RẤT ĐỖI VUI MỪNG

Vào thời Đức Giêsu, phụ nữ không được coi trọng.  Với truyền thống văn hóa của người Do-thái thời đó, Đức Giêsu không thể gọi một nhóm phụ nữ đi theo mình khắp nơi để làm môn đệ.  Tuy nhiên, vẫn có một nhóm phụ nữ vùng Galilê mộ mến và chịu ơn Thầy Giêsu, nên đã đi theo Thầy.

Họ đã có mặt bên Thầy trong những ngày cuối.  Họ đã theo Thầy trên suốt chặng Đàng Thánh Giá, trong khi các môn đệ nam bỏ trốn vì sợ liên lụy, các bà đã đứng xa nhìn Thầy chịu đóng đinh.  Họ đã chăm chú xem ông Giô-xếp tẩn liệm Thầy trong ngôi mộ mới, đục sâu vào núi đá, và họ đã ngồi ngắm nhìn ngôi mộ (Mt 27,55-61).

Biến cố Thầy chịu đóng đinh là một biến cố kinh hoàng, vượt sức chịu đựng của các phụ nữ.  Họ đã trải qua một đêm thứ sáu và thứ bảy thật dài, mong ngóng mau hết ngày sa-bát để ra thăm mộ.  Ngôi mộ là nơi tập trung tất cả tình thương của họ.  Người ta đã giết Thầy rồi, xác Thầy là điều duy nhất họ còn giữ được.

Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, hai bà Maria là những phụ nữ đầu tiên ra viếng mộ.  Đơn giản họ muốn được gần xác Thầy, để khóc than, để nhớ thương, tiếc nuối…  Họ vẫn chưa hết bàng hoàng về chuyện đã xảy ra.  Cái chết của Thầy làm đức tin họ bị xao động.

Tại sao Thiên Chúa lại để cho xảy ra chuyện đó?  Khi đến mộ, các bà chẳng ngờ những gì sẽ xảy ra ở đây.  Đây không còn là ngôi mộ, với phiến đá to chắn ở cửa, vì bỗng nhiên mặt đất rung chuyển dữ dội, và phiến đá bị một vị thiên sứ lăn qua một bên.  Cửa mộ mở tung, cho thấy rõ những gì trong mộ.

Vị thiên sứ mang dáng vẻ của người thuộc thiên giới.  Cả khuôn mặt lẫn y phục đều bừng sáng trắng tinh.  Vị này khuyên các bà đừng sợ.  Thiên sứ tỏ ra hiểu biết lý do khiến các bà đến mộ: “Tôi biết các bà tìm Đức Giêsu, Đấng chịu đóng đinh.”  Thiên sứ giải thích tại sao ngôi mộ lại không còn xác Thầy: “Người không có ở đây, vì Người đã được phục sinh.”  Thiên sứ còn mời các bà lại gần chỗ đã đặt xác: “Các bà đến mà xem chỗ Người đã nằm.”  Nhưng quan trọng nhất là câu nói sau của vị thiên sứ: “Rồi các bà hãy đi cho nhanh, và nói với các môn đệ: Người đã được phục sinh từ cõi chết.”

Đây là Tin Mừng cho các bà còn đứng đó phân vân.  Thầy Giêsu đã sống lại thật rồi, đã ra khỏi mộ rồi.  Các bà có bổn phận báo cho các môn đệ biết tin đó.  Họ trở thành những sứ giả đầu tiên đi loan báo Tin Mừng.  Họ cũng phải nhắc lại cái hẹn của Thầy Giêsu với môn đệ: “Người đến Galilê trước các ông, ở đó các ông sẽ gặp Người.”

Các phụ nữ thành cầu nối để Thầy phục sinh gặp lại trò cũ.  Vừa sợ, vừa vui, nhưng vui thì lớn hơn sợ nhiều lần, các bà nhanh chóng rời khỏi ngôi mộ mà họ quyến luyến.  Họ có một sứ mạng lớn lao và khẩn trương, khiến họ phải chạy nhanh cho kịp.  Chẳng ai ngờ trên đường đến với các môn đệ thì họ lại gặp chính Thầy Giêsu phục sinh, hay đúng hơn, chính Thầy đón gặp họ trên đường.

Thầy là người mở lời chào: “Chị em hãy vui lên!”  Có vẻ các bà nhận ra Thầy ngay, vị Thầy mà họ thấy chết trên thập giá đã ba ngày rồi, đã được chôn, và họ đã không thấy xác nằm ở mộ nữa.  Bây giờ vị Thầy ấy đang đứng trước mặt họ.  Lòng họ đầy nỗi sợ hãi cùng với niềm vui khôn tả.  Nhưng họ không thể cưỡng được chuyện lại gần Thầy, bái lạy Thầy và ôm lấy chân.

Thầy đã phục sinh thật rồi, đúng như lời thiên sứ nói.  Đây không phải là một thị kiến, hay một giấc mơ.  Thầy không phải là một bóng ma hay ảo ảnh.  Chẳng những họ được thấy mà còn được chạm vào Thầy.  Thầy lại nhắc họ đi báo Tin Mừng Thầy được phục sinh cho các môn đệ, mà Ngài gọi là “anh em của Thầy.”

Đức Giêsu không nhắc đến những vấp ngã của các ông.  Ngài muốn làm hòa với họ và nối lại mối dây thân thiết.  Bài Tin Mừng trong lễ Vọng Phục sinh thật là vui.  Hai phụ nữ đã trải qua bao kinh nghiệm thiêng liêng, bao cung bậc của tình cảm, từ sợ hãi đến vui mừng, và cuối cùng là niềm hạnh phúc ngây ngất vì gặp Chúa.

Họ đi tìm xác Thầy, nhưng lại gặp Thầy đang sống.  Nước mắt đớn đau từ hai ngày qua được Thầy lau khô.  Hôm nay, Chúa phục sinh cũng đón chúng ta trên đường, khi chúng ta đang tìm kiếm, khổ đau, mất mát, thất vọng.  Chỉ cần nghe tiếng chào của Ngài là con tim sẽ vui trở lại.  Chỉ cần lại gần Ngài, chúng ta sẽ nói được: Ha-lê-lui-ya.

**************************************

Lạy Chúa Giêsu phục sinh, Chúa đã sống đến cùng cuộc Vượt qua của Chúa, xin cho con biết sống cuộc Vượt qua mỗi ngày của con.  Vượt qua sự nhỏ mọn và ích kỷ.  Vượt qua những đam mê đang kéo ghì con xuống.  Vượt qua nỗi sợ khổ đau và nhục nhã.  Vượt qua đêm tăm tối cô đơn của Vườn Dầu.  Vượt qua những khắc khoải của niềm tin.  Vượt qua những thành kiến con có về người khác…  Chính vì Chúa đã phục sinh nên con vui sướng và can đảm vượt qua, dù phải chịu mất mát và thua thiệtƯớc gì con biết noi gương Chúa phục sinh gieo rắc khắp nơi bình an và hy vọng, tin tưởng và niềm vui.  Ước gì ai gặp con cũng gặp thấy sự sống mãnh liệt của Chúa.

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Năm 2023

TRẦM TƯ DƯỚI CHÂN THÁNH GIÁ

Lạy Chúa Giê-su Ki-tô Cứu Thế, con quỳ trước Thánh giá hồng phúc của Chúa đây.  Xin cho trí lòng con chăm chú nghĩ tới cuộc Khổ nạn.  Xin Thánh giá Chúa dựng thẳng trước tâm hồn nghèo nàn của con, để giúp con hiểu hơn và ghi nhớ Chúa đã hoàn tất những gì, gánh chịu những gì và gánh chịu vì ai.

Xin ơn Chúa đến giúp con, xin cho lòng con bớt dửng dưng và đần độn; xin cho con quên đi, dù chỉ trong nửa giờ, sự tầm thường của những ngày sống, để đặt bên Chúa mối chân tình, lòng thống hối, niềm cảm tạ của con . Ôi Vua của mọi tâm hồn, xin ôm lấy quả tim yếu đuối, nghèo nàn, sầu khổ và nhọc mệt của con trong tình yêu bị đóng đinh của Chúa.  Xin làm cho nó cảm thấy hướng về Chúa tự bên trong.  Xin khơi dậy trong con những gì còn thiếu là lòng trung tín và niềm thương cảm, để suy ngắm cuộc Khổ nạn và cái Chết đáng tôn thờ của Chúa.

Con sẽ suy ngắm bảy lời của Chúa trên Thánh giá, bảy lời sau hết Chúa đã thốt lên trước khi cái chết bắt buộc Chúa –Ngôi Lời vĩnh cửu của Chúa Cha – phải im lặng mãi mãi trên chốn dương gian này.  Chúa đã thốt lên những lời phát xuất tự đáy con tim đó trong lúc tâm hồn lai láng đau khổ và đôi môi khát nước cằn khô.  Chúa nói với hết mọi người, nói cho chính con nữa.  Xin cho quả tim con đi sâu, đi thật sâu vào đó, để con thấu hiểu trọn vẹn . Đừng để những lời ấy xóa mờ trong quên lãng, nhưng sống mãi và hữu hiệu trong tâm hồn không sinh khí của con.  Chúa hãy đích thân thốt lên những lời ấy cho con đi, để con nghe được âm thanh của Chúa.

Một ngày kia, vào lúc con chết và sau lúc con chết, Chúa lại sẽ nói với con, và những lời ấy sẽ là tiếng đầu mở màn hạnh phúc vĩnh cửu hay tiếng cuối khởi sự nỗi khổ không cùng.  Lạy Chúa, ước mong giờ con chết, con được nghe miệng Chúa thốt ra những lời nhân thứ yêu thương; đừng để con lỡ dịp.  Vậy giờ đây, xin cho lòng con ngoan ngoãn đón nghe những lời sau hết của Chúa trên Thánh giá.

LỜI THỨ NHẤT: “CHA ƠI, XIN THA CHO HỌ, VÌ HỌ KHÔNG BIẾT VIỆC HỌ LÀM” (LC 23,34).

Chúa bị treo trên Thánh giá, nơi họ đã đóng đinh Chúa vào; Chúa chẳng còn cách nào thoát khỏi trụ đài dựng đứng giữa trời và đất như thế nữa.  Vết thương thiêu đốt toàn thân, mão gai xâu xé da đầu, đôi mắt đầm đìa máu thắm, tay và chân bị xuyên thâu như bởi một thanh sắt nung đỏ, tâm hồn Chúa là cả một đại dương sầu khổ và thất vọng.

Những kẻ trách nhiệm còn đó, dưới chân Thánh giá; họ chưa chịu đi khuất để ít nhất bỏ Chúa chết một mình.  Không, họ cứ đứng đó, cười đùa, tin chắc mình có lẽ phải.  Cảnh tượng trước mắt không là một bằng chứng sờ sờ đó sao, không chứng minh rằng thái độ của họ đối với Chúa hoàn toàn phù hợp với công lý, khiến họ có quyền hãnh diện như là đã tôn vinh Thiên Chúa đó sao?  Họ cười nói, đùa giỡn, xúc phạm; và ác tâm đó gây cho Chúa một nỗi thất vọng còn ghê gớm hơn mọi đau đớn trong thân mình.  Làm sao có người lại đê tiện đến thế?  Giữa Chúa và họ còn một chút liên hệ nào nữa không?  Có ai lại đi làm khổ một người cho đến chết như vậy không?  Làm khổ cho đến chết bằng sự dối trá, giả hình, điêu ngoa, bội phản, đê tiện, rồi còn mặc lấy cái vẻ của lẽ phải, tạo ra cái dáng của ngây thơ, khoác lên bộ diện của ông quan tòa liêm chính!  Thiên Chúa lại để cho xảy ra cái đó trong vũ trụ của Người được sao?  Tràng cười khinh mạn của các kẻ thù lại có thể vang lên cách mồn một và đắc thắng trong thế giới tạo vật của Thiên Chúa được sao?  A! Lạy Chúa, nếu là chúng con thì sẽ giận dữ thất vọng đến mức nào!  Nếu là chúng con thì sẽ nguyền rủa kẻ thù, nguyền rủa cả Thiên Chúa.  Nếu là chúng con thì sẽ hét to lên, sẽ phát điên lên mà bứt tung bàn tay khỏi đinh thập giá để tống cho một quả vào mặt!

Thế nhưng Chúa lại nói: “Cha ơi, xin tha cho họ, họ không biết mà!”  Thực hết hiểu nổi Chúa!  Trong tâm hồn xâu xé, đớn đau tột độ của Chúa, còn có chỗ cho một lời như vậy ư?  Thực hết hiểu nổi Chúa! Chúa yêu mến kẻ thù Chúa, gởi gắm họ cho Chúa Cha, cầu xin cho họ.  A!  Lạy Chúa, con xin lỗi nói phạm đến Chúa: Chúa còn bày đặt cho họ một lời chữa tội vô lý nhất, khó tin nhất: họ không biết việc họ làm!  Họ biết hết đó chứ!  Họ chỉ giả vờ không biết thôi; mà giả vờ không biết tức là càng biết rõ.  Đây là uẩn khúc sâu kín nhất của tâm hồn!  Nhưng người ta ghét uẩn khúc đó, chẳng muốn cho nó ra ngoài ánh sáng ý thức.  Thế mà Chúa lại bảo họ không biết việc họ làm!  Họ chỉ không biết một điều thôi, đó là tình yêu của Chúa đối với họ, một tình yêu chẳng ai có thể biết nếu không đích thân yêu mến Chúa, vì chỉ tình yêu mới giúp hiểu Ân huệ Tình yêu.

Chớ gì tình yêu không hiểu nổi của Chúa cũng thốt ra trên tội con lời tha thứ đó.  Xin Chúa hãy nói với Chúa Cha cho con nữa: “Cha ơi, xin tha cho nó, nó không biết việc nó làm!”  Ồ, con biết chứ, con biết hết, con chỉ không biết tình yêu của Chúa thôi!

Xin cho con nhớ lại lời thứ nhất này của Chúa trên Thánh giá mỗi khi đọc kinh Lạy Cha, con nói cách máy móc thuộc lòng lời thứ tha cho những ai xúc phạm.  Ôi lạy Chúa, không biết đã có lần nào con thực sự bị xúc phạm mà có thể tha thứ từ trên thập giá của tình yêu hay không?  Nhưng dù sao, con cần sức mạnh của Chúa để tha thứ, tha thứ tận đáy lòng, cho những ai mà tính kiêu căng và ích kỷ của con coi như những thù địch.

LỜI THỨ HAI: “TÔI BẢO THẬT ANH, HÔM NAY ANH SẼ ĐƯỢC Ở VỚI TÔI TRÊN THIÊN ĐÀNG” (LC 23,43).

Chúa đang hấp hối, thế mà trong tâm hồn lai láng đau khổ của Chúa vẫn còn có chỗ cho nỗi khổ của tha nhân.  Chúa sắp chết, thế mà Chúa vẫn băn khoăn về một tên tử tội vừa xưng thú là cuộc đời khốn nạn của hắn chỉ xứng với khổ hình ghê rợn hắn đang phải lãnh.  Chúa trông thấy Mẹ yêu dấu, thế mà Chúa lại ngỏ lời trước với đứa con hư hỏng.  Sự câm nín như bỏ rơi của Thiên Chúa làm nghẹn họng, thế mà Chúa lại nói đến Thiên đàng.  Bóng tử thần lởn vởn trước mắt, thế mà Chúa vẫn nhận ra được ánh sáng vĩnh cửu.  Khi hấp hối, chẳng phải con người chỉ còn biết nghĩ đến mình cô đơn và bị ruồng bỏ đó sao?  Thế mà Chúa lại quan tâm đến những linh hồn sắp cùng Chúa bước qua ngưỡng cửa Vương quốc.  Ôi tấm lòng từ ái!  Ôi tấm lòng hào hiệp quảng đại!  Một tên tử tội khốn khiếp tìm cách ép Chúa một tí mà Chúa lại hứa cho hắn trọn cả Thiên đàng.  Phải chăng mọi sự đều đổi mới nhờ cái chết của Chúa?  Phải chăng một đời bê tha tội lỗi được biến đổi ngay khi Chúa đến kề bên?  Chúa thốt ra trên một đời người những lời khuynh đảo, và đó là lời tha lỗi, tha cả cuộc sống xấu xa đê tiện.  Trước một biến đổi như thế, chả còn gì ngăn cản nó đi vào chốn thánh của Cha.

Tuy nhiên, Chúa nghĩ xem, cùng lắm là ta sẽ lưu tâm đến dấu thiện chí của tên vô lại ấy để giúp hắn tí cơ may thoát hiểm.  Nhưng còn những thói hư, tật xấu, hung ác, dơ bẩn, đê tiện… chẳng lẽ chỉ cần một xúc cảm tốt và một tia sáng hối hận lờ mờ trên thập giá là đủ hủy diệt hết ư?  Chẳng lẽ hạng người như thế lại được nước Thiên đàng mau lẹ như những tâm hồn sám hối, lâu năm thanh tẩy, như những thánh nhân dành cả cuộc đời thánh hóa xác hồn để xứng đáng với Thiên Chúa ba lần thánh ư?  Thật không thể chấp nhận nổi ! Thế nhưng Chúa, Chúa lại đưa ra phán quyết vô điều kiện, và hồng ân ấy đi sâu vào tâm can tên trộm, biến ngọn lửa hỏa ngục của cơn hấp hối thành ngọn lửa ngời sáng tình yêu thiên linh.  Tất cả những gì là công trình của Chúa Cha còn sót lại nơi hắn thì tình yêu ấy đã rọi sáng tức khắc; tất cả những gì xấu xa ghê tởm, chống lại Thiên Chúa trong cuộc đời hắn thì tình yêu ấy đã mau chóng tiêu diệt; và tên trộm cùng Chúa tay trong tay bước vào nhà Cha.

Xin Chúa cũng ban cho con ơn không bao giờ ngã lòng, nhưng dám chờ đợi tất cả, và nói mạnh hơn, dám đòi hỏi tất cả nơi lòng tốt của Chúa.  Ơn được can đảm thưa với Chúa: “Lạy Chúa, xin nhớ đến con khi Chúa vào trong Nước của Ngài,” dầu con là đứa tội lỗi tệ mạt.

Ôi lạy Chúa, chớ gì Thánh giá của Chúa cũng dựng thẳng bên chân giường chết của con.  Chớ gì miệng Chúa cũng hứa với con: “Quả thật, Ta bảo con, hôm nay con sẽ ở với Ta trên Thiên đàng!”  Chớ gì lời ấy khiến con nên xứng đáng đi với Chúa và trong Chúa vào Nước của Cha, với xác hồn hoàn toàn được cái chết của Chúa thánh hóa và xá giải.

LỜI THỨ BA: “THƯA BÀ, ĐÂY LÀ CON BÀ – HỠI CON, NÀY LÀ MẸ CON” (GA 19,26).

Nay đã đến giờ Mẹ Chúa lại phải đứng kề bên Chúa lần nữa… để chứng kiến Chúa hấp hối.  Người mà Chúa đã phán với tại Ca-na: “Thưa bà, giữa tôi với bà nào có việc gì.  Giờ tôi chưa đến” (Ga 2,4), người ấy nay không còn nài xin phép lạ nữa, nhưng vẫn phải có mặt.  Đây là giờ liên kết Con với Mẹ nhưng cũng là giờ chia ly, giờ của cái chết, giờ rứt khỏi tay từ mẫu, khỏi tay sương phụ đứa con trai độc nhất của mình.

Chúa đăm đăm nhìn Mẹ lần cuối.  Chúa đã không trừ cho bà mẹ đó một điều gì cả.  Chúa đã chẳng muốn là nguồn vui cho cuộc sống Người, trái lại chỉ là cớ đắng cay và sầu khổ.  Tuy nhiên, đấy bao giờ cũng là ân sủng, vì đấy bao giờ cũng là tình yêu của Chúa.  Và sở dĩ Chúa yêu Mẹ, ấy là bởi Mẹ đã nâng đỡ, phục vụ Chúa trong nỗi vui mừng cũng như trong sự đắng cay; vì chính như thế mà Người đã trở nên Mẹ Chúa trọn vẹn.  Ai là mẹ, là anh em, là chị em của Chúa, nếu chẳng phải là kẻ thực hiện thánh ý Cha trên trời?  Mặc dù đớn đau như cắt, tình yêu của Chúa cũng rung lên nét âu yếm mà trên thế gian này, vẫn thường nối kết đứa con với bà mẹ.  Cái chết của Chúa còn thánh hiến, thánh hóa những giá trị cao quý và dịu dàng đó nữa, những giá trị khiến rung cảm tâm hồn và làm đẹp trần gian.  Không, cái đó không thể chết trong con tim Chúa, dù con tim ấy bị tử thần nghiến nát ra trăm mảnh; Chúa muốn cứu nó để đưa lên trời.  Và bởi lúc ấy Chúa cũng đã yêu mến trái đất, nên rồi đây sẽ có một đất trời mới; vì khi chết để ban cho chúng con ơn rỗi vĩnh cửu, Chúa đã cảm xúc trước những giọt nước mắt của một bà mẹ, đã băn khoăn về phận số của một sương phụ còn ở lại dương gian, đến nỗi đã ban cho bà mẹ ấy một đứa con và ban cho đứa con ấy một bà mẹ.

Nhưng dưới chân Thánh giá, Mẹ không chỉ cảm thấy nỗi đớn đau của một bà mẹ có con bị người ta làm khổ.  Mẹ đứng đó nhân danh chúng con, như bà mẹ của mọi kẻ sống, hiến tế Quý Tử cho chúng con.  Nhân danh chúng con, Mẹ đã thốt lên lời xin vâng trước cái chết của Chúa.  Dưới chân Thánh giá, Mẹ là Giáo hội, là dòng dõi E-va, đang tham gia vào trận chiến bao la giữa con rắn và Con của người nữ.  Nên khi ban bà mẹ ấy cho môn đệ dấu yêu, là Chúa ban Mẹ Chúa cho chúng con tất cả.  Vì Chúa cũng muốn nói với con: “Con ơi, đây là Mẹ của con!”

Ôi lời đem lại cho chúng con một ân huệ vĩnh cửu!  Lạy Chúa Giê-su, dưới chân Thánh giá, kẻ xứng danh môn đệ dấu yêu của Chúa là kẻ từ lúc ấy đem Mẹ Chúa về nhà mình, người mẹ mà đôi tay trinh trong hiền mẫu từ nay sẽ phát ban mọi ân huệ do cái chết của Chúa trào tuôn.  Xin cho con ơn biết yêu mến và kính tôn Mẹ Chúa.  Xin cũng nhìn con hèn yếu mà nói với Mẹ: “Mẹ ơi, con của Mẹ đây này!”

Vì một tấm lòng trung trinh và thanh khiết như Mẹ Chúa hẳn sẽ nhân danh vũ trụ mà chấp thuận đám cưới giữa Chiên Con với Hiền thê Hội thánh, với nhân loại đã được máu Chúa cứu chuộc và thanh tẩy.  Sở dĩ con nghe Chúa phó mình cho trái tim từ mẫu của Mẹ, là vì Chúa đã không chết vô ích cho con; con sẽ có mặt vào lúc mở đầu tiệc cưới vĩnh cửu của Chúa, khi toàn thể nhân loại được biến đổi mãi mãi và kết hiệp với Chúa không cùng.

LỜI THỨ TƯ: “LẠY THIÊN CHÚA CON, LẠY THIÊN CHÚA CON, NHÂN SAO NGÀI BỎ CON?” (MT 27,46).

Cái chết đang lại gần, không phải là cái chết thể lý vốn đem đến giải thoát và bình an, nhưng là cái chết tượng trưng vực thẳm, tận diệt, tuyệt vọng.  Cái chết đang lại gần, cái chết nói lên sự bất lực khủng khiếp, cô đơn nặng nề, tước bỏ trọn vẹn, lúc mà tất cả sụp đổ, chạy trốn, chỉ còn sót lại một  sự ruồng bỏ chua xót, đau thương.  Và trong đêm tối của tinh thần, của giác quan ấy, trong sự trống rỗng con tim ấy, linh hồn Chúa vẫn kiên trì cầu nguyện; nỗi cô độc gớm ghê của con tim ngập tràn đau khổ ấy đã trở nên nơi Chúa một tiếng kêu van lạ lùng.  Ôi lời cầu nguyện của đau khổ, lời cầu nguyện của cảnh bị bỏ rơi, lời cầu nguyện của bất lực vô bờ bến, ngươi quả đáng ca tụng.  Lạy Chúa Giê-su, nếu Chúa đã biết cầu xin trong một nỗi khốn cùng như vậy, thì còn hoàn cảnh bi đát nào mà con người không thể kêu lên với Chúa Cha?  Còn nỗi thất vọng nào mà không thể trở nên lời cầu nguyện khi tìm đến ẩn thân trong cảnh bị bỏ rơi của Chúa?  Còn sự câm nín lớn lao nào mà lại quyết tâm không muốn biết rằng một tiếng kêu im lặng như thế vẫn có thể đạt được niềm vui thiên quốc?

Để nói lên nỗi khốn cùng của Chúa, để biến cảnh cô đơn hoàn toàn của Chúa nên một lời kinh, Chúa đã xướng lên câu đầu tiên của một Thánh vịnh (Tv 22).  Quả vậy, những lời Chúa nói: “Lạy Thiên Chúa con, lạy Thiên Chúa con, nhân sao Ngài bỏ con?” là câu đầu tiên của khúc ai ca cổ xưa ấy, khúc ai ca mà chính Thánh Thần Chúa đã đặt trên môi, trên lòng vị hiền nhân Cựu Ước, như một tiếng kêu cứu tuyệt vọng.  Thành ra ngay cả Chúa, con dám nói thế, trên đỉnh cao sầu khổ, đã không muốn một lời cầu nguyện nào khác ngoài lời cầu nguyện muôn người trước Chúa đã thốt trên môi; và có thể nói là khi cử hành cuộc hy tế trang nghiêm mà mình là hy lễ, Chúa đã dùng những công thức sẵn mang tính cách phụng vụ, để qua đó nói lên trọn vẹn nỗi lòng.

Xin cho con biết cầu nguyện với lời của Giáo hội Chúa, để những lời đó trở nên cách diễn tả của lòng con.

LỜI THỨ NĂM: “TÔI KHÁT” (GA 19,28).

Về lời ấy, Gioan thánh sử chú thích như sau: “Bấy giờ Đức Giê-su biết mọi sự đã hoàn tất, thì Người kêu to: “Tôi khát” để Thánh kinh nên trọn.”

Chúa lại xác minh một lời Thánh kinh nữa, một lời Thánh vịnh được Thánh Thần linh ứng từ lâu trước cuộc Khổ nạn Chúa.  Quả thế, trong Tv 22 câu 16, đã có nói đến Chúa thế này: “Cổ họng con khô ran như ngói, lưỡi với hàm dính lại cùng nhau.”  Và trong Tv 69 câu 22: “Thay vì đồ ăn, chúng trao mật đắng.  Con khát nước, lại cho uống dấm chua.”

Ôi người nô lệ của Chúa Cha, đã vâng lời cho đến chết, chết trên thập giá đau khổ.  Bên kia những gì xảy ra cho Chúa, Chúa thấy cái mình phải tìm cách đạt được; bên kia những hành vi của Chúa, Chúa thấy cái mình phải hoàn thành; bên kia những chướng ngại tràn lan, Chúa thấy rõ ràng bổn phận.  Ngay trong cơn hấp hối, giữa lúc nửa tỉnh nửa mê, Chúa vẫn lo sao để mọi chi tiết đời mình đều phù hợp với hình ảnh vĩnh cửu mà tâm trí Cha đã cưu mang.

Nên thực chẳng phải vì nghĩ đến cơn khát không tên đang dày vò tấm thân đẫm máu của Chúa, tấm thân phủ đầy vết thương và trần phơi dưới ánh nắng gay gắt của mặt trời chính ngọ, nhưng vì vâng phục đến cùng thánh ý Cha mà Chúa như muốn nói với một sự khiêm tốn thẳm sâu lạ lùng: “Vâng, điều thánh ý Cha đã tiên báo về tôi qua miệng các ngôn sứ, chính điều đó đang thực hiện.  Vâng, tôi khát!”  Ôi tâm hồn cao quý, vương giả, coi việc chịu khổ hình ghê gớm nơi thân xác chỉ là vấn đề tuân phục lệnh trên!  Mà Chúa đã hiểu tất cả sự ghê tởm của cuộc Khổ nạn như thế: như một sứ mạng phải chu toàn chứ không là một đòn mù quáng của định mệnh, như thánh ý Chúa Cha chứ không phải tâm can độc dữ của con người, như tình yêu cứu chuộc chứ không là âm mưu của kẻ tội lỗi.  Chúa đã gục xuống để chúng con được cứu thoát, Chúa đã chết để chúng con được sống, Chúa đã khát để chúng con được uống nơi nguồn nước mà Chúa mới mạc khải hôm nào đây, trong lễ Lều Trại: “Ai khát hãy đến với Ta, và hãy uống kẻ tin vào Ta; vì như lời Thánh kinh, tự lòng Người có những sông nước sống tuôn chảy” (Ga 7,37-38).

Chúa đã khát vì con, Chúa đã khát tình con, ơn cứu rỗi con; nên như nai khát nước nguồn, Chúa ơi, hồn con cũng khát Chúa!

LỜI THỨ SÁU: “MỌI SỰ ĐÃ HOÀN TẤT” (GA 19,30)

Thực ra, Chúa đã nói: “Chấm dứt rồi!”  Vâng, lạy Chúa, giây phút chấm dứt của Chúa đã đến rồi: chấm dứt cuộc đời, chấm dứt danh dự, chấm dứt hy vọng nhân loại, chấm dứt chiến đấu và những công trình đã thực hiện lâu nay.  Tất cả thực đã chấm dứt; tất cả đều trống rỗng và cuộc sống Chúa sắp tan biến.  Bất lực! Tuyệt vọng!…  Nhưng chính sự chấm dứt này lại hoàn thành đời Chúa, vì chấm dứt trong tình yêu và trung tín là một kết thúc rực rỡ.  Thất bại của Chúa là một chiến thắng oai hùng.

Ôi lạy Chúa, chừng nào con mới hiểu được quy luật này của đời Chúa, mà cũng là quy luật của đời con: chết là sống, từ bỏ là chiếm lại, khó nghèo là sung túc, khổ đau là ân sủng?  Khi nào con mới hiểu: chấm dứt có nghĩa là được hoàn thành?

Vâng, Chúa đã hoàn thành: hoàn thành sứ mạng Cha trao, nốc cạn một hơi chén đắng, gánh trọn cái chết kinh khủng, xong xuôi việc cứu rỗi đời.  Chúa đã chiến thắng tử thần, đập tan tội lỗi, chinh phục ma vương, mở cửa sự sống, cho con cái Thiên Chúa được hoàn lại tự do!  Cơn lốc Thánh Thần từ nay có thể mạnh thổi.  Và thế giới âm u dần cháy lên với ngọn lửa tình yêu Chúa, vũ trụ sầu khổ phực thiêu trong hỏa lò thần tính Chúa, địa cầu chìm trong biển lửa hạnh phúc của sự sống Chúa!  Mọi sự đã hoàn tất!

Chúa là Đấng hoàn thành vũ trụ, xin cho con nên hoàn thiện trong tinh thần của Chúa, lạy Ngôi Lời của Cha, Đấng đã hoàn tất hết thảy trong thể xác và trong cái chết đớn đau của mình.

Ước gì một ngày kia, lúc hoàng hôn cuộc sống, con cũng có thể nói: “Mọi sự đã hoàn tất.  Con đã chu toàn sứ mạng Chúa giao cho con.”  Ước gì con cũng có thể lặp lại theo Chúa lời kinh tế hiến, khi tử thần lảng vảng quanh con: “Cha ơi, giờ đã đến…  Con đã tôn vinh Cha trên trần gian, khi hoàn tất công việc Cha giao con thực hiện.  Thì giờ đây, xin hãy tôn vinh con bên Cha” (Ga 17,1-5).

Ôi Giê-su, dù sứ mạng Chúa Cha trao cho con là lớn hay nhỏ, quan trọng hay tầm thường, êm ái hay cay đắng, thì xin vẫn ban cho con ơn hoàn thành theo gương Chúa, Đấng đã hoàn thành hết thảy, ngay cả cuộc đời con, để con sống đời con cho tốt đẹp.

LỜI THỨ BẢY: “CHA ƠI, CON TRAO LẠI HỒN CON TRONG TAY CHA” (LC 23,46)

Ôi Giê-su, kẻ bị bỏ rơi nhất trong loài người, ôi trái tim tan nát vì đau đớn, Chúa đã kiệt lực.  Đây là lúc cùng tận, lúc mà hết thảy đều bị tước bỏ, ngay cả linh hồn, ngay cả tự do chọn lựa giữa ưng thuận hay từ chối, lúc mà ta không còn thuộc về ta.  Bóng thần chết đã lấp ló đứng chờ.  Nhưng ai tước bỏ như thế?  Cái gì tước bỏ như thế?  Hư vô ư?  Định mệnh mù quáng ư?  Thiên nhiên tàn nhẫn ư?  Không!

Chính là Cha, chính là vị Thiên Chúa khôn ngoan và lân mẫn.  Do đó Chúa đã phó mình.  Hoàn toàn tin tưởng, Chúa trao mình lại trong đôi tay vô hình hiền dịu của Cha, đôi tay mà chúng con, vì không tin, vì quá bám víu lấy mình, tưởng là thòng lọng gớm ghê của định mệnh mù quáng và của thần chết.  Chúa biết đấy là tay Cha, và đôi mắt Chúa, tối mờ vì thần chết, vẫn còn nhận ra Cha, vẫn còn đặt trong ánh mắt an bình đầy tình hiền phụ của Cha, và miệng Chúa thốt lên lời cuối cùng đời Chúa: “Cha ơi, con trao lại hồn con trong tay Cha.”

Chúa trao tất cả vào tay Đấng đã ban cho mình tất cả.  Chúa đặt hết vào tay Cha, không đòi bảo chứng, không chút giới hạn.  A!  Nhiều lắm, nhưng cũng nặng trĩu và cay đắng biết bao!  Cái làm nên gánh nặng đời Chúa: loài người, thô bạo, sứ mạng, thập giá, thất bại, cái chết, Chúa đã phải gánh lấy một mình.  Nhưng bây giờ, chẳng còn gì phải gánh nữa, và Chúa có thể trao lại tất cả và chính mình trong tay Cha.  Tất cả!  Tay Cha mang rất tốt, rất dịu dàng.  Đôi tay của người mẹ!  Đôi tay đó úp lên hồn Chúa, như người ta ấp ủ một cánh chim non trong lòng bàn tay với cả ý tứ mến thương.  Bây giờ chẳng còn gì nặng nữa.  Tất cả đều nhẹ, đều là ánh sáng, ân sủng, an toàn dưới bóng con tim Cha.  Nơi đây người ta có thể khóc hết nước mắt và được Cha lau khô bằng cái hôn hiền phụ.

Ôi Giê-su, một ngày kia Chúa cũng trao linh hồn hèn hạ và thân xác khốn khổ của con vào trong tay Cha chứ?  Lúc ấy, xin Chúa hãy đặt khối nặng đời con, khối nặng tội lỗi con đừng trên đĩa cân công lý nhưng trong tay Cha.  Chạy trốn đâu, ẩn khuất đâu ngoài bên Chúa, người anh em đã cay đắng chịu mọi khổ hình vì tội con.  Hôm nay, con đến với Chúa, quỳ trước Thánh giá Chúa, hôn đôi chân đã chảy máu vì im lặng bước theo con trên quãng đường quanh quéo của đời con.  Con ôm lấy Thánh giá Chúa, ôi Bạn Tình vĩnh cửu, Lòng của muôn lòng, Trái Tim bị đâm thủng, trái tim hết sức kiên nhẫn, trái tim vô cùng quảng đại.  Xin thương xót con.  Xin đem con vào tình yêu Chúa.  Và khi cuộc đời lữ thứ của con sắp chấm dứt, khi ngày đã gần tàn, khi bóng tử thần vây bọc lấy con, thì xin Chúa cũng thốt lên lời sau hết của Chúa: “Cha ơi, con trao lại hồn con trong tay Cha”, ôi Giê-su từ ái!  A-men.

Karl Rahner S.J.
Linh mục Phê-rô Phan Văn Lợi trích dịch từ Spiritualité pascale, phần Documents et Prières. Paris, DDB, 1957. Trang 275-278.

BÀI HỌC PHỤC VỤ

Phục Vụ Trong Tự Hạ

Trình thuật về việc rửa chân chỉ được ghi lại duy nhất trong Tin Mừng Gio-an.  Hình ảnh Đức Giê-su cúi xuống rửa chân cho các môn đệ trước hết là một mặc khải rõ ràng về Thiên Chúa tình yêu.  Nghiêng mình xuống là cách Cựu Ước dùng để diễn tả lòng nhân hậu thương xót của Thiên Chúa.  Giờ đây, Thiên Chúa không những nghiêng mình mà còn quỳ gối, cúi xuống tận chân con người, để rồi phải ngẩng đầu lên trả lời khi Phê-rô phản đối.  Thử hỏi còn có sự hạ mình nào hơn thế?  Đấng toàn năng sáng tạo lại quỳ gối để ngước mắt nhìn lên thụ tạo của mình.

Thiên Chúa đã xóa mình đi để bước xuống, đến gần và bày tỏ lòng thương xót cho con người như thế đấy.  Cử chỉ đó mãi là một tấm gương để cho tất cả các môn đệ của Đức Giê-su không ngừng học hỏi mà đối xử với nhau: “Nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau” (Ga 13, 14).  Một tiêu chuẩn để người môn đệ Chúa Giê-su đến với người khác và phục vụ họ: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15, 12).

Phục Vụ Bằng Tự Hiến

Câu chuyện rửa chân không đơn thuần là một tấm gương về bài học khiêm tốn phục vụ nhưng còn mang ý nghĩa biểu tượng, nói lên tất cả sứ mạng của Đức Giê-su đồng thời loan báo về sự chết và phục sinh của Người nữa.

Hình ảnh Đức Giê-su “cởi áo ngoài ra” rồi sau đó lại “mặc áo vào” khiến ta liên tưởng đến lời Người nói trước kia: “Chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình.  Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy” (Ga 10, 18).  Như thế, câu chuyện rửa chân là cách diễn tả tượng trưng cho cái chết tự nguyện của Đức Giê-su và cuộc phục sinh của Người.

Ở giữa hai hành động “cởi ra” và “mặc vào” trong trình thuật rửa chân là một cử chỉ tự hạ thẳm sâu.  Còn ở giữa hai hành động “hy sinh” và “lấy lại” lại là sự tự hiến tuyệt vời: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15, 13).  Cái chết của Đức Giê-su ở trên thập giá chính là tuyệt đỉnh của một tình yêu phục vụ: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mc 10, 45).

Phục Vụ Cho Đến Cùng

Tin mừng Gio-an không nói đến việc Đức Giê-su lập Bí Tích Thánh Thể, nhưng khung cảnh của bữa tiệc ly được bổ túc bằng đoạn thư thứ nhất gửi tín hữu Cô-rin-tô giúp chúng ta hiểu rằng tiếp theo hành động có tính biểu tượng nối kết sự tự hạ với tự hiến là việc Chúa ban chính thịt máu của Người làm lương thực dưỡng nuôi nhân loại cùng với lệnh truyền: “Hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy” (1 Cr 11, 25)

Việc Đức Giê-su thiết lập Bí Tích Thánh Thể và chức Linh mục trong bữa Tiệc Ly chứng tỏ tình yêu của Người dành cho nhân loại.  Yêu đến hiến mạng sống, yêu đến ban thân mình.  Qua hai Bí Tích đó, Người muốn thực hiện lời hứa: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 20).  Người yêu thương và yêu cho đến cùng.  Dù không còn hiện diện cách hữu hình trên dương gian này, nhưng Người luôn có đó để trợ lực, để đồng hành với nhân loại qua phép Thánh Thể, qua con người linh mục với sứ mạng mục tử.

Như thế, qua Đức Giê-su Ki-tô, mỗi người chúng ta đã dược Thiên Chúa yêu thương cách đặc biệt.  Chúng ta có bổn phận làm cho tình yêu đó triển nở và được nhân rộng trong môi trường của mình bằng việc xóa mình đi: xóa đi những thành kiến, ích kỷ, toan tính vụ lợi…  Đồng thời, mỗi người cũng phải biết mở ra với những người chung quanh.  Có như thế, tình yêu và sự sống mà chúng ta đón nhận được từ nơi Chúa Cha qua Đức Giê-su mới thực sự sinh hoa kết quả dồi dào.

Trong ngày kỷ niệm Chúa Giê-su lập Bí Tích Thánh Thể và Bí Tích Truyền chức hôm nay, ta bắt gặp một hình ảnh Chúa Ki-tô Linh Mục hoàn toàn trái ngược với hội chứng quyền bính đã được người ta nói đến: một Thiên Chúa hạ mình để phục vụ, một mục tử tự hiến cho đến cùng.  Quyền bính được trao cho Giáo Hội, chức vụ tư tế thừa tác được trao cho các linh mục ngày nay không ngoài mục đích để cho tình yêu cứu độ của Đức Ki-tô còn tiếp tục hiện diện giữa thế giới này.  Chúng ta cùng cầu xin cho các linh mục của Chúa ngày càng trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Ki-tô, vị Linh Mục đời đời.

Lm. Kiều công Tùng

CHẲNG LẼ CON SAO

Các thượng tế muốn giết Đức Giêsu, nhưng không tìm được cơ hội.  Nay cơ hội đã đến với sự tiếp tay của chính người môn đệ Đức Giêsu.  Anh Giuđa đã đến gặp các thượng tế và đề nghị nộp Ngài cho họ.

Chúng ta mãi mãi không biết hết và biết rõ những động cơ nào đã thúc đẩy Giuđa làm chuyện kinh khủng ấy.  Giuđa, người được gọi, được chọn, được tuyển lựa, sau một đêm thức trắng cầu nguyện của Thầy Giêsu (Lc 6, 12).  Và anh đã đáp lại, đã bỏ gia đình, nghề nghiệp, để đi theo.

Giuđa đã rong ruổi theo Thầy ngay từ đầu, chia sẻ đói no, thành công thất bại…  Không yêu thì làm sao đi theo được lâu như thế.  Giuđa, người được tin cậy và giao giữ quỹ cho cả nhóm (Ga 12, 6).  Vì là người trong nhóm Mười Hai, thuộc nhóm môn đệ thân cận, Giuđa đã được nghe hầu hết các bài giảng hay nhất, được chứng kiến các phép lạ lớn lao nhất của Thầy Giêsu.  Giữa anh và Thầy Giêsu hẳn đã có một sự thân thiết nào đó.

Điều gì đã diễn ra nơi trái tim của Giuđa?  Điều gì đã khiến tất cả phút chốc bị đổ vỡ không sao hàn gắn?  Chắc không phải chỉ vì ba mươi đồng bạc, một số tiền.  Phải chăng vì Giuđa thất vọng và nóng ruột khi thấy Thầy Giêsu quá hiền từ, cả trong lối sống lẫn lời giảng, chẳng có vẻ gì là một Đấng Mêsia sắp giải phóng dân tộc khỏi quân Rôma?

Phải chăng khi Giuđa nộp Thầy cho các thượng tế, anh định cài Thầy vào thế phải hành động quyết liệt hơn, phải tự giải thoát mình?

Dù gì đi nữa thì chuyện Giuđa làm là không thể biện minh được.  Anh đã can dự vào cái chết của Thầy Giêsu.  Không thể phong tặng anh hùng cho Giuđa vì bảo rằng nhờ anh mà chúng ta có được ơn cứu độ.  Giuđa đã phạm tội nghiêm trọng đến nỗi Thầy Giêsu phải đau đớn nói: “Khốn cho kẻ nào nộp Con Người: thà kẻ đó đừng sinh ra thì hơn” (c.24).

Dầu vậy tội của Giuđa đã được Thiên Chúa dùng cho chương trình cứu độ.  Thiên Chúa là Đấng có thể biến điều dữ thành điều lành.  “Kẻ đã chấm chung một đĩa với Thầy là kẻ sẽ nộp Thầy” (c. 23).  Kẻ đồng bàn thân thiết với Thầy lại là người phản bội.

Ngay cả những môn đệ khác cũng hỏi Thầy Giêsu: “Có phải con không?”  Có phải con là người đang phản bội Thầy không?  Lúc nào chúng ta cũng có thể hỏi Chúa Giêsu cùng câu hỏi đó.  Dù mỗi ngày chúng ta cùng chia sẻ một bàn tiệc với Chúa trong Thánh Lễ, chúng ta vẫn có thể rơi vào tội của Giuđa.

***********************************

Lạy Chúa Giêsu, xin cho con dám hành động theo những đòi hỏi khắt khe nhất của Chúa.  Xin dạy con biết theo Chúa vô điều kiện, vì xác tín rằng Chúa ngàn lần khôn ngoan hơn con, Chúa ngàn lần quảng đại hơn con, và Chúa yêu con hơn cả chính con yêu con.

Lạy Chúa Giêsu trên thập giá, xin cho con dám liều theo Chúa mà không tính toán thiệt hơn, anh hùng vượt trên mọi nỗi sợ, can đảm lướt thắng sự yếu đuối của quả tim, và ném mình trọn vẹn cho sự quan phòng của Chúa.  Ước gì khi dâng lên Chúa những hy sinh làm cho tim con rướm máu, con cảm nghiệm được niềm vui bất diệt của người một lòng theo Chúa. Amen.

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu

LỄ LÁ 2023

Nghi thức phụng vụ khai mạc Tuần Thánh mang nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau: khởi đầu là bầu khí náo nhiệt tưng bừng, kết thúc là một thảm kịch bi thương.  Bài thương khó theo thánh Matthêu đưa chúng ta từ phòng Tiệc ly, đến chân thập giá và cuối cùng kết thúc nơi một nấm mồ được niêm phong.  Nghe đọc trình thuật thương khó của Chúa Giêsu, chúng ta cũng hoảng hốt như các môn đệ và số đông dân chúng đương thời.  Có lẽ nào một người tự xưng là Thiên Chúa mà nay phải chết cách nhục nhã thương đau?  Có lẽ nào một vị ngôn sứ đã từng nổi tiếng về quyền năng trong lời nói cũng như hành động mà nay phải thất bại trước mưu mô toan tính của con người?  Công lý ở đâu?  Phải chăng trời không có mắt?  Còn biết bao vấn nạn nữa được đặt ra, trong sự hoang mang sợ hãi của những người chứng kiến.  Nỗi sợ ấy lớn đến mức các môn đệ sợ hãi chạy trốn.  Giây phút Chúa Giêsu chịu thương khó và chịu chết là thời điểm của quyền lực tối tăm.  Bạo lực và gian dối nhấn chìm tất cả trong đau thương và bi đát.

Những sự kiện được trình bày trong Bài Thương khó, sẽ được lần lượt cử hành qua các lễ nghi của Tam nhật Vượt qua.  Ngày lễ lá chỉ là khúc dạo đầu của các lễ nghi Tuần Thánh.  Trong Tam nhật Vượt qua, chúng ta sẽ từng bước đi theo Chúa Giêsu từ nhà Tiệc Ly (thứ Năm Tuần Thánh) đến chân đồi Canvê (thứ Sáu Tuần Thánh).  Cùng cảm nhận sự hoang mang trống vắng của các môn đệ, chúng ta đến bên mộ Chúa (thứ Bảy Tuần Thánh), rồi cuối cùng là niềm vui Phục sinh vỡ oà nơi chúng ta và các Kitô hữu trên khắp địa cầu.

Hãy trở lại cuộc thương khó của Chúa Giêsu.  Tác giả Phúc âm cũng như các độc giả gốc Do Thái nhận ra nơi Chúa Giêsu người tôi tớ đau khổ mà ngôn sứ Isaia diễn tả.  Bài đọc thứ nhất Lễ Lá là Bài ca thứ ba, trong số bốn bài ca về người tôi trung của Đức Giavê.  Ngôn sứ Isaia diễn tả một người bị đánh bầm dập, chịu phỉ nhổ nhạo cười mà không thẹn thùng và cũng không cãi lại.  Đó là người tôi tớ trọn niềm trung kiên để thực hiện thánh ý Đức Giavê.  Tương tự như thế, thánh Matthêu diễn tả những nhục hình mà Chúa Giêsu đã chịu.  Những người lính La Mã chế giễu Chúa và trút lên Người những trận mưa đòn trong sự ngạo nghễ của một đại quốc đối với công dân của một nước chư hầu.  Họ đã biến Người thành một tên hề để giải khuây.  Trong tình huống này, Chúa Giêsu vẫn nhẫn nhục.  Người mang vào bản thân sự đau đớn tinh thần cũng như thể xác.  Đối với một người đã có thời nổi tiếng và vinh quang, mà nay chịu nhuốc nha sỉ nhục, thì nỗi nhục càng lớn hơn gấp bội.

Trong trình thuật thương khó, đám đông dân chúng, dù không phải là nhân vật chính, nhưng lại có ảnh hưởng rất lớn.  Mới trước đó họ cầm ngành lá để tung hô Chúa khi Chúa vào thành thánh, với sự thán phục và tự hào.  Vậy mà giờ đây họ giơ cao tay để đòi Philatô giết Chúa.  Họ nằng nặc đòi tha Baraba là một tù nhân khét tiếng, và đòi lên án tử cho Chúa Giêsu.  Lòng thù hận đã làm cho con mắt họ trở nên mù tối.  Dù biết Chúa Giêsu là người vô tội, họ vẫn tìm cớ để tố cáo Người.

Đức Giêsu cô đơn giữa một đám đông khát máu.  Chặng đường thập giá cho chúng ta thấy chỉ có vài người phụ nữ bày tỏ lòng xót thương theo cảm tính nữ nhi.  Các môn đệ sợ hãi chạy trốn.  Những người đã trầm trồ thán phục khi Người rao giảng và làm phép lạ, nay chẳng thấy đâu.  Chúa đã đón nhận thập giá trong tâm tình vâng phục Chúa Cha.  Bài đọc II, trích thư của thánh Phaolô gửi giáo dân Philipphê đã diễn tả điều đó.  Người đã vâng lời cho đến chết và chết trên cây thập tự.  Tuy vậy, Chúa Giêsu không kết thúc cuộc đời ở nấm mộ.  Người đã phục sinh.  Qua sự phục sinh vinh quang này, Thiên Chúa Cha đã tôn vinh Người.  Cả trên trời dưới đất và nơi âm phủ đều phải tuyên xưng Người là Chúa.

Trình thuật thương khó không chỉ là sự kiện của quá khứ cách đây hai ngàn năm, mà còn là của ngày hôm nay.  Thế giới hiện tại chính là đám đông hỗn độn năm xưa.  Quả vậy, trong xã hội của chúng ta, vẫn còn đó những người vô tội bị kết án oan sai và bị giết chết.  Biết bao người là nạn nhân của bạo lực, của chiến tranh, của kỳ thị.  Họ là những người yếu thế trước cường quyền.  Khi đọc trình thuật thương khó, mỗi chúng ta đều có thể nhận ra mình là một nhân vật trong vở kịch bi thương đó.  Hai ngàn năm đã qua, vẫn còn đó một đám đông ồn ào quan điểm bất nhất.  Vẫn còn đó những Philatô, những ký lục và biệt phái.  Họ là những người cậy quyền thế để áp bức dân nghèo.  Chúa Giêsu vẫn đang vác thập giá ngang qua cuộc đời chúng ta.  Người hiện thân nơi anh chị em chúng ta, nhất là nơi những người đau khổ và bất hạnh.  Chúng ta thờ ơ với những đau thương của Người, khi chúng ta thờ ơ với nỗi đau của đồng loại.  Biến cố thập giá giúp ta hồi tâm để tìm lại chính mình, đồng thời xin Chúa ban sức mạnh để tiếp tục tiến bước trong hành trình cuộc đời.

Chứng kiến biến cố thập giá năm xưa, nhiều người đương thời cũng đặt ra những vấn nạn về bất công, đau khổ và về sự gian ác của con người.  Hôm nay, trong cuộc sống của chúng ta, những vấn nạn đó cũng vẫn đang được đặt ra, thậm chí vấn nạn về sự hiện hữu của Thiên Chúa và về lòng thương xót của Người.  Chúng ta hãy nhìn lên thập giá Chúa Giêsu để phần nào hiểu được ý nghĩa của đau khổ.  Cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu khẳng định với chúng ta: đã sinh vào kiếp người, ai cũng phải chết.  Lửa thử vàng, gian nan thử đức.  Những ai yêu mến và hy sinh vì tha nhân, sẽ tìm được hạnh phúc cho bản thân mình.  Hạnh phúc đó, không ai lấy mất, nhưng tồn tại mãi mãi.  Thập giá cũng nói với chúng ta: chính con người đang hủy hoại đồng loại và không ngừng gây đau khổ cho nhau.  Hãy ngưng bạo lực!  Hãy xây đắp tình huynh đệ!  Như thế đau khổ sẽ bị đẩy lui và hạnh phúc sẽ tràn đầy.  Chúa Giêsu sẽ nâng đỡ chúng ta trong hành trình thập giá, như chính Người đã hứa.

Trong những ngày sắp tới, chúng ta cùng với Giáo Hội hoàn vũ cử hành nghi thức Tam nhật Vượt qua.  Những nghi thức này, thường là khá dài, hàm chứa những ý nghĩa biểu tượng rất sâu sắc.  Trong thinh lặng sâu lắng, chúng ta chiêm ngưỡng hình ảnh người Tôi tớ Giavê và suy tư cuộc khổ nạn của Người.  Qua đó, cuộc đời chúng ta được biến đổi, bao dung quảng đại hơn.  Chúa Giêsu đã chết vì chúng ta.  Người là nạn nhân của bạo lực và của vu khống.  Người khiêm nhường và hiền lành giữa cơn lốc hận thù của những người đồng bào.  Người chấp nhận cái chết để đem lại tự do và giải thoát cho muôn dân.  Người chính là con chiên vượt qua mới, thay thế cho con chiên vượt qua cũ của phụng tự Cựu ước.

Thập giá không chỉ là biểu tượng của thương đau và thất bại, nhưng còn là dấu chỉ của tình yêu và hy vọng.  Nếu Chúa Giêsu đã chết trên thập giá, thì Người cũng đã sống lại vinh quang.  Thập giá chỉ là một giai đoạn mang tính nhất thời.  Đau khổ nào rồi cũng sẽ qua đi.  Sau cơn mưa trời lại hừng sáng.  Sự phục sinh vinh quang mới là đích điểm của Đức tin Kitô giáo.  Thế nhưng, không chết thì làm sao sống lại?  Khi tham dự các nghi thức Tuần Thánh, Giáo Hội mượn lời thánh Phaolô để kêu mời chúng ta hãy cùng chết với Đức Kitô để được sống lại với Người.  Hình ảnh hạt lúa mì gieo xuống đất chấp nhận mục nát để nảy nở, mọc cây và sinh hoa kết trái, chính là biểu tượng cho niềm hy vọng của chúng ta.

TGM Giuse Vũ Văn Thiên

CHÚA GIÊSU VÀ QUÂN DỮ

Sau nụ hôn phản bội, Giuđa lẩn vào đám người đến bắt Chúa Giêsu.  Công việc của hắn đã xong.  Việc hắn phải làm lúc này là hồi hộp quan sát với hy vọng rằng những người bắt Chúa Giêsu sẽ thực hiện đúng giao kèo và không để Chúa Giêsu vuột khỏi như bao lần trước trong quá khứ.

Chúa Giêsu không có ý định như vậy, nếu Ngài muốn thì cũng chẳng ai làm gì được Ngài.  Thay vì chờ kẻ thù ra tay, Ngài nói với họ: “Quý vị tìm ai?”  Họ đáp: “Tìm Giêsu Nadarét.”  Ngài xác nhận: “Chính tôi đây.”  Mặc dù đã có dấu chỉ điểm của Giuđa là nụ hôn, họ có vẻ vẫn nghi ngờ.  Ngu dốt hết sức!  Họ nghi người này dám ra mặt như thế thì không thể là người mà họ muốn bắt.

Thánh Gioan cho biết rằng khi Chúa Giêsu nói “Chính tôi đây” thì quân dữ đã “lùi lại và ngã xuống đất.”  Khi giải thích về sự té ngã của họ, chắc chắn rằng Thánh Gioan coi đó là một phép lạ do quyền năng của Chúa.  Có thể không phải cả đám họ đều ngã hết; có thể chỉ những người đứng ngay trước mặt Chúa Giêsu mới ngã, đó chính là những viên chỉ huy đã hỏi Chúa Giêsu.

Chúa Giêsu cho phép điều gì đó thuộc quyền năng của Ngài để chiếu tỏa trong lời Ngài và vẻ uy nghi của Ngài, kẻ thù phải giật lùi và ngã nhào.  Đây không là lần đầu tiên Chúa Giêsu khiến kẻ thù hoảng sợ vì vẻ uy nghi của Ngài (x. Ga 7:44; 10:39).  Ngài sẽ mở đường cho họ bởi vì đó là ý muốn của Chúa Cha, nhưng không phải trước khi cho họ thấy rằng Ngài tự do hành động.  Ngài làm trọn lời tiên tri của ngôn sứ Isaia: “Bị ngược đãi, người cam chịu nhục, chẳng mở miệng kêu ca; như chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông, người chẳng hề mở miệng” (Is 53:7).  Ngài làm vậy không phải vì yếu đuối mà vì chọn lựa.

TÌNH HUỐNG và THANH GƯƠM

Kẻ thù của Chúa Giêsu liền tận dụng tình huống này.  Chúa Giêsu trao mình mà không hề chống cự và xin tha cho các đệ tử.  Không có chiến đấu nên không có nguy hiểm, thế nên một số người trong đám lính tỏ ra hăng hái, bước tới và bắt Chúa Giêsu.  Giuđa giữ đủ mức độ yêu thương và lòng kính trọng dành cho Thầy để an thân, hắn để cho người khác hành động.  Các môn đệ ngạc nhiên trước các sự kiện này.  Chưa bao giờ họ thấy Thầy bị đối xử tồi tệ như vậy.  Những lần trước, khi kẻ thù tìm cách bắt Ngài, Ngài chỉ lặng lẽ lánh đi nơi khác, thế mà bây giờ Thầy lại chịu để cho chúng bắt.  Lúc này họ thấy Ngài nắm chặt hai bàn tay.

Ngay trong lúc dầu sôi lửa bỏng, các môn đệ xin ý kiến của Thầy Giêsu để có thể chiến đấu bằng gươm, vì hai người trong số họ có gươm, nhưng họ không hiểu ý Thầy mình.  Chiều tối, Ngài nói với họ: “Khi Thầy sai anh em ra đi, không túi tiền, không bao bị, không giày dép, anh em có thiếu thốn gì không?”  Họ đáp: “Thưa không.”  Ngài bảo họ: “Nhưng bây giờ, ai có túi tiền thì hãy mang theo, ai có bao bị cũng vậy; còn ai chưa có gươm thì bán áo đi mà mua.  Vì Thầy bảo cho anh em hay: cần phải ứng nghiệm nơi bản thân Thầy lời Kinh Thánh đã chép: Người bị liệt vào hàng phạm pháp.  Thật vậy, những gì đã chép về Thầy sắp được hoàn tất.”  Họ thưa với Thầy Giêsu: “Lạy Chúa, đã có hai thanh gươm đây.”  Ngài bảo: “Đủ rồi!” (Lc 22:35–38).  Có thể họ nghĩ rằng đây là cách Chúa Giêsu nói tới sự cấp bách.  Sự mạnh dạn của họ lớn hơn sự khôn ngoan.  Có gươm giáo trong tay, một số người trong số họ chờ lệnh của Thầy Giêsu, sẵn sàng xông vào đám lính Rôma.

Lúc đó, hành động nhanh chóng, vì Chúa Giêsu không còn thời gian để trả lời họ.  Phêrô bộc trực khi thấy Thầy bị bắt.  Ông không đợi Thầy trả lời, mà liền vung gươm chém thẳng vào đầu Malchus, một trong những người đang bắt giữ Thầy Giêsu.

Sau khi Phêrô chém đứt tai tên đầy tớ của thượng tế, Chúa Giêsu nghiêm giọng: “Hãy xỏ gươm vào vỏ, vì tất cả những ai cầm gươm sẽ chết vì gươm” (Mt 26:52).  Ý nghĩa câu nói không rõ ràng.  Có thể Chúa Giêsu có ý nói rằng “Cứ để như thế, không còn bạo lực nữa,” hoặc là “Cứ để mọi sự diễn biến; cứ để họ bắt Thầy.”  Trong lúc bị thương, hẳn là Malchus buông tay ra, và Chúa Giêsu liền dùng tay để gắn tai cho hắn.  NếuThầy Giêsu không làm phép lạ chữa lành tai cho Malchus, hẳn là Phêrô khó yên thân trong sân dinh thượng tế tối hôm đó.

Chúa Giêsu vẫn chủ động.  Quay sang Phêrô, Ngài nói: “Hãy xỏ gươm vào vỏ, vì tất cả những ai cầm gươm sẽ chết vì gươm” (Mt 26:52).  Ngài không tham dự vào việc tự vệ bằng bạo động, Ngài muốn yêu thương.

Bạo lực sinh ra bạo lực, đổ máu dẫn đến đổ máu nhiều hơn.  Dùng gươm phải được phép, nếu không sẽ phạm pháp.  Hơn nữa, Chúa Giêsu không cần họ trợ giúp: “Anh tưởng là Thầy không thể kêu cứu với Cha Thầy sao?  Người sẽ cấp ngay cho Thầy hơn mười hai đạo binh thiên thần!” (Mt 26:53).  Một đạo quân có 6.000 người.  Thay vì 12 môn đệ yếu đuối bảo vệ Ngài, Ngài có thể xin Chúa Cha ban cho mười hai lần sáu ngàn thiên thần giúp đỡ Ngài – tức là 12 x 6.000 = 72.000 quân.

Sau khi nói với Phêrô, Chúa Giêsu quay sang đám người đến bắt Ngài.  Mặc dù Ngài nói với mọi người, nhưng Ngài nhắm đến những kẻ có chức quyền, những kẻ chịu trách nhiệm về những gì xảy ra – các thượng tế, những người coi Đền Thờ, và các bô lão.  Chúa Giêsu đặt vấn đề: “Tôi là một tên cướp sao mà các ông đem gươm giáo gậy gộc đến?  Ngày ngày, tôi ở giữa các ông trong Đền Thờ, mà các ông không tra tay bắt.  Nhưng đây là giờ của các ông, là thời của quyền lực tối tăm” (Lc 22:52–53).

BẮT GIỮ

Chúa Giêsu không phản đối việc bắt Ngài nhưng phản đối cách thức, thời gian và nơi chốn mà họ bắt Ngài.  Họ đối xử với Ngài như thể Ngài là kẻ trộm cướp, trưởng băng đảng có vũ khí, hoặc kẻ phạm pháp.  Nếu có vấn đề sự khác nhau về học thuyết, họ cũng biết rất rõ rằng họ vẫn thấy Ngài giảng dạy ở Đền Thờ.  Họ có thể bắt Ngài giữa thanh thiên bạch nhật và đưa Ngài ra trước hội đường.  Chúa Giêsu biết tại sao họ không làm vậy – và chính họ cũng biết điều đó.  Họ biết họ kết tội Chúa Giêsu về những lời Ngài nói.  Họ sợ dân chúng vì tính thâm độc trong động lực và sự bất công trong cách đối xử của họ dành cho Chúa Giêsu.

Nhưng có ý nghĩa sâu xa về những gì xảy ra.  Họ là những kẻ độc ác.  Do đó hành động của họ hoàn tất lời tiên tri, như Chúa Giêsu đã xác định: “Nhưng thế này là để lời Sách Thánh được ứng nghiệm” (Mc 14:49b).  Những gì họ làm đều được Thiên Chúa sử dụng và ăn khớp với kế hoạch cứu độ.

Lúc đó, quân dữ có vẻ đã thắng thế.  Chúa Giêsu nói: “Đây là giờ của các ông, là thời của quyền lực tối tăm” (Lc 22:53b).  Họ đã nhiều lần muốn bắt Ngài nhưng không thể bởi vì giờ của Ngài chưa đến.  Bây giờ là lúc họ có thể tự do hành động.  Satan là hoàng tử của bóng tối, nó đã nhập vào Giuđa, kẻ thủ mưu thành công.  Giờ hành động của quân dữ cũng là giờ của quyền lực tối tăm, bởi vì họ hành động với tư cách là liên minh và vũ khí của Satan.

CÁC MÔN ĐỆ CHẠY TRỐN

Sau khi nói với đám quân dữ, Chúa Giêsu im lặng.  Các Thánh sử không cho biết có sự thảo luận giữa các môn đệ hay không, về những gì nên làm hoặc nên nói.  Các Phúc Âm chỉ cho biết cách hành động của các môn đệ: “Bấy giờ CÁC MÔN ĐỆ BỎ NGƯỜI MÀ CHẠY TRỐN HẾT” (Mt 26:56b).

Chạy trốn là hèn nhát, đáng xấu hổ.  Họ xa tránh Thầy Giêsu trong lúc nguy hiểm và bỏ mặc Thầy trong tay kẻ thù.  Tuy nhiên, chúng ta không nên coi đó là điều khó làm dịu tính nghiêm khắc về việc kết tội.  Chúa Giêsu đã giải tán họ và nói: “Nếu các anh tìm bắt tôi, thì hãy để cho những người này đi” (Ga 18:8).  Ngài phản đối họ dùng gươm giáo, vả lại Ngài cũng không tỏ dấu hiệu bỏ trốn.  Họ phải mau mắn quyết định điều cần làm, trong khi đó họ vẫn chăm chú theo dõi Chúa Giêsu, và họ quyết định chọn cách an toàn cho bản thân.   Khi họ thấy Chúa Giêsu bị bắt mà không tìm cách thoát thân, họ lẩn vào bóng tối của những tán cây ô-liu. Điều đó ứng nghiệm lời tiên tri về lời nói của Chúa Giêsu: “Ta sẽ đánh người chăn chiên, và đàn chiên sẽ tan tác” (Mt 26:31).  Khi đó, Thánh Gioan thấy Thầy Giêsu đơn độc nên cảm thương: “Bấy giờ toán quân và viên chỉ huy cùng đám thuộc hạ của người Do Thái bắt Đức Giêsu và trói Người lại” (Ga 18:12).

Khi Chúa Giêsu đã bị trói chặt và bị quân lính vũ trang vây quanh, đám quân dữ bắt đầu dàn hàng tiến về thành phố.  Thánh Gioan cho biết rằng “họ điệu Chúa Giêsu đến ông Kha-nan, nhạc phụ của ông Cai-pha.  Ông Cai-pha làm thượng tế năm đó” (Ga 18:13).  Truyền thống đặt dinh của ông Kha-nan– có lẽ cũng như dinh của ông Cai-pha – trên ngọn đồi phía Tây của thành phố, khoảng 60m tính từ căn phòng mà Chúa Giêsu đã ăn Lễ Vượt Qua với các môn đệ vài giờ trước đó.

THANH NIÊN CHẠY TRỐN

Đêm tối, mọi người trong thành phố đã yên giấc.  Chỉ có những lính canh còn thức bên các bức tường. Thánh Máccô cho biết rằng các môn đệ đã bỏ của chạy lấy người.  Trong các Phúc Âm, chỉ có Máccô thú nhận sự thật này: “Trong khi đó có một cậu thanh niên đi theo Người, mình khoác vỏn vẹn một tấm vải gai.  Họ túm lấy anh.  Anh liền trút tấm vải lại, bỏ chạy trần truồng” (Mc 14:51–52).

Thánh Máccô là người theo Chúa Giêsu khi còn khá trẻ – chưa tới 20 tuổi.  Ông không đi theo xa xa, mà đi theo trong đám đông.  Điều này cho thấy rằng ông không đi theo vì tò mò hoặc hiếu kỳ, mà thực sự quan tâm, thế nên ông trở thành môn đệ của Chúa Giêsu.  Và rồi ông bị quân dữ tóm lấy, nhưng ông bỏ áo để thoát thân, sợ quá nên ông chẳng ngại gì nữa dù lúc đó ông “trần như nhộng.”

Trình thuật Tin Mừng không cho chúng ta biết tình trạng đó của Mác-cô xảy ra trong khi người ta “dẫn độ” Chúa Giêsu từ Vườn Dầu tới dinh Kha-nan.  Có thể chàng trai trẻ Mác-cô là con của chủ nhân căn biệt thự Ghết-si-ma-ni và thức giấc vì tiếng la hét ồn ào của đám quân dữ.  Có một truyền thống cho rằng mẹ của Thánh Mác-cô là chủ căn nhà mà Chúa Giêsu và các môn đệ ăn Bữa Tiệc Ly.  Nếu truyền thống này đúng về vị trí của Phòng Tiệc Ly và dinh Kha-nan, hẳn là đám quân dữ dẫn tù nhân đi ngang qua Phòng Tiệc Ly.  Căn nhà của mẹ Thánh Mác-cô là một trong những nơi hội họp đầu tiên của các Kitô hữu thời sơ khai.  Đó là nơi mà Thánh Phêrô tới sau khi được thiên thần giải thoát khỏi nhà tù (Cv 12:12).

Chứng cớ chưa đủ thuyết phục, nhưng có điều nhỏ cho biết rằng chàng trai trẻ kia chính là Thánh Mác-cô.  Nếu đúng vậy, chúng ta có thể hình dung sự kiện đó vẫn sống động trong trí nhớ.  Nếu Thánh Mátthêu, Thánh Luca và Thánh Gioan biết điều này, hẳn là họ đã bỏ qua vì thấy không quan trọng.  Đối với Thánh Mác-cô, điều đó giống như một dấu ấn mà chính ông đã ghi dấu trong Phúc Âm do ông viết ra, giống như Thánh Gioan đã nói tới chính mình bằng cách nói “người môn đệ Chúa yêu.”

Lm Ralph Gorman
Trầm Thiên Thu (chuyển ngữ từ CatholicExchange.com)

NGUỒN SỐNG ĐÍCH THỰC 

Người Âu châu thường dùng biểu tượng con bướm để nói về sự phục hồi, tái sinh và phát triển.  Thật là thú vị khi được ngắm những cánh bướm muôn màu vui đùa trong ánh nắng vàng mùa xuân, giữa những bồn hoa đang rực rỡ khoe sắc đua hương.  Những cánh bướm tô điểm cho những đóa hoa vốn đã tươi đẹp càng thêm tươi đẹp hơn.

Nhìn cánh bướm lộng lẫy kiêu sa dưới ánh mặt trời, ít ai ngờ rằng tiền kiếp của con bướm là con sâu sù sì xấu xí khiến ai nhìn thấy cũng phải tránh.  Để được hóa kiếp thành chú bướm xinh đẹp, con sâu phải đau đớn thoát ra khỏi xác thân xấu xí ấy.  Khi còn là loài sâu, đối tượng phá hoại của nó cũng là những cây hoa.  Cây hoa nào mà có sâu thì cành lá tan nát, đóa hoa héo tàn.  Phải chăng vì muốn bù lại hành vi phá hoại ấy, mà nay, một khi hóa thân thành bướm, những chú bướm vuốt ve mơn trớn và tô điểm cho hoa thêm đẹp thêm xinh?

Mùa Chay là mùa biến đổi cuộc đời.  Những hy sinh khổ chế của Mùa Chay nhằm tới sự sống mới, như con sâu lột xác thành con bướm.  Lời Chúa hôm nay muốn nhắn gửi chúng ta sứ điệp của sự sống, để hướng chúng ta tới Đức Giê-su là nguồn sống đích thực.

Con người ngày càng cảm nhận sự mong manh của cuộc sống trần gian.  Như đóa hoa nay còn mai mất, con người sống trên đời chẳng lấy gì bảo đảm mình còn sống đến ngày mai.  Đức tin công giáo dạy chúng ta, người tín hữu, trong cuộc sống trần gian, phải lo tìm kiếm sự sống vĩnh cửu.  Bởi lẽ sự sống không dừng lại ở đời này, nhưng còn tiếp tục sau khi chúng ta kết thúc cuộc đời dương thế.  Bên mộ của ông La-da-rô, Chúa Giê-su đã tỏ bày quyền năng thiên linh cao cả của Người.  Người truyền cho người chết ra khỏi mồ trước sự chứng kiến của thân nhân gia đình và những người làng xóm.  Trong khi Mác-ta, chị của người chết, nói về sự sống lại vào lúc tận thế, thì Đức Giê-su muốn nhấn mạnh tới sự sống lại ngay bây giờ.  Sứ mạng của Chúa Giê-su khi đến trần gian là đưa con người đến sự sống mới.  Sự sống mới ấy chúng ta có thể đạt được ngay ngày hôm nay, khi thành tâm đó nhận giáo huấn của Người.  Sự sống trong ân sủng khi còn ở đời này là bảo đảm cho chúng ta được sống đời đời trong Vương quốc của Chúa.

Tội lỗi giam cầm chúng ta trong những huyệt mộ, khép kín mình, ích kỷ trước tha nhân.  Chúa Giê-su đã đến để thực hiện điều ngôn sứ Ê-dê-ki-en đã loan báo: “Hỡi dân Ta, này chính Ta mở huyệt cho các ngươi…” (Bài đọc I).  Thánh Gio-an diễn tả một Đức Giê-su thực sự là “người.”  Người chạm đến nỗi đau của con người, rơi lệ trước đau khổ của bạn hữu và giúp họ từ nấm mồ bước ra.  Hình ảnh Chúa Giê-su được diễn tả không như một nhà phù thủy, nhưng một Thiên Chúa làm người có trái tim nhân loại, sẻ chia và mang lấy nỗi đau của con người, nhường cho con người hạnh phúc và vinh quang.

Để bước ra khỏi huyệt mộ của tội lỗi, mỗi chúng ta cần phải hy sinh cố gắng, nhiều khi đến mức anh hùng.  Bởi lẽ, thay đổi đời sống, hướng cuộc đời sang một ngã rẽ khác cũng có nghĩa là đoạn tuyệt với quá khứ, dứt bỏ mọi ràng buộc để được sống trong tự do của con cái Chúa, hướng về tương lai tươi sáng trong bình an.  Nhờ cuộc sống mới, họ giống như người đang đi trong ánh sáng mặt trời, không sợ vấp ngã.

Trên con đường trở về với Chúa, nhiều khi chúng ta ngã lòng trông cậy, vì thấy mình tội lỗi thật nặng nề, vì thấy mình chìm sâu trong vũng lầy của sự yếu đuối.  Bà Mác-ta, chị của La-da-rô, mặc dù tuyên xưng đức tin một cách quả quyết, cũng không hy vọng em mình có thể sống lại.  Bà nói với Chúa: “Thưa Thầy, nặng mùi rồi, vì em con đã ở trong mồ được bốn ngày.  Chính trong lúc không một tia hy vọng theo lý luận thông thường của con người, thì quyền năng Thiên Chúa đã được tỏ bày.  Chúa Giê-su đem hy vọng cho con người vào lúc họ cảm thấy bị dồn vào ngõ cụt của cuộc đời.  Một thân xác bắt đầu thối rữa, nhờ quyền năng của Chúa, vẫn có thể được hồi sinh.  Một con người dù tội lỗi tràn trề, nếu biết dừng lại sám hối, vẫn có thể được tha thứ.

Đức Giê-su là nguồn sống của chúng ta.  Phép lạ làm cho ông La-da-rô sống lại vừa là lời chứng minh quyền năng Thiên Chúa của Người, vừa báo trước cho chúng ta về sự phục sinh của Chúa.  Từ cõi chết, người đã chỗi dậy vinh quang sáng láng, là bảo đảm sự sống lại cho những ai tin vào Người.

Những ai đã can đảm và dứt khoát bước ra khỏi huyệt mộ thì sẽ sống một cuộc sống mới.  Cuộc sống ấy không còn bị xác thịt chi phối nữa, tức là không còn bị những đam mê xác thịt ràng buộc và cản trở.  Họ được tự do thanh thoát mặc dù vẫn sống trong thân xác còn mang nhiều yếu đuối.  Chính Chúa Thánh Thần thúc đẩy và đổi mới chúng ta, nhờ đó chúng ta có sức mạnh để vươn lên trong sự sống mới này (Bài đọc II).

Mùa Chay đang tiến dần đến chặng cuối.  Tôi có nghe tiếng Chúa gọi để bước ra khỏi nấm mồ u tối không?  Xin Chúa cho tôi sức mạnh, sự can đảm để vươn tới gặp gỡ Ngài là nguồn sống đích thực.  Một khi được biến đổi nhờ ân sủng của Chúa, tôi sẽ như chú bướm rực rỡ đem vẻ đẹp của mình để tô điểm cho đời, bù lại những tội lỗi của thời đã qua.

“Từ vực thẳm, con kêu lên Chúa…”  Lời ca nói lên thân phận bi thảm của con người.  Lời ca cũng diễn tả niềm hy vọng vào lòng từ bi của Chúa.  Chính Người sẽ giải thoát chúng ta.

TGM Giuse Vũ Văn Thiên

CHẾT

Là người như bao nhiêu người, Chúa Giêsu cũng xót thương, cũng rung động trước nỗi mất mát của người thân, của bạn hữu.  Và Chúa đã thật sự xót thương, thật sự rung động trước cái chết của chàng trai Lazarô, bạn của Chúa.  Thế nhưng điều mà Tin Mừng muốn nói không dừng lại ở việc Chúa xúc động.  Vượt trên cái chết rất đỗi bình thường của Lazarô, là sự khẳng định quá sức phi thường của Chúa Giêsu: “Ta là sự sống lại và là sự sống.  Ai tin Ta, dù có chết cũng sẽ được sống.  Và kẻ nào sống mà tin Ta, sẽ không chết bao giờ.”

Nhưng lời khẳng định của Chúa có xác đáng không, khi mà thực tế, chết là đau xót, là chia cắt?  Chứng kiến cái chết của người thân nhiều khi làm lòng ta se thắt lại.  Ta muốn làm một cái gì đó để cứu giúp họ nhưng hoàn toàn bó tay.  Thử hỏi lời Chúa Giêsu: “Ai tin Ta, dù có chết cũng sẽ được sống.  Và kẻ nào sống mà tin Ta, sẽ không chết bao giờ” có là lời chân thật?  Nếu đó là lời xác đáng, thì sự sống mà Chúa Giêsu nói là sự sống nào mà lại “không chết bao giờ”?

Trong một bài viết mang tên Cõi đi về, mở đầu cho những lời ngậm ngùi tiếc xót một Chủng sinh đã an giấc, linh mục Giuse Nguyễn Hữu An không giấu nổi niềm đau của mình: “Mọi đám tang đều gieo vào lòng tôi một nỗi buồn tê tái.”  Nhất là nhìn cảnh Thầy – “một thanh niên đang tuổi xuân ra đi mà mẹ già mắt mờ, lưng còng, tóc bạc đưa tiễn,” thì “chỉ có đau thương, chỉ có buồn sầu và tiếng khóc, chỉ có nghẹn ngào và nước mắt” là đúng lắm.  Chết là một mất mát.  Lứa tuổi cao niên, chết vẫn thấy đời người dang dở, lứa tuổi xuân thì còn dang dở biết bao nhiêu!

Cái chết của Lazarô, người bạn của Chúa Giêsu, người được gọi là “người Thầy yêu,” không chỉ làm cho hai chị của mình và những người quen biết khóc thương, mà còn làm cho Chúa Giêsu, dù biết rằng sẽ cho anh sống lại, cũng đã “thổn thức và xúc động.”  Điều đó càng làm nổi bật cái bi, cái khổ của nỗi chết.

Nếu chỉ suy nghĩ như thế thôi, lời của Chúa Giêsu: “Ai tin Ta…”, đúng là không xác đáng.

Nhưng không đúng!  Lời ấy phải được suy niệm bằng đức tin, vì là lời của ĐỨC TIN.  Chúa không hề bảo rằng: “Ai suy nghĩ về Ta…”, mà lại nói rằng: “Ai tin Ta…”.  Vì thế đọc Lời Chúa, bạn và tôi đừng dừng lại ở chỗ chỉ suy nghĩ mà hãy tiến xa hơn đến chỗ suy niệm.  Vì điều quan trọng không nằm ở chỗ biết suy nghĩ, nhưng quan trọng là suy nghĩ trong đức tin.  Chỉ trong đức tin, lời của Chúa Giêsu không những là lời xác đáng mà còn là lời ban niềm hy vọng.  Một niềm hy vọng mãnh liệt vào sự sống phía sau cái chết, một sự sống “không chết bao giờ.”

Không ai sinh ra là để sống ở trần gian đời đời cả, nhưng sinh ra để rồi chết.  Nếu không có đức tin, không mảy may biết một chút gì đến sự sống đời sau, thì rõ ràng, cuộc đời là bi đát.  Vì sao lại bi đát?  Là vì cuộc sống trần gian giống như một chuyến đi.  Ở cuối hành trình của cuộc đời mỗi người không phải danh vọng, địa vị, hưởng thụ, giàu sang, tiền rừng, bạc bể…, mà là cái chết.  Chấm dứt tất cả.  Giết chết tất cả.  Bị cướp mất tất cả.

Trong cái chết, có lẽ con người ta cô đơn nhất.  Dẫu có hai người sát cạnh nhau cùng chết, cũng khó có thể nói rằng: chết cùng, chết với.  Mỗi người là một cái chết, rất tư riêng, không bao giờ hòa trộn, không bao giờ lẫn lộn.  Trong cái chết, con người ta trở thành nghèo nhất: bỏ lại tất cả, chỉ có hai bàn tay trắng.  Điều còn lại chỉ là một cái xác không hồn.  Nhưng cái xác không hồn này rồi cũng phải bị vùi dập, hay thiêu đốt lập tức, vì nó sẽ thối rữa đến tan nát, đến mất mát, đến không còn gì.  Rõ ràng bi đát, rất bi đát…

Nhưng người Kitô hữu có đức tin.  Họ xác tín mạnh mẽ vào Đấng là Thiên Chúa đã làm người chia sẻ đến cùng kiếp sống con người của họ.  Người đã chết thật, nhưng đã đi bước trước để dạy họ bài học của sự sống đàng sau cái chết: đó là chính Chúa đã sống lại thật.  Sự sống đàng sau cái chết mới là sống thật, sống vĩnh cửu.  Một sự sống không có sự chết.  Đấng Phục Sinh ấy, hôm nay, trong Tin Mừng, đã nói một cách tường tận, thẳng thắn với Martha, cũng là nói với bạn và tôi: “Ta là sự sống lại và là sự sống.  Ai tin Ta, dù có chết cũng sẽ được sống.  Và kẻ nào sống mà tin Ta sẽ không chết bao giờ.”

Tin vào Đấng tự mình phục sinh và hứa ban ơn phục sinh cho những ai tin, người Kitô hữu cảm nhận bình an trong cuộc sống.  Đức tin giúp họ hiểu rằng, cái chết chỉ là một sự biến đổi để trở về cùng Thiên Chúa.  Nhờ đức tin, chúng ta nhận ra ý nghĩa của cuộc đời.  Những cố gắng xây dựng cuộc đời sẽ cho ta hạnh phúc tương lai.  Nếu hiểu như thế, cuộc đời không bi đát, nhưng đáng yêu.

Bạn và tôi có quyền hy vọng điều mà Chúa đã hứa: “Ai tin Ta sẽ không chết đời đời!”

Đức tin là chìa khóa mở cửa cho niềm hy vọng của chúng ta.

Lm Vũ Xuân Hạnh

CUỘC KHỔ NẠN NỘI TÂM CỦA CHÚA GIÊSU

Chúng ta được thánh hóa là nhờ Giá Máu cứu chuộc của Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa.  Nhưng chúng ta thường chỉ “chăm chú” vào Cuộc Khổ Nạn của Chúa về phương diện thể lý chứ không đi sâu vào ý nghĩ và nỗi đau nội tâm mà Chúa Giêsu phải chịu đựng vì chúng ta. Suy tư của tác giả Alexandra Reis hay quá!  Xin được giới thiệu với quý vị.

CHÚA GIÊSU TẠI VƯỜN DẦU

Một điểm để suy nghĩ khi Chúa Giêsu phát hiện các đệ tử ngủ hết trơn.  Ngài hỏi ông Phêrô: “Thế ra anh em không thể canh thức nổi với Thầy một giờ sao?” (Mt 26:40).  Trong sự khôn ngoan vô cùng của Ngài, Chúa Giêsu không bao giờ muốn chúng ta nói: “Thầy không cảm thấy thế nào sao?”  Do đó, Ngài vẫn để cho các môn đệ thân tín bỏ rơi Ngài.  Ngài có thể làm cho họ tỉnh thức, nhưng Ngài muốn cho chúng ta thấy rằng luôn có ai đó tỉnh thức trong đêm tối, người đó chia sẻ những nỗi đau của chúng ta và an ủi chúng ta trong mọi nỗi đau khổ hằng ngày.  Ngài muốn nói rằng trong những lúc đen tối nhất và lầm lẫn nhất, Ngài luôn có ở đó, ngay cả khi cả thế giới đang ngủ yên.

CHÚA GIÊSU BỊ XÉT XỬ

“Sự thật là gì?” (Ga 18:38).  Câu hỏi này được Phi-la-tô hỏi Chúa Giêsu khi xét xử Ngài.  Lúc đó, Chúa Giêsu trả lời mọi câu hỏi dành cho Ngài, nhưng Ngài không trả lời câu hỏi này: “Ông là ai, là vua ư?”  Tại sao?  Vì Ngài là Sự Thật.  Thiên Chúa biết chúng ta thường nghi ngờ chính Ngài và Ý Ngài, nên Ngài muốn cho chúng ta thấy cái gì đó hữu hình: Ngài sai Chúa Con tới thế gian.  Có thể Ngài không trả lời vì biết tầm hiểu của Phi-la-tô có giới hạn.  Cũng như sau khi chữa lành người mù, Chúa Giêsu nói: “Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù!” (Ga 9:39).  Ngài chỉ trao ban Sự Thật cho những ai xin được biết, chứ không ban cho những người cho là mình biết rồi.  Ngài im lặng để những người thấy mà tin.

CHÚA GIÊSU BỊ TRÓI VÀO CỘT ĐÁ VÀ BỊ ĐÁNH ĐÒN

Lúc này, “Vua các vua” bị hành hạ dữ dội khi hai tay bị trói chặt vào cột đá, nhưng Ngài nghĩ gì?  Ngài bị giết chết vì chúng ta, tất nhiên Ngài nghĩ về chúng ta.  Nhưng không chỉ là nhân loại nói chung, mà nghĩ một cách đặc biệt.  Ngài vô thủy vô chung, nên Ngài cũng nghĩ tới riêng từng người sẽ xuất hiện trên thế gian này.  Thánh Tâm Ngài bị đè nặng vì tội lỗi của cả thế giới, với thân thể trần truồng và yếu đuối bị treo trên Thập Giá, Ngài vẫn luôn nghĩ tới chúng ta, hy vọng một ngày nào đó mỗi chúng ta đều trở thành đại thánh nhân.  Với ý nghĩ này, Ngài không nề đổ máu đến giọt cuối cùng vì Ngài quá đỗi yêu thương chúng ta.  Tại sao chúng ta sợ khi cuộc sống gặp trắc trở?  Ngài vẫn đợi chúng ta ở đó để được nghe chúng ta kêu xin.  Đừng để Ngài phải chờ đợi lâu!  Chúng ta hãy cố gắng đáp lại tình yêu của Ngài luôn dành cho chúng ta!

CHÚA GIÊSU CHỊU ĐỘI VÒNG GAI

Bao đau khổ vẫn chưa đủ với Chúa Giêsu.  Ngài biết chúng ta không đủ can đảm khi bị người ta khinh miệt và vu khống, thế nên Ngài quyết định “bù lỗ” cho chúng ta.  Đức cố Tổng Giám Mục Fulton Sheen nói rằng không chỉ Thánh Thể hóa tiều tụy mà còn chịu tơi tả thảm thương, vòng gai nhọn đặt lên đầu Ngài, những chiếc gai sắc đâm thấu óc đến nỗi có thể chết ngay được.  Không chỉ vậy, Ngài còn bị mỉa mai vì yêu thương chúng ta.  Cứ tưởng tượng cũng thấy nổi gai óc, nổi da gà rồi!  Ngài muốn cảnh báo chúng ta rằng chúng ta cũng sẽ bị mỉa mai nếu chúng ta bảo vệ Sự Thật và Công Lý, nhưng Ngài ban cho chúng ta niềm hy vọng (đức cậy) và mặc khải rằng thế gian này không phải là nơi ở của chúng ta.

CHÚA GIÊSU VÁC THẬP GIÁ

Sau khi bị lột áo, Ngài còn phải vác Thập Giá.  Thập Giá này không chỉ để đóng đinh Ngài cho tới chết, mà Ngài còn vác thập giá của cả nhân loại, của mỗi chúng ta.  Trên Thập Giá, Ngài hy sinh vì chúng ta, và qua đó, Ngài thánh hóa bổn phận hằng ngày của chúng ta, cho chúng ta biết con đường thập giá gian nan lắm.  Ngài đã phải ngã ba lần, nhưng Ngài vẫn cố đứng dậy để chúng ta biết rằng chúng ta cũng nhiều lần quỵ ngã vì phạm tội, nhưng chúng ta phải đứng dậy ngay.  Sức khỏe Ngài rất yếu khi Ngài vác Thập Giá, ông Simon (người Ky-rê-nê) bị bọn thủ ác “bắt cóc” vác đỡ Thập Giá cho Ngài.  Điều này cho thấy rằng thập giá không bao giờ là quá nhiều để chúng ta không thể vác nổi, chúng ta vẫn luôn được vác đỡ.  Qua đó, Ngài cho chúng ta thấy rằng chúng ta phải cố gắng sống kiên trì, hy vọng và yêu thương.

CHÚA GIÊSU BỊ ĐÓNG ĐINH

Cuối cùng là cao điểm của sự hành hạ.  Bị treo trên Thập Giá rồi mà Ngài vẫn đại lượng:“Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm (Lc 23:34).  Chúng ta không thể nào tưởng tượng nổi điều này.  Tình yêu phải rất lớn thì mới có thể tha thứ kẻ thù.  Nhưng đó cũng là “tiêu chuẩn vào Nước Trời.”  Ngài tha thứ như vậy vì Ngài nghĩ tốt cho những người hành hạ và nguyền rủa Ngài, nghĩ tốt cho chúng ta, rằng họ đang ăn năn và đã lỡ “quá tay.”  Đây là lý do chính mà Chúa Giêsu chịu chết vì chúng ta, Ngài nghĩ về chúng ta, Ngài muốn thể hiện tình yêu trọn vẹn và sự tha thứ trọn vẹn cho những người thành tâm sám hối đền tội mình, Ngài cũng nói như vậy với chúng ta và chúc lành cho những người sám hối.  Ngài bênh vực rằng chúng ta lầm mà thôi.  Lạy Chúa của con!

CHÚA GIÊSU CHỊU CÔ ĐƠN

“Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” (Mt 27:46; Mc 15:34).  Đó là động thái cuối cùng của Lòng Thương Xót dành cho chúng ta trong Cuộc Khổ Nạn của Ngài.  Qua đó, Ngài đền bù và sửa chữa mọi trái tim bị bỏ rơi trên thế giới.  Ngài chịu cảm giác đơn độc đến nỗi chúng ta không thể tưởng tượng nổi.  Ngài cô độc và vô vọng để trao niềm hy vọng cho những người bị khinh miệt, không có bạn, bị bỏ rơi, bị mỉa mai, nhưng không ban niềm an ủi cho những người kiêu căng và tự phụ.  Tại sao?  Vì “họ đã được phần thưởng rồi” (Mt 6:2, 5 & 16).  Chúng ta hãy hướng về Chúa trong những lúc đen tối nhất của cuộc đời và hãy cố gắng sống thánh thiện để đáp lại tình yêu của Ngài.

CHÚA GIÊSU TRÚT HƠI THỞ

Và thế là hoàn tất.  Đỉnh cao của Cuộc Khổ Nạn là lúc Chúa Giêsu trút hơi thở cuối cùng.  Sự hy sinh vô hạn được Ngài dành cho chúng ta để cứu độ chúng ta.  Vì thế, chúng ta phải cố gắng hy sinh để ngày mai xứng đáng vào Nước Trời, Vương quốc Vĩnh hằng.  Bạn muốn nên thánh tới mức nào khi suy niệm Cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu?  Mùa Chay là dịp nhắc nhở chúng ta Về Quê Thật.  Trước tiên, chúng ta phải đi xuyên suốt Hành Trình Khổ Nạn để đạt tới Đích Phục Sinh.  Như vậy, chúng ta hãy cố gắng nên thánh trong Mùa Chay Thánh này.  Hãy trao chính mình cho Thiên Chúa, đừng bắt Ngài chờ đợi trong Vườn Dầu Linh Hồn chúng ta.

Xin Thiên Chúa chúc lành cho tất cả chúng ta trong Mùa Chay Thánh này để hoàn thiện như Ngài!

Alexandra Reis
Trầm Thiên Thu (Chuyển ngữ từ IgnitumToday.com)

KHỞI ĐI TỪ VỰC THẲM BẤT XỨNG

“Lạy Chúa, xin xót thương con là kẻ có tội!”

A. Simpson viết, “Cầu nguyện là sợi dây liên kết con người với Thiên Chúa, là cây cầu bắc qua mọi vùng vịnh, giúp bạn vượt mọi thung lũng hiểm nguy! Chúa không cần những con người vĩ đại, Ngài cần những con người dám chứng tỏ sự vĩ đại của Ngài. Vì thế, lời cầu mạnh mẽ nhất là lời cầu ‘khởi đi từ vực thẳm bất xứng’ của một linh hồn dám chứng tỏ sự vĩ đại của Ngài!”

Kính thưa Anh Chị em,

“Lời cầu mạnh mẽ nhất là lời cầu ‘khởi đi từ vực thẳm bất xứng’ của một linh hồn!”  Đúng thế, lời cầu của người thu thuế trong Tin Mừng hôm nay, “Lạy Chúa, xin xót thương con, vì con là kẻ có tội!” là một trong những lời cầu đó; nó cũng là cao điểm của dụ ngôn Tin Mừng này.

Thật trùng hợp, qua bài đọc thứ nhất, ngôn sứ Hôsê cho biết, Thiên Chúa thấu suốt lòng dạ con người; Ngài chỉ muốn một điều, tình yêu, “Ta muốn tình yêu, chớ không cần lễ tế.  Ta muốn sự hiểu biết Thiên Chúa hơn là của lễ toàn thiêu.”  Thánh Vịnh đáp ca cũng chỉ lặp lại ngần ấy!

Khác với điều Thiên Chúa muốn, người biệt phái trong dụ ngôn đã làm điều ngược lại; ông quá nặng về ‘lễ tế.’ Ông nghĩ, ông đã đến đúng nơi, quy về đúng hướng, và đang làm điều đúng đắn!  Thế nhưng, lời cầu của ông đã bị bóp méo, bởi ông chỉ độc thoại, mà không đối thoại.  Ông kể công với Chúa; tệ hơn, coi Ngài như ‘Con Nợ’ của mình; tệ hơn nữa, ông lấy ‘kỳ tích’ của bản thân để so sánh và khinh dể kẻ khác.  Thực ra, đó không phải là cầu nguyện; đó là diễn văn!  Dẫu ông không phải là người xấu; ông không phạm tội trọng, ông thuỷ chung và rộng lượng… nhưng chỉ có một điều, lòng kiêu hãnh của ông đã khiến ông mù loà đến độ xúc phạm Thiên Chúa, xúc phạm tha nhân.  Ông sống tôn giáo của mình một cách tối thiểu để không phạm tội; ông không biết rằng, Thiên Chúa không bao giờ thoả mãn ‘mức tối thiểu trần!’  Lời cầu nguyện ông là ‘vô trùng’, khi ông quên rằng, Chúa chỉ “muốn tình yêu, chứ không cần lễ tế!”

Đang khi nhân vật thứ hai của dụ ngôn cũng lên đền thờ, một người thu thuế!  ‘Vai phụ’ này “khi ra về thì được khỏi tội”, Chúa Giêsu đã tiết lộ!  Người này “khỏi tội” không phải vì đã làm những điều đúng đắn, nhưng vì đã khiêm hạ nhận ra rằng, mình đã làm những điều sai trái!  Lời cầu của ông ‘khởi đi từ vực thẳm bất xứng’ trước một Đấng Vĩ Đại Toàn Thánh.  Và có lẽ, ông đã nghe những gì người biệt phái tố cáo, và điều này càng làm ông tê tái hơn; từ đó, ông chìm vào đáy vực linh hồn khốn khổ của mình, và bòn chút tàn hơi, ông đấm ngực van vỉ, “Lạy Chúa, xin xót thương con là kẻ có tội!”  Lạ thay, điều này đẹp lòng Thiên Chúa, và Ngài thích thú với nó!

Anh Chị em,

“Lạy Chúa, xin xót thương con là kẻ có tội!”; “Chúa không cần những con người vĩ đại, Ngài cần những con người dám chứng tỏ sự vĩ đại của Ngài!”  Nhìn nhận mình tội lỗi là chứng tỏ sự vĩ đại của Thiên Chúa, Đấng cần tình yêu, lòng thống hối và quyết tâm chừa lỗi!  Đừng quên, “Lời cầu mạnh mẽ nhất là lời cầu ‘khởi đi từ vực thẳm bất xứng’ của linh hồn!”  Đến gần Chúa, chúng ta nhận biết sự vĩ đại và tốt lành của Ngài; đồng thời, nhận ra tội lỗi yếu hèn của bản thân.  Đây là điều làm cho lời cầu của chúng ta có kết quả; vì chỉ những ai tự nhận mình không có gì mới có thể nhận được tất cả; chỉ những ai trống rỗng mới có thể được lấp đầy.  Mùa Chay, mùa bạn và tôi nhìn lên thập giá Chúa Kitô; đồng thời, nhìn xuống lòng mình, ‘khởi đi từ vực thẳm bất xứng’ của linh hồn, và chân thành thưa lên, “Lạy Chúa, xin xót thương con là kẻ có tội!”

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, Chúa biết con hơn cả con biết con!  Mỗi khi con cầu nguyện, cho con không ‘khởi đi từ cái tôi dị hợm’ của con, nhưng ‘khởi đi từ vực thẳm bất xứng’ của linh hồn mình!” Amen.

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế