chay
là cùng với Đức Kitô
lao vào cuộc chiến đấu.
để bày tỏ lòng trung thành
đặt nền tảng trên Lời Chúa.

G. Nguyễn Cao Luật

Nếu không nghe được Youtube hoặc có vấn đề về kỹ thuật, xin để lại lời nhắn ở mục “Comment” phía dưới, chúng tôi sẽ cập nhật lại đường link Youtube.