LÀ AI VÀ PHẢI TRỞ THÀNH AI?

“Cần Chúa lớn lên, còn tôi nhỏ lại!”

Chuyện kể về một triết gia người Đức rất nổi tiếng, Schleiermacher, người định hình sự tiến bộ của tư tưởng hiện đại.  Một chiều kia, khi đèn đã lên, ông ngồi một mình trong công viên.  Một cảnh sát đi tới, với ý định bắt ông vì nghĩ rằng, ông là một gã say, lang thang.  Cảnh sát hỏi, “Ông là ai?”  Schleiermacher buồn bã trả lời, “Ước gì tôi biết!”

Kính thưa Anh Chị em,

Thật ngạc nhiên, Schleiermacher quên mình là ai!  Cũng thế, đôi khi trong cuộc sống, chúng ta không nhớ mình “là ai và phải trở thành ai?”  Trong Tin Mừng hôm nay, Gioan Tẩy Giả sẽ chỉ cho chúng ta bí quyết để mỗi người nhớ rõ căn tính mình; đó là, “Cần Chúa lớn lên, còn tôi nhỏ lại!”

Trước hết, việc Chúa Giêsu lớn lên trong cuộc sống của mỗi người chúng ta phải là mục tiêu hàng đầu.  Ngài phải chiếm hữu tâm trí và ý chí chúng ta ngày càng hơn; Ngài phải sở hữu chúng ta, và chúng ta sở hữu Ngài.  Nó có nghĩa là mọi nghi ngờ và sợ hãi phải được gạt sang một bên và tình yêu dành cho Ngài phải trở nên lý do của cuộc sống.  Sẽ thật tự do khi chúng ta cho phép Chúa Giêsu lớn lên trong cuộc đời mình.  Cuộc sống ấy sẽ được giải phóng theo nghĩa, “tôi không còn tìm cách tự quản nó;” vì Ngài, Đấng sống trong tôi, sẽ đảm nhiệm công việc đó.  Trong Ngài, tôi biết mình “là ai và phải trở thành ai;” tôi là của Ngài và mỗi ngày, tôi phải trở thành một Giêsu khác!

Thứ hai, khi nói “Còn tôi nhỏ lại”, Gioan muốn nói, ý chí, ước muốn, tham vọng, hy vọng… của Gioan phải tan biến khi Chúa Giêsu làm chủ hoàn toàn con người Gioan.  Từ bỏ mọi ích kỷ và sống vị tha phải là nguyên tắc căn bản trong cuộc sống chúng ta!  “Nhỏ lại” trước mặt Thiên Chúa có nghĩa là trở nên khiêm tốn; từ bỏ mọi thứ không phải của Chúa và chỉ cho phép Ngài soi rọi.  Chúng ta chỉ có thể từ bỏ một tình yêu nhỏ hơn vì một tình yêu lớn hơn!  Mỗi ngày, Gioan đặt khát vọng và tình yêu của mình vào Đấng Messia; hành động và ý hướng của Gioan tập trung vào Đấng sắp đến; Gioan biết mình “là ai và phải trở thành ai.”  Sự cô độc của Gioan trong sa mạc cho phép tình yêu này phát triển mà không bị phân tâm; Gioan chia sẻ, tất cả những gì chúng ta nhận được là từ trời, từ sự sống siêu nhiên được ban cho bởi cầu nguyện, chiêm ngưỡng và đón nhận.  Trong bài đọc thứ nhất hôm nay, Gioan tông đồ cũng nói, “Con Thiên Chúa đã đến, ban cho chúng ta ơn thông hiểu, để chúng ta nhận biết Chúa chân thật, và được ở trong Con chân thật của Ngài.”

Vậy mà rất nhiều lần, chúng ta làm điều ngược lại, “Cần tôi lớn lên, còn Chúa nhỏ lại,” chúng ta không biết mình “là ai và phải trở thành ai.”  Cám dỗ tìm kiếm chính mình trong ơn gọi, trong việc tông đồ, trong việc phục vụ Giáo Hội là một cám dỗ triền miên mọi thời, ở bất cứ ai, thuộc bất cứ đấng bậc nào!  Một số người chỉ cống hiến khi công việc phải mang lại cho họ danh dự hoặc nâng cao tầm quan trọng của bản thân.  Chúng ta tuyên bố phục vụ Chúa Kitô, nhưng nếu địa vị bị tổn hại vì những chỉ trích, hoặc thấy ai đó kém khả năng hơn đứng trên chúng ta về thứ hạng, trái tim chúng ta vỡ vụn; cam kết của chúng ta suy tàn.  Vào những thời điểm đó, chớ gì chúng ta có thể vượt qua thử thách mà Gioan đã vượt qua, vì “Cần Chúa lớn lên, còn tôi nhỏ lại!”

Anh Chị em,

“Là ai và phải trở thành ai?”  Một câu hỏi xem ra có vẻ như một lối chơi chữ, nhưng là một câu hỏi đáng để suy nghĩ.  Bởi lẽ, không ai khác mà là “bạn và tôi,” chúng ta biết, cùng đích cuối cùng của cuộc hành trình làm người là chúng ta phải trở thành một Giêsu khác.  Nói đúng hơn, chúng ta phải ngày càng làm rỗng chính mình để Chúa Giêsu có thể lấp đầy mỗi người bằng chính Ngài.  Theo cách nói của Phaolô, “nên đồng hình đồng dạng với Ngài,” khi “Tôi sống nhưng không còn là tôi sống, mà Chúa Kitô sống trong tôi!”  Vậy chúng ta phải làm gì để đạt được mục đích này?  Phải như Gioan, chúng ta phải xác tín, “Cần Chúa lớn lên, còn tôi nhỏ lại!”  Tình yêu của chúng ta dành cho Chúa Giêsu không phải là nỗ lực một sớm một chiều, nhưng như Gioan, nó là thành quả của nhiều năm cầu nguyện, chinh phục bản thân và trung thành với một cuộc sống hoán cải vốn phải được sống trước khi được rao giảng.  Như vậy chúng ta mới biết mình “là ai và phải trở thành ai.”

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, xin dạy con biết quên đi bản thân như Gioan, để hoa trái công cuộc cứu rỗi thế giới của Chúa và của Hội Thánh được gặt hái, vì “Chúa phải lớn lên, còn con nhỏ lại,” Amen.

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

NƯỚC HỦY DIỆT VÀ NƯỚC TÁI SINH

Hằng năm, chúng ta chứng kiến sự hủy diệt kinh hoàng của những dòng nước lũ.  Tại một số địa phương ở miền Trung, mỗi năm lũ quét đi biết bao nhà cửa, hoa màu và cả mạng sống, khiến cuộc sống của người dân vốn đã nghèo lại thêm kiệt quệ.

Tuy có sức hủy diệt kinh hoàng, nước lại rất cần thiết đối với đời sống của chúng ta, đến nỗi nước được đồng hóa với sự sống.  Các chuyên viên nghiên cứu đã đưa ra những cảnh báo, khoảng vài chục năm nữa, nạn thiếu nước sẽ trở nên rất nghiêm trọng.  Hiện tượng biến đối khí hậu sẽ làm giảm lượng mưa hằng năm, gây hạn hán khô cằn ảnh hưởng đến đời sống con người cũng như động vật, cỏ cây.

Nước vừa có sức hủy diệt, vừa có khả năng tái sinh

Hôm nay, Phụng vụ cử hành lễ Chúa Giêsu chịu phép Rửa, với mục đích vừa nhắc nhớ sự kiện Chúa Giêsu lãnh phép rửa bởi tay ông Gioan Tẩy giả, vừa khẳng định, với việc dìm mình xuống dòng nước sông Jordan, Chúa Giêsu đã thiết lập Bí tích Thanh tẩy (hay Bí tích Rửa tội), là nguồn mạch sự sống mới nơi người Kitô hữu chúng ta.

Đức Giêsu là Thiên Chúa chí thánh.  Người hoàn toàn thánh thiện vô tội, không cần phải thanh tẩy.  Tuy vậy, qua việc lãnh nhận nghi thức Thanh tẩy, Chúa khiêm nhường hòa mình vào dòng người đang nhận mình là tội nhân để sám hối.  Quả vậy, Chúa trở nên giống chúng ta mọi đàng, ngoại trừ tội lỗi (x. Dt 4,16).  Thánh Phaolô đã nói: “Đức Giêsu Kitô, vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế” (Pl 2,6-7).

Phép Thanh tẩy mà ông Gioan cử hành tại sông Jordan chỉ là nghi thức sám hối.  Từ nghi thức này, Chúa Giêsu đã thiết lập Bí tích Thánh tẩy.  Dòng nước Thánh tẩy vừa mang tính sám hối (hủy diệt tội lỗi), vừa mang giá trị tái sinh (sinh ra trong đức tin).  Nhờ dòng nước Thanh tẩy, con người cũ của chúng ta chấp nhận chết đi, nhường chỗ cho con người mới, được sinh ra trong ân sủng.  Tái sinh là một điều kiện cần thiết để trở thành con cái Chúa.  Trong cuộc đàm đạo với ông Nicôđêmô, Chúa Giêsu đã khẳng định điều đó: “Không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bởi nước và Thần Khí” (Ga 4,5).  Đồng thời với dòng nước thanh tẩy, Chúa Thánh Thần can thiệp để làm cho người thụ tẩy trở nên tạo vật mới, đoạn tuyệt với tội lỗi, sang một trang sử mới.  Nhờ được thanh tẩy nhân danh Chúa Ba Ngôi, người tín hữu trở nên đền thờ cho Chúa ngự, để rồi, bất kỳ hoàn cảnh nào, họ được Chúa yêu thương bao bọc chở che.  Ơn của Phép Rửa chính là sự canh tân đổi mới tâm hồn do Chúa Thánh Thần thực hiện, nhờ công nghiệp Đức Kitô (Bài đọc II).

Trình thuật Chúa Giêsu chịu phép Rửa được Thánh Luca thuật lại, mang hình thức của một cuộc phong vương trong thời vua chúa ngày xưa, rất uy nghi và long trọng.  Hơn cả một cuộc phong vương, vì đây còn là một cuộc hiển linh hay “thần hiện.”  Chúa Cha được diễn tả qua lời nói, Chúa Thánh Thần được diễn tả qua hình chim bồ câu.  Từ thuở ban đầu, Thiên Chúa dùng Lời của Ngài mà sáng tạo muôn loài.  Trước khi sáng tạo, có Thần Khí Chúa bay lượn trên mặt nước thinh không.  Hôm nay, nơi Chúa Giêsu, Thiên Chúa thực hiện một cuộc sáng tạo mới, cũng bằng Lời của Ngài, nhưng đó chính là Đức Giêsu, Ngôi Lời nhập thể.  Chúa Cha đã giới thiệu Con của Ngài với toàn nhân loại: “Con là Con yêu dấu của Ta, Con đẹp lòng Ta.”  Chúa Giêsu là mẫu mực hoàn hảo cho mọi người.  Nhờ Bí tích Thanh Tẩy, chúng ta được trở nên giống như Chúa Giêsu, nên đồng hình đồng dạng với Người và cùng Người hưởng gia nghiệp đời đời Chúa Cha đã hứa ban cho người công chính.  Bài ca của Ngôn sứ Isaia thấm đượm niềm vui vì vinh quang Chúa tỏ hiện oai hùng.  Đó chính là ngày giải phóng đối với dân lưu đày và ngày yên ủi đối với người cùng khổ.  Những ai cậy trông nơi Ngài sẽ được Ngài dẫn dắt (Bài đọc I).

Phép Rửa trao cho chúng ta vinh dự lớn lao, làm cho ta trở thành nghĩa tử của Thiên Chúa, đồng thừa tự với Đức Giêsu.  Phép Rửa cũng trao cho chúng ta những trách nhiệm, qua ba chức năng: Ngôn sứ, Tư tế và Quản trị.  Nếu hiểu và chuyên tâm thực thi ba chức năng này, chúng ta sẽ góp phần tích cực trong việc xây dựng Giáo Hội và nhiệt thành làm chứng nhân cho Chúa trong cuộc sống hôm nay.

ĐTGM Giuse Vũ Văn Thiên

NGÔI LỜI ĐÃ LÀM NGƯỜI

Có lần, khi dẫn các vị khách không cùng tôn giáo đi thăm hang đá Giáng Sinh, có vị đã hỏi ý nghĩa của dòng chữ ghi trên hang đá “Ngôi Lời đã làm người”, tôi thấy thật khó để giải thích một điều cốt lõi của Đức tin Kitô giáo.  Quả vậy, mầu nhiệm Nhập thể không thể diễn đạt trong vài câu từ.  Ngay cả đối với các Kitô hữu, tín điều này là một huyền nhiệm mà lý trí hữu hạn của con người phải im lặng cung kính tôn thờ trước quyền năng cao cả và tình thương vô bờ của Thiên Chúa Tối cao.

“Ngôi Lời đã làm người”, Tác giả Tin Mừng thứ bốn khẳng định với chúng ta như thế.  Ông đã khởi đầu tác phẩm của mình bằng cách đi tìm nguồn gốc của Ngôi Lời thiên linh.  Ngôi Lời ấy đã hiện hữu từ muôn thuở.  Ngôi Lời vừa giống Chúa Cha, lại vừa khác với Ngài.  Ngôi Lời giống Chúa Cha vì Ngôi Lời là Thiên Chúa, Ngôi Lời khác với Chúa Cha vì “Người vẫn hướng về Thiên Chúa.”  Sự tương tự và khác biệt chỉ có thể hiện hữu do quyền năng của Thiên Chúa.  Thánh Gioan muốn chứng minh: Đức Giêsu Kitô thành Nagiarét là Thiên Chúa thật, và cũng là người thật.  Như trên đã nói, lý trí con người hữu hạn, suy bao nhiêu cũng không thể hiểu được mầu nhiệm Nhập Thể, tức là sự kiện Thiên Chúa và con người nên một nơi Đức Giêsu.  Trong kinh Tin Kính, chúng ta tuyên xưng: Đức Giêsu đồng bản thể với Đức Chúa Cha.  Lời tuyên xưng ấy nói lên sự tương tự huyền nhiệm này.

“Ngôi Lời đã làm người”, để làm gì?  Thưa, để chiếu sáng thế gian.  Đức Giêsu là ánh sáng trần gian.  Chính Người đã khẳng định: “Tôi là ánh sáng thế gian.  Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống” (Ga 8,12).  Sứ mạng của Đức Giêsu là soi sáng trần gian, giúp con người nhận ra Chân lý, và nhờ đó họ được sống đời đời.  Ánh sáng của Chúa Giêsu là cuộc đời và giáo huấn của Người.  Ai đến với Người, thì không còn phải đau khổ, vì họ được an ủi và tìm thấy bình an.  Lịch sử Kitô giáo hai ngàn năm qua đã chứng minh điều đó.  Bất cứ ai đến với Đức Giêsu, đều được Người đón nhận.  Sự kiện lễ Giáng sinh được cử hành vào nửa đêm theo truyền thống từ xa xưa, cũng nhằm khẳng định Đức Giêsu là ánh sáng bừng lên trong đêm tối cuộc đời.

“Ngôi Lời đã làm người” trong hoàn cảnh nào?  Tác giả Tin Mừng thứ bốn viết: “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1,11).  Thánh Gioan muốn nói đến những người khước từ Chúa Giêsu.  Sự khước từ ấy thể hiện qua việc Thánh Giuse và Đức Trinh nữ Maria gõ cửa nhiều quán trọ, mà không tìm được một chốn trú ngụ qua đêm.  Những chủ quán thời đó có thể khước từ vì thấy hai ông bà nghèo nàn, mà bà thì lại sắp sinh con.  Chính vì sự khước từ này mà Ngôi Lời đã phải khởi đầu hành trình trần thế trong khung cảnh nghèo nàn tột bậc.  Đó là hang đá, nơi dùng cho chiên bò trú ngụ qua đêm để tránh sương lạnh mùa đông buốt giá.  Trải dài suốt lịch sử, có rất nhiều người đón nhận Chúa Giêsu và thực thi giáo huấn của Người.  Tuy vậy, cũng có nhiều người khước từ Chúa.  Những người đón tiếp Chúa vì đã nhận ra nơi Người con đường Chân lý và ý nghĩa cuộc đời.  Những người khước từ Người vì thấy nơi Người những ràng buộc kìm hãm mọi đam mê của họ.  Theo Đức Giêsu phải chấp nhận bỏ mình.  Bởi lẽ, Đức Giêsu đã đi trên con đường thập giá và đã chết trên thập giá.  Kitô hữu là người nên giống Chúa Kitô trong cuộc sống, thì cũng phải nên giống Người trong mầu nhiệm thập giá.  Cũng tác giả Tin Mừng thứ bốn đã khẳng định: “Những ai đón nhận, tức là tin vào Danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa” (c 12).

“Ngôi Lời đã làm người” dạy ta điều gì?  Thiên Chúa cao cả đã hạ mình trở nên Hài Nhi bé nhỏ, sinh ra bởi một người phụ nữ.  Đó là sự khiêm nhường của Thiên Chúa.  Mầu nhiệm nhập thể dạy chúng ta, muốn nên thánh, trước hết phải là con người theo đúng nghĩa, tức là con người với đầy đủ những đức tính nhân bản.  Có những người chưa làm người đã đòi làm thánh, vì vậy họ sống trong ảo tưởng, lang thang vô định mà chẳng thấy bình an.  Noi gương Đức Giêsu, chúng ta sống khiêm nhường trước mặt Chúa và đối với anh chị em mình, vì “ai hạ mình xuống sẽ được Chúa nâng lên.”

Ngôi Lời đã làm người”, và hôm nay Người đang ở giữa chúng ta.  Hang đá máng cỏ chỉ là phác họa sự kiện lịch sử cách đây hơn hai ngàn năm.  Khi mừng lễ Giáng sinh, mỗi tín hữu hãy nhận ra sự hiện diện đầy yêu thương ấy.  Và, cũng như Gioan Tiền hô, mỗi chúng ta cũng hãy trở nên nhân chứng của Ánh Sáng ngàn đời, đem Chúa đến với anh chị em chúng ta, những người đang khát khao Chân lý và đang tìm ý nghĩa cuộc đời.

TGM Giuse Vũ Văn Thiên

THÁNH GIUSE VÀ GIÁNG SINH

Có vô số người, nhà thờ, vương cung thánh đường, chủng viện, tu viện, và cả các thành phố, thị trấn mang tên Thánh Giuse.  Và thánh Giuse cũng là thánh đỡ đầu của nước Canada, quê hương sinh trưởng của tôi.

Thánh Giuse đích thật là ai?  Ngài là một nhân vật trầm lặng được nêu bật lên trong câu chuyện Giáng Sinh, là người chồng của Đức Maria và là người cha trần thế của Đức Giêsu, rồi sau đó về cơ bản là không bao giờ được nhắc đến nữa.  Hình tượng đạo đức về ngài là một người lớn tuổi, người bảo vệ an toàn cho Mẹ Maria, người thợ mộc, khiết tịnh và thánh thiện, khiêm hạ và âm thầm, một vị thánh bảo trợ hoàn hảo cho người lao động và đức hạnh âm thầm, hiện thân của khiêm hạ.

Nhưng thực sự chúng ta biết gì về ngài?

Trong Tin Mừng theo thánh Mathêu, việc truyền tin về sự nhập thể của Đức Giêsu được báo cho thánh Giuse hơn là Đức Maria: Trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần.  Ông Giu-se, chồng bà, là người công chính và không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo.  Ông đang toan tính như vậy, thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng: “Này ông Giu-se, con cháu Đa-vít, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần.”

Chúng ta học được gì từ đoạn này?

Phần nào trong đó là có tính biểu tượng: Thánh Giuse trong chuyện Giáng Sinh rõ ràng nhắc lại hình ảnh ông Giuse trong sách Xuất Hành, ông cũng có một giấc mơ, cũng đi đến Ai Cập, cũng cứu cả gia đình.  Và vua Hêrôđê rõ ràng là bản sao của vua Pharaon Ai Cập; cả hai đều sợ hãi và đều giết các con trai Do Thái, đó chỉ là dịp để Thiên Chúa ra tay che chở sự sống cho người sẽ cứu cả dân tộc.

Nhưng sau đó, thánh Giuse của câu chuyện Giáng Sinh đã đưa chúng ta về câu chuyện riêng của mình: Ngài được cho là người “công chính”, một danh xưng mà các học giả ngụ ý ngài đã hướng theo Luật Thiên Chúa, và “công chính” là tầm mức thánh thiện cao nhất của người Do Thái.  Ở dưới mọi khía cạnh, ngài là người không có điều gì để chê trách, một gương mẫu của lòng tốt, điều ngài làm trong câu chuyện Giáng Sinh là đã không muốn Đức Mẹ bị sỉ nhục, cả khi ngài đã quyết định sẽ bỏ Mẹ cách kín đáo.

Thật sự thì điều gì xảy ra ở đây?

Chúng ta có thể dựng lên bối cảnh của mối quan hệ giữa thánh Giuse và Đức Maria như sau: Phong tục kết hôn thời đó là một cô gái trẻ, thông thường ở tuổi dậy thì, được cha mẹ sắp xếp kết hôn với một người đàn ông thường lớn hơn vài tuổi.  Họ sẽ đính hôn và về pháp lý đã là vợ chồng, nhưng chưa sống với nhau và chưa bắt đầu quan hệ tình dục trong vòng vài năm.  Luật Do Thái đặc biệt nghiêm nhặt về việc hai người phải sống riêng trong suốt thời gian đính hôn.  Trong thời gian này, người nữ tiếp tục sống với cha mẹ, người nam sẽ gầy dựng một căn nhà và theo một nghề nghiệp để có thể lo toan cho cuộc sống cho vợ khi họ bắt đầu chung sống.

Lúc Đức Maria thụ thai, thì hai người đang ở trong tình trạng này, chính thức kết hôn nhưng chưa chung sống.  Thánh Giuse khi biết đứa trẻ không phải là con của ngài đã rất bối rối: Nếu mình không phải là cha đứa bé, vậy thì là ai?  Để cứu vãn danh tiếng của mình, ngài có thể xin điều tra công khai và tất nhiên Đức Maria sẽ bị kết tội thông dâm, có nghĩa là phải chết.  Tuy nhiên, ngài đã quyết định “bỏ bà cách kín đáo” để tránh một cuộc điều tra công khai có thể đẩy Đức Maria vào một hoàn cảnh khó khăn và nguy hiểm.

Rồi sau khi được báo mộng, ngài đồng ý đưa Đức Maria về nhà xem như vợ mình và đứa con là con mình.  Phần nào chúng ta có thể hiểu được ý nghĩa của việc này, ngài đã dung thứ cho tình trạng khó khăn của Đức Maria, đặt tên đứa trẻ như con mình, và đã mang lại một vị trí, một địa vị xã hội, tôn giáo cho đứa trẻ được sinh ra và lớn lên.   Nhưng ngài đã làm những việc âm thầm hơn: Đó là cách sống của một tín hữu, tin tưởng chân thành sâu sắc vào mọi điều thuộc truyền thống tôn giáo, và cũng vừa biết mở lòng ra với thần nhiệm vượt trên hiểu biết của bản thân và của tôn giáo mình theo.

Và đây chính xác là vấn đề của mỗi Kitô hữu, kể cả thánh Mathêu, vào thời điểm viết Tin Mừng: Họ là những người Do Thái mộ mến, những người không biết làm sao để đón nhận Đức Kitô vào nền tôn giáo của họ.  Một người sẽ làm gì nếu Thiên Chúa tác động vào cuộc đời họ với những cách thức mới lạ, chưa từng tưởng nghĩ đến?  Làm sao có thể đón nhận ý niệm bất khả?  Raymond Brown đã diễn đạt như sau: Thánh Giuse, nhân vật chính trong phần đầu Phúc âm thánh Mathêu, là người Do Thái rất nhạy cảm tuân theo Luật. …  Trong thánh Giuse, tác giả Tin Mừng Mathêu đã khắc họa hình ảnh ngài nghĩ về một người Do Thái [một tín hữu chân thành] nên như vậy và cũng có lẽ là chính ngài là như vậy.

Điều thiết yếu thánh Giuse dạy chúng ta là cách thế sống trong lòng quý chuộng sự trung tín với tất cả những gì ta nối kết về mặt nhân bản và tôn giáo, cả việc chúng ta mở lòng ra với huyền nhiệm Thiên Chúa mặc khải, vượt lên mọi thể loại giữ đạo và trí tưởng tượng của chúng ta.  Đó có là một thách thức tiếp diễn của Giáng Sinh hay không?

Rev. Ron Rolheiser, OMI

GIÁNG SINH CHÍNH LÀ ĐẬP TAN BIẾT BAO KỲ VỌNG CỦA CHÚNG TA

Thật bi hài khi Thiên Chúa luôn làm tiêu tan biết bao kỳ vọng của chúng ta.  Chúng ta có quan niệm nhất định về cách thức hành động của Thiên Chúa, nhưng cuối cùng Ngài lại hành động theo những cách khiến biết bao kỳ vọng của ta tiêu tan và đồng thời lại thành toàn cho những kỳ vọng của chúng ta theo một cách sâu sắc hơn.  Điều này đặc biệt đúng trong câu chuyện ở Bê-lem trong ngày Chúa Giáng Sinh.

Suốt hàng thế kỷ, biết bao nhiêu tín hữu ý thức sự vô lực của mình trước những chuyện sai trái trên đời, đã cầu nguyện xin Thiên Chúa xuống dương trần làm Đấng Thiên Sai, Đấng Cứu Tinh, tẩy uế dương trần và chỉnh đốn mọi sự.  Có lẽ nó là một khát khao mơ hồ mong mỏi công lý, một hy vọng cháy bỏng, thay vì một viễn cảnh rõ ràng, ít nhất là trước thời các ngôn sứ Do Thái vĩ đại.  Dần dà, các ngôn sứ như Isaiah bắt đầu trình bày rõ viễn cảnh khi Đấng Thiên Sai đến.  Trong viễn cảnh họ mô tả, Đấng Thiên Sai sẽ mở ra “Thời đại Thiên Sai”, một thời đại mới khi mọi sự được chỉnh đốn đúng đắn tốt đẹp.  Người nghèo được sung túc, người bệnh được chữa lành, mọi người bị giam cầm nô lệ được giải phóng, và tất cả được hưởng công lý (bao gồm cả sự trừng phạt dành cho kẻ ác).  Người nghèo và người hiền lành sẽ thừa kế địa cầu vì Đấng Thiên Sai mà họ tìm kiếm từ lâu sẽ khuất phục mọi sự dữ, xua đuổi ác nhân khỏi mặt địa cầu và chấn chỉnh mọi sự.

Và sau hàng thế kỷ đợi chờ, khát khao, họ được gì?  Họ đã được gì?  Một hài nhi sơ sinh trần truồng, vô lực, còn chẳng tự ăn được.  Chẳng một ai ngờ chuyện sẽ như thế.  Họ kỳ vọng có một Siêu nhân, một Siêu sao, một người cường tráng, thông minh, đường bệ, bất khả xâm phạm và bất khả chiến bại, áp đảo hoàn toàn mọi thế lực trên địa cầu đến mức không một ai dám tranh biện, chống đối hay đương cự gì cả.

Và chúng ta thời nay, hầu hết, vẫn hình dung về cách quyền năng của Thiên Chúa hoạt động trên trần gian như thế.  Nhưng như câu chuyện Giáng Sinh, chúng ta đã biết rằng thường thì Thiên Chúa không hoạt động như thế.  Câu chuyện Bê-lem bày tỏ cho chúng ta rằng thường chúng ta gặp được sự hiện diện và quyền năng của Thiên Chúa trên trần gian trong hình hài một trẻ sơ sinh nằm trong máng cỏ, yếu ớt, vô lực, mà đi vào lòng chúng ta một cách tiềm thức.

Tại sao lại thế?  Tại sao Đấng Tạo Hóa toàn năng của vũ trụ lại không mang lấy thêm cơ bắp cường tráng?  Tại sao Thiên Chúa thường tỏ lộ trong hình hài trẻ bé hơn là trong hình hài siêu sao?  Tại sao lại thế?  Bởi vì quyền năng của Thiên Chúa hoạt động để làm tan chảy hơn là phá vỡ trái tim con người, và đấy chính là tác động của sự yếu đuối và vô lực.  Đấy chính là điều mà một trẻ bé làm được.  Quyền năng của Thiên Chúa, ít nhất là quyền năng của Thiên Chúa để kéo chúng ta lại gần nhau, thường không hoạt động qua sự uy nghi, cường tráng và bất khả xâm phạm.  Quyền năng của Thiên Chúa hoạt động qua rất nhiều điều, nhưng khi hoạt động qua sự yếu đuối và vô lực, quyền năng đó thật đặc biệt.  Sự thân mật dựa trên sự yếu đuối.  Chúng ta không thể áp chế người khác để khiến người đó yêu bạn, trừ khi chúng ta áp chế người đó bằng cách làm của một trẻ bé.  Chúng ta có thể quyến dụ nhau bằng sự hấp dẫn, khiến người ta ngưỡng mộ bằng tài năng, và áp đảo người khác bằng sức mạnh thượng đẳng, nhưng chúng không thể nào đem lại nền tảng cho một cộng đồng chia sẻ cuộc sống với nhau lâu dài….  Thế mà sự vô lực và ngây thơ của một đứa trẻ lại có thể làm được.

Quyền năng của Thiên Chúa, cũng như trẻ bé ngủ trong nôi, nằm đó trong thế giới của chúng ta với lời mời gọi lặng lẽ chứ không phải lời đe dọa áp chế.  Đức Kitô mặc lấy xác phàm ở Bê-lem cách đây hai ngàn năm, rồi ba mươi năm sau, chết trong vô lực trên cây thập giá ở Jerusalem, điều này tỏ lộ cho chúng ta rằng: Thiên Chúa nhập thể nơi Đức Giêsu Kitô đi vào đau khổ của con người thay vì bàng quan đứng nhìn, đồng hiệp với chúng ta thay vì tách biệt khỏi chúng ta, thể hiện rõ rằng con đường đến vinh quang là con đường đi xuống thay vì đi lên, chung vai với người nghèo và người vô lực thay vì với người giàu và quyền lực, mời gọi thay vì cưỡng ép, và biểu lộ rõ nơi một trẻ bé hơn là nơi một siêu sao.

Nhưng chuyện này không phải lúc nào cũng dễ để chúng ta hiểu hoặc chấp nhận.  Chúng ta thường chán nản và nóng vội khi Thiên Chúa có vẻ hành động quá chậm.  Chúa Giêsu đã hứa rằng người nghèo và người hiền lành sẽ thừa kế địa cầu, thế mà hiện thực thế giới thì lại trái ngược hẳn.  Người giàu ngày càng giàu lên, còn người nghèo có vẻ chẳng được thừa kế bao nhiêu.  Một trẻ bé vô lực thì làm được gì trong chuyện này chứ?  Chúng ta phải tìm đâu để thấy quyền năng của Đấng Thiên Sai?  Vâng, lại một lần nữa, biết bao kỳ vọng của chúng ta cần bị đập tan.  Mà “thừa kế địa cầu” nghĩa là gì?  Là làm siêu sao?  Là giàu có và nổi tiếng?  Là có quyền trên người khác?  Là một yếu nhân đến đâu cũng được nhận ra và ngưỡng mộ?  Đấy là cách chúng ta “thừa kế địa cầu” sao?  Hay “thừa kế địa cầu” là khi sự lạnh lẽo tan chảy dần trong tim và chúng ta được tái hồi sự thiện ban sơ, nhờ nụ cười của một trẻ bé?

Rev. Ron Rolheiser, OMI

NIỀM VUI CỦA HAI NGƯỜI MẸ

Đối với người phụ nữ, được làm mẹ là một hạnh phúc tuyệt vời.  Những người phụ nữ không may son sẻ, phải mang nỗi niềm đau khổ suốt đời.  Phụng vụ Chúa nhật 4 Mùa Vọng nói với chúng ta niềm vui của hai người mẹ, đó là Đức Trinh nữ Maria và bà Elisabet.  Cả hai bà mẹ đều đang mang thai.  Cuộc gặp gỡ của hai người mẹ, cũng là cuộc gặp gỡ của hai người con.  Niềm vui của hai bà mẹ, cũng là niềm vui của hai hài nhi.  Bởi thế mà bà Elisabet cảm nhận rõ hài nhi nhảy mừng trong lòng mình.  Cuộc gặp gỡ này để lại ấn tượng sâu đậm nơi Đức Trinh nữ, và đoạn Tin Mừng này chắc chắn là do Trinh nữ thuật lại với tác giả Luca.  Trước đó vài ngày, sứ thần Gabrien đã cho Đức Trinh nữ biết, bà Elisabet là chị họ của Trinh nữ đã mang thai được sáu tháng dù ở tuổi cao niên.  Sau cuộc gặp gỡ, Trinh nữ Maria đã vội vã lên đường để thăm người chị, và cũng để kể cho chị nghe những điều kỳ diệu Thiên Chúa sắp thực hiện cho dân tộc mình.

Hai người mẹ cảm nhận được những kinh nghiệm rất đặc biệt.  Cả hai người đều khám phá qua hài nhi còn trong lòng dạ mình ánh sáng sâu thẳm đến từ Thiên Chúa.  Trinh nữ Maria cảm nhận sâu sắc rằng hài nhi trong lòng là ánh sáng của quyền năng trên cao, lan tỏa và tác động nơi những người đến gần mình.  Sự nhảy mừng của Gioan Tiền hô đã chứng minh điều đó.  “Khi bà Elisabet nghe lời chào của Maria, thì hài nhi liền nhảy mừng trong lòng bà.  Bà Elisabet được ơn Chúa Thánh Thần và thốt lên: Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm?”  Đó là tiếng kêu ngạc nhiên vui mừng.  Đó cũng là lời ca tụng tán dương quyền năng cao cả của Thiên Chúa.

Trinh nữ Maria và bà Elisabet, hai người phụ nữ đều cùng sống niềm hy vọng của dân tộc mình.  Như những người tín hữu đạo hạnh, họ ngày đêm mong đợi Đấng Cứu thế đến để giải thoát dân tộc khỏi đau khổ lầm than.  Trinh nữ Maria và bà Elisabet, hai người phụ nữ đều đang chuẩn bị sinh con và đang nóng lòng chờ đón con mình chào đời.  Chúng ta, những tín hữu cũng đang chuẩn bị mừng lễ Giáng Sinh, kỷ niệm ngày Ngôi Hai ra đời.  Hai người phụ nữ là gương mẫu cho chúng ta trong tâm thế chờ đợi Chúa.  Việc đón Chúa đến trong đời không còn chỉ là dựa vào những lời sấm xa xưa, nhưng phải được thực hiện với tâm tình yêu mến và với trái tim rộng mở.  Chúa Giêsu không đến với hình hài bé thơ như cách đây hơn hai ngàn năm, nhưng Người đang đến với chúng ta qua anh chị em, qua những biến cố vui buồn của cuộc sống và nhất là qua các cử hành Phụng vụ.

Ngôi Lời giáng trần là một sự kiện lịch sử.  Chúa Giêsu xuống thế làm người có một quê hương và một gia đình.  Nơi Người sinh hạ là thành phố bé nhỏ có tên là Belem, thuộc xứ Ephata như lời Ngôn sứ Mika đã tuyên sấm (Bài đọc I).  Gia đình của Chúa là Thánh Giuse, người cha nuôi, và Đức Trinh nữ Maria, người mẹ hiền. S ự sinh hạ và cuộc sống của Chúa gắn liền với những địa danh và những nhân vật của thời đại Người.  Chúa Giêsu không phải là một nhân vật của huyền thoại, nhưng là nhân vật lịch sử.  Sự sinh hạ của Người là một mốc son trong lịch sử loài người.  Tác giả thư Do Thái đã chiêm ngắm và suy tư Đức Giêsu ở khía cạnh tư tế.  Người là Thượng tế vĩnh viễn, đã dâng trọn vẹn con người của mình làm của lễ hy sinh dâng lên Chúa Cha.  Hiệu quả của hy lễ ấy là ơn thánh hoá mà nhân loại mọi nơi mọi thời đều được hưởng.  Hôm nay, Người vẫn tiếp tục dâng hy lễ lên Chúa Cha.  Nói rõ hơn, mỗi khi thừa tác viên của Giáo Hội cử hành Bí tích Thánh Thể, thì làm cho hy lễ thập giá năm xưa trở thành hiện tại, nên suối nguồn ân phúc cho những ai tham dự.  Như thế, cung kính đón nhận Thánh Thể cũng là một điều kiện quan trọng để mừng lễ Giáng Sinh.

Đấng Cứu độ đã hóa thân làm người, và đang ở giữa chúng ta.  Người là Đấng Emmanuel.  Mừng lễ Giáng sinh, chúng ta hãy ý thức về sự hiện diện của Chúa Giêsu trong tâm hồn và trong cuộc sống, nhờ đó, chúng ta luôn có trái tim mở rộng, chân thành đón tiếp Người.  Như Mẹ Maria, chúng ta có bổn phận phải đem Chúa đến với mọi người, để niềm vui lan toả mọi nẻo đường của cuộc sống và ơn cứu độ đến với trần gian.

TGM Giuse Vũ Văn Thiên

NHẬP THỂ SÂU ĐẬM – MỘT Ý NGHĨA KHÁC CỦA LỄ GIÁNG SINH

Cách đây vài năm, trong một buổi hội thảo tôn giáo, một người tiến đến gần máy vi âm, sau khi xin lỗi vì ông nghĩ đây là câu hỏi không phù hợp, ông hỏi: “Tôi mê con chó của tôi. Khi nó chết, nó có lên thiên đàng không? Động vật có đời sống vĩnh cửu không?”

Câu trả lời cho câu hỏi này có thể làm nhiều người ngạc nhiên, nhưng qua cái nhìn của đức tin kitô giáo, thì có, con chó có thể lên thiên đàng. Đó là một trong các ý nghĩa của lễ Giáng Sinh. Chúa xuống trần để cứu thế giới, không phải chỉ con người sống trên quả đất. Nhập thể có một ý nghĩa cho nhân loại, nhưng cũng có ý nghĩa cho toàn vũ trụ. Chính xác điều đó có nghĩa là gì, trí tưởng tượng của chúng ta không ở tầm mức hình dung ra được, nhưng, nhờ nhập thể, con chó cũng có thể lên thiên đàng. Có hoang tưỏng đây không? Không, đó là giảng dạy của Kinh Thánh.

Lễ Giáng Sinh là lễ mừng Chúa ra đời, chúng ta thấy trong sự ra đời của Ngài là khởi đầu mầu nhiệm nhập thể diễn ra trong lịch sử, mầu nhiệm Chúa mặc xác phàm để cứu nhân loại. Và với điều này, chúng ta có khuynh hướng đấu tranh, làm sao để hiểu Chúa cứu thế giới có nghĩa là gì. Hầu hết chúng ta xem điều này có nghĩa là Chúa Kitô xuống trần để cứu con người, những người trong chúng ta có ý thức về mình và những tâm hồn vĩnh cửu.
Điều đó đúng, nhưng đức tin cũng đòi hỏi chúng ta tin rằng hành động cứu rỗi của Chúa trong Chúa Kitô trải rộng ra ngoài cả loài người, ngoài cả động vật và các sinh vật sống khác. Hành động của Chúa trong Chúa Kitô đạt đến mức sâu đậm đến mức có thể cứu được chính sự tạo dựng – đại dương, núi đồi, đất đai trồng trọt, cát trong sa mạc và chính quả đất. Chúa Kitô xuống trần cứu tất cả mọi sự, chứ không phải chỉ một mình loài người chúng ta.

Chúng ta có thể hỏi ở đâu Sách Thánh đã dạy những điều này? Điều này được dạy ở hầu hết mọi chỗ một cách ngầm mặc, nhưng nó được dạy một cách khá rõ ràng ở một số nơi khác nhau. Chẳng hạn trong Thư Thánh Phaolô gởi tín hữu Rôma (8, 19-22), ngài viết: “Thật vậy, tôi nghĩ rằng: những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta. Muôn loài thọ tạo những ngong ngóng đợi chờ ngày Thiên Chúa mặc khải vinh quang của con cái Người. Quả thế, muôn loài đã lâm vào cảnh hư ảo, không phải vì chúng muốn, nhưng là vì Thiên Chúa bắt chịu vậy; tuy nhiên, vẫn còn niềm trông cậy là có ngày cũng sẽ được giải thoát, không phải lệ thuộc vào cảnh hư nát, mà được cùng với con cái Thiên Chúa chung hưởng tự do và vinh quang. Thật vậy, chúng ta biết rằng: cho đến bây giờ, muôn loài thọ tạo cùng rên siết và quằn quại như sắp sinh nở.”

Điều này có thể làm chúng ta ngạc nhiên, vì cho đến gần đây, việc giảng dạy và giáo lý của chúng ta thường không làm điều này trở nên rõ ràng. Tuy nhiên ở đây Thánh Phaolô đã nói, chính sự tạo dựng thể lý, toàn vũ trụ, vào ngày tận thế, sẽ được biến đổi một cách vinh quang nào đó và được lên thiên đàng, tất cả cũng như loài người. Ngài cũng nói rằng, như chúng ta, cũng cảm nhận được sự chết và những rên siết để thoát khỏi các giới hạn hiện nay của mình.

Chúng ta cũng phải tự đặt cho mình câu hỏi này không? Chúng ta nghĩ gì sẽ xảy ra với tạo dựng thể lý vào cuối thời gian? Nó sẽ bi hủy hoại, đốt cháy, tiêu diệt? Hoặc đơn giản nó sẽ bị bỏ rơi, bỏ trống, bỏ hoang như cảnh sân khấu sau khi vở diễn kết thúc, trong khi chúng ta tiếp tục cuộc sống ở nơi khác? Sách Thánh chỉ dẫn cho chúng ta một cách khác, Sách Thánh nói với chúng ta chính tạo dựng thể lý, quả đất chúng ta sẽ được biến đổi (“không phải lệ thuộc vào cảnh hư nát”) và sẽ lên thiên đàng với chúng ta. Làm thế nào điều này sẽ xảy ra? Chúng ta không thể hình dung được điều này, cũng như chúng ta không hình dung được trạng thái biến đổi của chính mình. Nhưng Sách Thánh bảo đảm với chúng ta điều này sẽ xảy ra, vì cũng như chúng ta, thế giới chúng ta, tạo dựng thể lý cũng được định sẵn để chết, và cũng như chúng ta, cảm nhận được sự chết và những rên siết để thoát khỏi các giới hạn của mình và trở thành bất tử.

Khoa học đồng ý. Nó cho chúng ta biết, tạo dựng thể lý là chết, mặt trời thiêu cháy, năng lượng từ từ giảm dần và quả đất như chúng ta biết sẽ có ngày chết. Trái đất cũng sinh tử như chúng ta, vì thế để có tương lai, trái đất phải được cứu bởi một cái gì đó hay bởi một ai đó bên ngoài. Cái Gì Đó và Ai Đó được mạc khải qua mầu nhiệm nhập thể, qua đó Chúa mặc xác phàm trong Chúa Kitô để cứu thế giới – và những gì Ngài cứu không phải chỉ có một mình chúng ta, những người sống trên quả đất nhưng đúng ra là “thế giới”, chính hành tinh và tất cả mọi thứ trên đó.

Chúa Giêsu bảo đảm với chúng ta không có gì cuối cùng là hư mất. Không một sợi tóc của một ai rơi, không một con chim sẻ nào rơi và biến mất mãi mãi, như thể nó chưa tồn tại. Thiên Chúa đã tạo dựng, yêu thương, chăm sóc và cuối cùng làm sống lại từng mảnh tạo dựng cho muôn đời kể cả con chó yêu quý.

Rev. Ron Rolheiser, OMI

ÔNG CÓ PHẢI LÀ ĐẤNG CỨU THẾ KHÔNG?

Jim Bishop có viết một tác phẩm nhan đề “Ngày Đức Kitô đến.”  Tác phẩm đó có một đoạn văn rất hay mô tả những gì người Do thái cảm thấy về việc Đấng Cứu Thế đến.  Đoạn văn đó như sau:

“Việc Đấng Cứu Thế đến là một nỗi ám ảnh dịu ngọt của một quốc gia.  Đó là một niềm vui ngoài sức tưởng tượng, một hạnh phúc vượt khỏi niềm tin.  Đó là niềm an ủi cho những nông dân làm việc cực nhọc cả ngày đang cùng với gia đình nằm trên giường chờ giấc ngủ đến.  Đó là giấc mơ của người tóc đã hoa râm.  Đó là điều mà trẻ em mong được nhìn thấy từ trên ngọn núi phủ mây trắng hiện đến.  Đó là niềm hy vọng của dân xứ Giuđêa đang bị xiềng xích tủi nhục.  Đấng Cứu Thế luôn luôn là một sự hứa hẹn cho buổi sáng ngày mai.”

Vì thế nên khi Gioan tẩy Giả xuất hiện bên giòng sông Giođan, dân chúng rất là phấn khởi.  Gioan bắt đầu sứ mạng của ông tại một địa điểm không xa biển chết.  Đó là tụ điểm bình dân của những đoàn hành hương và các du khách từ khắp nơi trên thế giới đến.  Đó là một nơi tuyệt hảo để mọi người gặp gỡ nhau và trao đổi những tin tức thế giới.  Vì thế đó là một nơi lý tưởng để Gioan Tẩy Giả bắt đầu rao giảng và làm phép rửa.  Sứ điệp Gioan rất đơn giản và rõ ràng: “Hãy từ bỏ tội lỗi mình… Hãy dọn đường cho Chúa đến, hãy làm một lối thật thẳng để Người đi” (Lc. 3,3-4).

Chẳng mấy chốc, tin tức về hoạt động của Gioan tẩy giả đã đến tai những nhà lãnh đạo tôn giáo ở Giêrusalem.  Vì thế họ cử một phái đoàn gồm các tư tế và các thầy Lêvi đến nói chuyện với Gioan.  Các tư tế đặc biệt lưu ý đến Gioan vì ông là con của Zacaria, cũng là một tư tế.  Trong Do Thái giáo, điều kiện duy nhất để có thể làm tư tế là phải thuộc dòng dõi tư tế.  Nếu có ai là con cháu của Aaron, thì không ai có quyền cấm người ấy thực hiện chức năng tư tế của mình.  Do đó các tư tế tại Giêrusalem đặc biệt lưu tâm tới Gioan, và chắc chắn không hiểu tại sao Gioan lại hành xử một cách dị thường như thế.

Khi phái đoàn các tư tế đến, họ đi thẳng vào vấn đề và hỏi Gioan: “Ông là ai?”  Gioan biết trong tâm trí họ nghĩ gì, nên ông nói: “Tôi không phải là Đấng Cứu Thế.”  Các tư tế hỏi: “nếu ông không phải là Đấng Cứu Thế, vậy ông là ai?  Ông có phải là Êlia không?”  Đối với chúng ta, câu hỏi sau cùng này có vẻ khó hiểu.  Nhưng chúng ta nên nhớ rằng Êlia là một vị tiên tri đã được cất lên trời bằng một chiếc xe lửa vào cuối đời.  Nhiều người Do Thái tin rằng Êlia sẽ trở lại vào thời Đấng Cứu Thế đến.  Ngay cả thời nay cũng có một số người Do Thái dành cho tiên tri Êlia một ghế trống trong bữa ăn Vượt Qua của họ.  Họ cầu mong năm nay là năm Êlia trở lại để loan báo Đấng Cứu Thế đến.  Nhưng Gioan nói thẳng rằng ông không phải là vị tiên tri đã được cất lên trời trên chiếc xe lửa trước đó mấy thế kỷ.

Họ hỏi: “Vậy ông có phải là một vị tiên tri không?”  Gioan lại trả lời: “Không!  Tôi không phải là một vị tiên tri giống như Giêrêmia hay Êzêkiel.”  Họ hỏi tiếp: “Vậy thì ông là ai?”  Gioan trả lời bằng câu nói của Isaia: “Tôi là tiếng kêu gào trong sa mạc: “Hãy dọn đường cho ngay thẳng để Chúa đến.”  Muốn hiểu rõ câu nói đó của Gioan Tẩy Giả, ta nên nhớ rằng những con đường ngày xưa chỉ có một ít là trải sỏi hoặc đá, còn đa số là những con đường lầy lội.  Khi một vị vua muốn đi thăm một tỉnh nào đó trong vương quốc của mình, ông sẽ sai một người “tiền hô” tới đó trước để báo cho dân chúng lấp đầy những hố, những vũng bùn, và làm cho những con đường thẳng thắn lại.  Người “tiền hô” còn có một điều nữa phải làm là dạy cho dân chúng những nghi thức tiếp tân thích hợp để đón nhà vua tới. Gioan Tẩy Giả cũng lưu ý tới thái độ tiếp tân cần phải có để đón Chúa tới.  Ông nói: “Hãy ăn năn hối cải tội lỗi mình và hãy lãnh nhận phép rửa.” (Mc.4).

Tóm lại chúng ta có thể diễn đạt toàn bộ sứ điệp của Gioan như sau: Tôi không phải là Đấng Cứu Thế, nhưng tôi là người “tiền hô” cho Ngài.  Hãy chuẩn bị, vì Ngài sắp đến.  Gioan đã làm những gì mà mọi vị lãnh đạo tôn giáo phải làm.  Ông không để cho người ta chú ý tới ông, mà hướng mọi sự chú ý của họ vào Đức Giêsu.

Đó chính là những gì Giáo Hội làm suốt Mùa vọng.  Giáo Hội tập trung mọi chú tâm của chúng ta vào Đức Giêsu.  Giáo Hội hành động giống như vị “Tiền hô” của Ngài.  Và cuối cùng Giáo Hội giải thích cho chúng ta biết chuẩn bị đón Ngài như thế nào.

Mùa vọng nói với chúng ta về việc Đức Giêsu đến.  Ngài không phải chỉ đến trong giòng lịch sử như chúng ta vẫn mừng và kỷ niệm vào ngày Giáng Sinh, mà Ngài còn đến lần chót vào cuối dòng lịch sử nữa.

Tin Mừng Matthêu có nói về lần đến cuối cùng đó: “Khi Con Người đến với tư cách một vị vua, Ngài sẽ ngồi trên ngai vàng của Ngài, và toàn dân thiên hạ sẽ qui tụ trước mặt Ngài.  Lúc đó Ngài phân chia họ ra làm hai nhóm, y như người chăn chiên tách chiên ra khỏi dê…  Nhà vua sẽ nói với những người ở bên phải: Hãy đến hỡi những kẻ được Cha Ta chúc phúc!  Hãy đến và hãy lãnh lấy nước trời làm cơ nghiệp…  Rồi Ngài nói với những người ở bên trái: Hãy đi khỏi Ta và vào lửa đời đời” (Mt.25,34-41).

Những bài đọc trong Thánh lễ Chúa Nhật này muốn nói: Gioan không phải là Đấng Cứu Thế, Ông chỉ là người “Tiền hô” của Ngài.  Gioan dạy cho chúng ta cách chuẩn bị ngày Ngài đến vào cuối lịch sử để làm quan án xét xử chúng ta.

Để kết thúc, chúng ta hãy ăn năn thống hối như khi lãnh nhận bí tích hoà giải.  Xin các bạn hãy thinh lặng và cùng cầu nguyện với tôi:

“Lạy Cha chí nhân, con xin trở về với Cha và nói giống như người con hoang đàng: con đã lỗi phạm đến Cha, con không đáng gọi là con Cha nữa.  Lạy Chúa Giêsu là Đấng cứu chuộc nhân loại, con cầu nguyện với Chúa như người trộm lành mà Chúa đã hứa nước thiên đàng ngày xưa: Lạy Chúa xin hãy nhớ đến con trong nước của Chúa.  Lạy Chúa Thánh Thần là nguồn mạch tình yêu, con thành tâm cầu khẩn Ngài, Xin hãy thanh tẩy tâm hồn con và giúp con bước đi như con cái của sự sáng.

Lm. Mark Link

NHỚ LẠI VÀ LẮNG NGHE

Mừng lễ Đức Mẹ Vô nhiễm là một niềm vui của các con cái Đức Mẹ.  Có nhiều cách mừng.  Riêng tôi, khi cuộc đời đã sang thu, sắp bước vào mùa đông, tôi mừng lễ Đức Mẹ vô nhiễm một cách cũng rất riêng tư.  Tôi mừng lễ bằng cách vừa nhớ lại Đức Mẹ trong Phúc Âm, vừa nhìn lại Đức Mẹ trong đời tôi.  Để rồi lắng nghe Mẹ nhắn nhủ hôm nay.

Nhớ lại

Tôi thấy Đức Mẹ thuở xưa trong Phúc Âm cũng là Đức Mẹ trong chuyến đi dài đời tôi.  Đức Mẹ dạy tôi bằng Phúc Âm.  Đức Mẹ cũng dạy tôi bằng những dắt dìu trong dòng lịch sử.  Nếu cần tóm tắt, thì xin vắn gọn thế này:

Đức Mẹ, tuy được ơn vô nhiễm, nhưng cũng chịu nhiều đau đớn, để góp phần vào công cuộc cứu độ của Chúa Giêsu.  Đúng như lời tiên tri Simeon đã báo trước: “Một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn Bà” (Lc 2,25).

Những con cái Mẹ, nhất là tôi, mình đầy ô nhiễm, càng không được phép miễn khỏi thánh giá.  Ít là phần nào.  Chúa Giêsu là con Mẹ, xưa “đã hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thánh giá” (Pl 2,8).

Đức Mẹ nên giống Chúa cứu thế không phải ở sự chịu đóng đinh, nhưng ở sự Mẹ chịu những lưỡi gươm đâm vào lòng.  Những lưỡi gươm vô hình, với những nhát đâm vô hình, cùng những vết thương vô hình.  Vô hình, nhưng thực sự đau đớn.  Chẳng nói hết được những đau đớn đó của Mẹ.

Còn những con cái Mẹ, thì kẻ cách này, người cách nọ, họ cũng được thanh luyện bằng trải qua những đớn đau lớn nhỏ.  Đớn đau của họ tự nó chẳng có gì là giá trị.  Nhưng nhờ Mẹ nhuộm nó vào tình yêu của Mẹ, nên nó trở thành bông hoa.  Những bông hoa như thế nơi tôi chẳng nhiều.  Nếu muốn tìm nó, thì phải tìm ở những dòng nước mắt.

Trước hết là hoa sám hối trong những nước mắt ở cuộc chiến nội tâm.  Cuộc chiến nội tâm của tôi cũng đã có một người xưa trải qua và diễn tả rất rõ.  Đó là thánh Phaolô.  Ngài phơi bày như những tiếng nức nở nghẹn ngào: “Vẫn biết rằng Lề luật là bởi Thần Khí, nhưng tôi thì lại mang tính xác thịt, bị bán làm tôi cho tội lỗi.  Thật vậy, tôi làm gì tôi cũng chẳng hiểu, vì điều tôi muốn thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét thì tôi lại cứ làm..

Bởi đó tôi khám phá ra luật này: Khi tôi muốn làm sự thiện thì lại thấy sự ác xuất hiện ngay.  Theo con người nội tâm, tôi vui thích vì luật của Thiên Chúa.  Nhưng trong các chi thể của tôi, tôi lại thấy một luật khác: Luật này chiến đấu chống lại luật của lý trí.  Nó giam cầm tôi trong luật của tội là luật vẫn nằm sẵn trong các chi thể tôi.

Tôi thật là một người khốn nạn!  Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này?  Tạ ơn Thiên Chúa, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng ta” (Rm 7,14-25).

Cuộc chiến nội tâm giữa thiện và ác nơi thánh Phaolô chỉ được tả là rất cam go.  Còn chiến thắng hay chiến bại thì không thấy ngài nói.  Phần tôi, có lúc thắng và cũng có lúc bại.  Vì thế mà tôi sám hối.  Sám hối là bông hoa đầu tiên tôi dâng lên Mẹ vô nhiễm.  Mẹ đã thương giúp tôi trở về, như Mẹ đã giúp kẻ trộm lành xưa chịu treo trên thập giá.

Bên cạnh bông hoa sám hối trồng trong dòng nước mắt ăn năn, tôi có thể lượm được một bông hoa khác.  Tôi tạm gọi nó là hoa cảm thương trôi trong dòng nước mắt bất lực không thể phục vụ.  Biết bao lần, tôi cảm thấy đau đớn vì bất lực trong việc loan báo Tin Mừng.  Tôi nghĩ Đức Mẹ xưa đã khóc khi phải chấp nhận âm thầm bồng con trốn sang Ai Cập và ở lại đó ẩn mình trong cảnh nghèo khó (Mt 2,13-18).

Đức Mẹ chắc cũng đã khóc, khi phải chứng kiến cảnh con mình bị hành hạ và bị giết (Ga 19,25-27).  Mẹ đã không cứu được con mình.  Nhưng Chúa lại muốn như vậy.  Sự vâng lời như thế còn đau hơn là chết.

Chương trình cứu độ của Chúa rất khác ý nghĩ của con người.  Chúng ta tưởng sẽ cứu được các linh hồn và làm vinh danh Chúa, nhờ những phô trương quyền bính, cao rao chức tước, thổi phồng uy tín, tổ chức lễ lạt linh đình.  Nhưng tất cả sẽ không có giá trị bằng sự vâng phục ý Chúa.  Ý Chúa là muốn ta chấp nhận hạ mình xuống, đi theo con đường Chúa cứu thế đã đi, và Đức Mẹ vô nhiễm cũng đã vâng ý Chúa bước theo từng bước.

Ngoài ra, biết bao lần, tôi cảm thương đau đớn vì bất lực trong việc cứu giúp những người cần được giúp đỡ, hoặc về vật chất hoặc về tinh thần.  Tôi muốn giúp.  Nhưng ý muốn của tôi đụng vào những giới hạn khắp nơi của tôi.  Những giới hạn đó càng ngày càng lớn, khi tuổi tác bệnh tật càng tăng lên.  Phục vụ trong những tình trạng này sẽ chỉ còn là tập trung vào cầu nguyện và dâng đau khổ với tình yêu siêu nhiên lên Chúa giàu lòng thương xót, qua trái tim Mẹ vô nhiễm, để góp phần nào vào việc loan báo Tin Mừng.

Chính trong những tình trạng này, mà tôi được thu hút nhiều hơn đến việc lắng nghe Đức Mẹ nhắn nhủ con cái Mẹ đang sống trong thời điểm hiện nay.

Lắng nghe

Thời điểm hôm nay là một thời điểm rất đáng ngại.  Ngại vì ma quỉ và thế tục xấu đang cố tình tạo ra một môi trường ô nhiễm.  Tôi không muốn nói về môi trường ô nhiễm sinh thái, mà về môi trường phong hoá và luân lý.

Ô nhiễm khắp nơi.  Ai cũng phải sống chung với ô nhiễm.  Nhưng khả năng và mức độ chịu ảnh hưởng ô nhiễm sẽ tuỳ theo ba cái mốc này: Nơi chốn, lứa tuổi và giới phái.

Nơi chốn là một nước, một vùng, hoặc một văn hoá, một tôn giáo hay không tôn giáo, hoặc một giai cấp, một mức sống, một tổ chức.  Có nơi ô nhiễm hơn nơi khác.  Lứa tuổi là lớp già, lớp thanh niên, lớp thiếu nhi, lớp trẻ thơ.  Có lớp tuổi dễ bị ô nhiễm hơn lớp tuổi khác.  Giới phái là nam, là nữ.  Có giới phái dễ bị ô nhiễm hơn giới phái khác.

Hiện nay, làm sóng ô nhiễm mạnh nhất về phong hoá là hưởng thụ độc hại.  Người ta tìm mọi cách để tìm hưởng thụ đó.  Hưởng thụ nhờ danh vọng, chức tước, địa vị, quyền lợi, tiền bạc, ăn uống, tiện nghi, giải trí, sắc dục, vv….  Nếu không cảnh giác, thì cả những gì vốn được tôn trọng là thánh thiêng, cũng có thể bị lợi dụng cho mục đích hưởng thụ xấu xa.

Trước một nguy cơ lớn mạnh và tinh vi có khả năng tiêu diệt những giá trị thiêng liêng, đẩy các linh hồn vào tay thần dữ, để chúng tha hồ lôi xuống hoả ngục, Đức Mẹ vô nhiễm đã hiện ra ở Lộ Đức, ở Fatima, ở Mễ Du và nhiều nơi khác, để tha thiết kêu gọi nhân loại sám hối, khiêm tốn đi vào đàng thiện.  Kẻo sẽ quá muộn.

Vậy ta hãy lắng nghe Mẹ, mà vâng phục ý Chúa.  Chính bản thân ta hãy trở thành đền thờ Chúa Thánh Thần, trong đó ta được hưởng thụ những gì là chân thiện mỹ, bình an, hạnh phúc đích thực và bền vững.

Tôi có cảm tưởng là nhiều người hiện nay đang sống như không có lương tâm, hoặc với một cái tâm đã lạnh cứng.  Không còn khả năng rung cảm với những nỗi đau của Chúa, của Đức Mẹ, của Hội Thánh, của những kẻ khốn cùng đang dở sống dở chết xung quanh mình.

Nhưng tôi vẫn tin vững vàng lời Chúa phán trong Phúc Âm: “Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1,37).  Nhất là với lời cầu bầu của Đức Mẹ vô nhiễm.  Nên sự phục hưng lại Hội Thánh giữa một thế giới đầy ô nhiễm sẽ thực hiện được.

Nhưng đừng quên sự phục hưng như thế phải bắt đầu từ mỗi người chúng ta, con cái của Mẹ vô nhiễm.

Trong mỗi người, việc phục hưng sẽ bắt đầu và nhấn mạnh ở cái tâm.  Cái tâm làm sao giữ không bị nhiễm, sẽ dẫn đưa tất cả con người về đàng thiện.  Không bị nhiễm là nhờ thánh giá.  Hoặc bị nhiễm mà được rửa sạch cũng là nhờ thánh giá.

Chúng ta ít là hãy ước muốn việc đó, và dâng ước muốn chân thành đó lên trái tim Mẹ vô nhiễm.  Người là Mẹ Chúa Cứu thế và cũng là mẹ chúng ta.  Người là hy vọng của những ai sống bé mọn và tín thác nơi trái tim vô nhiễm đầy tình mẫu tử dịu dàng xót thương của Người.  Người là nơi trú ẩn của những kẻ lỗi lầm biết sám hối.  Người là Đấng cầu bầu đắc lực nhất trước toà Chúa cho tất cả những ai tin tưởng nơi Người.

ĐGM. Bùi Tuần

THÁNH NICÔLA – GIÁM MỤC (Thế kỷ IV) 

Thánh Nicôla, vị đại thánh bình dân, nhưng chỉ tìm được tiểu sử 200 năm sau khi Ngài chết.  Người ta có thể nói rằng: Ngài đích thực là giám mục Myra, đã hiện ra với vua Constantinô trong một giấc mơ.  Sau đó dường như các nhà chép sử lại lẫn lộn với Nicola người Simon đã bị tù dưới thời Diocletianô, đã xây một tu viện và được chôn cất tại vương cung thánh đường thành Myra.  Trừ sự kiện trên, nảy sinh ra nhiều huyền thoại và hơn nghìn năm sau, thánh Nicôla nhân hậu đã thành danh tiếng khắp thế giới.

Huyền thoại kể lại rằng, ở Patara, thuộc tỉnh Lycia, hai vợ chồng giàu có Anna và Euphêmiô vì không con đã cố gắng tìm an ủi trong công việc từ thiện.  Thiên Chúa chúc lành cho lòng bác ái của họ.  Cuối cùng họ có được một mụn con và đăt tên cho con là Nicôla, có nghĩa là “sự chiến thắng của dân.”  Đây cũng là tên cậu Ngài, vị giám mục Myra.

Ông cậu đã tiên đoán rằng: Nicôla sẽ là “Mặt trời soi chiếu thế gian.”  Khi mới tắm rửa lần đầu, con trẻ đặc biệt này đã chắp tay, đứng trong thau nước hai giờ liền, mắt hướng về trời.  Thứ tư và thứ sáu, Ngài không chịu bú cho tới chiều để ăn chay.  Chị vú nuôi sợ Ngài chết, nhưng trái lại, Ngài đã trở nên một con trẻ kiêu hùng.

Nicôla có nhiều đức tính tốt như một trẻ em gương mẫu.  Cha mẹ mất sớm.  Nicôla thừa hưởng một gia tài kếch xù.  Nhưng Ngài lại coi tất cả tài sản này như của Chúa cho vay.  Người phân phát cho những người bất hạnh và thực hiện đức bác ái như một sự tế nhị dễ thương.  Chẳng hạn một người cha có ba cô con gái, ông tính cho con làm nghề bất lương để có tiền cưới hỏi.  Nhưng rồi đêm kia, ông thấy ba túi vàng chuyển qua cửa sổ, và có thể làm lễ cưới hỏi cách lương thiện cho các cô.  Khi biết được người cho, ông đến xin thánh Nicôla cầu cho ơn tha thứ cho dự tính đáng chúc dữ của mình.  Rồi bất kể sự ngăn cấm của thánh nhân, ông đã kể lại khắp nơi cử chỉ bác ái của thánh nhân đã thực hiện để cứu 3 người phụ nữ khỏi cảnh bất lương như thế nào.

Nicôla đã ao ước hiến đời mình cho Thiên Chúa.  Ông cậu giám mục của Ngài khi sắp chết đã truyền chức và đặt Ngài làm bề trên tu viện thánh Sion.  Khi Ngài du hành qua Thánh địa, cơn bão nổi lên, các hành khách run sợ, Nicôla cầu nguyện cho họ và các cơn sóng dịu xuống, con tàu êm đềm theo đuổi cuộc hành trình.  Những cuộc can thiệp khác nữa làm cho thánh Nicôla trở thành Đấng bảo trợ những người vượt biển.  Các thủy thủ làm chứng rằng khi bị đắm chìm, nhớ cầu tới Ngài là thấy Ngài đến cầm tay lái đưa tới cảng, rồi biến đi…

Khi những người thoát nạn tới nhà nguyện tu viện tạ ơn, người ta ngạc nhiên vì thấy vị cứu tinh của mình đang chìm đắm trong kinh nguyện như không hề rời bỏ nơi này.  Họ không cầm nổi những lời tán tụng biết ơn xuất phát tự cõi lòng, nhưng thánh nhân bảo họ: “Hãy chỉ nên ngợi khen Chúa về cuộc cứu thoát này, bởi vì đối với tôi, tôi chỉ là một tội nhân và một đầy tớ vô dụng.”

Và Ngài đã cho biết rằng, nguy hiểm họ vừa trải qua là hình phạt vì các tội kín, cũng như sự hối lỗi của các thủy thủ đã cứu thoát họ.

Nicôla xuống Alexandria là nơi Ngài đã chữa lành các bệnh nhân, rồi đi thăm thánh Antôn ở Ai cập.  Sau cùng, Ngài đến Giêrusalem kính các nơi thánh và trải qua ít tuần trong hang mà Thánh Gia đã dừng lại khi trốn qua Ai cập.  Nơi đây, sẽ xây cất một thánh đường thánh Nicôla. Vừa mới trở về Myra, nơi các tu sĩ đang nóng lòng chờ đợi cha họ trở về, Ngài đã tăng gấp một cách lạ lùng đống bánh cho cả trăm người ăn.

Giám mục Myra qua đời, các giám mục miền Lycia cân nhắc để chọn vị mục tử mới.  Một sứ giả từ trời xuống báo tin cho vị niên trưởng biết, người được chọn là linh mục Nicôla ngày mai sẽ tới nhà thờ trước hết.  Trời vừa sáng, Nicôla tới nhà thờ theo lòng sốt sắng và nghe loan báo mình làm giám mục.  Ngài muốn chạy trốn, nhưng phải theo ý nguyện của Đấng Cao Cả hơn mình, trời cao chúc lành cho Ngài: dịp lễ đầu tay, thánh Nicôla đã làm cho một em bé bị phỏng sống lại.  Từ kỷ niệm này, người ta hay kêu cầu thánh nhân những khi gặp nguy hiểm vì lửa.

Trở thành mục tử cả dân, thánh nhân rất cưng chiều những người bị áp bức, mồ côi, bênh hoạn và tù tội hơn.  Ban đêm, Ngài cầu nguyện, nghỉ một chút trên đất, ăn ngày một bữa, mặc áo quần khiêm tốn khác với hình ảnh ngày nay nhiều.  Những y phục lộng lẫy theo hình vẽ ấy, Ngài chỉ mặc vào những ngày đại lễ.

Đời sống tín hữu xáo trộn vì những cuộc bách hại: vị giám mục bị lưu đày, đánh đập.  Cuộc trở lại của vua Constantinô đem lại tự do.  Trên đường về, Ngài rao giảng Chúa Kitô, cải hóa lương dân, phá đổ các đền thờ và ngẫu tượng.  Ngài làm nhiều phép lạ như mưa.  Các thế hệ tương lai, còn kể lại huyền thoại của ba đứa trẻ bị một đồ tể tham lam độc ác cắt cổ và để trong thùng muối ướp thịt đã sống lại nhờ lời cầu nguyện của thánh Nicôla.

Các truyện có nhiều thêm thắt như: Truyện người gian giảo có cây gậy đầy vàng, truyện đứa trẻ bị quỉ giả bộ ăn xin bóp cổ, nhưng đã được thánh nhân cứu sống, truyện thánh nhân dàn xếp giữa thày thuốc với bệnh nhân hiếm muộn con cái, hứa tặng chén vàng mà khi được lại không giữ lời hứa.  Gần với sự thực hơn là việc các nhà buôn lúa gạo ở Sycily nhờ sự bao bọc lạ lùng của giám mục đã nuôi những người đói mà không giảm thiểu của dự trữ.  Vua Constantinô cũng mơ thấy thánh nhân đến gặp để cứu cuộc xử tội bất công của ba viên chức.  Sau đó các người bị giữ kêu cầu Ngài giải cứu và được nhận lời bằng một phép lạ.  Thế là các nạn nhân bị xử oan hay kêu cầu Ngài.

Sau khi hoàn tất bao nhiêu việc lành thiêng liêng lẫn vật chất, thánh Nicôla muốn vào cõi đời đời.  Bảo vệ giáo thuyết công giáo tinh tuyền, Ngài đã chống lại lạc giáo tham dự cộng đồng Nicea.  Khi thấy sắp kết thúc cuộc đời.  Ngài muốn lui về tu viện, nơi mà buổi thiếu thời Ngài đã tự hiến cho Thiên Chúa, và chính tại nơi đây, Ngài phú dâng linh hồn trong tay Chúa.

Năm 1087, Myra rơi vào tay người Thổ, người ta vội đưa hài cốt vị thánh về Bari gần Naples.  Từ đó, huyền thoại đời Ngài lại lan rộng.  Mỗi miền nói theo cách của mình.  Dân ca Đông phương coi Ngài như một vị Chúa trên trời.  Đối với người Nga, Ngài là thừa kế thần linh lo chuyện gặt hái.  Siberia cho Ngài là người chế tạo rượu “bia.”

Các vua nước Pháp sùng kính Ngài.  Các chủ tịch luật sư đoàn cầm gậy có hình thánh Nicôla.  Bên tây phương, lễ thánh Nicôla trở thành lễ của thiếu nhi vì làm sao các em lại không yêu mến vị thánh nhân hậu đã cứu ba đứa trẻ đi mót lứa được?  Vị giám mục đầy huyền bí này sau cùng đã trở thành ông già Noel ngày nay.

Nguồn: https://tgpsaigon.net