NHÌN BẰNG ĐÔI MẮT KHÁC

ZZCó bao giờ bao giờ bạn nhìn đời bằng đôi mắt khác?  Có những người đã nhìn thế giới bằng đôi mắt của những người vô gia cư, họ cảm thấy bản thân cần khiêm tốn hơn, biết đón nhận người khác hơn.  Qua đôi mắt của các em bé bị khuyết tật, có người đã cảm nghiệm được niềm vui nơi các em dù cuộc sống của các em có nhiều mất mát.  Qua đôi mắt của những người bệnh nhân phong cùi, có người đã nhận ra rằng dù khuyết tật về hình thể nhưng những người bệnh nhân phong đã có được tất cả.  Những trải nghiệm tốt đẹp này bắt đầu bằng lòng khao khát nhìn thế giới bằng đôi mắt của người khác.

Nhìn bằng đôi mắt của người khác là ta đang ra khỏi bản thân của ta để nhìn về chính ta, nhờ đó mà biết ta hơn.  Khi ra khỏi chính ta, đặt ta trong cái nhìn của người khác, ta thấy được con người thực sự của ta.  Khi nhìn bằng con mắt của người khác, ta sẽ tái hiện chính mình để từ đó, ta thấy mình thực sự là ai?  Ta đang khao khát điều gì?

Hàng ngày, có biết bao nhiêu người vì mải lo toan với cuộc sống mà quên đi những gì tốt đẹp đang diễn ra.  Người ta thường quên ý thức về mình, quên đi những gì họ đang nói, những việc họ đang làm.  Đôi khi họ giận dữ và để cho cơn giận dữ điều khiển chính mình hơn là quan sát cơn giận dữ đang diễn ra như thế nào trong tâm hồn của họ và kiểm soát cơn giận dữ ấy.

Qua đôi mắt của người khác, ta không chỉ quan sát cái vẻ bề ngoài như vẫn làm hàng ngày khi soi gương nhưng ở mức cao hơn, ta khám phá ra những gì đang diễn ra bên trong con người của ta.

Từ đôi mắt của người khác, ta nhìn về chính ta có nghĩa là ta không còn coi bản thân là trung tâm của đời ta.  Người ta thường dễ dàng xem họ là trung tâm của câu chuyện.

“Tôi thấy phải như thế này…”
“Công việc này là của tôi…”
“Mọi việc phải theo ý tôi…”

Những câu nói quen thuộc như thế vẫn luôn diễn ra trong đời sống hằng ngày.  Vẫn biết rằng, những câu nói ấy là thể hiện sự quyết đoán trong công việc nhưng đôi khi từ cái nhìn “tôi là trung tâm” ấy đã dẫn đến những hệ lụy không đáng có.  Những hệ lụy đó có thể là những bất hòa do thiếu sự đồng cảm với những khuyết điểm của người khác, hoặc có thể là sự bất mãn do người dưới cảm thấy sự áp đặt quan điểm cá nhân của người trên.

Chính vì tự coi mình là trung tâm dẫn đến ý nghĩ “Tôi là nguyên nhân chính của những thất bại.”  Ý nghĩ này dẫn đến nhiều trường hợp tự tử vì thất bại trong việc học hay vì không chịu đựng được áp lực đè nặng của công việc.  Ý nghĩ này biểu hiện thái độ người ta đã không ra khỏi chính họ để nhìn về họ bằng đôi mắt của người khác.  Nếu nhìn từ đôi mắt của những người yêu thương họ, những người đang mong muốn họ có được niềm vui hơn là đau khổ thì hẳn họ sẽ có được một thái độ khác.

Nhìn thế giới bằng đôi mắt của người khác cần có nhận định và khôn ngoan.  Ta không nên nhìn cuộc sống này bằng đôi mắt của những con người ích kỷ, hẹp hòi, hay có thái độ bi quan trong cuộc sống, nhưng cần nhìn bằng đôi mắt của những con người biết yêu thương vô vị lợi, sẵn sàng cho đi chứ không nhận lấy, những con người biết sống hết mình vì người khác, bởi với đôi mắt của những con người luôn có thái độ tiêu cực trong cuộc sống sẽ khiến ta đánh mất đi chính mình, và lại giam cầm ta trong nhà tù của sợ hãi và lo lắng.  Trong khi đó, với đôi mắt của những con người có cái nhìn tích cực về cuộc sống, ta có được niềm vui và hạnh phúc.

Thế giới ngày nay đang cần một cái nhìn bằng đôi mắt của người khác.  Những cuộc chiến tranh đẫm máu, những vụ khủng bố, những bất công xã hội, tình trạng tham nhũng… là do người ta đang nhìn từ đôi mắt của chính họ chứ không phải đôi mắt của những nạn nhân đang phải gánh chịu những hậu quả đau đớn.  Nếu thực sự nhìn từ đôi mắt của các nạn nhân, ắt hẳn người ta sẽ suy nghĩ khác đi và mong muốn đem lại sự ổn định và hòa bình cho mọi người.

Nhìn thếgiới qua đôi mắt khác mời gọi ta ra khỏi chính ta, ra khỏi vùng an toàn của ta, và chọn lựa cho ta đôi mắt phù hợp để có thể sống vui trong cuộc sống này cũng như đem niềm vui đến với người khác.

Đức Thiện, Dòng Tên
Theo Ephata

QUẢNG ĐẠI VÀ TỰ DO

Người nghèo thường quảng đại và sẵn sàng quên mình để giúp đỡ người khác.  Họ tự do với bạc tiền danh lợi, nên có thể tin vào con người và sẵn sàng yêu thương phục vụ hơn.

Hãy coi chừng

Chúa Yêsu nói với mọi người: “hãy coi chừng” những ông kinh sư, họ thích mặc áo thụng xúng xính khác người, thích được chào hỏi, thích ngồi chỗ nhất, nhưng lại “nuốt” hết tài sản của các bà góa, lại còn giả bộ đọc kinh lâu giờ.

Không phải chỉ những ông kinh sư thời Đức Yêsu thích rồi làm như vậy, mà con người ngày nay cũng vậy nữa: Cũng tham của người, ham danh hám lợi, và hay giả bộ “đạo đức”.  Nếu đạo đức thật, mà người ta thấy thì cũng tốt vì làm gương sáng; còn nếu không đạo đức mà lại làm như thể đạo đức, là giả hình.  Hãy coi chừng.

Nếu ai thích khen, người đó có thể bị điều khiển bằng lời khen; nếu ai tham của, người đó có thể bị mua chuộc bằng tiền của.  Người đó đang bị nô lệ, bị sai khiến bởi tiền bạc danh vọng chức quyền.  Người đó tưởng họ đang tự do, nhưng thực sự họ đang nô lệ và bị điều khiển mà họ không biết.  Hãy coi chừng.

Nếu bạn không nô lệ những điều đó, thì hạnh phúc biết bao!

ZZNgười nghèo quảng đại

Tiên tri Elia trên đường lánh nạn đã được Chúa truyền đến sống nhờ một bà goá nghèo.  Cũng có thể nói bà goá nghèo và con bà sống nhờ tiên tri, vì chính nhờ tiên tri mà hũ bột không cạn và hũ dầu không vơi.   Đúng hơn Thiên Chúa thương cả tiên tri lẫn bà goá nghèo nên đã nuôi sống tất cả.

Bà goá chỉ còn một nhúm bột và một chút dầu, lượm củi làm cái bánh cuối cùng để “ăn rồi chết”, thế mà bà vẫn tin lời tiên tri, làm cho ông một cái bánh trước khi làm cho con bà và chính bà.  Cách hành xử của bà goá này rất đẹp.  Tôi có đơn sơ tin người và sẵn sàng giúp người như bà goá nghèo này không?  Thiên Chúa quá tuyệt.

Bà goá trong Tin Mừng được Đức Yêsu khen là quảng đại, dám dâng cúng tất cả những gì mình có.  Có người nói rằng: “vì bà goá chỉ có mấy xu nên dễ dàng để dâng cúng tất cả, còn nếu bà goá này thật giầu thì chắc bà chẳng dám bỏ tất cả đâu”!  Cũng có thể như vậy, nhưng “những người quảng đại” thường nghèo; có lẽ họ “hay cho” nên mới không giầu.  Bà goá đó không giầu được vì bà luôn cho tất cả, dù khi bà có hai xu hay có nhiều hơn hai xu, có lẽ chưa khi nào bà giữ cho mình được mười đồng vì bà vẫn cho những gì bà có.  Thiên Chúa cũng cho con người tất cả, ngay cả điều qúy nhất là Chúa Con và Thánh Thần.

Những người “ham tiền” thường ky cóp và không bỏ ra ngay cả một xu!

Người nghèo dễ tự do để chọn theo Thiên Chúa hơn

Có mấy người hiểu được hạnh phúc của người nghèo?  Có mấy người hiểu được người nghèo tự do đến mức nào?  Trong cuộc sống, bao nhiêu quyết định bị chi phối bởi sợ người này hay không dám làm mất lòng người kia, sợ người khác hiểu lầm mình, sợ người khác không còn đánh giá mình cao nữa, sợ người khác biết sự thật về mình.  Vì sợ nên không được tự do.

Xin Chúa cho con nghèo, để con không còn gì để phải sợ, để con chỉ còn biết sống theo Chúa theo sự thật, để chỉ bị tình yêu thương chi phối mà thôi.

LM Giuse Phạm Thanh Liêm

ĐỜI NGƯỜI CHIẾC LÁ

Những ngày cuối tháng 10, Đất Thánh các Giáo xứ đông người đi tảo mộ.  Bên người thân yêu đang an nghỉ, con cháu, thân nhân thành kính đốt nến thắp nhang, hiệp thông cầu nguyện.

ZZMỗi chiều, tôi ra Đất Thánh của Giáo xứ cùng mọi người dọn dẹp cỏ rác, phát quang bụi rậm, sữa sang lễ đài, chuẩn bị cho ngày lễ các đẳng linh hồn.

Nhìn những chiếc lá vàng rơi rụng khắp Nghĩa Trang, tôi nghĩ về mùa thu, nghĩ về đời người và chiếc lá.

Nhớ bài thơ của thi sĩ Lưu Trọng Lư:

Em nghe không mùa thu.
Lá thu rơi xào xạc.
Con nai vàng ngơ ngác.
Đạp trên lá vàng khô.
(Tiếng thu)

Màu vàng của lá, màu úa của cỏ, nắng nhạt gió chiều là hình ảnh đặc trưng của mùa thu.  Mùa “chịu tang” của những chiếc lá vàng.  Ngồi nhìn lá rơi, mỗi chiếc lá chọn cho mình một cách “chia tay.”  Có những chiếc lá ra đi trong sự quằn quại khổ đau, dùng dằng bịn rịn như thể không muốn lìa cành; có những chiếc lá “hấp hối” loạng choạng buông mình cách nặng nề nghiêng ngả trên mặt đất.  Lại có những chiếc lá ra đi cách nhẹ nhàng trong dáng điệu thướt tha buông mình theo gió.  Những chiếc lá khác không bàng hoàng hối hả mà chậm rãi, thanh thản, an nhiên rơi mình trên thảm cỏ xanh như thể một bông hoa say trong giấc ngủ yên lành.  Một đời lá mong manh, chóng tàn phai rụng xuống.  Mới đó, lá còn xanh tươi, mà nay đã úa vàng lìa cành.

Đời người có khác chi một chiếc lá cuối thu.  Có những người ra đi trong bấn loạn, hối tiếc, khổ đau, nặng nhọc.  Lại có người ra đi về với cội nguồn một cách thanh thản nhẹ nhàng thanh thản.  “Lá rụng về cội.”  Lá rơi bên gốc cây.  Lá chờ đợi một quá trình sinh học để trở thành dinh dưỡng nuôi cây.  Lá góp thân xác tàn úa để trả ơn cho cây.  Đời lá ngắn ngủi mà đầy ý nghĩa nhân sinh.

Nhìn lá vàng rơi, ta nhớ lời Thánh Kinh: “Có thời sinh ra, có thời chết đi” (Gv 3,2).  Mỗi loài thụ tạo đều có thời hạn của nó.  Đời người như chiếc lá mỏng manh, ngắn ngủi.  Chỗ dựa trần gian chẳng an toàn vững chắc. Tiền bạc vật chất, bằng cấp, kiến thức, chức quyền đều chóng tàn phai.  Sức khoẻ, sắc đẹp hao mòn rồi rệu rã theo tuổi đời năm tháng.

Nhìn lá vàng rơi, ta nhận ra sự thật cay đắng nhất của đời người là sự chết.  Nó chẳng từ ai, chẳng thương tiếc ai.  Nó đến bất ngờ làm ta bang hoàng.  Phải bỏ lại tất cả mọi thứ ta gắn bó và gom góp suốt đời để ra đi với hai bàn tay trắng.  Cái chết của mỗi người là một chuyến đi cuối cùng.  Một chuyến đi quyết định và quan trọng.  Một chuyến đi vĩnh viễn không bao giờ trở lại.  Một chuyến đi một vài tuần về thăm quê nhà, một chuyến đi nghỉ hè đôi ba ngày… tôi đã phải sắp xếp chuẩn bị nhiều ngày, có khi nhiều tuần ….  Nhưng tôi đã chuẩn bị được những gì cho chuyến đi cuối cùng và thật quan trọng của cuộc đời tôi?  Tôi có nỗ lực để xắp xếp chuẩn bị cho chuyến đi vĩnh viễn và không bao giờ trở lại này không?

Nhìn lá vàng rơi, ta nhớ lời Thánh Vịnh: “Đời sống con người giống như cây cỏ, như bông hoa nở trên cánh đồng, một cơn gió thoảng đủ làm nó biến đi, nơi nó mọc không còn mang vết tích” (Tv 102,15-16).  Dù văn minh đến dâu, con người vẫn không thắng nổi cái chết bằng sức mạnh của khoa học kỹ thuật.  Giàu nghèo sang hèn, trí thức hay bình dân, văn minh hay lạc hậu… ai ai rồi cũng phải chết.  Đứng trước cái chết, mọi người đều bình đẳng.  Sống là chuẩn bị cho con người đi về với cái chết.  Suy tư về cái chết là suy tư về sự sống.  Chết là một phần của sự sống bởi lẽ trong sự sống đã có sự chết.  Nó là cánh cửa nối liền hai thế giới như cửa sông đưa giòng nước vào nguồn biển rộng.  Cứ theo định luật tự nhiên, con người được sinh ra, lớn lên, già đi và chết.  Đó là định luật chung của con người.  Không ai có thể sống mãi mà không chết.  Các vua chúa ngày xưa đã cố công đi tìm thuốc trường sinh bất tử nhưng họ cũng chết.  Để sống cách trọn vẹn, phải can đảm chấp nhận sự sống lẫn sự chết.  Đời người ngắn ngủi như chiếc lá như lời Thánh Vịnh:

Đời con là một kiếp phù du,
Loài người Chúa dựng nên thật mỏng manh quá đỗi.
Sống làm người ai không phải chết,
Ai cứu nổi mình thoát quyền lực âm ty?
(Tv 88,48-49)

Con người không có quyền gì trên sự chết và sự sống.  Sống và chết là kỳ công và đều bởi Thiên Chúa.  Sự sống là mong manh, thế mà Thiên Chúa lại phải đánh đổi bằng máu của các tiên tri, bằng mạng sống của Con yêu dấu là Chúa Giêsu.

Nhìn lá vàng rơi ta nghĩ về cuộc đời lữ thứ.  Xin đừng mưu mô tính toán mà làm gì.  Xin đừng chia rẽ và thù ghét làm chi.  Cuộc đời này thật ngắn, tiền bạc trên thế gian này nhiều lắm, bàn tay ta có tham mấy cũng chẳng vơ vét hết được.  Rồi đến lúc bàn tay xuôi xuống, lạnh cóng, cô đơn, chẳng nắm giữ được gì.

Để có được sự ra đi trong thảnh thơi nhẹ nhàng và đong đầy niềm tin hy vọng ngày mai tươi sáng, ta hãy định nghĩa cuộc đời mình bằng sự “hiện hữu”, đừng bao giờ là sự “sở hữu”.  Ta hãy chọn phương châm “sống với” chứ đừng “sống vì”.  Thấu cảm được ý nghĩa về cuộc đời thì ta mới nhẹ nhàng, thanh thản ra đi mà không vướng bận, không ưu phiền.  Như ai đó đã từng nói: “Ngày ta sinh ra đời, mọi người cười ta khóc.  Hãy sống như thế nào để khi ra đi mọi người khóc ta cười”.

LM Giuse Nguyễn Hữu An

 

LỄ CÁC ĐẲNG LINH HỒN

ZZBiến cố ngày 11.9 tại Hoa Kỳ đã làm chúng ta bàng hoàng.  Mỗi lần nhắc lại hoặc thấy những hình ảnh đó, chúng ta không khỏi buồn sầu, lo lắng, tức giận.  Có thể mỗi người nhìn biến cố đó với một góc độ khác nhau.  Nhưng có một góc độ có lẽ ít người nghĩ đến, và đó là vấn đề mà chúng ta sẽ cùng nhau chia sẻ.

Trên thế giới từ xưa tới nay, không phải chỉ có biến cố ngày 11.9, mà còn vô vàn biến cố khác, chẳng hạn sự kiện hai quả bom nguyên tử ở Nhật Bản năm 1945.  Có một câu hỏi được đặt ra: Thế thì số phận của những người đã chết trong các biến cố đó ra sao?

Ngày nay người ta chỉ nói đến sự trả thù, phải trả thù cho những người chết oan, trả thù cho những người đau khổ.  Công lý thế gian, công lý của con người thực hiện ra sao chúng ta không biết, nhưng về mặt đức tin, chúng ta sẽ suy nghĩ như thế nào?  Phải dựa vào Lời Chúa, vì chính Chúa muốn chúng ta hãy dùng Lời của Ngài để an ủi nhau, cách riêng trong những biến cố thảm thương như vậy.

Bài đọc I của ngày lễ hôm nay, cách nào đó, khiến chúng ta phải suy nghĩ.  Nhiều người chết rất bi thương, cái chết không xứng hợp chút nào với đời sống của họ, người ta chỉ còn biết thương tiếc và nghĩ rằng như thế là chấm dứt một cuộc đời, chấm dứt cách buồn thảm, tràn đầy thất vọng.  Thế nhưng Lời chúa lại nói với chúng ta: Những người công chính khi chết đi, họ sẽ được đưa vào trong vinh quang của Thiên Chúa, nếu cái chết của họ hay sự đau khổ của họ xảy đến cũng giống như vàng phải được trui luyện trong lửa, để chắt ra chất vàng tinh ròng và loại bỏ những thứ cặn bã.

Con người mà Thiên Chúa đã tạo dựng, yêu thương và cứu chuộc, chính là vàng.  (Nếu chúng ta có thì giờ để hiểu rằng, trên Thiên Quốc có biết bao nhiêu người công chính, bao nhiêu con người đã được Thiên Chúa rước và cho vào trong vinh quang của Ngài.  Đó chỉ mới nói về những con người được tạo dựng ở trần thế.  Còn thế giới của thiên thần, thế giới thần linh, tất cả đều ở trong vinh quang đó).  Có thể nào chúng ta vào Nước Trời với một tấm áo đầy bụi bặm, nhơ bẩn.  Phải được tinh luyện, sự tinh luyện đó không phải bởi sức lực của chúng ta, nếu bởi chúng ta chắc chúng ta sẽ thất vọng vì thấy rõ sự yếu đuối của mình, thì đây, thánh Luca nói trong bài Phúc Âm của ngài: Khi suy niệm về sự chết, khi cầu nguyện cho những người đã chết, bao giờ chúng ta cũng phải đặt trên nền tảng Đức Kitô Tử Nạn-Phục Sinh, không đặt trên nền tảng và không đi từ chân lý đó thì không có một thắc mắc hay một vấn nạn nào được giải quyết, được soi sáng.

Mầu Nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh, cao điểm được thể hiện trên núi Canvariô (dù rằng chưa Phục Sinh), Chúa đã biểu lộ vinh quang của Ngài như lời thánh Gioan: Chính khi Ngài được treo dựng lên nơi cao, vinh quang chói ngời của Ngài sẽ tỏa ra.  Vậy thánh Luca cho chúng ta thấy: một thế giới sa đọa tội lỗi, (và thế giới đó) đã nhạo cười, đã đóng đinh Chúa Giêsu và đưa Ngài đến cái chết thảm thê trên thập giá.  Trong thế giới đó, còn có những con người thiện tâm, có những con người sẵn sàng hoán cải, dù rằng trước mắt thế gian con người đó xứng đáng với cái chết (vì cũng đã bị treo trên thập giá). Nhưng Chúa Giêsu nói: Quả thật, ngày hôm nay ngươi sẽ được vào trong Nước Thiên Đàng.

Nhưng nếu chỉ thấy Ngài chịu chết thì làm sao chúng ta được sống lại?  Cái chết của Ngài đem đến những gì cho chúng ta?  Vì nếu Ngài chết mà Ngài không sống lại thì cái chết của Ngài cũng vô ích, tình thương của Ngài cũng vô ích!

Chúa Giêsu chết và Ngài đã Phục Sinh.  Chính Ngài là đầu mối của tất cả mọi việc, chính nơi Ngài mà chúng ta (những người cách này hay cách khác đã tin vào Ngài) tìm được niềm tin và hy vọng.  Nhưng không chỉ những người được Rửa Tội mới gọi là tin vào Ngài.  Có những người rất thành tâm, thiện chí, nhưng vì một hoàn cảnh nào đó, họ vẫn cố gắng sống theo lương tâm, Ngài vẫn đón nhận trong tình yêu và trong Ơn Cứu Chuộc của Ngài.

Chúng ta cám ơn người trộm “lành”, vì nhờ có anh, như một dấu chứng nếu chúng ta tin vào Ngài “Lạy Thầy, khi vào Nước Thiên Đàng xin nhớ đến con.”  Anh ấy biết gì về Chúa Giêsu?  Biết gì về Mầu Nhiệm Nhập Thể?  Biết gì về Mầu Nhiệm Cứu Chuộc?  Biết gì về Mầu Nhiệm sống lại?  Nhưng anh đại diện cho một số đông trên trần thế này, một cách nào đó vẫn hướng về một sự linh thiêng, hướng về một Đấng Tối Cao, muốn làm những việc tốt lành.  Những người đó sẽ được Máu của Chúa đổ ra để thanh tẩy tội lỗi và cho vào Nước Trời.   6000 người chết trong một khoảnh khắc, chắc chắn có một số đông được tình yêu và Máu Chúa đổ ra để xóa tội lỗi và cứu chuộc họ.  Tại sao chúng ta cứ muốn ấn định cho Thiên Chúa những người được vào Nước Trời, mà không đặt niềm tin của chúng ta nơi lượng khoan hồng từ bi và nơi công lao của Ngài?  Vì Ngài đã hạ mình chịu chết trên thập giá, nên Thiên Chúa Cha đã tôn vinh Ngài và đặt mọi loài dưới quyền của Ngài, trong cái chết và sự Phục Sinh của Ngài, Ngài xin với Chúa Cha là hãy tha thứ, hãy cứu độ, hãy chuộc lại hết những tâm hồn (lúc này hay lúc khác), đã có sự tin tưởng vào Ngài.  Từ đó chúng ta thấy rằng sẽ không bao giờ tìm được sự công bằng nơi trần thế này, sự công bằng và yêu thương chỉ tìm thấy nơi một mình Chúa mà thôi.

Nếu có được niềm tin đó, cuộc đời trở nên sáng tỏ hơn.  Đứng trước các biến cố, chúng ta đỡ buồn phiền thất vọng, chúng ta thấy cuộc đời vẫn đáng sống và những đau khổ xảy đến triền miên vẫn có ý nghĩa, vẫn có giá trị, vì chúng ta được tham dự vào Mầu Nhiệm Tử Nạn của Đức Kitô để được sống lại với Ngài.

Vậy trong tháng các linh hồn, với niềm tin đó chúng ta sẽ thấy được những điều gì?

  1. Những linh hồn trong lửa luyện ngục là những vị thánh, tuy không được tuyên phong trên bàn thờ, cũng chưa được hưởng vinh quang, nhưng phần rỗi thì đã chắc chắn. Không phải vì họ ít tội, nhưng vì tình yêu của Thiên Chúa và công nghiệp của Con Một Ngài.  Giờ đây họ chịu thanh luyện để trở nên tinh ròng, để mang một chiếc áo cưới thật mới mẻ vào dự tiệc cưới, vào Nước Trời.  Không ai có thể chia cắt, không gì làm họ mất niềm hy vọng vào đời sống vinh phúc đó.
  1. Đàng khác, các linh hồn giờ đây không làm được gì cho họ nữa, vì thời gian để lập công nghiệp đã qua (không phải họ không biết, nhưng cũng giống chúng ta biết rằng giây phút đang sống là thời gian tích lũy công phúc, là thời gian chuẩn bị để được vào Nước Chúa. Chúng ta còn có thì giờ, chúng ta hãy làm).  Các vị ấy chỉ còn trông cậy vào lòng nhân thứ của Chúa, Ngài kêu gọi và ban cho chúng ta được tham dự và tiếp tục sứ mạng cứu độ qua lời cầu nguyện, qua sự hy sinh hãm mình, chúng ta sẽ giúp được các linh hồn đó.Lẽ dĩ nhiên đừng nghĩ rằng Chúa phải chờ đời những lời cầu nguyện của chúng ta để Chúa cứu vớt, Ngài đã cứu vớt rồi.  Nhưng Chúa muốn chúng ta sống trong sự thông hiệp, muốn cho chúng ta có sự liên đới hữu hiệu, Ngài tạo điều kiện để chúng ta thấy rằng: thì ra chúng ta còn có thể làm được rất nhiều cho những người thân yêu của chúng ta.  Biết đâu khi họ còn sống, chúng ta chưa có một tâm tình, chúng ta chưa đối xử tốt, thì giờ đây chúng ta có một cơ hội rất tốt.

    Phát xuất từ những tâm tình trên, cách đây hơn 1000 năm, ngày lễ cầu cho các linh hồn 02.11 được thiết lập, đó là niềm an ủi rất lớn cho những người còn sống, cho chúng ta có một phương tiện tuyệt hảo để yêu thương và biểu lộ tình yêu, cứu giúp những người mình yêu thương.  Ngày hôm nay, trong tháng này và suốt cả cuộc đời, chúng ta hãy tập nhân đức yêu thương, nhớ đến các linh hồn.

    (Cách đây 100 năm, cũng có một nhà dòng được thiết lập chỉ nhằm mục đích để cầu nguyện, ăn chay, hãm mình cho các linh hồn trong lửa luyện ngục, mà điều đó tất cả chúng ta đều làm được).

  1. Anh chị em nghĩ sao nếu những người nhờ lời cầu nguyện chúng ta, đã được về Thiên Đàng, được hưởng vinh quang Chúa mà các ngài lại quên chúng ta? Chắc chắn trong vinh quang (và sự khôn ngoan) của Thiên Chúa, các ngài biết dưới trần thế này, đã có những con người yêu thương, cầu nguyện, hy sinh cho các ngài.  Chắc chắn lời cầu nguyện của các ngài cho chúng ta sẽ có uy tín và hiệu quả (lời cầu nguyện của chúng ta lúc thì chia trí, lúc thì không xứng đáng, đủ hết mọi lý do).  Trong lịch sử Giáo Hội, nhiều biến cố cho thấy rằng: các thánh thông công là sự sống rất sinh động, không phải là một chân lý chết ngắc, nhưng là sự sống được diễn tả mỗi ngày.  Khi chúng ta ngồi đây, chúng ta vẫn liên kết với các thánh trên trời và các linh hồn trong lửa luyện ngục để cầu nguyện và nâng đỡ nhau.  Sống trong một sự liên đới như vậy, anh chị em có thấy chúng ta là những con người diễm phúc, là những con người rất giàu tình yêu thương, là những con người được nâng đỡ?Khi tôi nói những điều này, các bạn trẻ lại càng phải suy nghĩ nhiều hơn, để thấy rằng trong từng giây phút, chúng ta phải sống cho có ý nghĩa, vì từng giây phút của cuộc sống, có thể xây dựng hạnh phúc và phần rỗi cho rất nhiều người và cho chính bản thân chúng ta.  Nhờ lời chuyển cầu của các thánh và các linh hồn trong lửa luyện tội (chúng ta tin rằng) chúng ta vẫn tiếp tục đón nhận hồng ân Chúa, đón nhận cách đặc biệt mỗi lần chúng ta cử hành thánh lễ, là lễ tế tạ ơn đồng thời là lễ tế đền tội cho chúng ta.

ĐTGM Phêrô Nguyễn Văn Nhơn

CÁCH HỌC THEO CÁC VỊ THÁNH

ZZ

Ngày nay, phổ biến trong khoa tâm lý học, cả về phương diện tinh thần, người ta hay nhấn mạnh đến việc tự nhận ra chính bản thân mỗi người chúng ta.  Đây là một điều quan trọng, nhưng có nhiều điều còn quan trọng hơn, đó là chúng ta phải sống dựa vào chính mình và tốt hơn hết chúng ta hãy là chính mình.  Xã hội ngày nay cho chúng ta thấy có nhiều cách giúp chúng ta có thể áp dụng để trở nên là chính mình bằng hành động và bằng việc nhìn vào gương sáng của người khác.  Hai câu chuyện sau đây là hai cách mà chúng ta có thể áp dụng:

  1. Xưa có một người đàn ông tên là Simon. Anh ta muốn sống như một vị Thánh.  Anh quyết định chính mình sẽ trở thành mẫu gương giống như Thánh Phanxicô Assisi.  Anh đã mắc phải một sai lầm rất nghiêm trọng.  Vì anh ta chỉ có duy nhất một mục đích sống là trở thành bản sao của Thánh Phanxicô Assisi.Năm tháng qua đi.  Anh vẫn đang thực hiện lý tưởng của mình và chẳng có vấn đề gì to tát xảy ra cả. Bạn bè thường nói đùa trông anh giống như Thánh Phanxicô Assisi, nhưng anh vẫn không vui.  Vì thế anh tìm đến một vị tu sĩ lớn tuổi rất nổi tiếng vì sự thông thái để nhờ vị này khuyên giải cho anh.  Tên vị tu sĩ là Barnabas.  Vị tu sĩ già đã kiên nhẫn nghe Simon kể hết câu chuyện của anh.Nghe xong, Barnabas nói: “Anh đã chọn một mẫu gương rất tốt.  Một mẫu gương xuất sắc.  Nhưng tấm gương không phải là một cái khuôn do chính tay anh đúc ra.  Một tấm gương tốt chỉ là sự khích lệ giúp chúng ta sống đúng với những gì ở trong chúng ta, với những gì được trao ban cho chúng ta và chỉ riêng cho chúng ta mà thôi.  Simon, anh đã không sống đúng con người của anh.  Anh đã thực hiện một công việc mà công việc đó lại dành cho người khác.”

    Nhiệm vụ quan trọng trong cuộc đời là hãy sống đúng với con người mình.  Nếu chúng ta không là chính mình thì rất có thể chúng ta không thể trưởng thành, không thể hạnh phúc và không thể nên Thánh.  Nhưng khi chúng ta là chính mình, mọi điều trong con người chúng ta đều chân thật và đúng đắn.  Phanxicô Assisi đã trở nên một vị Thánh không phải bởi Ngài trở nên giống với một ai khác, nhưng bởi sự công chính của Ngài và Ngài hoàn toàn sống đúng với chính mình.

    “Simon, khi anh đứng trước tòa Chúa vào ngày phán xét, Người sẽ không hỏi anh: Tại sao con không trở thành Thánh Phanxicô Assisi?  Nhưng Người sẽ hỏi anh: tại sao con không trở thành một Simon như Thiên Chúa muốn?”

  1. Bill Shankley, huấn luyện viên câu lạc bộ đội bóng Liverpool, một thời là huyền thoại. Khi ông từ chức, Bob Paisley được chỉ định lên thay ông.  Biết được công việc khó khăn sắp tới, đầu tiên Bob Paisley đã nhẹ nhàng nói lời từ chối.  Nhưng cuối cùng sau nhiều lần thuyết phục, Bob Paisley đã đồng ý làm huấn luyện viên thay Bill Shankley.Quả là khó khăn khi phải kế nhiệm một công việc của một người thành đạt như Bill Shankley.  Liverpool không chỉ tự hào vì những trận thắng vẻ vang của mình, nhưng còn bởi việc sở hữu một chiến thuật đặc biệt để chinh phục những trận bóng đó.  Người huấn luyện viên, các cầu thủ và những người góp công cho câu lạc bộ – tất cả đều là thành viên trong đại gia đình.  Đó chính là cách câu lạc bộ thực hiện.Khởi đầu với những thành công của người tiền nhiệm là một áp lực nặng nề cho Paisly để trở thành một Bill Shankley thứ hai.  Nhưng ông đã kháng cự lại sự quyến rũ ấy.  Thay vào đó, ông đã làm việc theo cách riêng của mình.  Ông vẫn tiếp tục truyền thống của câu lạc bộ, nhưng vẫn giữ lại nét độc đáo của riêng mình.  Cuối cùng, Paisley đã thành công và thậm chí còn thành công hơn cả Bill Shankley.

    Khi ông từ chức, có người đã hỏi ông chìa khóa của sự thành công đó là gì.  Ông đã trả lời rất khôn ngoan: “Không có một cách nào đẫn đến thành công bằng việc bắt chước những điều cao cả của người khác.  Bạn phải tự khẳng định mình”.

    Cả Bob Paisley và Bill Shankley đều là những người thành công.  Cả hai sự thành công đó đạt được chính trong sự cạnh tranh công bằng.  Và để đạt được sự thành công như thế đối với phàm nhân thì chúng ta chỉ cần tuân thủ các quy tắc thông thường.  Nhưng đối với nước Trời thì chưa đủ.

    Khá nhiều tôn giáo không hề có nhiều vị thánh.  Bởi nhiều tín đồ của tôn giáo đó không bao giờ thành công trong chính bản thân họ.  Để nên thánh chúng ta không chỉ có việc tu hành khổ hạnh, hay thậm chí phải theo một lễ nghi thật long trọng và nghiêm trang.  Nhưng trước tiên chúng ta phải là chính mình.

    Các vị Thánh đã giúp chúng ta làm được điều đó, thậm chí là những vị thánh nhỏ.  Các Ngài đã cho chúng ta thấy một cuộc sống cao đẹp hơn, thanh khiết hơn.  Các Ngài đã truyền cho chúng ta nguồn cảm hứng để chúng ta cố gắng trở về với sự tốt đẹp hơn, thánh thiện hơn, lành mạnh hơn trong chính mỗi người chúng ta.

    Các Ngài đã trao ban cho chúng ta mẫu gương sáng ngời.  Nhìn vào đó, chúng ta biết được mình là ai.  Ở trong đó, chúng ta thấy được sự tốt lành nhất, sáng tỏ nhất trong các Ngài.  Các Ngài chính là mẫu gương, là người thầy, là người bạn và là người trung gian cầu bầu cho chúng ta trước mặt Thiên Chúa.

    Khi gặp bất cứ việc gì trên đường đời dù vui buồn, khó khăn hay thử thách, vấn đề cần lưu tâm là chúng ta có thật sự là chính mình hay không?  Điều tốt đẹp nhất chúng ta có thể làm được là trở thành người mà Thiên Chúa muốn, chứ không phải để chúng ta khước từ cuộc sống hay để cố gắng trở thành một ai khác, nhưng là để gieo hạt giống cuộc đời trong đời sống mỗi chúng ta.  Đó chính là hành trình chúng ta đi về nhà Chúa.

Phaolô Nguyễn Hồ Hữu Thành – Phỏng dịch từ New Sunday Holyday

LÊN ÐƯỜNG

Ðường là để đi.  Ðường là để đi nghĩa là đường sẽ dẫn đến nơi nào đó.  Bản tính của đường là để đi, nên đường không bao giờ là nơi cư trú, mà là để dẫn đến nơi cư trú.  Như vậy, kẻ dùng đường làm nơi cư trú thì chẳng bao giờ đến nơi cư trú của mình.  Tôi phải xác định với lòng tôi: Cuộc sống hôm nay là đường đến một quê hương khác?  Nếu cuộc sống hôm nay không phải là cùng đích, mà tôi lại chọn làm nơi cư trú, tức là tôi chẳng lên đường để đến nơi tôi phải đến.  Lối đi hôm nay của tôi có là đáp trả tiếng gọi của Chúa?  Nếu không, mà tôi chẳng lên đường theo tiếng gọi là tôi đang làm ngơ, đang cố quên đường về.

Phải rẽ lối khai quang mới thành đường đi.  Sở dĩ có người rẽ lối khai quang để làm đường đi vì họ muốn đến một nơi nào đó.  Nghĩa là họ muốn tìm kiếm.  Như thế, trước hết, trái tim họ phải là nơi ôm ấp những ước mơ ZZkiếm tìm.  Cõi lòng họ phải là nơi ôm ấp những ước mơ kiếm tìm.  Cõi lòng họ phải mở rộng cho một chân trời bước tới.  Sẽ không có đường đối với kẻ không muốn tìm kiếm.  Và ước mơ lên đường mà không lên đường thì cũng không thành đường đi.

– Có ai không cần tìm kiếm vì đã dư thừa?
– Có ai không cần lên đường vì đã gặp gỡ?

Ước mơ hạnh phúc là dấu hiệu hạnh phúc đang vắng mặt.  Nguyện cầu cho hết phân ly là nói một cách khác họ đang khao khát được xum họp.  Khổ tâm khi thấy người thương mến của mình gặp bất hạnh nghĩa là kẻ đó đang thiếu thốn, và mình cũng chẳng đủ quyền năng cho họ hạnh phúc.  Khi tôi lo âu là lúc tôi có vấn đề.  Ai trong cuộc sống mà lại chẳng có lúc âu lo?  Tất cả đấy là những dấu hiệu giới hạn của con người, những thiếu thốn mà con người đang đi tìm.

Và như thế, ai cũng cần phải lên đường, ai cũng phải tiếp tục tìm kiếm.  Ðời là cõi rộng mênh mông. Sống là đi.  Mục đích là gặp điều tôi mong mỏi.

Nhưng đi về chốn nào?  Trong cõi rộng mênh mông ấy, đâu là đường?

Chắc chắn không thể là tôi.  Vì tôi có thể ban tặng cho mình được những gì tôi thiếu thốn thì tôi đã chẳng còn bao giờ ước mơ nữa.  Nếu tôi không thể đến một nơi nào đó để lấy được những gì tôi mong mỏi, như vậy, cũng có nghĩa là tôi không thể tự làm đường đi cho mình được.  Chắc chắn cũng không thể là người chung quanh tôi vì họ cũng thiếu thốn như tôi.

Vậy, ai có thể giúp tôi đạt được những điều thiếu thốn đó?

“Ta là Ðường, là Sự Thật, và là Sự Sống” (Ga 14, 6).  Ðường của cuộc đời tôi đi là Chúa.  Những gì tôi thiếu thốn và lo âu đều liên quan đến hạnh phúc của tôi.  Khi Chúa nói Chúa là sự sống, có nghĩa Chúa là hạnh phúc tôi đang túng thiếu.  Khi Chúa nói Chúa là đường, có nghĩa là để dẫn tôi tới hạnh phúc đó.

Kinh nghiệm cho thấy hạnh phúc có thể thỏa mãn những thao thức sâu kín nhất trong tâm hồn tôi không hệ tại sự giàu có, người yêu, những gì trong phạm vi trần thế.  Nếu vậy thì phương cách để đạt được hạnh phúc có thể thỏa mãn tâm hồn tôi cũng không thể đến được từ trần gian.  Hạnh phúc ấy thuộc về phạm vi siêu nhiên, vượt tầm sáng tạo của nhân loại.  Cho nên, con đường dẫn tới hạnh phúc đó cũng phải là siêu nhiên, không thể là sản phẩm của con người.  Trong ý nghĩa này, Chúa là cùng đích và cũng là phương tiện dẫn tới cùng đích.  Chúa là hạnh phúc và cũng là đường dẫn tới hạnh phúc.

* * *

Lạy Cha, Cha đã tỏ cho con biết Cha là đường của con.  Ðường đã có rồi.  Sự thật và sự sống đã có rồi.  Nhưng con cần Cha dọn cỏ, mở lối cho con.  Cỏ tối tăm và cỏ nguội lạnh là những giây leo rừng chằng chịt che kín lối.  Và con đã không thấy đường.  Cha là sự thật, nên không có loại cỏ tối tăm nào có thể che kín.  Cha là sự sống nên không loại gai nào có thể làm nghẽn lối.  Giây gai làm nghẽn lối, cỏ dại che kín đường không mọc ở đường đi, nhưng mọc trong chính trái tim con.  “Lạy Thầy, xin cho tôi được thấy” (Mc 10, 51).  Cha đã mở mắt và người mù đã thấy đường đi.  Một lần nữa, hành động của người mù cũng lại khởi đầu bằng ước mơ: ước mơ được sáng mắt.  Ðiều ấy cũng hàm nghĩa là anh ta luôn luôn muốn tìm kiếm ánh sáng.  Nếu anh ta không muốn lên đường.  Nếu anh ta chọn thế giới mù làm quê hương.  Nếu anh ta cư trú trong thế giới bóng đêm ấy và chẳng muốn bước tới nữa thì chắc chắn anh sẽ chẳng bao giờ thấy mặt trời.  Ðời anh sẽ tẻ nhạt biết bao.  Ðời con cũng vậy.  Con phải lên đường.  Ngày nào con cũng có lầm lỗi.  Ngày nào cũng có bóng đen của ghen tương, bóng đen của thèm muốn bất chính, bóng đen của lo âu thiếu tin tưởng.  Ngày nào con cũng có mù lòa.  Vì thế, con cần Cha mở mắt cho con hàng ngày.  Và, con phải lên đường mỗi sớm mai.

* * *

Mơ ước lên đường thì bao giờ cũng đẹp.  Nhưng để thực hiện lên đường lại không dễ.  Những hạnh phúc đẹp chỉ dành cho những tâm hồn dám lên đường tìm kiếm.  Muốn nhìn vũ trụ mênh mông phải giã từ mặt đất, cất cánh theo chim trời.  Nếu con sâu cứ lặng lẽ sống dưới mặt đất với loài trùng, thì nó chẳng có lý do để oán trách sao cuộc đời chung quanh chỉ là mùi ẩm của đất, mùi mốc của cỏ.  Nó phải hóa thân thành cánh bướm.  Và, lúc đó người ta sẽ ngước mắt nhìn theo.  Tất cả vũ trụ là của nó. “Trong tà ác tôi đã sinh ra, và đã là tội lỗi từ khi mới là thai nhi trong lòng mẹ” (Tv 51, 7).  Ðó là hình ảnh tôi sinh ra trong thân phận sâu.  Sinh ra trong thân phận sâu, nhưng lại không để làm sâu, mà được kêu gọi hóa thân làm bướm.  “Ta đã chọn các ngươi từ giữa thế gian” (Ga 15, 19; 17, 16).

* * *

Lên đường nào cũng có giã từ, vì thế mới có ngần ngại.  Càng gắn bó, lúc cách xa càng luyến nhớ.  Sâu đậm bao nhiêu, lúc giã biệt sẽ nuối tiếc bấy nhiêu.  Những rung cảm bất chính đã ở trong dòng máu của tôi.  Bây giờ tôi phải từ bỏ.  Những liên hệ không ngay lành, nhưng cho tôi thú vui trần thế.  Bây giờ tôi phải cắt đứt.  Lười biếng là một thứ quyến rũ như bếp lửa trong chiều đông, nó giữ chân tôi lại.  Bởi, lên đường là mở cửa đi ra, ngoài kia có gió lạnh làm tôi ngại ngùng.  Muốn được người ngưỡng mộ, tôi tạo ra khuôn mặt đẹp mà tâm hồn tôi không có.  Bây giờ, lên đường, nghĩa là tôi phải sống thật với tôi.  Trở về chấp nhận khuôn mặt nghèo nàn của mình là điều tôi không muốn.  Ðể người biết khuôn mặt thật của mình là điều tôi không dám.  Bước tới để thay đổi tâm hồn là một giá tôi phải trả.  Là một lên đường đòi nhiều can đảm.

Những biến cố thay đổi cuộc sống của một tâm hồn trong Phúc Âm đều là những biến cố lên đường.  Chúa đã dùng những hình ảnh lên đường cụ thể, lên đường bằng đôi chân bước trên cát bụi để diễn tả cuộc lên đường nội tâm.  “Ði dọc theo bờ biển Galilêa, Ngài thấy Simon và Anrê dang quăng chài dưới biển.  Ðức Yêsu nói với họ: Hãy theo Ta, Ta sẽ cho các ngươi là ngư phủ bắt người.  Tức khắc, họ đã bỏ chài lưới mà theo Ngài.  Ði xa một ít, Ngài thấy Yacôbê và Yoan em ông, cả hai đang vá lưới dưới đò.  Ngài gọi họ.  Và họ đã bỏ cha họ và những người làm công mà theo Ngài” (Mc 1, 16-20).  Phúc Âm thuật lại, sau khi theo Chúa rồi, nhiều lần Phêrô vẫn còn thả lưới.  Như vậy, đáng lẽ Chúa phải bảo Phêrô mang lưới theo kẻo mai mốt lại tốn tiền mua lưới khác.  Nhiều lần Chúa phải dùng thuyền mà đi.  Sao Chúa không dặn Phêrô giữ lấy thuyền vì mai mốt cả Thầy trò vẫn còn cần tới.

Họ đã bỏ lại tất cả.

Họ đã bỏ lại tất cả, phải chăng lưới mà Yacôbê đang vá lưới của những toan tính thiếu niềm tin vào Chúa, là mạng nhện đam mê gắn liền với tâm hồn tôi như áo tôi mặc.  Tôi chẳng muốn bỏ.  Mỗi mũi kim vá là một lần tôi níu kéo, bám theo . Phải chăng thuyền của Phêrô là những nét xấu như một thứ quê hương tôi đang sống ở trong.  Tôi đang an phận với quê hương ấy?

Lạy Cha, Simon và Anrê, Yacôbê và Yoan đã lên đường.  Khi nghe Cha gọi, họ đã tức khắc bỏ chài lưới mà lên đường.  Không lưỡng lự.  Dứt khoát.  Hình ảnh của những cuộc lên đường đẹp quá.  Lên đường của những kẻ muốn tung cánh trong tự do bát ngát như thập giá không chịu khuất phục sự chết.  Lên đường của những bàn chân không biết mỏi khắp cánh đồng Galilêa.  Lên đường không phân vân như mặt trời bình thản đẩy bóng tối lại đàng sau.

* * *

Lạy Cha, nếu không lên đường, chắc hẳn Phêrô chẳng gặp Cha, đã không được Cha huấn luyện và tâm hồn Phêrô đã nghèo nàn lắm.  Trong cuộc sống của con, Cha đã gọi.  Con cũng đã lên đường, nhưng con không can đảm như Anrê, như Yacôbê.  Lưới đời của con dầy mắt, những mắt lưới mà con nghĩ là sẽ bắt được nhiều cá: cá bằng cấp, cá danh vọng, cá sắc đẹp, cá giàu có, cá tình yêu.  Mỗi lần bắt hụt vì lưới bị rách là con lại cặm cụi ngồi vá.  Có bao giờ con đã quá chú ý cúi mặt vá lưới đến nỗi Cha đi qua, Cha gọi mà con chẳng nghe gì?

LM Nguyễn Tầm Thường, S.J

 

 

KHÔNG BAO GIỜ Ở MỘT MÌNH… 

Khi một thiếu nhi thuộc bộ tộc thổ dân Cherokee ở Châu Mỹ vừa bước vào tuổi thiếu niên, cha của em đưa em vào rừng, lấy khăn bịt mắt em lại và bỏ đi, để em một mình.  Em buộc phải ngồi trên một thân cây cả đêm và không được lấy khăn bịt mắt ra cho đến khi những tia nắng đầu tiên xuất hiện vào sáng hôm sau.  Em không được nhờ ai giúp mình.  Nếu em sống sót qua đêm đó, em sẽ được coi là khôn lớn.

Em không được nói cho các thiếu nhi khác biết về kinh nghiệm này, vì mỗi thiếu nhi đều phải bước vào tuổi thiếu niên theo cùng một cách như thế.

Tất nhiên là em rất sợ, em nghe đủ thứ tiếng động: Chó sói hú, thú hoang rảo quanh tìm mồi, cũng có thể có người nào đang muốn hại em.  Em nghe tiếng lá cây xào xạc, tiếng gió rít qua cành cây, và em phải kiên cường ngồi trên thân cây, không được tháo khăn bịt mắt ra.  Vì đối với em, đây là cách duy nhất để em trở nên người lớn khôn.

Cuối cùng, sau đêm dài khủng khiếp ấy, mặt trời ló dạng, em đã có thể bỏ khăn bịt mắt ra.  Chính lúc đó em mới khám phá ra… cha em đang ngồi ngay bên cạnh em.  Cha em không hề bỏ đi, cha em đã im lặng canh chừng cả đêm, cùng ngồi trên thân cây đó với em, sẵn sàng che chở em khỏi mọi nguy hiểm, và dĩ nhiên ông đã không để cho em biết có ông luôn âm thầm ở bên em.

Cũng thế, chúng ta không bao giờ ở một mình.  Dù chúng ta không thấy được Thiên Chúa giữa những tăm tối, thách đố, hiểm nguy của cuộc đời, nhưng Cha trên Trời luôn ở bên cạnh chúng ta, ngồi trên cùng một cảnh ngộ với chúng ta, để canh chừng gìn giữ chúng ta.

Khi khó khăn và tăm tối xảy đến, điều duy nhất chúng ta cần làm là tin tưởng vào Thiên Chúa là Cha yêu thương.  Rồi một ngày, bình minh sẽ ló dạng và chúng ta sẽ thấy Người ngay bên cạnh chúng ta.

Khuyết Danh

****************************************************

“Lạy Chúa,                                                             ZZ
Con dâng lên Chúa những giờ phút cô đơn
Ðôi lần đến với con trong cuộc đời.

Con dâng lên Chúa
Lúc con phải làm việc một mình
Trong sự tẻ nhạt của bổn phận nặng nề
Mà không có lấy một sự khích lệ đỡ nâng
Trong cộng đoàn.

Con dâng lên Chúa
Những lúc cô đơn,
Mò mẫm đi tìm trong hoài nghi,
Khi không còn biết con đường
Mình đang theo đuổi sẽ dẫn đến đâu
Và trên đó bóng đêm bao trùm.

Con dâng lên Chúa
Những giờ phút con phải
Ðau khổ âm thầm một mình,
Dù đang ở giữa những kẻ mà con phải
Bày tỏ Chúa cho họ và bị vô ơn hất hủi,
Do thờ ơ và thiếu cảm thông.

Con dâng lên Chúa
Những giây phút con phải yêu một mình
Giây phút thật nặng nề
Khi trái tim con khắc khoải,
Ði tìm sự tương giao
Mà không gặp thấy trong lòng người khác.
Và trong lòng những người con ưa thích
Tìm thấy một sự no thỏa mà không nếm cảm được.

Con dâng lên Chúa
Những giờ phút con phải đau khổ một mình,
Những giây phút Giếtsêmani của bản thân con.
Và chính trong những lúc ấy,
Lạy Chúa, con ước ao được nên giống Chúa.

Cũng như Chúa,
Con ước muốn và cầu xin
Cho chén khổ nầy ra khỏi con,
Nhưng xin Chúa cho con sức mạnh
Ðể chế ngự mình
Mà vâng theo Thánh ý Cha,
Ðấng Chúa yêu ngàn đời,
Cả khi Ngài chấp nhận thấy con đau khổ.

Lạy Chúa,
Xin đừng theo ý con
Nhưng cho ý Cha được thể hiện Amen.”

“Phút Cô Ðơn”, của Ludovic Giraud,
(trích trong sách “Lời Kinh Ðẹp Nhất Thiên Niên Kỷ”)

MÙ CÓ PHẢI LÀ BẤT HẠNH KHÔNG?

Khi nghĩ đến người mù, nhất là những người bị mù bẩm sinh, ta thường nghĩ đến hai chữ “tội nghiệp”, “đáng thương”, hay “bất hạnh”.  Dĩ nhiên có khi chính bản thân người mù cảm thấy bất hạnh thật vì họ không được nhìn thấy ánh sáng, không được nhìn thấy vẻ đẹp thiên nhiên, nhất là không được nhìn thấy những người thân yêu của mình.  Và ngay cả khái niệm về màu sắc, họ cũng không biết đến.

Tuy nhiên, giữa người mù và người sáng, chưa chắc ai bất hạnh hơn ai.  Có khi vì mắt sáng tỏ, nên người ta bất hạnh hơn là bị mù loà.  Bằng chứng là trong các vụ án trộm cắp, lường gạt, đâm chém, hiếp đáp, ngoại tình…, ta có thấy thủ phạm nào là người mù không, ngoại trừ những người sáng mắt?  Trong số những dân chơi cuồng quay nơi các vũ trường ngập ngụa ma tuý, thuốc lắc, hàng “đá”, ta có bắt gặp bóng dáng người khiếm thị nào bên cạnh những người mắt sáng ở đó không?  Trước vành móng ngựa xét xử các quan tham vô lại, có lẽ ta cũng khó mà tìm được một bị cáo nào là kẻ mù loà ở đấy; có chăng chỉ toàn là những người cả hai mắt đều tỏ đều tường!!!  Và nếu ta cất công thắp đuốc đi tìm các tù nhân là người mù trong các trại giam, chắc chắn ta sẽ thất vọng vì nơi đó chỉ thấy toàn những người có đủ cả hai mắt.  Vậy thì ai “bất hạnh” hơn ai?  Người mù hay người sáng?  Bởi thế, khi nhìn ZZthấy một người mù, khoan đã cho rằng người đó tội nghiệp, người đó bất hạnh.  Hạnh phúc hay bất hạnh không hệ tại ở việc sáng hay mù cặp mắt thể lý, nhưng là hệ tại ở việc sáng hay mù cặp mắt tâm hồn, cặp mắt đức tin.

Trong câu chuyện Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay, ta thấy Bartimê là một người mù loà, hành khất bên vệ đường ngoại thành Giêricô.  Không biết anh có thuộc “Hội Người Mù” nào hay không!  Song thiết tưởng anh là một người lương thiện.  Anh sống bằng những gì kiếm được từ lòng hảo tâm của người khác.  Mặc dù nghèo, nghèo nên phải đi ăn xin, nhưng cuộc đời anh thanh thoát.  Anh sống vô tư giản dị, không bon chen giành giật, không tính toán hơn thua, không đua đòi ăn diện.  Anh cũng không vợ nọ con kia, không rượu bia các thứ.  Có lẽ anh cũng chưa bao giờ phạm vào những tội “đội sổ” của con người thời đại hôm nay: Buôn gian bán lận, lậu thuế trốn thuế, tham ô, móc ngoặc, hối lộ, hay rút ruột các công trình xây dựng…  Suốt cả cuộc đời, chắc hẳn anh cũng chưa hề lường gạt, bóc lột hay hãm hại ai.  Tắt một lời, anh sống hoàn toàn ngay chính.

Hơn thế nữa, trong khi rất nhiều người sáng đôi mắt thể lý, lại mù loà trước ánh sáng vô hình, không thể nhận ra Chúa Giêsu là ai, thì anh mù Bartimê này lại “thấy tỏ tường” chính Đức Giêsu là ai.  Anh không van xin Chúa bằng danh xưng “Giêsu Nazareth”, mà dùng danh xưng “Con Vua Đavít” – một danh xưng ám chỉ tước hiệu Đấng Mêsia.  Tiếng kêu lớn tiếng của anh khi bị mọi người ngăn cản: “Lạy Con Vua Đavít”, đồng thời cũng là một lời tuyên xưng niềm tin vào chính Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế, Đấng mà anh tin là sẽ phục hồi sự sáng cho anh.  Bởi đó, khi được Chúa Giêsu hỏi anh muốn xin gì, anh không xin Chúa Giêsu mua cho anh mấy tờ vé số, cũng không xin Chúa Giêsu cho anh ít đồng bạc cắc bố thí, như anh đã từng nói với những người qua lại, mà anh chỉ xin Chúa Giêsu cho anh được thấy, tức là được sáng mắt.  Nếu không tin Chúa Giêsu là Đấng có thể mở được mắt cho nguời mù bẩm sinh, anh đã không xin Ngài điều này.

Đồng ý “đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn”, nhưng không phải một khi “cửa sổ” ấy bị đóng vĩnh viễn do mù loà là đương nhiên tâm hồn trở nên tối tăm băng giá như vùng bắc cực đâu.  Ngược lại nữa là khác.  Khi đôi mắt của họ không còn khả năng thấy được những thực tại hữu hình, thì tâm hồn họ lại rất bén nhạy với những thực tại vô hình.  Bởi đó người ta bảo rằng người mù thường cảm nhận rất sâu xa về những thực tại siêu linh, và họ cũng rất nhạy bén trước những nỗi thống khổ của anh em đồng loại.  Nói cách khác, người mù thường có cặp mắt đức tin sáng tỏ, như trường hợp anh mù Bartimê hôm nay.

Dẫu chưa một lần được gặp gỡ hay diện kiến Đức Kitô; chưa một lần được trực tiếp nghe những lời Ngài giảng dạy, cũng chưa một lần được phúc chứng kiến các phép lạ Ngài đã làm; anh chỉ mới được nghe người ta nói về con người của Đức Giêsu; thế mà anh đã tin.  Anh tin một cách mãnh liệt.  Và nhờ niềm tin đó, anh đã gặp được hiện thân lòng nhân hậu của Thiên Chúa, hiện thân của những mối phúc thật là Đức Giêsu Kitô.  Anh được Chúa phục hồi sự sáng, sự sáng của cặp mắt thể lý, và quan trọng hơn là cặp mắt đức tin nơi anh vốn đã sáng nay sáng tỏ hơn.  Từ đây đời anh hoàn toàn đổi mới. Còn hạnh phúc nào bằng?  Anh đã tự nguyện dấn bước theo Chúa trong niềm vui trào tràn.

Sẽ thật hạnh phúc cho tôi, nếu tôi có đôi mắt thể lý lẫn đôi mắt tâm linh sáng ngời.  Ngược lại, sẽ thật bất hạnh biết bao nếu tôi có đôi mắt thân xác sáng tỏ nhưng đôi mắt tâm hồn lại mù tối như đêm ba mươi.  Hãy tạ ơn Chúa vì Ngài đã ban cho tôi có đôi mắt thể lý chưa một lần phải đến bác sĩ nhãn khoa.  Xin Ngài gìn giữ tôi, để đôi mắt đức tin của tôi cũng luôn được tinh tường sáng suốt.  Đặc biệt xin Chúa cho những người mù luôn giữ được cái tâm trong sáng để cuộc đời của họ không bao giờ là “bất hạnh”, là “đáng thương” như người ta vẫn nghĩ.  Amen.

LM Giuse Nguyễn Thành Long

 

KHÔNG GIAN CHỮA LÀNH CỦA THINH LẶNG

Quyển sách mới đây của Robyn Cadwallander, “Nữ ẩn sĩ” (The Anchoress) kể về Sarah, một phụ nữ trẻ chọn khép mình khỏi thế giới và sống như một ẩn sĩ (như Julian thành Norwich vậy). Đây không phải là đời sống dễ dàng và cô sớm nhận ra mình phải đấu tranh với lựa chọn này. Cha giải tội cho cô là cha Ranaulf, một tu sĩ trẻ, không nhiều kinh nghiệm. Mối liên hệ giữa họ cũng không dễ dàng. Cha Ranaulf là người ngại ngùng và ít nói nên Sarah thường thấy chán khi gặp cha, cô muốn cha nói thêm, muốn cha đồng cảm hơn và đơn giản muốn cha hiện diện rõ hơn với cô. Họ thường xuyên bàn luận, hay ít nhất là Sarah thường cố moi thêm lời nói và đồng cảm từ cha Ranaulf. Nhưng bất kỳ lúc nào cô cố gắng làm thế, cha Ranaulf đều gián đoạn buổi xưng tội và rời đi.

Một ngày nọ, sau một buổi xưng tội cực kỳ đáng chán khiến cha Ranaulf cứng lưỡi và Sarah giận dữ, cha chỉ đóng cánh cửa tòa giải tội, một phản ứng thông thường của cha khi căng thẳng, khi có điều gì đó trong cha không muốn cho cha bỏ đi. Cha biết là mình phải cho Sarah một điều gì đó, nhưng cha không có lời lẽ nào để làm được. Và, khi không có gì để nói ngoài cảm giác mình buộc phải rời đi, cha đơn giản là ngồi đó trong thinh lặng. Ngược đời thay, sự bất lực câm nín của cha lại đạt được một điều mà những lời nói của cha không làm được, đó là một bước đột phá. Lần đầu tiên, Sarah cảm thấy sự quan tâm và đồng cảm của cha, cũng như sự hiện diện của cha với mình.
Và lời văn của Cadwallander mô tả đoạn này như sau:

“Cha hít một hơi thật sâu rồi từ từ chậm rãi thở ra. Cha không còn điều gì để nói, nhưng cha không để cô ấy ở đây một mình trong tâm trạng cay đắng được. Vậy nên cha vẫn ngồi lại trong tòa giải tội, cảm nhận sự trống trải của phòng xưng tội quanh mình, cảm nhận sự thất bại của việc học, của những từ ngữ mà cha đã ghi khắc trong đầu, trang này đến trang khác, tầng này đến tầng khác. Cha không thể mở miệng, nhưng cha có thể ở lại, và cha làm thế. Cha bắt đầu cầu nguyện trong thinh lặng, nhưng không biết bắt đầu thế nào, không biết phải xin gì. Cha bỏ cuộc, và thở chậm rãi từ từ.

Sự thinh lặng bắt đầu như một điều gì đó thật vụn vặt và đáng sợ, đậu trên rìa cửa sổ tòa giải tội, nhưng khi cha Ranaulf ngồi đó trong tĩnh mịch, nó dần dần, rất chậm rãi, lớn lên, và tràn khắp gian phòng, cuộn chặt quanh cổ và vòng lấy lưng cha, cuốn quanh đầu gối và đôi bàn chân cha, tràn lên các bức tường, lấp đầy các ngóc ngách, len lỏi vào cả các khe tường đá.… Sự thinh lặng trườn qua các khe hở và len vào cả gian phòng bên trên. Dường như nó thật êm ái mềm mại. Nó tràn ra và vững vàng, nó chiếm lấy mọi khoảng không. Cha Ranaulf ngồi bất động, không nhúc nhích, cha đã mất hết mọi khái niệm về thời gian. Mọi sự cha biết là một có một phụ nữ đang cách cha một sải tay, trong bóng tối, và đang thở. Vậy là đủ.

Khi ánh nến trong gian phòng mờ dần đi, cha nhúc nhích, cha nhìn vào bóng tối.
‘Chúa ở cùng con Sarah.’ ‘Và ở cùng cha.’ Giọng của cô tươi sáng hơn, thân thiết hơn.”

Có một ngôn ngữ vượt ngoài ngôn từ. Sự thinh lặng dành chỗ cho ngôn ngữ đó. Đôi khi chúng ta cảm thấy bất lực không thể nói được gì có ý nghĩa, chúng ta phải đi trở vào sự vô tri và vô lực, nhưng khi ở lại trong tình trạng này, sự thinh lặng tạo một không gian cần thiết cho một điều thâm sâu hơn xuất hiện. Nhưng thường, lúc đầu, thinh lặng thật không dễ dàng gì. Nó bắt đầu “như một sự đáng sợ vụn vặt” và dần lớn lên thành hơi ấm xua tan đi căng thẳng.

ZZNhiều lần chúng ta không có lời nào đáng để nói. Chúng ta, ai cũng cảm nghiệm việc đứng bên giường người hấp hối, tham dự một đám tang, đứng trước một tâm hồn tan vỡ, hay rơi vào thế bí khi cố gắng vượt qua tình huống căng thẳng trong quan hệ, lại thấy mình cứng lưỡi, không có từ nào để nói, rồi cuối cùng rơi vào thinh lặng, biết rằng nói bất kỳ điều gì cũng chỉ làm trầm trọng thêm nỗi đau đớn này. Trong tình thế bất lực đó, bị hoàn cảnh làm câm nín, chúng ta học được một điều: Chúng ta không cần phải nói gì, chỉ cần ở đó. Sự hiện diện thinh lặng, bất lực của chúng ta là điều đang cần.

Và tôi phải công nhận, đây không phải là điều dễ học đối với tôi, không phải là điều theo khuynh hướng của tôi, và thực sự nhiều khi tôi không làm thế khi đáng ra phải làm. Cho dù tình thế có ra sao đi nữa, tôi luôn cảm thấy mình phải nói lên một điều gì đó có ích, một điều gì đó giúp giải quyết căng thẳng này. Nhưng tôi đang học được rằng, hãy để sự bất lực lên tiếng, và cũng học được rằng điều này thật mạnh mẽ biết bao.

Tôi nhớ có lần, khi còn là một linh mục trẻ, đầy kiến thức học được trong chủng viện và háo hức chia sẻ kiến thức đó, tôi ngồi trước một người có tâm hồn đang bị tan vỡ, tôi cố gắng tìm câu trả lời và thấu suốt trong đầu mình, tôi không tìm thấy gì, cuối cùng tôi xin lỗi thú nhận sự bất lực của tôi với người đối diện. Câu trả lời của cô làm tôi kinh ngạc, và dạy tôi một điều mà tôi không hề hay biết trước đây. Cô đơn giản nói rằng: Sự bất lực của cha là món quà quý báu nhất cha có thể chia sẻ với con ngay bây giờ. Con cám ơn cha.

Không một ai kỳ vọng bạn có chiếc đũa thần để chữa lành những phiền muộn của họ. Đôi khi, thinh lặng lại thành một sự êm ái mềm mại len lỏi và chiếm lấy, lấp đầy mọi khoảng không.

Rev. Ron Rolheiser, OMI

TRUYỀN GIÁO BẰNG CÁCH SỐNG

Cách chung con người ngày hôm nay thường nóng vội, hấp tấp, làm đại.  Nghịch lý ở chỗ thích hoành tránh nhưng lại đòi phải nhanh, phải gọn.  Họ chỉ thích làm những chuyện lớn mà bỏ qua chuyện nhỏ.  Họ luôn xem việc nhỏ là tầm thường mà quên rằng việc lớn là do tích tiểu thành đại.  Không kiên nhẫn trong việc nhỏ thế nên, họ cũng bỏ lỡ cơ hội làm những chuyện lớn lao.

Điển hình là xã hội hôm nay không có những công trình thế kỷ mà chỉ có những kiến thiết hợp thời, model nhưng mau qua.  Về sự học dường như học sinh không thể ngồi yên để thuộc một câu thơ hay một bài lịch sử mà chỉ học trên net, trên Iphone…

Người ta kể rằng: Thời Đông hán có một thiếu niên tên Trần Phiên.  Hắn cho mình bất phàm nên chỉ làm chuyện lớn mà thôi.  Một hôm người bạn tới thăm thấy nhà hắn bẩn thỉu liền nói:  Nho tử sao không quét nhà để tiếp đón khách?

Trần Phiên trả lời: Đại trượng phu xử thế.  Nên quét thiên hạ sao lo một nhà?

Người bạn đáp lại: Một nhà không quét, sao có thể quét thiên hạ.

Trần Phiên ngộ ra không nói được lời nào.

Xem ra muốn xây dựng giang sơn thì phải xây dựng từ gia đình mình.  Muốn làm những điều cống hiến cho đời thì phải rèn luyện mình thành người tốt.  Phải khởi đi từ việc nhỏ mới mong làm chuyện đại sự to tát hơn.  Muốn canh tân xã hội phải có một kế sách lâu dài và phải khởi đi từ những việc nhỏ nhất mới mong thành đại sự.

Phải chăng Giáo hội hôm nay cũng bị cuốn vào trào lưu thích hoành tráng, rầm rộ?  Thích phô trương đánh trống hơn là sống đạo mến yêu?   Các lễ nghi, lễ hội thật nhiều nhưng điều đó không quan trọng bằng việc ra đi đến với người nghèo, người già yếu, bệnh tật…?

Giáo hội luôn nói mình có sứ mạng truyền giáo và mời gọi các tín hữu tham gia vào công cuộc truyền giáo, nhưng xem ra chẳng có kết quả, bởi vì ai cũng muốn làm việc lớn nhưng những việc bình thường là canh tân đời sống bản ZZthân, là sống công bình bác ái, là phục vụ yêu thương khởi đi từ gia đình lại bị xem thường.

Thực vậy, làm sao có thể truyền giáo khi chưa tề gia để mang lại cho gia đạo êm ấm thuận hòa?

Làm sao có thể truyền giáo khi bản thân còn nhiều tính hư nết xấu, đôi khi còn trở thành gương mù gương xấu cho tha nhân?

Truyền giáo không phải là một lễ hội để đánh trống khua chiêng.  Truyền giáo là đem đạo vào đời qua muôn nẻo đường trần thế.  Thế nên, truyền giáo đòi hỏi từng người phải biết sống trở thành nhân chứng cho Chúa, phải mang tin mừng thẩm thấu vào trong trái tim và trao tặng cho anh em, cho bạn bè.  Truyền giáo phải như chút muối làm cho thế gian nồng thắm tin mừng.  Truyền giáo phải như chút men làm cho Tin mừng hòa vào thế gian.

Trong bài hát “Một chút” thôi của Đức Cha Giuse Vũ Duy Thống dường như cũng nói những điều thật đơn giản ấy.

Một chút những viên đá nhỏ hợƿ thành ngọn núi lớn
Một chút những bước chân đi xɑ về muôn lối
Một chút những ƿhút ủi ɑn dịu xoɑ ngàn nỗi sầu
Ϲhỉ một chút ƙhởi đầu tương lɑi sẽ đẹƿ màu
ĐK – Một chút trong đời chỉ một chút chút xíu thôi
Ɲhiều chút chút bé nhỏ mà làm cho đời thêm mới
Một chút trong đời trở thành một chút thật tuуệt vời.
Ϲhắt chiu từng chút ấу cho đời nàу thêm sáng tươi.

Hôm nay ngày khánh nhật truyền giáo, ước gì chúng ta hãy từng chút một chắt chiu những việc làm tốt để sáng danh Chúa, có như vậy chúng ta mới gom thành một làn sóng yêu thương mang tin mừng lan tỏa khắp nơi.  Xin Chúa giúp chúng ta biết truyền giáo khởi đi từ việc nhỏ nhất trong đời thường bằng việc nêu gương sáng cho tha nhân trong bổn phận và trong việc bác ái dấn thân xây dựng thế giới ngày một tốt đẹp hơn.

LM Jos Tạ Duy Tuyền