MÙ LOÀ VÀ MÙ QUÁNG

Xuyên qua Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy có hai loại mù: mù loà của đôi mắt thể xác và mù quáng của tâm hồn, của đầu óc.

Người mù bẩm sinh trong Tin Mừng hôm nay tuy bị mù đôi mắt thể xác nhưng anh ta lại sáng suốt hơn những người Pharisêu tự cho mình tinh thông.

Trong khi đó, những người Pharisêu tự hào là người khôn ngoan thông sáng, nhưng họ đang bị mù quáng mà chẳng hay.  Họ bị thành kiến che mờ tâm trí nên họ không nhận ra Đức Giêsu là Đấng cứu độ nên họ đã không được đón nhận ơn cứu độ do Người tặng ban.

Những người mù lòa thể xác hầu hết rất hiền hòa.  Chưa từng nghe nói người mù gây ra tội ác hay phạm pháp bất cứ ở đâu.  Họ là những người đáng thương và đáng kính.

Còn người mù quáng là những người thường gây ra lỗi lầm và tội ác nên họ thường bị người đời lên án khinh chê.

Có nhiều hình thức mù quáng gây ra hậu quả rất tai hại:

Mù quáng vì tham lam

Sách Các Vua có thuật lại câu chuyện hoàng hậu I-dơ-ven, vợ vua A-kháp, vì tham lam muốn chiếm đoạt vườn nho của ông lão nghèo Na-vốt, đã dàn dựng một vụ án quy kết Na-vốt tội nguyền rủa Thiên Chúa và nguyền rủa đức vua, rồi tuyên án ông phải bị ném đá chết.  Lòng tham lam đã làm cho hoàng hậu I-dơ-ven ra mù quáng đến độ đang tâm giết hại một ông lão nghèo vô tội để chiếm đoạt vườn nho của ông ta. (sách các vua I, chương 21)

Mù quáng vì ghen tị

Sách Samuel ghi lại rằng vua Sa-un rất yêu thương Đavít, nhưng khi Đavít hạ được tên tướng giặc khổng lồ là Gô-li-át để cứu nguy cho quân dân Israel và quay trở về trong chiến thắng, “thì phụ nữ từ hết mọi thành của Israel kéo ra, ca hát múa nhảy, đón vua Sa-un, với trống con, với tiếng reo mừng và tiếng não bạt.  Họ vui đùa ca hát rằng: “Vua Sa-un hạ được hàng ngàn, còn Đavít hàng vạn.”  Khi nghe lời đó, vua Sa-un uất lên vì ghen tị.  Lòng ghen tị làm cho vua đâm ra mù quáng, đổi lòng yêu thương ra thù ghét và truy lùng Đavít khắp nơi quyết giết cho bằng được vị anh hùng kiệt xuất nầy.  (Samuen I, chương 18)

Mùa quáng vì dục tình

Về sau, khi vua Sa-un qua đời, Đavít được lên làm vua.  Đavít lại đâm ra mê đắm sắc đẹp của bà Bát-sê-va.  Dục vọng đã làm cho vua mù quáng đến độ lập mưu giết chồng bà là Uria để chính thức cưới bà nầy làm vợ.  (Samuen II, chương 11)

Nói tóm lại, lòng người rất dễ trở nên mù quáng do tình dục, do lòng tham lam, kiêu căng, ghen tị… khiến người ta lún sâu vào vũng bùn tội ác lúc nào không hay.

Chứng mù quáng nầy tai hại gấp ngàn lần mù loà đôi mắt thể xác.

Có hai điều tai hại do mù quáng phát sinh:

Một là người mù quáng không tự biết tình trạng mù quáng của mình, nên không cảm thấy cần được cứu chữa.  Thế là họ cứ bị mù quáng cho đến mãn đời, mà vì mù quáng suốt đời nên cũng thường mắc phải lầm lỗi suốt đời.

Hai là cho dù có nhận biết mình mù quáng đi nữa, người ta cũng không cho đó là điều nghiêm trọng, nên không thấy cần được cứu chữa.

Bất cứ người mù nào cũng khao khát được sáng; nhưng điều đáng tiếc là nhiều người mù quáng, vì không tự biết mình mù, nên không ước ao thoát khỏi tình trạng mù quáng hết sức tai hại của mình.

Nguyện xin Chúa Giêsu soi sáng để chúng ta nhận thức rằng mù quáng vô cùng tai hại và cố tìm cách cứu chữa mình khỏi chứng bệnh rất tai hại nầy.

Lạy Chúa Giêsu là ánh sáng cho trần gian, xin chiếu dọi ánh sáng Chúa vào tâm trí chúng con, cứu chúng con khỏi bị mù quáng do dục vọng gây nên, để chúng con khỏi hư mất đời đời nhưng được cứu độ và được sống, sống có nhân cách cao đẹp ở đời nầy và sống viên mãn trong thế giới hồng phúc mai sau.

Lm. Inhaxiô Trần Ngà

CHẢY MÃI, CHẢY ĐẾN THA NHÂN

“Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy!”.

“Người đàn ông đã cùng tôi ăn tối đã giết anh trai tôi.”  Đó là lời của một phụ nữ xinh đẹp tại một bữa tiệc.  Ruth đã kể về John, người đã sát hại anh cô như thế nào.  John thụ án 18 năm; sau đó, ổn định tại một trang trại, nơi cô gặp anh sau 20 năm vụ án.  Được thôi thúc bởi Chúa Kitô, cô tìm John, nói lời tha thứ.  Nhiều người sẽ không gọi đây là một câu chuyện thành công: John chưa trở lại đạo!  Nhưng tại một bữa tiệc khác, giọng John vỡ ra khi nói: “Kitô hữu là những người duy nhất mà bạn có thể giết con trai họ; họ sẽ biến bạn thành một phần của gia đình họ.  Tôi không biết “Ai đó” trên cao, nhưng chắc chắn, Ngài đang săn lùng tôi!”  Câu chuyện của John còn dang dở; John vẫn chưa tin.  Nhưng như Chúa Kitô đã chết cho bạn, bất kể bạn từ chối hay chấp nhận Ngài, Ruth “tha nợ” cho John mà không cần điều kiện.  Thậm chí, cô còn trở thành bạn của anh!

Kính thưa Anh Chị em,

Lời Chúa hôm nay cũng nói đến nợ nần!  Người nợ Chúa; người nợ người!  Người tha cho người, nếu muốn Chúa tha cho mình.  Tha thứ, như dòng suối phải chảy, ‘chảy mãi, chảy đến tha nhân!

Bài đọc Đaniel cho thấy con người nợ Chúa thật nhiều!  “Vì tội lỗi, chúng con đã thành dân nhỏ nhất, đã nếm mùi ô nhục trên khắp hoàn cầu.”  Tin Mừng cho thấy, người cũng nặng nợ với người: một người nợ lớn, một người nợ nhỏ; cả hai không trả nổi, nài xin ‘chủ mình’ hoãn lại.  Chủ chạnh thương, tha cho người thứ nhất món nợ cực lớn, nhưng người này không tha cho bạn mình món nợ cực nhỏ.  Và Chúa Giêsu kết luận, “Cha Tôi trên trời cũng xử với các con đúng như thế!”  Điều đó không có nghĩa là Thiên Chúa hẹp hòi đến độ sẽ xét xử người, như ‘người cư xử với người;’ Lời Chúa muốn nói, ai không mở lòng với anh em, không thể mở ra cho Thiên Chúa!  Như vậy, không tha thứ là đánh mất những gì đã nhận được; suối tắc nghẽn, ao tù tanh tưởi.  Vì thế, người nợ lớn đã bất ngờ được tha, nay bất ngờ bị rút lại.  Ai biết tha thứ, người ấy giữ được thứ tha!

Điều Chúa Giêsu đang nói là sự cho đi và nhận lại.  Điều thú vị là, chúng ta thường dễ dàng nghĩ đến việc ‘tha cho người’ hơn là xin ‘tha cho mình.’  Con nợ thứ nhất xem ra chân thành, “Anh sấp mình dưới chân chủ;” thực ra, anh chỉ là một diễn viên giỏi!  Bởi sau khi được xoá khoản nợ khổng lồ, anh bủn xỉn với con nợ cỏn con của anh; thay vì thương xót, “Y tóm lấy, bóp cổ mà nói, ‘Hãy trả nợ cho ta!’” Tại sao?  Bởi lẽ y không động lòng trước tình yêu vô hạn và xót thương của chủ.  Tha thứ, nếu là thật, phải ảnh hưởng đến mọi sự nơi chúng ta.  Nó là một điều gì đó phải ‘xin, cho; nhận và cho lại.’  Như một dòng suối phải chảy, ‘chảy mãi, chảy đến tha nhân.’

Anh Chị em,

“Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy!”  Sai lỗi là việc của người, thứ tha là việc của Trời.  Nếu Chúa Giêsu ra lệnh cho chúng ta phải tha bảy mươi lần bảy, thì làm sao Ngài thoát khỏi việc ‘không vô hạn’ trong sự tha thứ của Ngài?  Ý nghĩa biết bao Thánh Vịnh đáp ca, “Lạy Chúa, xin nhớ lại nghĩa nặng với ân sâu của Ngài!”  Bao lâu không đi vào quỹ đạo xót thương của Thiên Chúa, bấy lâu chúng ta không thể tha thứ cho người khác.  Không phải tha ‘bảy lần’ nhưng tha ‘vô hạn lần bảy.’  Hãy nhìn lên thập giá, chiêm ngắm trái tim bị đâm thâu của Chúa Kitô, một trái tim khơi mỏ mạch mọi ân sủng thứ tha qua các Bí Tích!  Hãy kết nối, khai thông đời mình vào dòng chảy thần linh ấy và như một dòng suối phải chảy, ‘chảy mãi, chảy đến tha nhân,’ chúng ta trào tràn sức sống, lòng thương xót và sự thứ tha của Thiên Chúa cho anh chị em mình.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, Đấng rửa sạch tội con vốn ‘đỏ hơn son’ bằng Máu Châu Báu của Ngài, cho con biết ném tội của anh chị em con xa thật xa như Chúa đã ném tội lỗi con tận mãi ngàn khơi!”  Amen.

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

CHUYỆN PHẢN BỘI

Phản bội là không trung thành, dám bội ước quên thề, không ngại vong ân bội nghĩa, sẵn sàng ăn cháo đá bát.  Phản bội có nhiều dạng và nhiều mức độ.  Có lẽ dạng “nhẹ” nhất là thất hứa (đối với loại hứa hẹn bình thường), chẳng hạn hứa tặng cho ai cái gì đó hoặc hứa làm điều gì đó mà không giữ lời – dù là quên do sơ ý hoặc cố ý.  Chắc chắn rằng thất hứa cũng là một dạng phản bội.  Chắc hẳn ai cũng đã từng khổ sở vì bị phản bội, và cũng đã hơn một lần ngang nhiên… phản bội người khác!

Tuần Thánh có “nét đậm” về sự phản bội.  Chính Chúa Giêsu là người bị phản bội, còn kẻ phản bội lại chẳng ai xa lạ gì mà chỉ là những người thân tín và được Ngài hết lòng thương yêu.  Những kẻ đó là ai?  Có tôi không?

Thứ Nhất là giám mục Phêrô (người sẽ được Chúa Giêsu cất nhắc làm giáo hoàng).  Ông là người đã mạnh mẽ nói chắc như đinh đóng cột: “Con sẽ thí mạng con vì Thầy!” (Ga 13:37; Mt 26:35; Mc 14:31; Lc 22:33).  Thế nhưng ông đâu có dám, mạnh miệng thế thôi.  Chúa Giêsu “đi guốc” trong bụng ông, biết rõ cả tương lai của ông, nên Ngài nói: “Anh sẽ thí mạng vì Thầy ư?  Thật, Thầy bảo thật cho anh biết: gà chưa gáy, anh đã chối Thầy ba lần” (Ga 13:38; Mt 26:34; Mc 14:30; Lc 22:34).  Và tất cả các môn đệ cũng đều nói chắc như vậy. Ui da, coi bộ “kẹt” dữ nghen! Mà “kẹt” thật, bởi vì sau đó sự thể diễn tiến trúng phóc, xảy ra y chang.

Phêrô chối đay đảy, chối không ngại miệng, vuốt mặt không nể mũi. Ông không chỉ chối bỏ Sư Phụ của mình mà còn chối bỏ cả nguồn cội của mình là người xuất thân từ Galilê. Nào có ai quyền hành tra xét chi đâu mà sợ đến thế, chỉ là mấy đầy tớ gái thôi mà. Ôi, con người là thế, rất yếu đuối, nói hay mà làm dở, hứa nhiều mà chẳng giữ trọn được bao nhiêu! Nói theo kiểu tam-đoạn-luận: phàm nhân yếu đuối và sa ngã, Phêrô là phàm nhân, chúng ta là phàm nhân, thế nên cả Phêrô và chúng ta đều yếu đuối và sa ngã. Nói trước bước không qua. Thế nên tiền nhân đã nhắc nhở: “Tiên trách kỷ, hậu trách nhân”.

Vấn đề không dừng lại ở đó. Phêrô đã phản bội nhưng cũng đã thật lòng sám hối, vấn đề quan trọng là SÁM HỐI. Thế nên ông được Thầy Giêsu ân thương thứ tha và còn trao ban quyền cao chức trọng là làm giáo hoàng, với trọng trách làm “hoa tiêu” lèo lái Con Thuyền Giáo Hội trên biển cả trần gian, là người chăm sóc cả chiên mẹ và chiên con (Ga 21:15-17), đồng thời còn phải củng cố đức tin cho người khác: “Thầy đã cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin. Phần anh, một khi đã trở lại, HÃY LÀM CHO ANH EM CỦA ANH NÊN VỮNG MẠNH” (Lc 22:32). Phương trình cân bằng: ĐƯỢC nhiều thì bị ĐÒI nhiều (Lc 12:48). Hai mẫu tự Đ độc đáo lắm!

Thứ Nhì là giám mục Giuđa Ítcariốt, con trai ông Simôn Ítcariốt. Sau khi rửa chân cho các môn đệ, Chúa Giêsu nhắc tới lời Kinh Thánh: “Kẻ đã cùng con chia cơm sẻ bánh lại giơ gót đạp con” (Ga 13:18; x. Tv 41:10). Và rồi Ngài cảm thấy tâm thần xao xuyến. Ngài tuyên bố: “Thật, Thầy bảo thật anh em: có một người trong anh em sẽ nộp Thầy” (Ga 13:21). Các môn đệ nhìn nhau, phân vân không biết Người nói về ai. Trong số các môn đệ có một người được Đức Giêsu thương mến và được tựa đầu vào ngực Thầy. Ông Phêrô làm hiệu cho ông Gioan hỏi xem Thầy muốn nói về ai. Ông Gioan liền nghiêng mình vào ngực Thầy và hỏi xem người đó là ai vậy. Đức Giêsu trả lời: “Thầy chấm bánh đưa cho ai thì chính là kẻ ấy” (Ga 13:26). Nói rồi Ngài chấm một miếng bánh trao cho Giuđa. Đối với tục lệ Do Thái, việc tự tay trao cho người khác như vậy là động thái ân cần lắm. Người Việt cũng có cách “quan tâm” tương tự là gắp đồ ăn cho người khác (nhưng kiểu này không hay và nên tránh, bởi vì người Việt dùng đũa).

Ông Giuđa vừa ăn xong miếng bánh liền bị Satan nhập vào. Đức Giêsu bảo y: “Anh làm gì thì làm mau đi!” (Ga 13:27). Sau khi ăn miếng bánh, ông Giuđa liền đi ra. Lúc đó, trời đã tối. Ở đây có hai chi tiết:

[1] Ông Giuđa đã rước lễ bất xứng nên bị ma quỷ nhập, như Thánh Phaolô đã cảnh báo: “Bất cứ ai ăn Bánh hay uống Chén của Chúa cách bất xứng, thì cũng phạm đến Mình và Máu Chúa” (1 Cr 11:27).

[2] Ông Giuđa ra đi và vào trong vùng bóng tối, tức là vùng của ma quỷ. Bóng tối đối lập với ánh sáng, ma quỷ đối lập với Thiên Chúa. Những việc làm trong “bóng tối” là động thái lén lút, biểu hiện sự xấu xa. Ông Giuđa hành động theo mệnh lệnh của “lòng ham mê tiền bạc”, mà tiền bạc là hiện thân của ma quỷ: “Cội rễ sinh ra mọi điều ác là lòng ham muốn tiền bạc” (1 Tm 6:10). Chỉ vì 30 đồng bạc (silver coins, không phải là gold coins – đồng vàng), giá rất bèo, một số tiền không lớn, thế mà ông Giuđa đành đoạn tình dứt nghĩa với Thầy của mình.

Sau khi nhận tiền, có lẽ ông nghĩ là họ mắc lừa, nghĩa là ông có tiền trong tay nhưng họ không thể chạm vào chân lông của Thầy. Đã bao lần họ tìm cách ném đá Thầy nhưng vô ích, và rồi rõ ràng là mới nghe Thầy nói “chính tôi đây” là chúng té lăn cù liền đấy thôi. Nhưng rồi thấy Thầy bị bắt, ông đâm hoảng. Sao kỳ vậy ta? Quyền phép thầy biến đâu hết rồi? Và ông đã ném trả số tiền đó vào Đền Thờ (Mt 27:5).

Nhưng tiếc thay, ông đã mất niềm tin vào lòng thương xót và ơn tha thứ của Thiên Chúa, thế nên ông đã tự xử tội mình bằng cách mượn sợi dây để kết liễu mạng sống (Mt 27:5). Đó là động thái hèn nhát. Chết không phải là can đảm mà dám sống để chịu đau khổ mới thực sự là can đảm.

Chắc rằng chẳng ai dám làm quan tòa để xét đoán ông Giuđa có được cứu độ hay không, nhưng mỗi chúng ta cần phải soi mình qua “tấm gương mờ tối” của ông để tự xét mình và cố gắng sửa đổi cho kịp khi còn trong thời gian Thiên Chúa kiên trì chờ đợi chúng ta “làm lại cuộc đời” – tức là Giờ của Lòng Thương Xót.

Thứ Ba Là Dân Chúng. Trong đó có đủ loại người và đủ độ tuổi. Họ đã từng mê say nghe Chúa Giêsu giảng đạo đến nỗi quên ăn, bỏ ngủ, rồi Ngài thấy tội nghiệp nên làm phép lạ cho họ ăn uống no nê – một lần đến năm ngàn đàn ông, không kể phụ nữ và trẻ em, tính cả chắc là đến cả chục ngàn người, và còn dư 12 thúng đầy (Mt 14:15-21; Mc 6:30-44; Lc 9:12-17; Ga 6:5-13 – với năm chiếc bánh và hai con cá), và một lần đến bốn ngàn đàn ông, cũng không kể phụ nữ và trẻ em, tính cả chắc là đến cả chục ngàn người, tính cả cũng gần chục ngàn người, và còn dư bảy giỏ (Mt 15:32-38; Mc 8:1-10 – với bảy chiếc bánh).

Thấy phép lạ nhãn tiền như vậy, chính họ cũng đặt vấn đề và kháo nhau: “Hẳn ông này là vị ngôn sứ, Đấng phải đến thế gian!” (Ga 6:14). Và rồi chỉ mới vài ngày trước Lễ Vượt Qua, họ lũ lượt đón Ông-Làm-Phép-Lạ vào Thánh Thánh Giêrusalem. Họ sung sướng đến nỗi cởi áo ra trải lên đường cho lừa chở Ngài vô, đua nhau bẻ cành lá vẫy chào và tung hô vang dội: “Hoan hô Con vua Đa-vít! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa! Hoan hô trên các tầng trời!” (Mt 21:9; Mc 11:9; Lc 19:38; Ga 12:12).

Nhưng rồi họ nghe những kẻ thủ đoạn kích động nên họ lật mặt, lời tung hô thành lời phản đối, tay giơ cành lá vẫy chào biến thành những nắm đấm giơ cao và la lên: “Đóng đinh nó vào thập giá!” (Mt 27:22-23; Mc 15:13-14; Lc 23:21; Ga 19:15). Rõ ràng là phản bội trắng trợn. Mỗi chúng ta cũng hăng hái và hùng hổ lẫn vào trong đám người phản trắc tồi tệ đó!

Mọi sự ồn ào náo nhiệt dần dần lặng lẽ theo con đường lên Can-vê… Trên đường vác thập giá lên Đồi Sọ, Chúa Giêsu đã ngã ba lần vì sức nặng của thập giá, nhưng Ngài đã cố gắng đứng dậy dù rất yếu đuối và kiệt sức. Chúng ta cũng vậy, đã bao lần té lên té xuống, nhưng đừng bao giờ tuyệt vọng mặc dù có lúc cảm thấy thất vọng về chính mình. Hãy vững tin vào Thầy Giêsu, luôn cố gắng đứng dậy và quyết tâm làm lại cuộc đời. Thánh nhân có quá khứ, tội nhân có tương lai.

Hãy cố gắng sống theo lệnh truyền của Người-Tôi-Trung-Đau-Khổ, Thầy Chí Thánh Giêsu Kitô, mỗi ngày thêm hoàn thiện hơn: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy YÊU THƯƠNG NHAU; anh em hãy YÊU THƯƠNG NHAU như Thầy đã yêu thương anh em. Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng YÊU THƯƠNG NHAU” (Ga 13:34-35). Các điệp từ “yêu thương nhau” phải vang lên theo từng hơi thở, yêu thương thì sẵn sàng tha thứ.

Cuối cùng, hãy nghe lời của Thánh Padre Pio (Piô Năm Dấu) với cách phân tích rất chí lý: “Người làm điều ác mà xấu hổ về việc đã làm thì gần Chúa hơn là người tốt mà không dám làm việc lành”. Ai cũng lần mò về Nhà Cha qua con đường tội lỗi và thứ tha (Thánh Inhaxio Loyola), chắc chắn rằng Lòng Thương Xót của Thiên Chúa lớn hơn tội lỗi của cả thế giới này kia mà! Chính Chúa Giêsu mặc khải cho Thánh Faustina như thế đấy. Cứ an tâm, vững tin, cố gắng “chết” dần dần, và rồi sẽ được phục sinh với Thầy Giêsu. Amen!

TRẦM THIÊN THU
Cuối Mùa Chay – 2018

XOÁ BỎ HẬN THÙ

Thánh Gio-an là tác giả duy nhất tường thuật cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và người phụ nữ Sa-ma-ri bên bờ giếng Giacóp.  Trình thuật này mang nhiều ý nghĩa.  Chúng ta đã biết về hình ảnh người Samari nhân hậu chăm sóc người bị nạn được ghi lại trong Tin Mừng theo Thánh Lu-ca.  Hôm nay, chúng ta lại thấy một người phụ nữ Sa-ma-ri.  Chị là đại diện cho những người đang đi tìm Chân lý và đang khao khát những giá trị thiêng liêng vĩnh cửu.

Như nội dung trình thuật cho thấy, Chúa Giêsu đã chủ động “bắt chuyện” với người phụ nữ, khi chị này đến giếng để múc nước.  Trong đời thường, không bao giờ một người Do Thái lại nói chuyện với một người Sa-ma-ri.  Vì thế, người phụ nữ vẫn luôn giữ khoảng cách và cảnh giác.  Dưới ngòi bút tài tình của tác giả Gio-an, nội dung cuộc đối thoại này diễn biến từng bước, để rồi từ bầu khí nghi ngờ trở thành sự thân thiện; từ một người bất mãn trở thành một người lạc quan; từ một người vô tín, trở thành một tín hữu; và nhất là từ một người dửng dưng, nay trở thành một nhân chứng năng động nhiệt thành giới thiệu Chúa Giêsu cho những người đồng bào.

Qua cuộc đối thoại với người phụ nữ Sa-ma-ri, Chúa Giêsu khẳng định: Thiên Chúa là Cha của mọi người.  Giáo huấn này không chỉ được thể hiện trong câu chuyện người phụ nữ Sa-ma-ri, mà được dàn trải trong suốt Tin Mừng.  Chúa Giêsu đến để nói với con người về dung mạo đầy lòng thương xót của Chúa Cha.  Chính Người là hình ảnh sống động của Chúa Cha.  Qua đời sống và sứ vụ của mình, Đức Giêsu minh chứng Chúa Cha là Đấng nhân hậu.  Những ai thờ phượng Chúa, cũng phải thờ phượng trong tinh thần và Chân lý.  Việc thờ phượng Chúa không bị tuỳ thuộc vào một không gian, như ở Giê-ru-sa-lem hay ở trên đồi Ga-ri-zim, nhưng bất cứ ai kêu cầu Thiên Chúa với trái tim chân thành, dù ở nơi đâu, đều được Chúa nhận lời.  Sau này, thánh Phê-rô can đảm tuyên bố trong bài giảng tại nhà ông Cornêliô: “Quả thật, tôi nghiệm biết rằng Thiên Chúa không thiên tư tây vị, nhưng ở bất cứ xứ nào, ai kính sợ Người và thực hành sự công chính, đều được Người đón nhận.  Thiên Chúa đã sai Lời Người đến cùng con cái Israel, loan tin bình an, nhờ Chúa Giêsu Ki-tô là Chúa muôn loài” (Cv 10,34-36).  Lưu ý là ông Phê-rô tuyên bố những lời này sau khi được thấy thị kiến về một tấm khăn lớn từ trời thả xuống, trong đó có đủ mọi loài sinh vật.  Đây là hình ảnh diễn tả tính phổ quát của ơn cứu độ mà Thiên Chúa thực hiện trong Đức Giêsu.  Điều này ngược lại với quan niệm truyền thống của người Do Thái, vì họ cho rằng chỉ có dân riêng Chúa chọn mới được hưởng ơn cứu độ của Ngài.

Trong Mùa Chay, phụng vụ nhắc chúng ta: Chúa Giêsu là suối nguồn ơn phúc.  Bài Tin Mừng cũng chứng minh cho thấy niềm khát vọng vô biên của con người.  Một xã hội phát triển và giàu có về vật chất, chưa hẳn đã là hạnh phúc.  Ngoài những nhu cầu vật chất, con người còn cần đến những nhu cầu tinh thần.  Người phụ nữ Sa-ma-ri đã năm đời chồng, nhưng vẫn không thấy hạnh phúc.  Điều đó chứng minh sự dồi dào về vật chất và buông thả về luân lý không phải bao giờ cũng đem lại cho con người niềm vui.  Chị vẫn đang trăn trở đi tìm ý nghĩa của cuộc đời.  Khởi đi từ nước giếng, là nước thường dùng trong cuộc sống thường ngày, Đức Giêsu đã từng bước giúp chị hiểu nước của ân sủng, nước thiêng liêng.  Đó chính là giáo huấn và ơn cứu độ mà Đức Giêsu mang đến cho nhân loại ở mọi nơi mọi thời.

Bài đọc I kể cho chúng ta về một sự kiện liên quan đến nước.  Trong cuộc lữ hành sa mạc, dân Israel đã kêu cầu Chúa, và Ngài đã làm phép lạ để nước chảy ra từ tảng đá.  Nước sa mạc vừa nhắc nhở lòng thương xót của Chúa, và cũng như một kỷ niệm buồn, vì dân phản loạn kêu trách Chúa.  Thiên Chúa nhân hậu bao dung.  Ngài không chấp tội con người.  Ngài sẵn sàng tha thứ những lỗi phạm, và sửa dạy họ, để họ nên tốt hơn.

Những người dân thành Samari đóng vai trò “diễn viên phụ”, nhưng cũng rất quan trọng.  Thánh Gioan đã viết: “Số người tin vì lời Đức Giêsu nói còn đông hơn nữa.  Họ bảo người phụ nữ: Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin.  Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng: Người thật là Đấng cứu độ trần gian” (Ga 4, 41-42).  Cuộc trò chuyện thân thiện giữa Chúa Giêsu với người phụ nữ đã đem lại những kết quả không ngờ.  Qua hình ảnh mùa gặt, Đức Giêsu nói với chúng ta: xung quanh chúng ta, rất nhiều người có trái tim chân thành.  Họ như những mảnh đất tốt sẵn sàng đón nhận hạt giống Lời Chúa và làm cho Lời ấy nảy mầm, đâm bông kết trái.  Trình thuật của thánh Gio-an đã chứng minh điều đó.

Ngày hôm nay, ước gì anh em nghe tiếng Chúa.  Người phán: “Các ngươi chớ cứng lòng như tại Mê-ri-ba, như ngày ở Ma-xa trong sa mạc.”  Hành trình mùa Chay nhắc lại cuộc lữ hành trong sa mạc của dân Israel tiến về đất hứa.  Trong hành trình này, nhiều người đã ngã gục, vì kiêu ngạo, tội lỗi, bất trung hoặc vì thiếu nghị lực, không có lòng cậy trông.  Đức Giêsu là Đấng dẫn đường về đất hứa vĩnh cửu, tức là Quê Trời.  Thánh Phaolô khẳng định: theo lẽ thường, hầu như không ai chết vì người công chính, thế mà Đức Ki-tô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi; đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta.  Noi gương Chúa Giêsu bên bờ giếng Gia-cóp, chúng ta hãy cố gắng thực thi những việc thiện, trân trọng và bác ái với những người xung quanh, để dỡ bỏ khoảng cách, kết nối yêu thương và xây tình huynh đệ.

TGM Giuse Vũ Văn Thiên

ĐỪNG CHẠY TRỐN THẬP GIÁ

Một trong các diện mạo nổi bật của Cuộc Khổ Nạn là Chúa Giêsu đơn độc dữ dội trong những giờ phút cuối cuộc đời Ngài trên thế gian.  Đa số các môn đệ, những người theo Ngài và là bạn hữu của Ngài, đều trốn Ngài và bỏ rơi Ngài trong lúc cấp bách nhất.  Thánh Phêrô còn cả gan dám chối bỏ Ngài tới ba lần để tránh liên lụy tới Ngài – người mà ông đã mạnh mẽ tuyên xưng là Con Thiên Chúa (Mt 16:16).  Có vài người tận tình theo sát Ngài, đó là Đức Mẹ và Thánh Gioan, những người đứng bên chân Thập Giá và chứng kiến Chúa Giêsu bị đóng đinh, rồi cùng đưa Ngài đi an táng.

Khi đi qua Mùa Chay Thánh này, chúng ta cần suy tư về những lần chúng ta đã chạy trốn thập giá và chạy trốn Chúa Giêsu.  Chúng ta đã từng làm điều đó, bằng cách này hay cách khác.  Đó là những lúc chúng ta trốn tránh đau khổ của chính mình, của người thân, của người lân cận, hoặc của những người mà chúng ta gặp trong cuộc sống hằng ngày.  Nhưng “chạy trời không khỏi nắng”, bởi vì chúng ta không thể trốn tránh đau khổ về thể lý – như bệnh tật, mất người thân, mất việc làm, bị tổn thương, hoặc các dạng đau khổ khác, kể cả những điều trái ý trong cuộc sống.  Khi đau khổ xảy ra, chúng ta thường tránh né bằng cách xem ti-vi, lướt internet, ăn uống thứ gì đó, uống rượu, sử dụng ma túy, xem phim ảnh đen, v.v…  Rất đa dạng.  Chúng ta tìm cách làm bất cứ thứ gì để tránh đối mặt với thực tế của cuộc sống: thập giá.  Thật vậy, chúng ta luôn tìm cách chạy trốn thập giá!

Chạy Trốn Đau Khổ Của Người Khác

Đây là điều rất thật, đó là khi chúng ta gặp đau khổ của người khác.  Người ta rất ưa chủ nghĩa cá nhân.  Đây là đặc điểm đối lập với cách hiểu của Công giáo về Nhiệm Thể Đức Kitô.  Chúng ta là một cộng đồng.  Chúng ta được liên kết với nhau qua Chúa Thánh Thần ở mức độ sâu xa nhất của chính con người chúng ta.  Chúng ta là các chi thể của Đức Giêsu Kitô trên thế gian này.  Chúa Giêsu là Đầu.  Khi một chi thể của Nhiệm Thể bị đau, tất cả chúng ta cũng bị đau.  Chúng ta không biết thực tế này nên chúng ta có thể làm ngơ, nhưng đó là sự thật minh nhiên.

Khi yêu thương nhau với tư cách là môn đệ của Đức Kitô, chúng ta được mời gọi đi vào trong nỗi đau khổ của những người lân cận.  Điều này không dễ, nhưng không có gì về Thập Giá cho chúng ta biết đời sống tâm linh và con đường nên thánh sẽ dễ dàng.  Chúa Cứu Thế Giêsu đã chết trên Thập Giá và Ngài cho chúng ta biết rằng chúng ta PHẢI theo Ngài.  Có một Thập Giá cuối cùng dành cho mỗi chúng ta là chúng ta chắc chắn sẽ phải đối mặt trước khi chúng ta có thể bước vào đời sống vĩnh hằng: TỬ THẦN ĐANG ĐỢI TẤT CẢ CHÚNG TA.  Thập Giá đến trước khi ngôi mộ trống.  Cuộc sống này là những chuỗi thập giá dẫn chúng ta tới chung một số phận như Đức Chúa của chúng ta.  Dù vậy, chúng ta vẫn hy vọng nhờ những gì xảy ra phía sau Thập Giá.

Khi Chúa Giêsu thiết lập Giáo Hội trên thế gian, Ngài muốn kết hiệp toàn nhân loại qua dấu chỉ hữu hình đối với thế giới thực tế về bản thể học (ontological reality) trong tính liên kết của nhân loại và tặng phẩm Ơn Cứu Độ.  Đức Kitô đã mặc xác phàm, điều này liên kết Ngài với chúng ta trong tình đoàn kết và liên kết chúng ta với nhau.  Đó là nhờ mối liên kết sâu xa mà Ngài truyền lệnh cho chúng ta là phải yêu thương người lân cận.  Yêu thương đòi hỏi lòng ước muốn trong chúng ta về điều tốt lành đối với người lân cận.  Điều đó có nghĩa là chúng ta phải cầu xin Chúa Thánh Thần trợ giúp chúng ta có sức chịu đựng, bởi vì tình yêu đòi hỏi sự hy sinh: vác thập giá.  Chúng ta cần can đảm chung phần đau khổ với tha nhân, nhưng tình yêu thương thúc giục chúng ta thể hiện sự công bình.  Chúng ta làm nhẹ gánh nặng của người khác và mở rộng khả năng yêu thương khi chúng ta chấp nhận đồng hành với những người đau khổ ở xung quanh chúng ta.  Đi vào nỗi đau khổ của người khác không chỉ là phong cách của Mẹ Thánh Teresa Calcutta, mà còn phải là của mỗi chúng ta.

Đi Vào Nỗi Đau Khổ Của Người Khác Bằng Cách Nào?

Đa số chúng ta không được mời gọi từ bỏ mọi thứ để sống trong những khu nhà ổ chuột và dành trọn thời gian để phục vụ người nghèo.  Chúng ta có trách nhiệm gia đình, đó là ơn gọi của chúng ta.  Thập giá của người khác có thể ở nhiều dạng, và chúng ta phải tập thói quen nhận ra nhu cầu của những người ở xung quanh chúng ta.  Chúng ta phải mang sức nặng thập giá của chính mình, đồng thời cũng tìm cách làm nhẹ gánh nặng của người khác.  Bắt đầu có thể là thăm viếng bệnh nhân hoặc người già nào đó, an ủi người sầu khổ, nâng đỡ người thất vọng, giúp đỡ người cô thân, chia sẻ lương thực với người nghèo khó, gọi điện thăm hỏi ai đó, chia sẻ với người vô gia cư…  Hãy nhìn họ là hình ảnh của Thiên Chúa.  Cứ thế và cứ thế…  Cái nghèo đáng sợ nhất là cái nghèo về tinh thần: sự cô đơn.  Khi nào chúng ta thôi chạy trốn thập giá?  Đó là lúc chúng ta không ngừng yêu thương người lân cận, bởi vì không có cách nào có thể chấm dứt đau khổ trên thế gian này!

Chúng Ta Có Tiếp Tục Chạy Trốn?

Bạn có chạy trốn thập giá?  Mỗi chúng ta có thể trả lời “có” với câu hỏi này.  Chắc chắn tất cả chúng ta đều đã từng làm ngơ trước nỗi đau khổ của người khác.  Vào một lúc nào đó, tất cả chúng ta đã tránh né thập giá của chính mình bằng cách nào đó.  Chúa Giêsu đã dùng chính các thập giá này để làm tăng khả năng yêu thương ở chúng ta, Ngài muốn làm chúng ta nên thánh.  Thật là không hề dễ chút nào.  Đau khổ rất mạnh mẽ khiến người ta có thể cảm thấy không thể sống sót, nhưng Thiên Chúa vẫn có thể mở rộng tâm hồn chúng ta qua những nỗi đau khổ đó.  Ngài cũng mở rộng tâm hồn yêu thương của chúng ta qua đau khổ chúng ta chịu hằng ngày.

Chúng Ta Nghĩ Về Thiên Đàng Như Thế Nào?

Thiên Đàng là sự liên kết những con người đã được định hình theo tình yêu của Chúa Ba Ngôi chí thánh.  Đó là mối liên kết được nhận biết trọn vẹn, là SỰ QUÊN MÌNH HOÀN TOÀN, là sự liên tục yêu thương qua hành động – như việc các thánh cầu thay nguyện giúp cho chúng ta.  Đó là sự bước vào thập giá của người khác cho tới tận thế.  Yêu thương đòi hỏi thập giá.  Một trong các cách Thiên Chúa chuẩn bị Nước Trời cho chúng ta là dạy chúng ta đi vào nỗi đau khổ của tha nhân.  Thập giá có tính biến đổi, có thể làm chúng ta nên thánh.  Mùa Chay này, chúng ta hãy cầu xin cho có sức mạnh và biết cách đi vào Cuộc Khổ Nạn cùng với Chúa Giêsu và tha nhân để chúng ta có thể trưởng thành trong tình yêu thương và sự thánh thiện.

Constance T. Hull
Trầm Thiên Thu (chuyển ngữ từ CatholicExchange.com)

VƯỢT NGOÀI THẦN NGHIỆM

“Tôi là nhà thần nghiệm thực hành!”  Vài năm trước, một cô đã nói như thế trong lớp tôi dạy và khiến nhiều người cau mày.  Tôi đang dạy một lớp về thần nghiệm và hỏi các sinh viên vì sao họ lại có hứng thú với môn thần nghiệm.  Mỗi người trả lời một kiểu.  Có người đơn giản thấy hấp dẫn với khái niệm này, người khác là những người linh hướng muốn có thêm thấu suốt về những cảm nghiệm thần nghiệm, và một số thì theo học vì cố vấn học tập khuyên họ nên vào lớp này.  Nhưng có một cô trả lời: “Vì tôi là nhà thần nghiệm thực hành!”

Ai đó có thể là nhà thần nghiệm thực hành sao?  Có thể, nếu hiểu cho đúng cả hai từ này, thần nghiệm và thực hành.

Vậy thần nghiệm nghĩa là gì?  Trong quan điểm phổ thông, thần nghiệm thường được gắn với cảm nghiệm tôn giáo khác thường và huyền bí, cụ thể là những thị kiến, mặc khải, sự hiện ra, đại loại như thế.  Thật sự, nhiều lúc đúng là thế, như với những nhà thần nghiệm vĩ đại như Julian thành Norwich và Teresa thành Avila, nhưng cũng có những ngoại lệ.  Kiểu thần nghiệm theo quan niệm của ta không phải là quy tắc.  Thường thì cảm nghiệm thần nghiệm rất bình thường, không thị kiến, không có sự hiện ra, không xuất thần, chỉ là một cảm nghiệm thường nhật, nhưng có một sự khác biệt.

Ruth Burrows, nhà thần nghiệm lừng danh người Anh thuộc dòng Carmel đã mô tả thần nghiệm như thế này: Cảm nghiệm thần nghiệm là được Thiên Chúa chạm đến ở một mức độ thâm sâu hơn lời lẽ, suy nghĩ, hình tượng và cảm giác.  Chúng ta có cảm nghiệm thần nghiệm khi nhận thức về bản thân và thế giới một cách rõ ràng, dù chỉ là trong thoáng chốc.  Điều này có thể đi kèm những điều khác thường, như thị kiến hay sự hiện ra, nhưng thường thì không như thế.  Thường thì cảm nghiệm thần nghiệm không phải là khoảnh khắc một thiên thần hay một thần linh hiện ra với bạn, cũng không phải là lúc có chuyện huyền bí xảy ra với bạn.  Cảm nghiệm thần nghiệm là khác thường, nhưng khác thường vì nó rõ ràng một cách độc nhất vô nhị, vì trong khoảnh khắc ấy chúng ta quy hướng một cách khác thường, và vì trong khoảnh khắc ấy chúng ta cảm thức một cách vô thức, mơ hồ, và lộn xộn, cảm thức vượt ngoài từ ngữ và hình tượng, cảm thức được điều mà các nhà thần nghiệm gọi là ký ức không phai về nụ hôn của Chúa trên linh hồn chúng ta, ký ức nguyên sơ về lần mình từng cảm nghiệm tình yêu hoàn hảo khi còn ở trong lòng Chúa trước lúc ta ra đời.  Bernard Lonergan, dùng một thuật ngữ khác, gọi đây là dấu ấn của những nguồn gốc đầu tiên lên linh hồn chúng ta, dấu ấn bẩm tại của những yếu tố siêu việt thuộc về Thiên Chúa, là Duy nhất, Chân, Thiện, Mỹ, ở trong chúng ta.

Chúng ta có cảm nghiệm thần nghiệm khi liên kết với phần linh hồn mà chúng ta từng được Chúa chạm đến trước khi chúng ta ra đời, phần linh hồn chúng ta vẫn mang theo dù trong vô thức, phần ký ức đã được Chúa chạm đến.  Henri Nouwen gọi đây là ký ức mơ hồ về “tình yêu đầu tiên” về một thời chúng ta được nâng niu bởi đôi bàn tay trìu mến hơn bất kỳ lần nào chúng ta có trong đời này.

Tất cả chúng ta đều có cảm nghiệm này ở một mức độ nào đó.  Tất cả chúng ta đều có những cảm nghiệm thần nghiệm, dù không phải ai cũng là nhà thần nghiệm.  Vậy đâu là điểm khác biệt giữa có cảm nghiệm thần nghiệm và là nhà thần nghiệm?  Nó cũng là điểm khác biệt giữa có cảm nghiệm mỹ thuật và là nghệ sĩ.  Tất cả chúng ta đều có cảm nghiệm mỹ thuật và nhiều lần thấy được mỹ thuật đánh động sâu sắc, nhưng chỉ có một số ít người trở thành nghệ sĩ lớn, nhà soạn nhạc lớn, không hẳn bởi họ có cảm nghiệm sâu sắc hơn chúng ta, nhưng bởi họ có thể cho cảm nghiệm của họ một biểu lộ mỹ thuật đặc biệt.  Biểu lộ mỹ học luôn luôn có sự hòa hợp nhất định.  Do đó bất kỳ ai cũng có thể trở thành nghệ sĩ thực hành, dù cho không phải nghệ sĩ chuyên nghiệp.

Về thần nghiệm cũng thế.  Nhà thần nghiệm là người có thể đem lại biểu lộ có ý nghĩa cho cảm nghiệm thần nghiệm của họ, cũng như một nghệ sĩ là người có thể đem lại biểu lộ thích đáng cho cảm nghiệm mỹ thuật của họ.  Bạn có thể là một nhà thần nghiệm thực hành, tương tự như là một nghệ sĩ thực hành.  Như một nghệ sĩ đầy nỗ lực, bạn có thể dốc sức để đem lại một biểu lộ có ý nghĩa và có ý thức cho những vận động thâm sâu mà bạn cảm nhận được trong linh hồn mình, và như một nghệ sĩ nghiệp dư thôi, bạn sẽ không là một Rembrandt hoặc Picasso trong đời sống thiêng liêng, nhưng những nỗ lực của bạn có thể hữu ích vô cùng khi bạn làm rõ những vận động trong linh hồn và tâm thần mình.

Vậy cụ thể, làm sao để bạn làm một nhà thần nghiệm thực hành trong thực tế?  Bằng cách làm bất kỳ điều gì giúp bạn liên hệ cách có ý thức với những vận động thâm sâu trong linh hồn, và bằng cách làm những điều giúp bạn vững vàng và tập trung vào linh hồn mình.

Ví dụ như, khi nỗ lực liên kết với linh hồn mình, bạn có thể làm nhà thần nghiệm thực hành bằng cách viết nhật ký, đọc sách thiêng liêng, xin linh hướng, làm những việc linh thao chẳng hạn như bài Linh Thao của thánh Inhaxiô, và cầu nguyện dưới bất kỳ hình thức nào.  Khi quy hướng vào và làm vững vàng linh hồn mình, bạn có thể là một nhà thần nghiệm thực hành, khi dốc hết bản thân một cách ý thức hơn và chủ tâm hơn, vào việc sống ngày Xa-bat và làm những việc quy hướng về linh hồn chẳng hạn như làm vườn, đi bộ đường dài, nghe nhạc, đối ẩm với người thân và bạn bè, yêu vợ hoặc chồng mình, bồng một đứa bé, thăm người bệnh, hay thậm chí chỉ cần làm việc mình thích và có khoảng nghỉ lành mạnh tránh những ám ảnh của bận tâm thường nhật.

Đấy chính là những cách để làm nhà thần nghiệm thực hành, thậm chí chẳng cần phải theo học lớp chính thức về thần nghiệm.

Rev. Ron Rolheiser, OMI

TIẾNG GỌI

Sống trong cuộc đời, chúng ta thường được nghe biết bao tiếng gọi.  Có những tiếng gọi giúp ta hạnh phúc an bình, nhưng cũng có những tiếng gọi làm ta sa ngã bất trung.  Gọi ai là muốn cho người đó đến gần, có thể với ước mong kết thân tình nghĩa, nhưng đó cũng có thể là một mưu chước dối gian.  Mùa chay giúp người tín hữu phân định, đâu là lời mời gọi giúp ta nên thánh, đâu là lời mời gọi làm cho ta lạc lối sai đường.

Bài sách thánh thứ nhất kể lại việc Chúa gọi ông Abraham.  Sự kiện này được các nhà nghiên cứu lịch sử và các nhà chú giải Thánh Kinh xác định ở khoảng thế kỷ 18 trước Công nguyên.  “Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi, mà đi tới đất Ta sẽ chỉ cho ngươi.”  Theo tiếng gọi của Chúa, ông Abraham đã bỏ tất cả mọi sự, kể cả những mối liên hệ thiêng liêng như cha mẹ họ hàng.  Vào thời chưa có điện thoại và các phương tiện liên lạc và di chuyển như bây giờ, việc bỏ quê hương và người thân để lên đường, là một chuyến ra đi mãi mãi.  Abraham không biết mình sẽ đi đâu, nhưng ông xác tín vững vàng vào Thiên Chúa, Đấng đã gọi ông.  Ông tin rằng, bao giờ Chúa cũng sẽ làm cho ông những điều tốt lành và mang lại thiện ích cho ông trong hiện tại cũng như trong tương lai.  Tác giả sách Sáng thế diễn tả sự lên đường của ông Abraham như một quyết định dứt khoát, với niềm xác tín và hân hoan.  Sau này, tác giả thư gửi tín hữu Híp-ri đã suy tư về cuộc lên đường của ông như sau: nhờ tin vào lời Chúa, Abraham đã trở thành cha của nhiều dân tộc.  Ông là người công chính và là gương mẫu cho tất cả những người tin.

Tuần trước, Phụng vụ mời gọi chúng ta vào sa mạc với Chúa Giêsu, để sống tinh thần chay tịnh, chiến thắng cám dỗ.  Chúa nhật này, Phụng vụ lại mời gọi chúng ta lên núi cao, để chứng kiến Chúa Giêsu biến hình.  Trong truyền thống Thánh Kinh, núi cao là nơi con người gặp gỡ Thiên Chúa.  Chúa đã ban luật Giao ước cho dân Israel trên núi Sinai sau khi dân ra khỏi Ai Cập.  Như người leo núi phải bỏ bớt hành lý cồng kềnh, hành trình leo núi thiêng liêng buộc chúng ta phải bỏ lại những tham lam tính toán thấp hèn, để sống cao thượng và thanh thoát hơn.

Theo Tin Mừng thánh Matthêu, việc Chúa Giêsu biến hình (còn gọi là hiển dung) được trình bày trong bối cảnh các môn đệ đang hoang mang lo lắng, vì các ông thấy Thày mình loan báo cuộc thương khó mà Người sẽ trải qua.  Khi nghe Chúa nói về việc Người sẽ bị giết chết và sẽ sống lại, ông Phêrô bàng hoàng.  Ông kéo Thày riêng ra một chỗ và trách Thày.  Chúa Giêsu đã mạnh mẽ phê phán Phêrô và gọi ông là Satan (x. Mt 16,21-23).  Để giúp các môn đệ có một nhãn quan khác về sứ vụ thiên sai của Người, Chúa Giêsu đã biến hình trước mặt ba môn đệ là ông Phêrô, Giacôbê và Gioan.  Ông Phêrô trước đó mấy ngày đã can gián và trách Chúa, nay lại xin làm ba lều cho Chúa, cho ông Môisen và ông Êlia.  Các ông cảm nhận được niềm vui ngây ngất khi thấy Chúa biến đổi hình dạng.  Tâm trạng các ông đã được thay đổi, kể cả khi Chúa nói với các ông: ‘Con Người từ cõi chết trỗi dậy.’

Đâu là tiếng gọi của Chúa trong cuộc sống cụ thể hôm nay?  Bài Tin Mừng cho chúng ta thấy, trước hết là lời mời gọi hãy lắng nghe lời Chúa Giêsu.  Đây là lời mời gọi từ đám mây, tức là tiếng nói của Chúa Cha.  Chúa Cha công nhận và giới thiệu với thế giới, Đức Giêsu là Con yêu dấu của Ngài.  Ngài muốn cho chúng ta nghe lời của Chúa Giêsu, là lời đem lại sự sống và hạnh phúc bình an.  Chính Đức Giêsu là Lời của Thiên Chúa.  Lời đã nhập thể, đã làm người để ở với chúng ta và để kể cho chúng ta nghe về tình thương Thiên Chúa.  Ai đón nhận Lời Chúa, tức là đón nhận Chúa Giêsu vào cuộc đời và vào tâm hồn mình, nhờ đó mà tìm được sức mạnh siêu nhiên, để vượt lên những gian nan thử thách và những chông gai của cuộc đời.

“Trỗi dậy đi, đừng sợ!”  Đó là lời mời gọi thứ hai của Chúa.  Thế giới của chúng ta có biết bao điều sợ hãi.  Con người bị bóng tối sợ hãi bủa vây xung quanh.  Đó là bạo lực, chia rẽ, hận thù.  Đó còn là bệnh tật, tai nạn, thiên tai, nhân tai.  Đó còn là những cạm bẫy đến từ sự gian xảo của lòng người.  Chúa Giêsu đã trấn an ba môn đệ trong lúc các ông kinh hoàng: Đừng sợ.  Lời này cũng nhằm khích lệ các ông trước nỗi sợ của cuộc khổ nạn, mà Chúa Giêsu đã loan báo trước đó.  Hôm nay Chúa vẫn đang nói với chúng ta những điều ấy.  Những ai cậy trông tín thác vào quyền năng và tình yêu thương của Chúa thì không còn sợ hãi bất cứ điều gì.  Chúa khẳng định với chúng ta như thế.

Mùa Chay giúp chúng ta nhận ra đâu là tiếng gọi của Chúa, giữa một đại dương âm thanh hỗn tạp ồn ào.  Hãy đọc Tin Mừng để nhận ra tiếng Chúa.  Hãy suy niệm Lời Chúa để sống theo thánh ý của Người.  Tiếng gọi của Chúa bao giờ cũng nhằm tới thực thi đức bác ái yêu thương.  Thái độ hận thù nhỏ nhoi không bao giờ đến từ Thiên Chúa, bất kỳ dưới góc độ nào.  Thánh Phaolô (Bài đọc II) khuyên người môn sinh của mình là Timôthê hãy nhận ra kế hoạch và ân sủng của Đức Kitô.  Người là Đấng Cứu độ chúng ta.  Người đã tiêu diệt thần chết và ban cho chúng ta phúc trường sinh bất tử.

Trong sứ điệp truyền thống đầu mùa Chay năm 2023 này, Đức Thánh Cha Phanxicô đã dựa trên trình thuật Chúa Giêsu biến hình để mời gọi các tín hữu sống tinh thần mùa Chay.  Với chủ đề: “Khổ chế mùa Chay và lộ trình hiệp hành,” Đức Thánh Cha so sánh việc ba tông đồ chiêm ngắm Chúa biến hình trên núi như một cuộc tĩnh tâm.  Tĩnh tâm là lên núi cao để gặp gỡ Chúa, để chiêm ngưỡng vinh quang của Người.  Tĩnh tâm cũng là nhìn lại chặng đường mình đã đi, để nhận ra những yếu kém, những bất toàn của mình, rồi từ đó thiện chí sửa chữa, canh tân.  Đức Thánh Cha viết: “Vào cuối cuộc leo núi, khi đang ở trên đỉnh núi với Chúa Giêsu, ba môn đệ được ơn nhìn thấy Người trong vinh quang, chói ngời ánh sáng siêu nhiên.  Một ánh sáng không đến từ bên ngoài, nhưng tỏa ra từ chính Chúa.  Vẻ đẹp thiêng liêng của thị kiến này vượt xa những nỗ lực mà các môn đệ đã cố gắng khi lên Núi Tabor.  Như trong bất kỳ chuyến leo núi gian nan nào, đang khi leo, chúng ta phải chăm chú nhìn vào con đường; nhưng bức tranh toàn cảnh mở ra ở cuối lộ trình gây bất ngờ và đền đáp cho chúng ta bởi sự kỳ diệu của nó.”  Trong lộ trình tiến tới Thượng Hội đồng Giám mục thế giới, Đức Thánh Cha mời gọi chúng ta leo núi để gặp Chúa Giêsu, nhờ đó mà chúng ta sống tinh thần hiệp hành, cùng nhau xây dựng Giáo Hội và cùng nhau loan báo Đức Giêsu cho thời đại chúng ta.

Khi chiêm ngưỡng Chúa Giêsu biến hình, chúng ta nhìn thấy tương lai của chính chúng ta. Quả vậy, những ai tin vào Chúa Giêsu và chuyên tâm thực hành lời Người dạy, sẽ được vinh quang sáng láng như Người.  Cuộc biến hình trên núi vừa khẳng định sứ vụ thiên sai của Đức Giêsu, vừa như một lời hứa hẹn với các tông đồ: nếu các ông trung thành với Chúa, các ông cũng sẽ được hưởng vinh quang và triều thiên Chúa ban.  Nhờ được chiêm ngưỡng Chúa biến hình, các ông kiên vững một niềm tin và trở thành chứng nhân can đảm của Thầy.

Lạy Chúa, xin cho chúng con biết nhận ra tiếng Chúa gọi, để nhiệt thành theo Chúa và thực thi những gì Người truyền dạy, nhờ đó chúng con tìm được hạnh phúc và bình an.  Amen!

TGM Vũ Văn Thiên

TĨNH LẶNG VÀ HOA TRÁI CỦA NÓ

“Như mưa tuyết từ trời rơi xuống, không trở lên trời nữa, nhưng chúng thấm xuống đất!”

Trong “Thoughts in Solitude”, bản Việt ngữ, “Hoa Trái Thinh Lặng”[1] do người viết dịch, Thomas Merton nhận xét, “Cuộc sống của con người là lắng nghe, cuộc sống của Chúa là dạy bảo!  Lắng nghe, đáp trả là việc của con người; nhờ đó, nó được cứu độ.  Vì thế, con người cần lặng thinh!”

Kính thưa Anh Chị em,

“Cuộc sống của con người là lắng nghe, cuộc sống của Chúa là dạy bảo!”  Với Thomas Merton, Lời Chúa hôm nay nói đến ‘Lời của Chúa và lời của người,’ vốn sản sinh từ một chuyển động kép: một từ trời xuống, Lời Thiên Chúa; một từ đất lên, lời con người!  Lời ân sủng của Ngài lặng lẽ thấm xuống đất, mạnh mẽ và hiệu năng; lời “Kinh Lạy Cha” của con người thì thầm dâng lên, hiệu năng và mạnh mẽ.  Đó là một chuyển động thuộc về sự ‘tĩnh lặng và hoa trái của nó!’

Qua bài đọc thứ nhất, chỉ vỏn vẹn hai câu, Isaia mô tả tuyệt vời Lời kỳ vĩ của trời, “Như mưa tuyết từ trời rơi xuống, không trở lên trời nữa; cũng thế, lời từ miệng Ta phán ra sẽ không trở lại với Ta mà không sinh kết quả.”  Lời Chúa, Lời nuôi dưỡng, Lời trấn an, Lời biến đổi và củng cố hy vọng! Thánh Vịnh đáp ca thật sâu sắc, “Chúa cứu người hiền đức khỏi mọi nỗi âu lo.”

Với “Kinh Lạy Cha”, Chúa Giêsu dạy các môn đệ cầu nguyện mà không ồn ào, lải nhải.  Đức Thánh Cha Phanxicô nói, “Kinh Lạy Cha là ‘ma trận’ của mọi lời cầu nguyện Kitô giáo, tất cả lời cầu của con người đều được biểu hiện trong Kinh Lạy Cha.”  Cầu nguyện là hoa trái của thinh lặng; vậy mà, xem ra không ít người bỏ qua điều này!  Họ thích nói, muốn được nghe, nhưng không có sở thích ‘lắng nghe’; hơn nữa, họ thường không thể lắng nghe, vì không quen tĩnh lặng!  Mẹ Têrêxa viết, “Cầu nguyện là ‘hoa trái của thinh lặng.’”  Đúng thế, Chúa Giêsu muốn chúng ta hiểu, cầu nguyện là để lắng nghe hơn là để nói.  Khi ở với một người hiểu biết, bạn hạn chế đặt câu hỏi và dành bản thân để lắng nghe; vì thế, Chúa Giêsu phải là mối quan tâm hàng đầu của chúng ta trong cầu nguyện.  Hãy hỏi Ngài về Chúa Cha; và chuyên tâm lắng nghe!

Chúa Giêsu cho biết, Thiên Chúa là Cha yêu thương, Ngài biết bạn và tôi cần gì trước khi chúng ta cầu xin; tuy nhiên, chúng ta cần hỏi Ngài, bởi khi hỏi, chúng ta ý thức rằng, có những nhu cầu mà chỉ một mình Thiên Chúa, Cha của chúng ta, mới có thể ban cho.  Hãy học cách hỏi Chúa Giêsu về điều gì chúng ta cần nhất cho sự cứu rỗi đời đời của mình!  Cầu nguyện với “Kinh Lạy Cha” nhắc chúng ta rằng, Thiên Chúa là Cha của mọi người; và mọi người thực sự là anh em của nhau. Để được vậy, bạn cần biết sự cần thiết của ‘tĩnh lặng và hoa trái của nó’.

Anh Chị em,

“Cuộc sống của con người là lắng nghe, cuộc sống của Chúa là dạy bảo!”. Thiên Chúa không ngừng nói qua Lời Ngài, qua những con người, qua các biến cố. Ngài ước mong mỗi sứ điệp của Ngài như mưa tuyết từ trời thấm vào ‘đất lòng chúng ta’ và trổ sinh hoa trái. Hoa trái đầu tiên Ngài chờ mong là bạn và tôi biết im bặt để lắng nghe; nghe tiếng thì thầm của Thánh Thần Ngài; nghe với đôi tai của trái tim, để sau đó, vượt lên chính mình, và làm theo lời dạy. Tiếng Ngài dạy chúng ta yêu thương, đón nhận anh chị em mình như con cái cùng một Cha! Đây là một hành trình không bao giờ ngưng nghỉ; làm theo tiếng nói ấy chính là biến đổi! Cầu nguyện không chỉ là lắng nghe, nhưng còn là biến đổi, biến đổi nên những con cái đích thực của Cha! Bấy giờ, chúng ta mới có thể hiểu được giá trị của sự ‘tĩnh lặng và hoa trái của nó’.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, nhiều lúc kinh nguyện của con rộn ràng nhưng hời hợt, ồn ào nhưng vô hồn; xin dạy con biết yêu quý sự ‘tĩnh lặng’ hầu con cũng có thể hái được ‘hoa trái’ của nó!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

[1] Quý Anh Chị có thể đọc toàn bộ tác phẩm “Hoa Trái Thinh Lặng” tại đây: https://bit.ly/3IWvpO8

MÙA CHAY LINH THIÊNG

Mùa Chay là thời gian linh thiêng đong đầy tình yêu để cầu nguyện, để ăn năn sám hối và để hy sinh hãm mình, nhờ đó mà canh tân bản thân mình ngày mỗi hoàn thiện hơn.  “Mùa Chay mời gọi các Kitô hữu thể hiện mầu nhiệm Vượt Qua cách sâu sắc và cụ thể hơn trong đời sống cá nhân, gia đình và xã hội của họ, trên hết qua việc ăn chay, cầu nguyện và bố thí.” (Sứ điệp Mùa Chay năm 2019, số 3).

1. Mùa Chay linh thiêng

Mùa Chay linh thiêng lại về với đời sống tín hữu Công giáo.  Mùa Chay là thời gian 40 ngày dọn lòng mừng lễ Phục Sinh, trải dài từ Lễ Tro cho đến Tuần Thánh, lặp lại thời gian 40 ngày chay tịnh của Chúa Giêsu năm xưa khi chuẩn bị bước vào đời công khai rao giảng Tin Mừng (Mt 4,2).  Con số 40 còn lặp lại nhiều biến cố khác trong lịch sử cứu độ như 40 ngày của Êlia trên núi Horeb dọn mình thực thi sứ vụ Chúa trao (1 V 19,8), như 40 ngày của Môsê trên núi Sinai chuẩn bị đón nhận thập điều Chúa dạy (Xh 34,28), và như 40 năm dân Chúa lưu lạc trong hoang địa dọn lòng đặt chân vào đất hứa.  Mùa Chay như vậy là thời điểm thuận lợi để sống mầu nhiệm Tử Nạn của Chúa Kitô thông qua việc chay tịnh để sẵn sàng mừng lễ Phục Sinh.  Nhưng Mùa Chay không chỉ là việc chay tịnh, cho dẫu khởi đầu và kết thúc Mùa Chay được diễn ra bằng việc buộc ăn chay và kiêng thịt thứ tư Lễ Tro và thứ sáu Tuần Thánh.  Mùa Chay còn là mùa xuân tâm hồn với những sinh hoạt đổi mới đời sống đức tin.

Cầu nguyện, canh tân, chia sẻ: đó là ba sinh hoạt mỗi người chúng ta cố gắng thực hiện trong Mùa Chay năm nay, cũng là ba chiều kích với Chúa, với mình, với tha nhân dệt nên nhịp sống Giáo Hội.

Mùa Chay là thời gian đặc biệt như lời Thánh Phaolô nói: “Đây là lúc thuận tiện, đây là ngày cứu độ” (2 Cr 6,2).  Đây là thời gian thuận tiện để mỗi người quyết tâm hoán cải, tăng cường việc lắng nghe Lời Chúa, cầu nguyện, thống hối, mở rộng tâm hồn đón nhận thánh ý Chúa, quảng đại giúp đỡ tha nhân.

2. Mùa Chay là mùa tình thương

Hành trình thiêng liêng của Mùa Chay bắt đầu từ tình thương: cầu nguyện, chay tịnh để sống đức ái chia sẻ.

Mùa Chay với hành trình bốn mươi ngày là “thì mạnh” của Năm Phụng Vụ, là “thời Thiên Chúa thi ân và là ngày Thiên Chúa cứu độ” (2Cr 6,2).  Bước vào Mùa Chay, Giáo Hội nhấn mạnh đến những cách thế hy sinh hãm mình để qui hướng về Thiên Chúa, tôn vinh Người, đồng thời cũng qui hướng về tha nhân, để lưu tâm giúp đỡ, sống tình bác ái huynh đệ.

Mùa Chay là thời điểm mà Chúa Giêsu Kitô tuôn đổ muôn vàn ân sủng cho Giáo Hội qua mầu nhiệm Thánh Giá.  Mùa Chay thúc đẩy mỗi tín hữu sống tinh thần hy sinh, sám hối và hòa giải cách chân thành và triệt để hơn, theo đúng tinh thần Tin Mừng.

Ngay đầu Mùa Chay, Phụng vụ đã nhắc nhở ta cần phải trầm tư để chiêm niệm về thân phận: “Hỡi người, hãy nhớ mình là bụi tro và sẽ trở về tro bụi.”  Ý nghĩa của Lời Chúa quá rõ ràng: mọi người sẽ phải chết.  Vậy ta lao tâm khổ trí, vất vả ngược xuôi, ganh đua tranh dành để tìm kiếm của cải, danh vọng, thú vui…, ta nỗ lực học hỏi, tìm tòi, phát minh, xây dựng… nhưng khi cái chết đến, ta mang theo được thứ gì, tất cả có nghĩa gì cho ta?  Cuối cùng thì cái gì là đáng quan tâm nhất trong đời?  Ðâu là bậc thang giá trị đời ta?

Xin đừng sống dửng dưng, thờ ơ, khép kín trước người nghèo.  Hãy luôn chạnh lòng xót thương như Chúa Giêsu đã thương những người cùng khốn.  Hãy sống quảng đại cho đi, vui vẻ chia sớt, không chỉ của cải vật chất mà có khi chỉ là một nụ cười thân thiện, một cái bắt tay khích lệ, một lời nói an ủi đỡ nâng, một lần viếng thăm, một cuộc gặp gỡ kiến tạo sự hiệp nhất bình an.  Khi chia nụ cười, ta sẽ nhận về vô số niềm vui.  Khi chia vòng tay, ta sẽ nhận về mênh mông ấm áp.  Khi chia quan tâm, ta sẽ nhận về bao la yêu thương.  Khi chia yêu thương, ta sẽ nhận về rất nhiều hạnh phúc.

3. Mùa Chay và các việc đạo đức

Ba việc đạo đức được nhắc nhở rất nhiều trong Mùa Chay là: bác ái, ăn chay và cầu nguyện.  Đây là ba vũ khí tuyệt hảo để chống lại sự tấn công của ma quỷ và đền bù tội lỗi mình.  Những việc lành phúc đức này, khi được thi hành thì hãy làm với tất cả tấm lòng của mình; không làm để khoe khoang.  Chỉ cần Thiên Chúa thấu hiểu và biết cho chúng ta là đã đủ rồi.  Đừng làm để được người đời khen và vì thế mà chúng ta mất đi lời khen tặng của Thiên Chúa. (x.Mt 6,1-6).

Ăn chay và kiêng thịt, chịu tro chỉ là hình thức bên ngoài mà thôi.  Canh tân nội tâm vẫn là trọng tâm của Mùa Chay.  Kiêng bớt các tội là điều mà Thiên Chúa mong muốn.  Sửa đổi tính nết để trở thành người tốt hơn, đạo đức hơn, thánh thiện hơn.  Bớt nói hành, giảm nói xấu, siêng năng việc đạo đức.

Trong sứ điệp Mùa Chay 2019, Đức Thánh cha Phanxicô đề nghị những việc làm cụ thể để những thực hành Mùa Chay truyền thống này mang một ý nghĩa mới: “Ăn chay có nghĩa là học để thay đổi thái độ của chúng ta đối với người khác cũng như đối với mọi loài thụ tạo: từ cơn cám dỗ muốn “ngấu nghiến” mọi thứ để thỏa mãn sự thèm muốn của mình, đến chỗ có khả năng hy sinh vì tình yêu, và khả năng lấp đầy sự trống rỗng của con tim chúng ta.  Cầu nguyện để học biết cách khước từ sự sùng bái thần tượng cũng như tự mãn về cái tôi của mình, đồng thời thú nhận rằng, chúng ta cần tới Thiên Chúa và Lòng thương xót của Ngài.  Chia sẻ bác ái để tự giải thoát khỏi tính ngông cuồng, khiến chúng ta chỉ sống cho mình, với ảo tưởng rằng mình sẽ có được một tương lai bảo đảm, trong khi tương lai đó không thuộc về chúng ta” (số 3).

Theo lời dạy của Đức Thánh Cha, chúng ta sống Mùa Chay năm nay trong niềm vui bằng việc ăn chay và cầu nguyện được liên kết với việc làm phúc bố thí.  Qua đó chúng ta đem niềm vui có Chúa đồng hành đến với người nghèo, làm cho họ nhận ra sự hiện diện của một vị Thiên Chúa tình yêu luôn quan tâm săn sóc họ và còn tự đồng hóa với họ qua Con yêu dấu của Ngài là Đức Giêsu Kitô.

Tình yêu là một đề tài vừa phong phú, vừa hấp dẫn của văn chương, nghệ thuật, phim ảnh… và luôn mang tính thời sự.  Thử hỏi thế nào là yêu thương thì quả thật không dễ trả lời cách rõ ràng và có tính thuyết phục.  Ngay cả những việc to lớn như “đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí hay nộp cả thân xác để chịu thiêu đốt” thì cũng chưa hẳn là đã yêu thương (x.1Cor 13,3).

Tình yêu là huyền nhiệm vì “Thiên Chúa là Tình Yêu” (1Ga 4,8).  “Tình yêu cốt ở điều này: Không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (1Ga 4,10).  Như thế, có thể nói yêu thương là thực hiện điều tốt đẹp nhất cho người mình yêu.

Yêu thương thể hiện bằng hành vi cụ thể, thực tế.  Đã yêu là yêu đến cùng.  Hoa trái của tình yêu là kết quả của nhiều nỗ lực hy sinh, quên mình.  Yêu thương cách đích thực thì sẵn sàng hiến dâng cả mạng sống (x.Ga 15,13).

Ngôi Lời nhập thể là cách Thiên Chúa diễn tả tình yêu của Người đối với nhân loại.  Tình yêu Thiên Chúa đã bước xuống, chấp nhận nhập thể để làm người.  “Người đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân phận nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế” (Pl 2,7).  Tình yêu được diễn tả như vậy nói lên sự từ bỏ mình vì yêu thương.  Sự từ bỏ mình như thế là chọn lựa rất tự do của Thiên Chúa toàn năng, vô cùng khôn ngoan, vô cùng sáng suốt, vô cùng thông hiểu.  Chính vì thế, mà chọn lựa ấy là vô cùng cao quý.

Mùa Chay giúp ta sống hy sinh từ bỏ, thực hành yêu thương.

Tình yêu đích thực là tình yêu dâng hiến, tình yêu hy sinh quên mình, tình yêu sẵn sàng chết cho kẻ mình yêu.  Tình yêu chân chính đòi hỏi phải chết đi mỗi ngày cho tính ích kỷ và sự hẹp hòi nơi bản thân.  Hôm qua cầm trái cây, thấy đẹp cắt ra, bị sâu bên trong.  Hư cả trái phải vất bỏ.  Ích kỷ, chỉ nghĩ tới mình, chỉ lo cho mình: đó là con sâu nằm trong quả ngọt tình yêu, đục khoét tình yêu.  Đức Thánh Cha Phanxicô viết: “Trong Tông Huấn Niềm Vui Tin Mừng, tôi đã tìm cách mô tả những dấu hiệu rõ nhất về những dấu hiện thiếu vắng tình yêu này: ích kỷ và tinh thần lười biếng, bi quan vô ích, cám dỗ chỉ quan tâm đến mình, chiến tranh liên lỉ giữa chúng ta và tinh thần thế gian khiến chúng ta chỉ quan tâm đến vẻ bề ngoài, và do đó giảm đi lòng nhiệt thành truyền giáo của chúng ta” (Tông Huấn Niềm Vui Tin Mừng, 76-109).

“Chúng ta đừng để mùa hồng ân này trôi qua vô ích!  Chúng ta hãy xin Chúa giúp chúng ta cất bước trên con đường hoán cải thực sự.  Chúng ta hãy bỏ lại sau lưng tính ích kỷ và sự tự hấp thụ vào chính mình, nhưng hướng đến sự Phục sinh của Chúa Giêsu.  Chúng ta hãy đứng bên cạnh những anh chị em đang túng thiếu của chúng ta, chia sẻ những của cải tinh thần và vật chất của chúng ta với họ” (Sứ điệp Mùa Chay 2019).

Thánh Phaolô nói đến những đặc tính của tình yêu là: nhẫn nhục, hiền hậu, khiêm nhường, không ghen tương, không nóng giận, không tìm tư lợi, luôn tin tưởng nhau, chịu đựng nhau và tha thứ cho nhau (x.l Cr 12,31-13,8).

Mùa Chay thêm đức tin cho những ai sống yêu thương.  Đặc biệt các đôi bạn trẻ bước vào đời sống hôn nhân.  Tình yêu phải có niềm tin.  Tin nhau để trao tay cho nhau, thề hứa chung thủy trọn đời trước mặt Thiên Chúa.  Gởi ai một đồ quý giá là đã tin tưởng người ấy.  Tin yêu là đôi mắt cho đôi bạn nhìn thấu lòng nhau.  Tin yêu là đôi chân giúp đôi bạn vượt qua mọi khó khăn.  Tin và yêu là đôi cánh giúp đôi bạn nắm tay nhau bay vào bầu trời hạnh phúc.  Yêu thì phải tin.  Tin sẽ càng yêu.  Không tin sẽ khó mà yêu.  Không yêu thì không thể tin được.

Tin Chúa đôi bạn sẽ biết tin nhau vì Chúa là Sự Thật, là sự Trung Tín.  Tin Chúa đôi bạn sẽ tránh xa những giả tạo và ích kỷ.  Yêu Chúa đôi bạn sẽ biết yêu nhau, vì Chúa là Tình Yêu, một tình yêu lớn lao đến nỗi đã hy sinh mạng sống cho người mình yêu.  Yêu Chúa đôi bạn sẽ biết hy sinh quên mình quảng đại trong một tình yêu chân thực.

Mùa Chay thiêng liêng là mùa xuân tâm hồn cho những ai sống vững vàng trong đức tin và dạt dào lòng yêu mến.

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

CÁM DỖ

Sống trong cuộc đời, dù ở bậc sống nào đi nữa, chúng ta không thể thoát khỏi thử thách cám dỗ.  Các vị thánh là những người đã can đảm đối diện và chiến thắng cám dỗ.  Nếu đọc tiểu sử của các vị thánh như Thánh Antôn ẩn tu, Thánh Phanxicô Assidi, Thánh Catharina de Siena, Thánh Têrêsa Avila… chúng ta sẽ thấy các ngài là những người đã trải qua những cơn cám dỗ khốc liệt.  Như vậy, ta có thể định nghĩa: các thánh là những người đã chiến thắng cám dỗ để trung thành với Chúa cho đến cùng.

Lời Chúa từ sách Sáng thế cho ta thấy cám dỗ là vấn đề “xưa như trái đất.”  Cám dỗ đã hiện hữu ở đầu lịch sử, khi con người còn trong trắng và thân tình với Chúa.  Bà Evà, với sự ngây thơ “nữ nhi thường tình” đã mắc mưu con rắn tinh quái và làm trái với lời dặn của Chúa.  Cùng với việc ăn trái cấm, bà nghi ngờ lòng tốt của Chúa và phủ nhận những gì Ngài đã làm cho bà.  Bà muốn lên ngang hàng với Chúa là Đấng đã tạo dựng nên bà từ bùn đất.  Sau khi ăn trái cấm, mắt ông bà đã mở ra.  Ông bà thấy nhãn tiền sự dối trá của con rắn.  Ông bà cũng thấy rõ hậu quả của sự bất tuân: đó là sự trần truồng.  Trước đó ông bà vẫn trần truồng, nhưng không xấu hổ.  Nay, thay vì “nên như những vị thần biết điều thiện điều ác” như lời dụ dỗ của con rắn, thì ông bà lại thấy sự yếu hèn đáng thương của mình.  Câu chuyện này làm chúng ta liên tưởng đến một số mánh lới tiếp thị quảng cáo để lừa đảo trong xã hội hôm nay.  Dù đã được cảnh báo, vẫn có nhiều người như con thiêu thân lao vào với hy vọng kiếm lời nhanh chóng và họ đã phải trả giá.

Những cám dỗ đến với ta chưa hẳn phải là tội.  Chúng giống như những lời quảng cáo chào mời, nếu chúng ta khôn ngoan khước từ, thì không bị mắc bẫy.  Chúng ta chỉ phạm tội khi chấp nhận hành động theo cám dỗ.  Thánh Phanxicô đệ Salê đã giải thích về cám dỗ như sau: “Hỡi Thiên Kính, hãy tưởng tượng một vị nữ hoàng được lang quân hết tình yêu mến, bỗng có kẻ hư thân kia muốn quyến rũ và làm cho vị nữ hoàng ra nhơ uế, thì nó sai một sứ giả của tình yêu xấu xa đến thương lượng với nữ hoàng về ý định khốn nạn của nó.  Trước hết, kẻ sứ giả kia nêu lên ý định của chủ, rồi đến vị nữ hoàng lấy làm vui lòng hay khó chịu với lời đề đạt kia, hoặc vị nữ hoàng ưng theo hay từ chối.  Ma quỷ, thế gian, xác thịt thấy một linh hồn được kết hôn cùng Con Thiên Chúa, cùng dùng những cám dỗ và khêu gợi linh hồn ấy” (Dẫn vào đời sống trọn lành, Phần IV, Chương III).  Vị nữ hoàng trong giải thích của tác giả có tự do để tuân theo hay khước từ những đề nghị khiếm nhã của “tên cám dỗ.”  Bà chỉ phạm tội khi đồng lòng chấp nhận làm theo lời cám dỗ.  Đối diện với cám dỗ cũng là dịp để nữ hoàng chứng minh lòng chung thủy với hôn phu của mình.  Cũng thế, mỗi chúng ta hằng ngày bị biết bao cám dỗ lôi kéo để đi ngược với giáo huấn của Chúa.  Cám dỗ vừa là một “phép thử” lòng trung thành, vừa là cơ hội để chúng ta chứng tỏ mình “ghét tội,” không khuất phục trước lời dụ dỗ ngon ngọt của ba thù, tức là ma quỷ, thế gian và xác thịt.

Chúa Giêsu đã chiến thắng cám dỗ.  Các tác giả Tin Mừng nhất lãm đều thuật lại việc Chúa chịu cám dỗ trong hoang địa trước khi khởi đầu sứ vụ công khai.  Phải chăng đó là một lời khẳng định cho chúng ta thấy, để thi hành sứ vụ làm chứng cho Chúa, chúng ta phải được tinh luyện, thử thách như vàng thử lửa, nhờ đó chúng ta có đủ sức kiên trì và vững vàng trước những cám dỗ đang vây quanh chúng ta.  Nếu ông Ađam và bà Evà đã ngây thơ ngã quỵ trước lời dụ dỗ ngon ngọt của con rắn, thì Chúa Giêsu lại can đảm chiến thắng trước cơn cám dỗ của ma quỷ.  Đây cũng là lời khẳng định của thánh Phaolô, trong thư gửi tín hữu Rôma (Bài đọc II).  Ađam là nguyên nhân sa ngã và kéo theo tội lỗi cho nhân gian; Chúa Giêsu là nguyên nhân ơn cứu độ đem hạnh phúc cho con người.  Ađam đã sa ngã trước cám dỗ của con rắn; Chúa Giêsu đã chiến thắng cám dỗ của ma quỷ.

Như trên đã nói, cám dỗ luôn tồn tại.  Ai ai cũng cảm nhận được điều ấy.  Những cám dỗ của ma quỷ trong sa mạc vẫn đang hoành hành nơi cuộc sống của chúng ta.  Đó là tiền bạc, quyền lực và sự lỗi phạm đức tin.  Để trung thành với Chúa và để sống một cuộc sống thanh liêm ngay thẳng, chúng ta phải biết can đảm nói “không” với những chào mời bóng bẩy mà chứa nọc độc chết người.  Cùng với những cám dỗ của ma quỷ, còn có những cơn cám dỗ đến từ chính con người chúng ta.  Đó là những tham vọng, sự ghen ghét thù hằn, sự ích kỷ đố kỵ và biết bao nết xấu khác.  Mùa Chay là thời điểm hồi tâm để chiến thắng chính bản thân, hướng mọi hành động, tư tưởng và việc làm tới những điều thiện hảo như Chúa muốn.

Xin Chúa giúp chúng ta sức mạnh để chiến thắng cám dỗ đang bao bọc vây quanh chúng ta, để sống giữa trần gian, mà lương tâm chúng ta vẫn thanh thoát, tâm hồn chúng ta vẫn gắn bó với Chúa trọn đời.  Amen.

TGM Giuse Vũ Văn Thiên