SÁM HỐI PHÍA BÊN KIA ĐỒI

ZZLái xe ra khỏi cổng nhà tù, hình ảnh những giọt nước mắt sám hối của anh chị em tù nhân làm thức tỉnh lương tâm.  Tôi bắt đầu những ngày mục vụ ở trại tù sau ngày chịu chức.  Lòng hăng say trong những tháng ngày đầu của đời linh mục thôi thúc lên đường.  Đoạn kinh thánh của Isaiah mà Chúa Giêsu cảm nhận “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn” ( Luca, 4:18-19) như nói với riêng mình hôm nay để hăng say lên đường.  Trong niềm hăng say, dường như có xen lẫn cả men kiêu hãnh.  Tôi đến với anh chị em tù nhân với tâm tình yêu thương pha trộn thái độ của người ban ơn.

Nhà tù nằm ở một góc xa vắng, cuối bên kia chân đồi.  Cây cỏ xơ xác, ngoại trừ những cách xương rồng trơ trụi.  Dưới chân đồi là dãy kẽm gai lạnh buốt, sắc bén hơn cả gai xương rồng, gợi cho con người cái cảm giác của niềm đau, phân cách, và lạnh lùng.  Đã nhiều năm tôi do dự không muốn đến nơi đó.  Tôi thích ở gần bàn thờ có hoa, có nến, có bước chân người quen rộn rã chào đón.  Rồi một chiều trời thu, tôi rời bàn thờ hoa nến và rộn rã phố phường để đi về nơi phía chân đồi ảm đạm ấy.

Thế giới của nhà tù thì nhiều người biết đến: Khắc nghiệt, hung bạo, thiếu tình người, có lúc mất cả niềm hy vọng.  Còn thế giới tâm hồn của những tù nhân, thì ít ai biết đến và ít ai hiểu được.  Nó là khoảng riêng tư khép kín, có lỗi lầm, có nỗi buồn, có mặc cảm, và có cả nhiều giọt nước mắt sám hối.

Chính cái riêng tư sâu kín và khó hiểu ấy thường để lại trong dòng đời những ấn tượng tiêu cực.  Tôi đến với họ qua lăng kính của một chút thành kiến.  Để giúp họ hoán cải, tôi say mê nói chuyện với anh chị em về Thiên Chúa, về cuộc đời, về sám hối, và về niềm hy vọng.  Họ âm thầm nhẫn nại lắng nghe, lắng nghe chân thành lắm!

Rồi trong một khoảnh khắc bất chợt, tôi thấy những bàn tay say mê đếm nốt cuộc đời trên những chuỗi tràng hạt đã sờn mòn.  Có những đôi tay ôm gọn cuốn Kinh Thánh trong lòng với những trang sách đã vàng úa của thời gian.  Hoá ra, có người đã đến với Đức Maria từ những ngày bước chân vào cổng trại giam.  Có người đã gặp Đức Kitô qua những trang Kinh Thánh đã phai màu giấy lụa.  Chúa Kitô đã đồng hành với họ vào những nơi xa xôi nhất của cuộc đời.  Sau tấm màn sắt lạnh lùng của dãy nhà tù, tôi gặp gỡ những mùa sám hối trọn vẹn quá.  Thời gian và ơn thánh đã giúp thanh tẩy bụi trần.  Lòng sám hối và đạo đức của một số anh chị em trong tù thách đố thái độ sống đạo của tôi.  Ai là người công chính trước mặt Thiên Chúa đây?  Người đi tu, hay kẻ ở trong tù?  Tôi bắt đầu băn khoăn, nhớ lại lời Kinh Thánh,“Trên Trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hoán cải hơn là chín mươi chín người công chính không cần sám hối ăn năn.”  Tôi ở trong đám người nào đây?

Hàng ngày tôi đến nhà thờ và đọc kinh cáo mình mỗi sáng, nhưng trong lòng chưa có những giọt nước mắt ăn năn.  Cạm bẫy cõi lòng có khi dùng việc đạo đức bên ngoài để che đậy lương tâm.  Nó cho mình một cảm giác an tâm của người biệt phái: lễ lạc, kinh nguyện, làm việc mục vụ là thay cho của lễ hiến tế!  Hôm nay nghe Thánh Kinh chất vấn,“Máu chiên bò Chúa không ưng, lễ toàn thiêu Chúa không nhận.  Chúa chỉ nhận tấm lòng tan nát khiêm cung.”  Tôi do dự.  Thật khó có tấm lòng tan nát khiêm cung, nhất là khi mình đang ở vị trí được nhân danh Chúa để ban ơn tha thứ.  Có khi những địa vị ấy dễ ngăn cản tìm về sám hối.  Luật lệ tôn giáo và quy ước đạo đức xã hội lắm lúc cũng tạo nên thành kiến về con người hơn là nuôi dưỡng lòng bao dung.

Trước khi vào giúp trại tù, ấn tượng về những tội phạm là những con người không có ích cho xã hội.  Sau một thời gian đến với họ, tôi thấy chính mình mới là người cần thay đổi, vì bên kia chân đồi của cuộc sống, có quá nhiều điều để học hỏi.  Mình cần thay đổi thái độ về một con người trong hoàn cảnh hiện tại hơn là nhìn vào quá khứ của họ.  Có một lần, ánh mắt xa xăm và lời chia sẻ của người phụ nữ trạc tuổi bốn mươi làm lòng tôi se lại.  Chị nhìn những bông hoa dại bên hiên nhà tù rồi nói: “Cha biết không, nhìn những bông hoa dại làm tôi nhớ đến những cánh hoa trong vườn ngày xưa.  Những lúc tưới hoa, hai đứa bé quấn quýt chân mẹ như những mèo con thơ dại.  Đùa giỡn, ôm ấp, rồi bỗng một ngày mẹ con chia li.  Vậy mà đã năm năm xa tụi nhỏ.  Gia đình tôi ở Hawaii.  Xa quá.  Mong sao có ngày về gặp lại con.  Tôi muốn dành cả cuộc đời còn lại để chăm sóc con mình.” 

Lòng sám hối và yêu thương tràn ngập tâm hồn chị.  Trong những lầm lỗi, ơn thánh đã mở lối đưa về yêu thương.  Tôi không hỏi tại sao chị vào tù?  Đó không phải là câu hỏi của hiện tại.  Nhưng cảm nhận sự biến đổi của ơn thánh trong phút giây hiện tại nơi một tấm lòng rạn vỡ mới là giây phút thiêng liêng, nó mở lối cho màu nắng hy vọng trong buổi chiều ảm đạm.  Lạ quá, trong cái mịt mù ảm đạm ấy, Chúa đã đến bên họ để khơi dậy lòng tin yêu, để họ biết khóc, biết sám hối và biết hy vọng.  Những bức tường kín không ngăn cản được ơn thánh.  Ơn Thánh vào thăm tù không cần giấy tờ hay thẻ căn cước để qua cổng an ninh.  Cũng không cần chìa khoá của người cai tù để mở cửa phòng giam, nhưng có sức mạnh mở toang cánh cửa tâm hồn ngay cả khi họ đang bị nhốt kín sau khung cửa.  Ơn thánh rửa sạch lương tâm và giúp họ làm lại cuộc đời.  Tôi nói với chính mình, còn mùa sám hối nào đẹp hơn những mùa sám hối tôi gặp bên kia lưng đồi ấy.  Họ giúp tôi hy vọng về một tình thương quá vô biên và tin tưởng vào sức mạnh của Ơn Trời.

Trên đường trở về, tôi dâng lời cầu nguyện cho họ và cho tôi.  Tôi cầu cho anh chị em tù nhân tiếp tục sống hy vọng trong những hoàn cảnh thiếu tự do.  Tôi cầu nguyện cho tôi đang sống trong hoàn cảnh có nhiều tự do cần phải biết quý trọng sự tự do để lớn lên trong Chúa.  Tự do là quà tặng, nhưng cũng là cạm bẫy đưa đến nhiều lỗi lầm.  Sống trong tự do mà quên lòng sám hối thì tự do ấy sẽ dần dần đưa con người xa Chúa.  Càng xa Chúa, thì cuộc sống đang đánh mất sự tự do đích thực.

Lạy Chúa, Chúa cho con quá nhiều tự do, nhưng con sợ có khi mình đang dùng tự do để dần dần đánh mất tự do.  Nếu dùng tự do Chúa ban như thời giờ, vật chất, sức khỏe và nhiều phương tiện khác để làm mất đi sự tự do nội tâm, thì con đang tự xây phòng giam cho tâm hồn mình.  Nhà tù cho các phạm nhân hành sự thì dễ xem thấy, vì có nhiều kẽm gai, song sắt, và tường cao,  nhưng nhà tù của tâm hồn thì con khó phân biệt, vì có khi nó được trang trí bởi nhiều ảo ảnh.  Con cần ơn thánh giúp lòng sám hối để nhận ra đâu là gai, là sắt, là tường cao đang từ từ ngăn cách hồn con.

Nguyễn Thảo Nam

http://tinvahyvong.blogspot.com/

 

VÀO HOANG ĐỊA

Ai yêu bóng đá đều say mê theo dõi những trận đấu đỉnh cao giữa các đội ngoại hạng Anh, hoặc giữa các đội tranh Cúp C1.  Ta say mê vì các cầu thủ siêu hạng phô diễn kỹ thuật cá nhân điêu luyện, các đội bóng di chuyển chiến thuật kỳ ảo, các bài bản tinh vi của các huấn luyện viên bậc thầy, các pha phối hợp đẹp mắt giữa các cầu thủ.  Không phải tự nhiên mà các cầu thủ chơi bóng giỏi đến mức độ nghệ thuật như thế.  Họ phải mất nhiều thời gian tập luyện. Tập luyện để đạt được kỹ thuật cá nhân điêu luyện.  Tập luyện để có thể lực dẻo dai.  Tập luyện để có những xử lý thông minh theo tình huống. Tập luyện để hiểu nhau tiến đến những pha phối hợp nhịp nhàng ăn ý.  Những buổi tập rất nghiêm ngặt, đòi hỏi cầu thủ phải có quyết tâm cao, có tinh thần kỷ luật nghiêm túc.  Ai không chịu nổi các bài tập khó, sẽ bỏ cuộc.  Ai vượt qua được những buổi tập nghiêm túc sẽ trở thành những cầu thủ giỏi.

ZZĐời sống tâm linh là một cuộc chiến đấu.  Chiến đấu với ba thù: ma quỷ, xác thịt, thế gian.  Để có đủ khả năng chiến đấu, ta phải được rèn luyện, phải trải qua những thử thách.  Đức Giêsu, sau khi chịu phép rửa, được Thánh Thần đưa vào hoang địa để chịu thử thách.

Hoang địa là nơi hoang vu không nhà không cửa, không người thân, không cây cối, tức là không có một tiện nghi tối thiểu nào, không có một nguồn trợ lực nào. Chỉ có cát đá, thú dữ, ma quỷ, tức là chỉ có những khó khăn thách đố bắt ta phải chiến đấu, phải đương đầu.

Cuộc chiến đấu thứ nhất mà Đức Giêsu phải trải qua là cuộc chiến đấu với thiên nhiên. Người sống trong hoang địa phải chống chọi với thiên nhiên khắc nghiệt.  Tại các sa mạc cát phủ, đêm thì lạnh thấu xương, ngày thì nóng như thiêu.  Hầu như không có thực phẩm.  Người sống trong hoang địa phải chịu đói, chịu khát, chịu cái nóng nung người, chịu cái lạnh cắt da, chịu tất cả mọi thiếu thốn của đời sống thường ngày.  Xưa, dân Do Thái được Chúa đưa vào nơi hoang địa để huấn luyện trước khi đưa họ vào Đất Hứa.  Trong hoang địa, người Do Thái không chịu nổi những thiếu thốn, nên đã nhiều lần nổi loạn chống lại Chúa, chống lại ông Môsê, muốn quay trở lại làm nô lệ bên Ai cập để được ăn no ngủ kỹ.  Trái lại, tổ phụ Abraham đã chấp nhận vượt qua hoang địa, nên đã tới Đất Hứa, tiên tri Êlia đã vượt qua hoang địa 40 đêm ngày, nên đã đi đến núi của Thiên Chúa.  Và hôm nay, Đức Giêsu đã thắng được cái lạnh, cái nóng và nhất là đã thắng được cái đói cái khát, đã hoàn toàn làm chủ được bản thân trước những nhu cầu của thân xác.

Cuộc chiến đấu thứ hai mà Đức Giêsu phải trải qua là cuộc chiến đấu chống lại ma quỷ.  Thiên Chúa cho phép ma quỷ thử thách con người.  Từ tạo thiên lập địa, hai ông bà nguyên tổ đã bị ma quỷ cám dỗ và đã thua cuộc.  Ông thánh Gióp cũng đã bị ma quỷ thử thách, mất hết tài sản, mất hết con cái, mất hết danh dự.  Nhờ kiên quyết trung thành với Chúa đến cùng, ông đã thắng được ma quỷ.  Đức Giêsu đã thắng vượt mọi cơn cám dỗ ma quỷ đưa tới nhờ Người vững lòng tin ở Thiên Chúa.  Những cơn cám dỗ của ma quỷ thường là cám dỗ về đức tin.  Adong và Evà không vững lòng tin nên đã sa ngã.  Ông thánh Gióp vững lòng tin nên luôn đứng vững qua mọi thử thách.  Đức Giêsu luôn vững niềm tin vào Chúa Cha, nên đã chiến thắng mọi cơn cám dỗ thâm độc nhất của ma quỷ.

Cuộc chiến đấu thứ ba mà Đức Giêsu đã trải qua là cuộc chiến đấu từ bỏ ý riêng để tìm thánh ý Chúa Cha.  Hai ông bà nguyên tổ đã tìm ý riêng hơn ý Chúa, nên đã đi trệch đường.  Đức Giêsu luôn tìm thánh ý Chúa Cha, nên Người đã từ bỏ con đường rộng để đi vào con đường hẹp, từ bỏ con đường dễ để đi vào con đường nghèo hèn, từ bỏ con đường riêng tư để đi vào con đường Chúa Cha đã định.  Nên Người đã toàn thắng trong cuộc chiến đấu.

Hoang địa không phải chỉ là nơi thử thách.  Hoang địa còn là nơi gặp gỡ Chúa.  Sau khi đã thắng vượt tất cả các cuộc thử thách, ta sẽ gặp được Chúa, sẽ sống thân tình với Chúa và sẽ hoàn toàn thuộc về Chúa.  Ông Môsê, sau 40 đêm ngày ở trên núi Sinai, đã trở nên bạn nghĩa thiết của Chúa.  Mặt ông trở nên sáng láng đến nỗi dân Do Thái không dám nhìn thẳng vào.  Tiên tri Êlia, sau khi đi 40 đêm ngày, đã tới núi của Chúa và đã gặp được Chúa.  Đức Giêsu đã gặp gỡ Chúa Cha, đã tìm được ý Chúa Cha và đã kết hiệp mật thiết với Chúa Cha đến độ từ nay Người trọn vẹn thuộc về Chúa Cha.  Thánh ý Chúa Cha đã trở thành kim chỉ nam hướng dẫn đời Người.  Thi hành thánh ý Chúa Cha trở thành lương thực nuôi dưỡng Người.  Người sẽ hy sinh tất cả, kể cả mạng sống để cho thánh ý Chúa Cha được nên trọn.  Chính vì thế mà Người đã được gọi là “Con yêu dấu” của Chúa Cha.

Trong Mùa Chay, Giáo Hội mời gọi ta hãy vào hoang địa với Đức Giêsu để chịu thử thách, để rèn luyện đời sống tâm linh cho vững mạnh, kiên cường.  Ta không có điều kiện để vào nơi hoang vắng, nhưng ta vẫn có thể vào hoang địa của cuộc đời.

Vào hoang địa của cuộc đời có nghĩa là sẵn sàng chấp nhận những khó khăn, thiếu thốn trong đời sống, dù đói nghèo vẫn giữ được tâm hồn tự do, không chịu nô lệ vật chất.

Vào hoang địa của cuộc đời có nghĩa là kiên cường chống trả mọi cơn cám dỗ ma quỷ đưa tới, luôn vững niềm tin vào Chúa dù gặp những khó khăn thử thách.

Vào hoang địa của cuộc đời có nghĩa là từ bỏ những ý riêng để luôn tìm thánh ý Chúa, sẵn sàng thực hành thánh ý Chúa, dù có phải đau đớn, thiệt thòi.

Vào hoang địa của cuộc đời có nghĩa là giữ tâm hồn bình an thanh thản để gặp gỡ Chúa, tiếp xúc thân mật với Chúa, hoàn toàn thuộc về Chúa để trở nên “Con yêu dấu” của Chúa.

Nếu ta chuyên tâm rèn luyện trong suốt mùa Chay, tâm hồn ta sẽ trở nên vững mạnh chống lại được những cám dỗ ma quỷ đưa tới; nhanh nhẹn dấn thân vào những việc đạo đức không ngại khó khăn vất vả; quen từ bỏ ý riêng để tuân theo ý Chúa và sẽ trở nên Con hiếu thảo của Chúa.

TGM Ngô Quang Kiệt

HÃY XÉ LÒNG

ZZMột vị ẩn tu sống đơn độc trên ngọn núi cao. Ngày đêm ông ăn chay cầu nguyện. Ông ăn chay rất nghiêm ngặt và cầu nguyện rất tha thiết. Để thưởng công, Chúa cho xuất hiện một ngôi sao trên đầu núi. Khi ông ăn chay và cầu nguyện ít, ngôi sao mờ đi. Khi ông ăn chay nhiều và cầu nguyện nhiều thì ngôi sao càng sáng lên. Một hôm ông muốn leo lên đỉnh cao nhất của ngọn núi. Khi ông chuẩn bị lên đường thì một bé gái trong làng đến thăm và ngỏ ý muốn đi cùng ông. Thày trò hăng hái lên đường. Đường càng lên càng dốc dác khó đi. Mặt trời càng lúc càng nóng gắt. Cả hai thày trò ướt đẫm mồ hôi và cảm thấy khát nước. Nhưng không ai dám uống. Em bé không dám uống trước khi thày uống. Vị ẩn tu không dám uống vì sợ mất công phúc trước mặt Chúa. Nhưng nhìn thấy bé gái mỗi lúc mệt thêm, thày ẩn tu thấy thương, nên mở nước ra uống. Lúc ấy cô bé mới dám uống. Uống nước xong, cô bé mỉm cười rất tươi và cám ơn thày. Thày ẩn tu len lén nhìn lên đầu núi. Thầy sợ ngôi sao biến mất vì thày đã không biết hãm mình. Nhưng lạ chưa, trên đầu núi thày thấy không phải một mà có đến hai ngôi sao xuất hiện. Thì ra, để thưởng công vì thày biết nghĩ đến người khác, Chúa đã cho xuất hiện một ngôi sao nữa, sáng không kém gì ngôi sao kia.

Mùa chay được mở đầu bằng nghi thức xức tro và một ngày ăn chay kiêng thịt. Có lẽ có nhiều người thắc mắc tại sao ngày xưa người Do Thái rắc đầy tro trên đầu, ngồi cả trên đống tro, mà ngày nay ta chỉ xức một chút ít tro, và tại sao ngày xưa ăn chay trong bốn mươi ngày, mà ngày nay chỉ còn ăn chay có 2 ngày Thứ Tư lễ Tro và Thứ Sáu tuần thánh? Thưa vì Giáo hội muốn ta càng ngày càng đi vào tinh thần hơn là chỉ giữ hình thức bên ngoài.

Mục đích của Mùa Chay là giúp ta trở về với Chúa và với anh em bằng sám hối nhìn nhận tội lỗi của chính mình. Việc xức tro, ăn chay, cầu nguyện, làm việc thiện, chỉ là những phương tiện.

Xức tro là để tỏ lòng sám hối. Xức nhiều tro mà trong lòng không thật tình sám hối thì có ích gì. Ngày nay, Giáo hội chỉ dùng một chút tro tượng trưng để nhắc nhớ ta. Xức tro trên đầu không quan trọng bằng xức tro trong tâm hồn. Hãy xức tro vào tâm hồn để ta thấy tâm hồn mình đã ra hoen ố vì tội lỗi. Hãy xức tro vào tâm hồn để ta thấy rõ ta đã bôi tro trát trấu vào khuôn mặt Thiên chúa, làm lem luốc khuôn mặt Giáo hội, làm ô danh cho đạo thánh của Chúa. Hãy xức tro vào tâm hồn để ta thấy rõ ta đã làm cho mối quan hệ với tha nhân bị vẩn đục vì những tham vọng, những ích kỷ, những nhỏ nhen của ta. Hãy xức tro vào tâm hồn để lòng ta xót xa, đau đớn, hối hận vì những tội lỗi đã phạm.

Ăn chay không phải là một hình thức làm cho qua lần, chiếu lệ. Ăn chay không phải chỉ là nhịn ăn một hai bữa cơm. Ăn chay có mục đích nhắc nhớ ta hãy biết hãm dẹp thân xác, hãm dẹp những tính mê tật xấu, hãm dẹp những gì làm mất lòng Chúa và làm phiền lòng anh em. Giáo hội giản lược việc ăn chay vào 2 ngày trong một năm, không phải vì coi nhẹ việc ăn chay, nhưng vì Giáo hội muốn tránh thái độ ăn chay hình thức, để tập trung vào việc ăn chay trong tâm hồn. Nhịn ăn một bát cơm không bằng nhịn nói một lời có thể làm buồn lòng người khác. Nhịn ăn một miếng thịt không bằng nhịn đi một cử chỉ xúc phạm đến anh em. Nhịn một bữa cơm ngon không bằng nhường nhịn, tha thứ, làm hoà với nhau. Kềm chế cơn đói không bằng kềm chế cơn nghiện rượu, nghiện ma tuý, nghiện cờ bạc. Kềm chế cơn khát không bằng kềm chế dục vọng, tính tham lam, thói kiêu ngạo.

Chính vì thế mà tiên tri Joel đã kêu gọi dân chúng: “Hãy xé lòng chứ đừng xé áo”. Người Do thái có tục lệ khi ăn chay, thống hối thì xé áo ra. Đó là một hình thức biểu lộ sự thống hối. Điều quan trọng là có tâm hồn thực sự sám hối. Xé áo không bằng xé lòng ra khỏi những tham lam, bất công. Xé áo không bằng xé lòng ra khỏi thói lười biếng, khô khan, nguội lạnh. Xé áo không bằng xé lòng ra khỏi những dính bén trần tục. Xé áo không bằng xé lòng ra khỏi thói gian dối, giả hình. Chỉ khi thực sự xé lòng ra như thế, ta mới gạt bỏ được những chướng ngại ngăn cản ta đến với Chúa. Chỉ khi thực sự xé lòng ra như thế, ta mới đến gần Chúa, sống tình thân mật với Chúa, hưởng được tình yêu thương của Chúa.

Để ăn chay trong tinh thần và để thực sự hướng về tha nhân, nhiều nước trên thế giới đã biến việc ăn chay thành những hành động bác ái cụ thể. Mỗi ngày trong mùa chay, họ bớt chi tiêu một chút, gửi tiền tiết kiệm giúp những nơi nghèo khổ, bị thiên tai. Nhờ thế, việc ăn chay của họ không còn là hình thức, nhưng là những hi sinh thực sự và trở nên những việc làm đầy tình bác ái huynh đệ.

Bây giờ thì chúng ta đã hiểu thế nào là ăn chay và sám hối đẹp lòng Chúa. Mỗi người hãy tự đặt ra cho mình, cho gia đình mình một chương trình sống Mùa Chay. Ước gì mùa Chay năm nay sẽ là khởi điểm của một đời sống mới, giúp mỗi người chúng ta thực sự thay đổi đời sống, mến Chúa hơn, yêu người hơn.

Lạy Chúa, xin thương xót con, vì con là kẻ tội lỗi. Amen.

TGM Ngô Quang Kiệt

MẸ LÊN TRỜI

ZZNgày 1.11.1950 Đức Thánh cha Piô XII đã long trọng công bố tín điều Đức Mẹ hồn xác lên trời như sau: “Thánh Mẫu Thiên Chúa là Đức Maria Vô Nhiêm trọn đời đồng trinh, sau khi đã đi trọn cuộc đời trần thế, được triệu vời cả hồn lẫn xác trong vinh quang thiên quốc.”  Đặc ân hồn xác lên trời vừa như hoa trái vinh quang của trọn vẹn cuộc đời hoàn toàn thuộc về Chúa, vừa là kết thúc và bao gồm mọi đặc ân Thiên Chúa đã ban cho Mẹ Maria.  Khi tuyên dương công trạng đầy tràn của Mẹ Maria bằng việc triệu vời Mẹ về trời, Thiên Chúa đã biểu dương chính hồng ân Chúa ban cho Mẹ.  Và như vậy Thiên Chúa muốn đề cao Mẹ Maria như thành quả tuyệt vời có một không hai của ân sủng, để mọi người ở mọi thời ngợi khen Mẹ diễm phúc, và nhìn nhận Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng, chí thánh chí tôn đã làm cho Mẹ biết bao điều cao cả.

1. “Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?”

Bà Êlisabét được đầy tràn Thánh Thần đã lớn tiếng tuyên xưng thiên chức Thánh Mẫu của Mẹ Maria. Thiên chức Thánh Mẫu cao cả giờ đây đang bày tỏ ra nơi chính con người thiếu nữ Maria bằng xương bằng thịt, bình thường, giản dị và khiêm nhường thẳm sâu.  Chỉ bằng việc có mặt khi đến thăm, và chỉ bằng một lời chào đơn sơ của Đức Maria, bà Êlisabét lại nhận ra thiên chức Thánh Mẫu của Mẹ.  Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa bằng cả hồn cả xác của mình.

1.1  Mẹ Thiên Chúa bằng tâm hồn

Trong khi Chúa Giêsu đang giảng thì có một người phụ nữ đã lên tiếng nói với Chúa: “Phúc thay người mẹ đã cưu mang và cho Thầy bú mớm (Lc 11, 27).  Thuộc giới phụ nữ và trong tư cách làm mẹ.  Người phụ nữ ở đây cảm phục và yêu mến Chúa Giêsu bao nhiêu, thì lại muốn đề cao và hết lòng ca ngợi hồng phúc của người mẹ đã sinh ra Chúa bấy nhiêu.  Đó là cái nhìn thường tình.  Nhưng Chúa Giêsu cho thấy cần phải vượt lên trên quan niệm tự nhiên mới có thể đánh giá được hồng phúc làm Mẹ của Đức Maria, và hồng phúc đó trước hết và cốt yếu là ở trong tâm hồn: “Đúng hơn phải nói rằng: Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa.”

Một lần kia Mẹ Maria và anh em họ hàng đến thăm Chúa Giêsu và khi nghe biết thế, Chúa Giêsu đã đề cao Mẹ Maria trong chiều sâu thẳm của thiên chức Thánh Mẫu: “Mẹ tôi và anh em tôi, chính là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành” (Lc 8,2).  Như vậy căn bản thiên chức Thánh Mẫu của Đức Maria, không chỉ do ngài được làm Mẹ Đức Giêsu – Thiên Chúa làm người – tại tâm hồn của Mẹ đã hoàn toàn mở ra cho lời Chúa, và lời Chúa thành sự sống và lẽ sống của Mẹ.  Mẹ Maria đã cưu mang lời Chúa trong tâm hồn trước khi cưu mang Lời trong thân xác.  Thánh Augustinô còn nhận định tư cách môn đệ nơi Đức Maria (Mẹ trong tâm hồn) trổi vượt hơn tư cách làm mẹ nơi Đức Maria (Mẹ trong thân xác).

1.2. Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa

Khi Lời Thiên Chúa đã đi vào và thấm nhuần trọn vẹn tâm hồn Đức Maria tới mức sung mãn, thì Lời Thiên Chúa đi vào trong thân xác vô nhiễm của Đức Maria.  Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa theo một nghĩa trọn vẹn (cả hồn xác).  “Người đã nhập thể trong lòng Trinh Nữ Maria, và đã làm người.”   Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa bằng con người toàn diện, cả hồn lẫn xác.  Có nghĩa là hồn xác Mẹ vốn đã thuộc về Chúa, dành riêng cho một mình Chúa.  Và như vậy thân xác Mẹ không phải hư nát là dấu thuộc về trần gian cát bụi.  Mẹ xứng đáng lên trời cả hồn xác.  Đó là điều đã được tiền định do ý định khôn ngoan nhiệm mầu của Thiên Chúa khi tuyển chọn Mẹ làm Mẹ của Ngôi Lời Nhập Thể.

2. “Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới”

Trong ngày Truyền tin, Đức Maria đã thưa lời xin vâng với Thiên Chúa, một lời xin vâng toàn vẹn và tuyệt hảo, bao gồm cả quá khứ, hiện tại, và tương lai.  Mẹ đã không ngừng “Xin vâng” với mọi lời Thiên Chúa đến với Mẹ từ trước đến nay.  Và giờ đây tiếng xin vâng thốt ra ngoài miệng là âm vang và kết quả của tâm hồn Mẹ đã hoàn toàn vâng phục Thiên Chúa.  “Tôi đây là nữ tỳ của Chúa” là một lời xác định rằng: Từ trước đến nay và mãi mãi sau này, tôi là nữ tỳ của Chúa, hoàn toàn lệ thuộc vào Chúa.  Hoàn toàn lệ thuộc vào Chúa cả hồn xác trong mọi lúc, là một cách giải thích đặc ân Vô Nhiễm nguyên tội và trọn đời đồng trinh của Mẹ Maria.

2.1. Mẹ Maria Vô Nhiễm nguyên tội

Vô nhiễm nguyên tội là không mắc tội nguyên tổ.  Có nghĩa là ngay từ giây phút đầu tiên thụ thai trong lòng thân mẫu, con người (hồn xác) của Mẹ hoàn toàn đóng kín, không một kẻ hở nào cho tội lỗi và cho tất cả những gì thuộc trần gian đã bị tội lỗi làm hư thối.  Mẹ cũng hoàn toàn đóng kín với chính bản thân của mình, cái “tôi” của mình.  Đóng kín với tất cả, để Mẹ có thể trọn vẹn mở ra cho Thiên Chúa, và chỉ một mình Thiên Chúa mà thôi.  Đó là đặc ân Vô Nhiễm của Mẹ Maria.  Với đặc ân này, Mẹ Maria dù vẫn sống cuộc đời trần thế của một con người, Mẹ có thể qui hướng tất cả, và trọn vẹn từng chi tiết của bản thân và từng giây phút của đời sống về cho Chúa.  Nói cách khác, đặc ân Vô Nhiễm ban cho Mẹ Maria có khả năng không ngừng thuộc về Chúa cả hồn lẫn xác.  Mẹ xứng đáng lên trời cả hồn xác để mãi mãi thuộc về Chúa.

2.2. Mẹ Maria trọn đời đồng trinh

Hội Thánh tuyên xưng Mẹ Maria trọn đời đồng trinh trước khi, đang khi, và sau khi sinh Chúa Giêsu.  Và Phụng Vụ đã giải thích như sau: “Khi Người giáng sinh, đức đồng trinh của Thánh Mẫu đã không vì thế mà bị tổn thương, nhưng đã được thánh hiến” (Lời nguyện tiến lễ, lễ chung Đức Mẹ).  Đức đồng trinh của Mẹ rất thánh không thể được nhìn theo thường tình mà phải được nhìn theo đức tin, nghĩa là như ý định nhiệm mầu và khôn ngoan của Thiên Chúa.  Thiên Chúa ban cho Mẹ ơn đồng trinh trọn đời có mục đích là để con người toàn vẹn của Mẹ, cả hồn cả xác, hoàn toàn thuộc về Chúa, không sứt mẻ, không biến chất, trái lại luôn luôn nguyên tuyền và mãi mãi toàn vẹn.  Do đó khi Con Một Thiên Chúa được thụ thai và được sinh ra bởi Mẹ, thì không những không làm tổn thương hồn xác nguyên tuyền của Mẹ, mà trái tại còn làm cho hồn xác thuộc về Chúa hơn nữa.  Thuộc về Chúa trọn vẹn hồn xác nguyên tuyền, và suốt cả cuộc đời từng giây từng phút như vậy, nên việc Mẹ được Chúa đưa lên trời cả hồn cả xác là kết quả đương nhiên và hợp tình hợp lý.

Kết luận

Con đường Thánh Mẫu Maria Vô Nhiễm trọn đời đồng trinh đã đi để được lên trời cả hồn cả xác, là con đường Tin Mừng đã ghi lại: “Còn bà Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng” “Riêng Mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng” (Lc 2, 9-5).  Mẹ hằng đón nhận Lời Chúa, ghi nhớ và suy đi nghĩ lại trong lòng, cho tới khi Lời Chúa thành máu thịt, thành hơi thở, thành sự sống cho mình.  Và lúc đó hồn xác Mẹ được thánh hiến trọn vẹn cho Thiên Chúa, thuộc về Chúa từ trong ra ngoài, từ đầu đến chân.

Con đường đưa lên trời cả hồn cả xác của Mẹ Maria được mở ra cho mọi người như Tin Mừng đã ghi tại.  Tất cả mọi tín hữu đều được mời gọi đi con đường Mẹ Maria đã đi, để đến nơi Mẹ đã đến.

GM GB Bùi Tuần

LỊCH SỬ MÙA CHAY THÁNH

ZZTứ thời bát tiết Xuân, Hạ, Thu, Đông, thay đổi tuần hoàn luân vòng chuyển đổi.  Niên lịch phụng vụ của Giáo hội Công Giáo cũng nằm trong chu kỳ ấy.

Phụng vụ Giáo Hội cũng có bốn Mùa như: Mùa Vọng, Mùa Giáng Sinh qua đi, Mùa Thường niên tiếp nối, chúng ta chuẩn bị bước vào Mùa Chay Thánh, cao điểm là Tuần Thánh và  Đêm Vọng Phục Sinh. Vậy Mùa Chay có từ bao giờ, kéo dài bao lâu?  Những việc chúng ta làm trong Mùa Chay có ý nghĩa thế nào?  Mùa Chay đến rồi lại đi, chúng ta làm gì để Mùa Chay không trở nên nhàm chán và có ý nghĩa?

Mùa Chay có từ bao giờ, kéo dài bao lâu?

Vào những thế kỷ đầu Kitô giáo, để sống đạo và thực hành đạo, các Kitô hữu tiên khởi đã quan sát những người chung quanh xem họ sống đạo và thực hành đạo thế nào, cụ thể như việc người Do Thái giữ ngày Sabát, hay lên Đền thờ cầu nguyện.  Tuy các Kitô hữu tiên khởi họp nhau thành một cộng đoàn tế tự, cử hành phép rửa nhân danh Cha và Con và Thánh Thần theo một công thức tuyên xưng đức tin.  Nhưng khi cử hành các ngày đại lễ như lễ Vượt Qua, lễ Năm Mươi, dù vẫn giữ nguyên những ngày lễ của người Do Thái  nhưng lại mặc cho các ngày lễ ấy một ý nghĩa mới, chẳng hạn: Khi cử hành, họ không chỉ nhắc lại các biến cố Xuất Hành Cựu Ước, mà còn tưởng nhớ cuộc khổ nạn và phục sinh của Chúa Kitô, cũng như việc Chúa Thánh Thần hiện xuống trên các Tông đồ.

Mãi đến thế kỷ thứ IV, trong Giáo hội mới nảy sinh những ý kiến khác nhau như: Liệu có cử hành lễ Phục Sinh vào ngày lễ Vượt Qua của người Do Thái không?  Tại các Giáo đoàn thuộc Tiểu Á, họ vẫn giữ nghi lễ chiên vượt qua.  Riêng Giáo đoàn Antiokia lại ấn định lễ Phục Sinh vào ngày Chúa Nhật sau lễ Vượt Qua của người Do Thái, trong khi đó, các Kitô hữu tại Alexandria do các nhà chiêm tinh tính toán nên đã chuyển dời lễ Phục Sinh vào dịp phân xuân.

Cho dù có sự khác nhau về ngày cử hành các ngày lễ, nhưng lễ Phục Sinh vẫn là lễ chung của toàn thể cộng đoàn Kitô giáo, vì lễ Phục Sinh dựa trên nền tảng đức tin, trước lễ Phục Sinh, có một thời gian chuẩn bị tương đối dài gọi là Mùa Chay hay “40 ngày”, tưởng nhớ Chúa Giêsu ở trong hoang địa 40 đêm ngày.

Việc thực hành Mùa Chay đã có từ thời kì đầu Kitô giáo, nhưng trải qua những bước thăng trầm, mãi tới thế kỷ thứ II, thời thánh Irênê, giám mục thành Lyon, việc giữ chay ngắn hạn từ hai đến ba ngày, không ăn bất kỳ thức ăn nào mới được phổ biến.  Sang thế kỷ thứ III tại Alexandria, người ta kéo dài việc ăn chay ra hết một tuần.  Những dấu tích của Mùa Chay hay “40 ngày” được tìm thấy ở thế kỷ thứ IV, trong lễ qui của Công Đồng Nicêa.  Đây là thời gian chuẩn bị mừng lễ, nhưng ưu tiên vẫn là việc giúp các người dự tòng chuẩn bị lãnh Phép Rửa Tội và Đêm Vọng  Phục Sinh.

Cuối thế kỷ thứ IV, Giáo đoàn tại Giêrusalem bắt đầu giữ chay 40 ngày hay còn gọi là Mùa Chay 8 tuần, người ta ăn chay suốt thời gian này, trừ thứ Bẩy và Chúa Nhật.  Sang thế kỷ thứ V, tại Aicập người ta cũng giữ chay, tiếp đến là xứ Gôlơ, người ta ăn chay ngày thứ Bẩy và thứ Sáu trong Mùa Chay.  Trong khi giữ chay, các Kitô hữu chỉ ăn một bữa mỗi ngày, thức ăn gồm có bánh, rau và nước. Giữ nghiêm ngặt nhất là ngày Thứ Sáu và Thứ Bẩy Tuần Thánh, người ta không ăn một chút thức ăn nào.  Giờ ăn chay được qui định tùy theo sự khác nhau của mỗi giáo đoàn.  Vì mùa chay gồm 6 tuần không thể tương ứng với 40 ngày được. Nên sang thế kỷ thứ VII, người ta đã lùi về trước Mùa Chay mấy ngày, cụ thể như bắt đầu từ ngày thứ Tư cho đến ngày thứ Bẩy tuần trước khi bước vào Mùa Chay, ngày mà hôm nay chúng ta gọi là Thứ Tư Lễ Tro, ngày ăn chay.  Đồng thời, ba Chúa nhật trước Mùa chay, là gồm tóm thời gian chuẩn bị mừng lễ Phục Sinh, cách lễ Phục Sinh chín tuần.  Việc giữ chay ngày càng  đòi hỏi nghiêm ngặt hơn, chẳng hạn như buộc chỉ ăn bữa tối.  Nhưng đến thế kỷ thứ VIII, việc giữ chay được nới rộng ra, nghĩa là cho phép những người ốm đau bệnh tật được ăn trứng, bơ, sữa, cá và cả rượu nữa.  Sang thế kỷ XII và XIII, bữa ăn ngày chay được ấn định là trước giờ trưa 3 tiếng tức 9 chín giờ sáng, tiếp theo được ăn “bữa ăn nhẹ” vào buổi tối.  Sang thế kỷ XVII việc ăn chay giảm dần và Giáo hội cho phép được ăn cháo, sữa và cá nhỏ.  Trong ngày chay, tại các hoàng gia, nhà bếp thi nhau trổ tài làm ăn với những thực đơn sao cho dồi dào phong phú hơn ngày thường.

Một cảnh chợ cá ngày Thứ Tư Lễ Tro

Từ năm 1949, Giáo hội Công giáo qui định việc giữ chay và kiêng thịt là ngày Thứ Tư lễ Tro và Thứ Sáu Tuần Thánh mà thôi.  Lý do vì hai ngày đó là ngày tưởng nhớ sự chết: Ngày thứ tư lễ Tro, linh mục chính thức làm phép tro được đốt từ những cành lá đã làm phép vào ngày Lễ Lá năm trước rồi vẽ hình thánh giá trên trán người nhận tro và nhắc lại rằng “ngươi là tro bụi, và người sẽ trở về tro bụi”, nhắc lại cái chết của mỗi người chúng ta, tiếp đến, ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, ngày tưởng niệm cái chết của Chúa Giêsu trên Thập giá.

Trong phụng vụ của Giáo hội Chính Thống, thời gian chuẩn bị bước vào Mùa Chay kéo dài năm tuần liền, mỗi tuần đọc một đoạn Tim Mừng riêng, với cách thức sám hối sâu xa.  Tuần thứ bốn, được ấn định là ngày kiêng thịt và ăn chay trong toàn Giáo hội.  Chúa nhật thứ năm được gọi là Chúa nhật Hòa giải, mỗi người hòa giải với người bên cạnh trước khi toàn thể cộng đoàn xin lỗi Chúa.

Cảm tưởng chung là một bầu không khí “vui và buồn”.  Mỗi tín hữu, với sự hiểu biết có giới hạn và khác nhau về phụng vụ, nên khi bước vào nhà thờ với các kinh nguyện của Mùa Chay, mỗi người mỗi cảm tưởng khác nhau.  Một phần vì những lời kinh tiếng hát mang đậm nét buồn, màu áo tím, những bài đọc dài hơn, đơn điệu hơn ngày thường, và hầu như không có nét vui tươi.  Một nét đẹp nội tâm rực sáng, tựa như ánh sáng ban mai chiếu rọi từ thung lũng tối tăm lên tận đỉnh cao của núi đồi.

Niềm vui âm thầm, êm dịu và toàn bộ các bài Sách thánh trong Mùa Chay nghe thật đơn điệu cho thấy sự bình an đã dẫn đưa người ta tới những điệp ca hòa tấu Allêluia trong Đêm Vọng Phục Sinh.

Chúa nhật lễ Lá là thời gian không còn dành riêng cho việc tưởng niệm cuộc khổ nạn nữa, bước vào một Tuần Thánh, với những bài đọc nhắc lại những ngày sau hết của Chúa Kitô trên trần gian và sự Phục Sinh của Ngài.

Tại sao lại gọi là 40 ngày chay thánh?

Từ “Mùa Chay” là một từ tương phản với từ gốc latinh là “quadragesima” có nghĩa là 40.  Trong Kinh thánh, con số 40 có ý diễn tả một khoảng thời gian chờ đợi, một quá trình, tượng trưng cho việc chuẩn bị gặp gỡ Thiên Chúa.  Số 40 còn diễn tả hành trình trong sa mạc trên đường về Đất hứa của Dân Do Thái kéo dài 40 năm.  Ông Môisen đã ở trên núi Chúa 40 ngày (x. Xh 24, 18; 34,28).  Những người trinh sát đã ở trong vùng đấy 40 ngày (x. Ds 13, 25).  Elia đã đi 40 ngày trước khi tới được hang ở đó Ngài được thị kiến (x. 1V 19, 8).  Ninivê đã được cho 40 ngày để sám hối (x. Gn 3, 4).  Và quan trọng nhất là Chúa Giêsu được Chúa Thánh Thần thúc đẩy vào trong hoang địa 40 ngày để ăn chay cầu nguyện trước khi thi hành sứ vụ công khai (x. Mt 4,2).

Như vậy Mùa Chay là mùa nhắc nhớ 40 năm hành trình trong sa mạc của dân Do Thái, 40 ngày trong hoang địa của Chúa Giêsu.  Con số 40 ngày, là thời gian đi vào hoang địa của cõi lòng, thinh lặng để chuẩn bị gặp gỡ Chúa.  Đây là thời gian phụng vụ cao điểm thuân tiện thích hợp cho các kitô hữu noi gương Đức Kitô dùng 40 ngày để ăn năn đền tội và dấn thân phục vụ anh chị em.  Và bằng 40 ngày long trọng của Mùa Chay, mỗi người được liên kết mật thiết hơn với các Mầu Nhiệm của Chúa Giêsu, Đấng đang tiến đến cái chết và sự sống lại.

Mùa chay mang lại cho chúng ta điều gì?

Phần lớn người Kitô hữu không thực hành việc ăn chay, nguyện ngắm, nên Mùa Chay không có ảnh hưởng tới đời sống của họ là bao?  Khi nói về Mùa Chay, người ta thường hiểu một cách không tích cực lắm.  Đại đa số dân chúng cho rằng trong Mùa Chay việc kiêng ăn, kiêng uống  giữ chay chiếm vị trí hàng đầu.

Tuy nhiên điều đáng lưu ý là đại đa số người Kitô hữu không thực hành đạo trong đời sống nhưng họ vẫn đến nhận tro vào Thứ Tư Lễ Tro.  Đây là một nghi thức giầu tính biểu tượng, nó tác động đến tận đáy lòng con người, nhắc nhớ người ta suy nghĩ về thân phận của mình khi nhận tro và mời gọi con người trở về với Chúa.  Vì nhiều khi con người quên đi thân phận yếu hèn, mỏng giòn của mình, dẫn đến đau thương và đổ vỡ.  Bi kịch cuộc đời con người đều từ đó mà ra.  Con người phạm tội, tội cắt đứt sự hiệp thông giữa con người với Thiên Chúa, làm cho con người mất đi hạnh phúc, phải đau khổ và phải chết.  Chuyện sa ngã của Nguyên tổ đã chứng minh điều đó.  Lịch sử cứ độ của Dân Chúa, tội thì Chúa phạt, hối cải thì Chúa tha và cứu.  Nên mỗi khi lâm vào hoàn cảnh bi đát đau thương hay thất vọng, Dân Chúa đều nhận ra rằng cần phải sám hối trở về giao hòa với Thiên Chúa để được chữa lành. Mùa Chay là mùa sám hỗi, chúng ta hãy ra sức làm những việc cần thiết để được giao hòa và hiệp thông với Chúa, hầu được Chúa ban ơn.

Trong đời sống người kitô hữu, nhiều khi lắng nghe lời Chúa xong, chúng ta đã có quyết tâm đi xưng tội, làm việc đền tội, nhưng rồi kết quả không mấy khả quan, thì Mùa Chay là cơ hội rất thuận lợi.  Thư thánh Phaolô nói với chúng ta: “Đây là lúc thuận tiện, đây là ngày cứu độ” (2 Cr 6,2).  Đây là thời gian khẩn trương trong năm phụng vụ, thời gian thuận tiện được ban cho chúng ta để đẩy mạnh quyết tâm hoán cải, tăng cường việc lắng nghe Lời Chúa, cầu nguyện, thống hối, mở rộng tâm hồn đón nhận thánh ý Chúa, thực hành khổ chế một cách quảng đại hơn, để đi tới và giúp đỡ tha nhân đang túng thiếu: đó là một hành trình tinh thần giúp chúng ta chuẩn bị sống Mầu Nhiệm Phục Sinh.  Vậy chúng ta hãy tin tưởng điều đó và bước vào Mùa Chay Thánh.

LM Antôn Nguyễn Văn Độ

http://tonggiaophanhanoi.org

 

 

 

THIÊN CHÚA QUAN PHÒNG

ZZCó một nhà hiền triết quan sát cơn gió thổi qua đồng cỏ.  Khi cơn gió nổi lên, cây cỏ đều ngả theo chiều của gió.  Khi cơn gió tạm ngưng thì cây cỏ lại ngóc đầu lên.  Khi con gió đổi chiều, thì cây cỏ cũng đổi chiều.

Thấy vậy, nhà hiền triết bèn nói: Cây cỏ là chúng ta, còn cơn gió là số mệnh.  Số mệnh không bao giờ để cho chúng ta nghỉ yên, nó thổi tung và thổi tung mãi, khi thì thổi bên trái, lúc thì thổi bên phải.  Điều quan trọng là phải biết nương theo chiều gió.  Đừng chống cự, đừng phản kháng, nhưng hãy biết gắn bó với số mệnh của mình, bởi vì số mệnh là chính Thiên Chúa, là thánh ý của Ngài.

Từ đồng cỏ, nhà hiền triết ghé thăm một người bạn quen.  Thoạt khi tới cửa, thì con chó sủa vang, đứa bé đang chơi ngoài sân, nhìn thấy người lạ, bèn chạy đi nép mình vào vòng tay người mẹ.  Nhà hiền triết càng tiến tới, thì đứa trẻ níu chặt lấy đôi tay người mẹ.

Thấy vậy, nhà hiền triết bèn nói: Đứa trẻ sợ hãi là chúng ta.  Người lạ mặt là số mệnh, còn vòng tay chở che là Thiên Chúa.  Số mệnh nhiều khi âm thầm từng bước tiến lại gần, khiến chúng ta sợ hãi, thế nhưng điều khôn ngoan là hãy noi gương bắt chước đứa trẻ, biết nép mình vào vòng tay uy quyền của Thiên Chúa.   Tương lai càng đen tối, chúng ta lại càng phải níu chặt bàn tay của Thiên Chúa.  Sống dưới cái nhìn trìu mến của Ngài, chúng ta sẽ không còn sợ hãi.  Nếu đứa trẻ nhận ra tôi là một người quen, thì nó sẽ vui mừng chạy ra và ôm lấy.  Cũng vậy, số mệnh dù có bẽ bàng thì cũng là thánh ý của Thiên Chúa.  Nếu chúng ta có một đức tin mạnh mẽ, chúng ta sẽ sẵn sàng đón nhận không kêu ca oán trách.

Thế nhưng có một người đàn bà đã lên tiếng phản đối: Làm sao tôi có thể giơ tay đón nhận số mệnh, vì nó như những ngọn roi quất vào cuộc đời tôi.  Chồng tôi bị chết trong chiến tranh, và bây giờ, mười mấy năm sau, đứa con trai tôi cũng lại chết trong chiến tranh.

Nhà hiền triết thông cảm với những đau khổ ấy, nhưng rồi ông đã trả lời bằng một giọng đầy an ủi khích lệ:  Tôi biết, rất có thể chúng ta sẽ phải khóc dưới sức nặng của thập giá, nhưng chúng ta không có quyền chất vấn Thiên Chúa.  Chúng ta phải tin rằng Đấng đã dựng nên những bông hoa xinh tươi, những trái cây ngon ngọt, Đấng đã cẩn thận sắp xếp từng nguyên tử của vật chất, thì Ngài sẽ chẳng để cuộc sống con người bị bất ổn.

************************

Con người đau khổ, đó là điều dĩ nhiên.  Nhưng đau khổ không phải là một cái gì thừa thãi và vô ích, chính Chúa Giêsu cũng đã từng chịu đau khổ, nhưng Ngài đã mặc cho những đau khổ ấy một giá trị tuyệt vời và đã dùng những đau khổ ấy để cứu chuộc chúng ta.  Rồi Ngài lại phán: Phúc cho những ai than khóc vì Nước Trời là của họ.  Vậy thì chị là người đang đau khổ, Nước Trời là của chị đó.  Nếu không có Nước Trời, thì tôi sẽ lên tiếng kêu gọi mọi người đau khổ hãy đoàn kết, chống lại số mệnh, chống lại Thiên Chúa.  Nhưng Nước Trời còn đó, và Thiên Chúa đang chờ đón chúng ta.  Hãy để Ngài tẩy rửa và thanh luyện chúng ta nên xứng đáng với hạnh phúc tuyệt vời ấy.

Đừng hỏi tại sao Thiên Chúa lại dựng nên bông hồng có những gai nhọn, Ngài có chương trình của Ngài.  Hãy để cho Ngài uốn nắn và hành động.  Thái độ khôn ngoan nhất là biết nép mình vào bàn tay Chúa.  Nếu cây cối chống trả với ngọn gió, nó sẽ bị gẫy đổ, nếu chúng ta chống trả với Thiên Chúa, đời chúng ta sẽ chồng chất thêm nhiều khổ đau, dù cuộc đời chúng ta có sóng gió, thì cũng hãy tin tưởng vào Thiên Chúa vì trước mặt Thiên Chúa, chúng ta đáng giá hơn chim trời và hơn hoa cỏ đồng nội rất nhiều.

************************

Lời Kinh Của Người Đau Khổ

Lạy Chúa,

Con cầu xin ơn mạnh mẽ
để thành đạt trong cuộc đời,
Chúa lại làm cho con ra yếu ớt
để biết vâng lời khiêm hạ…

Con cầu xin có sức khỏe
để mong thực hiện những công trình lớn lao,
Chúa lại cho con chịu tàn tật
để chỉ làm những việc nhỏ tốt lành…

Con cầu xin được giàu sang
để sống sung sướng thoải mái,
Chúa lại cho con nghèo nàn
để học biết thế nào là khôn ngoan…

Con cầu xin được có uy quyền
để mọi người phải kính nể ca ngợi,
Chúa lại cho con sự thấp hèn
để con biết con cần Chúa…

Con xin gì cũng chẳng được theo ý muốn.
Nhưng những điều con đáng phải mơ ước,
Mà con không hề biết thốt lên lời cầu xin,
Thì Chúa lại đã ban cho con
thật dư đầy từ lâu…

Lạy Chúa,

Hóa ra, con lại là người hơn hết trên đời này,
Bởi con đã nhận được ơn Chúa vô vàn…

KỶ LUẬT NỘI TÂM

“Người môn đệ chỉ cần đốt cháy con tàu của mình [đốt cháy những gì mình làm sở hữu] và hướng về phía trước.  Anh được mời gọi để rời bỏ…bỏ lại cuộc sống cũ ở phía sau, và hoàn toàn phó thác. Người môn đệ được đẩy ra khỏi nơi tương đối an toàn của mình để đi vào một cuộc sống tuyệt đối bất an… ra khỏi lĩnh vực của sự hữu hạn… và đưa vào lĩnh vực của khả năng vô hạn.” –
Dietrich Bonhoeffer

Chúa Giêsu và Thánh Gioan Tẩy Giả là hai nhân vật quan trọng nhất trong Tân Ước và sự kiện Chúa Giêsu chịu phép rửa đều được các Phúc Âm nhắc đến.  Nếu để những câu chuyện này song song với nhau, chúng ta sẽ thấy mỗi Thánh Sử thuật lại câu chuyện khác nhau.  Chẳng hạn như theo Mátthêu và Máccô, chúng ta đều thấy Đức Giêsu chịu phép rửa bởi Thánh Gioan Tẩy Giả, nhưng Phúc Âm Luca thì chỉ thuật lại “Khi toàn dân đã chịu phép rửa, Đức Giêsu cũng chịu phép rửa” (Lc 3:21-22), và câu chuyện này được nhắc đến sau khi Gioan Tẩy Giả bị Vua Hêrôđê bắt bỏ tù (Lc 3:19-20).  Còn ở Gioan thì không nói tới việc Đức Giêsu chịu phép rửa, nhưng đề cập việc Gioan Tẩy Giả đã giới thiệu và làm chứng về Đức Giêsu được Thần Khí ngự xuống dưới hình chim bồ câu (Ga 1:32-34).

Nếu chúng ta nhìn lại sự sinh tử của Thánh Gioan Tẩy Giả và Đức Giêsu, chúng ta sẽ thấy cả hai đều có một sự khởi đầu tương tự, đó là sự thụ thai của cả hai đều được loan báo bởi Thiên Sứ.  Về sự chết thì hai Ngài đều đón nhận cái chết nhục nhã, Đức Giêsu thì đầu đội vòng gai và bị đóng đinh trên đồi Calvê; còn Thánh Gioan Tẩy Giả thì bị chém đầu và bỏ trên mâm làm món quà cho một người phụ nữ (Mt 14:1-12).  Theo Phúc Âm Luca thì Đức Giêsu và Thánh  Gioan Tẩy Giả đã gặp nhau một lần khi cả hai còn trong bụng mẹ và đã nhận ra nhau khi Maria, lúc ấy mới được thụ thai và đi thăm người chị họ Êlisabét, cất tiếng chào chị mình.  Có lẽ ngay lúc gặp gỡ khi còn trong bụng mẹ đó, Đức Giêsu và Thánh Gioan đã cùng nhận ra được rằng cả hai đều sống và chết cho một sứ mạng chung đó là mang tin mừng cứu độ cho nhân loại bắt đầu từ việc chịu phép rửa.  Thánh Gioan thì rửa tội bằng nước và Đức Giêsu thì mời gọi chúng ta sống trong Thần Khí.

Nhưng để được sống và trung thành với Thần Khí mà chúng ta được hưởng qua ấn tín của phép rửa, chúng ta cần phải có những phút tĩnh lặng để nghe được tiếng nói trong con tim.  Là người Kitô hữu, chắc chắn rằng ai trong chúng ta lại không muốn được nghe tiếng Thiên Chúa nói với mình một cách âu yếm như Ngài đã nói về Chúa Giêsu: “Đây là Con yêu dấu của Ta…”  Sở dĩ ai trong chúng ta đều muốn nghe những lời âu yếm của Thiên Chúa Cha vì khi Ngài dựng nên mỗi người chúng ta, Ngài đã ghi tạc sự mong muốn ấy trong con tim của mỗi người.

Từ muôn thuở, Thiên Chúa thấu hiểu tâm tình của con cái Ngài và Ngài hằng mong ước lời Ngài phán sẽ luôn được lắng nghe, được đón nhận và mang ra thực hành, biến ước mơ thành hiện thực.  Có bao giờ chúng ta tự hỏi vì sao Thánh Gioan Tẩy Giả lại có thể lắng nghe được lời Thiên Chúa mách bảo để rồi ông có thể nhận ra được Chúa Giêsu đích thực là Đấng mà ông và muôn dân đang mong đợi, là Chiên Thiên Chúa, là Đấng Cứu Thế?  Có lẽ nhờ cuộc thăm viếng của Mẹ Maria khi bà chị họ Eisabeth mang thai Gioan Tẩy Giả, Thánh Thần Chúa đã được Mẹ Maria mang đến cuộc gặp gỡ này và khiến cho Gioan dù còn trong bụng mẹ vẫn nhảy mừng trước cuộc viếng thăm của thai nhi Giêsu. Sự lắng nghe của Thánh Gioan Tẩy Giả không dừng lại khi ngài gặp gỡ thai nhi Giêsu, nhưng ngài tiếp tục lắng nghe, tiếp tục đón nhận Thánh Ý Chúa và thực hiện cho đến khi ngài bị chém và đầu của ngài được đặt trên chiếc mâm làm thú vui cho bá quan của Hêrôđê.

Lắng nghe là một thái độ và hành vi đòi hỏi phải có sự chú ý, kiên nhẫn và luyện tập thường xuyên. Điều này cũng có nghĩa là những ai muốn trở thành người có trái tim nhạy cảm để lắng nghe thì phải tạo cho mình một kỷ luật nội tâm và tuân giữ hết sức triệt để.  Kinh nghiệm sống của các thánh để lại cho chúng ta thấy, để có thể lắng nghe được tiếng Chúa, các ngài phải tự đưa ra một kỷ luật và tuân giữ những qui luật đó cốt sao cho tâm hồn các ngài thực sự tĩnh lặng để lắng nghe bất kể tiếng ồn ào hay xao động chung quanh bởi vì các ngài nhận thức được tiếng nói của Thiên Chúa chỉ xuất phát từ nơi sâu thẳm của con tim mà thôi.  Vì vậy, một con người có tâm hồn tĩnh lặng thể hiện ZZqua đời sống cầu nguyện, qua cái nhìn thế giới xung quanh, cũng như qua cách đối xử với mọi người, sẽ lắng nghe được tiếng Thiên Chúa một cách tỏ tường.

Khi Thánh Gioan Tẩy Giả bước vào sa mạc, ngài đã khép cuộc sống của ngài vào một kỷ luật để tiếp tục lắng nghe và nhận ra Thánh ý Chúa định cho cuộc đời của ngài.  Chính Thần Khí hoạt động trong ngài và hướng dẫn ngài chọn cuộc sống mà ngài đã sống đó là sống hoàn toàn để chuẩn bị cho Đấng Thánh, đó là sứ mạng của ngài.  Bởi thế, mặc dầu ngài rất bận rộn với sứ mạng dọn đường bằng cách mời gọi mọi người thống hối, ngài vẫn luôn để ý, lắng nghe và hướng lòng về sự hiện diện của Đấng mà ngài đang trông chờ.  Cho nên khi Đức Giêsu xuất hiện, mặc dầu rất thầm lặng, Thánh Gioan Tẩy Giả đã nhận ra Đức Giêsu là ai, và cũng ý thức được sứ mạng của ngài có lẽ đến đây đã hoàn tất. Thánh Gioan đã sống lối sống của người có kỷ luật nội tâm, một người biết lắng nghe và hướng lòng của mình đến Thánh ý của Chúa.

Ước gì mỗi người chúng ta biết dành thời gian để luyện tập cho mình một kỷ luật nội tâm hầu lắng nghe được tiếng nói của Thiên Chúa từ con tim của mình.  Hãy tập thinh lặng trong tâm hồn, tập làm chậm lại cuộc sống như chạy đua của chúng ta, tập biết phản ánh và nhìn lại những gì đã xảy đến trong ngày, nghĩ đến những người ta gặp gỡ, và tập cho ta biết sống thật cho giây phút hiện tại.  Qua những giây phút thinh lặng ấy chúng ta mới nhận thức ra được sức sống của thiên nhiên trong đó chúng ta là một phần tử, và sức sống ấy được nuôi nấng bởi Thiên Chúa, và như vậy chúng ta mới có can đảm để phó thác cuộc sống của mình cho Chúa hầu Ngài thánh hoá những gì là hữu hạn của con người trở nên sự vô hạn của Chúa, và chúng ta trở nên những người con biết sống theo Thần Khí như Chúa Cha hằng mong muốn. Amen!

Củ Khoai 1/14

NỖI NIỀM SÂU KÍN CỦA GIÊSU

ZZCác bạn trẻ thân mến,

Giêsu cũng là con người như chúng ta, cũng biết buồn, biết vui.  Có lúc Ngài cảm thấy hạnh phúc vì niềm an ủi thiêng liêng trào dâng, nhưng cũng có khi Ngài buồn phiền khi gặp phải những chống đối, ghét ghen.  Sứ mạng mà Giêsu đang gánh vác, Giêsu biết là nó sẽ dẫn Ngài đến cây thập giá thật sự trên đồi cao với những đòn roi, vu khống, sỉ nhục và đau đớn.  Dù ý thức rất rõ đó là con đường mà mình phải đi và nhiều lần chính Giêsu cũng đòi buộc các môn đệ phải đi con đường ấy, nhưng cứ nghĩ đến cái chết thảm khốc như một tên tử tội trên đồi, Giêsu vẫn cảm thấy có chút gì tiếc nuối, lo lo.  Mỗi lần như thế, Giêsu muốn tìm đến những người bạn thân của mình để chia sẻ nỗi niềm, mong sao với sự thấu hiểu và sẻ chia của họ, Giêsu có thể phần nào đó vượt qua được cảm giác lo lắng này mà hăng hái hơn gánh lấy trọng trách.  Thế nhưng, mỗi lần chia sẻ cho các môn đệ, vốn là những người bạn thân gắn bó suốt bao nhiêu năm qua, là mỗi lần Giêsu lại nhận lấy những hờ hững và vô tâm của họ.

Khi Ngài nói với họ là mình sẽ bị bắt, bị đánh đập, bị giết chết nhưng rồi sẽ sống lại, họ chẳng hiểu gì nhưng cũng chẳng dám hỏi lại, chỉ lo tranh cãi nhau xem ai là người lớn nhất trong nhóm.  Sau khi Phêrô thay mặt các tông đồ tuyên xưng căn tính Mêsia của Đức Giêsu, Ngài cũng mặc khải cho họ biết về tương lai của mình.  Phêrô vội vàng ngăn cản và không muốn chuyện ấy xảy ra.  Lần khác, ngay sau khi Ngài chia sẻ, hai anh em Giacôbê va Gioan đã bí mật gặp riêng Ngài để xin được ngồi bên hữu bên tả Ngài trong nước của Ngài.  Dường như trong mặt họ, điều quan trọng không phải là tâm tư của Giêsu nhưng là những lợi ích mà họ sẽ có được.  Con đường cứu độ mang đầy dấu vết thập giá của Giêsu, họ vẫn chưa thấu tỏ.  Bao mơ mộng về tột bậc vinh quang và chức tước đã chiếm hết chỗ trong tâm trí của họ, khiến họ không còn tâm tư để nghe những bộc bạch và những nỗi niềm rất riêng của thầy mình.

Đã rất nhiều lần, Giêsu nghẹn ngào tỏ bày mong ước và nỗi lòng sâu kín của mình nhưng chẳng ai hiểu cả.  Ngài ước được ấp ủ mọi người dưới cánh tay như gà mẹ ấp ủ con dưới cánh.  Ngài mong sao ngọn lửa Ngài mang xuống cho trần gian có ngày được bừng cháy lên.  Ngài nói như một người tràn trề tâm tư khi thổ lộ là Ngài phải uống chén đắng Cha trao.  Là một con người, Giêsu cũng có lúc cô đơn, cũng có khi cần người an ủi, sẻ chia.  Ấy vậy là mà chẳng ai thấu hiểu, chẳng ai nhận ra, trái lại còn làm cho nỗi sầu riêng của Ngài thêm cay đắng.

Các bạn trẻ thân mến,

Trong mắt chúng ta, Giêsu là một con người rất mạnh mẽ vì Ngài đã một mình đương đầu với hết tất cả những khó khăn. Tuy nhiên, chúng ta quên đi một điều là Giêsu cũng là con người như chúng ta. Cũng có lúc Giêsu vui vì có nhiều người nghe mình rao giảng, vì người dân được no nê, hạnh phúc, vì các bệnh nhân được lành.  Nhưng cũng có lúc Giêsu buồn vì chẳng ai hiểu mình, vì lòng người sao cứng cỏi kém tin, vì ai ai cũng bon chen tranh giành chức tước.  Chẳng ai trong chúng ta lại không bồi hồi và sợ hãi khi biết rằng chỉ ít ngày nữa thôi, mình không còn được sống nữa.  Cũng như chúng ta, Giêsu ước ao mình được sống và vui hưởng những niềm vui, hơn là bị những đòn roi tra tấn, bị những lời sỉ vả chát chúa bủa vào tai, bị những mũi đinh nhọn đóng sâu vào xương thịt, bị treo trên thập giá, trần truồng, tủi hổ.

Mỗi khi chúng ta gặp chuyện buồn, ta thường tìm đến bạn bè, hy vọng được san sẻ chút lo lâu.  Còn khi Giêsu có nỗi lòng, ta dường như chẳng mảy may để ý đến.  Ta bận nhiều chuyện quá!  Bận tính toán cho sự nghiệp của mình, bận gặp người này người kia, bận vui chơi với đám bạn trong những trò trụy lạc, bận suy nghĩ để tìm ra những thủ đoạn trả thù.  Ta bỏ rơi Giêsu một mình với nỗi niềm riêng. Ta đến với Giêsu có chăng cũng chỉ là để xin được cái này cái nọ, xin được ngồi bên hữu bên tả, xin Ngài ban cho ta điều này điều khác, còn những mong chờ, khao khát mà Giêsu dành cho chúng ta, ta bỏ lơ như chưa hề biết.  Nỗi cô đơn mà Giêsu chịu vốn đã đủ để dày vò Ngài, nay lại còn phải nhận lấy sự vô tâm của chúng ta, khiến cho nỗi đau ấy thêm phần chua cay, nhức nhối.  Vô tâm nối tiếp vô tâm, ta theo Chúa cốt chỉ để tìm lợi cho chính ta, chứ ta chưa bao giờ cố gắng để hiểu Chúa.

Hãy một lần cố gắng hiểu được những tâm tư của Giêsu như tên trộm lành, các bạn sẽ hưởng được lời hứa của Ngài: anh sẽ được ở trên Thiên Đàng với tôi.  Đừng để Giêsu một mình với nỗi cô đơn và tâm sự buồn, các bạn nhé!

Pr. Lê Hoàng Nam, SJ

SỐNG CHỮ NHẪN

Tích xưa kể rằng: Hàn Tín thời Hán Cao Tổ, thuở hàn vi phải đi câu cá đổi gạo mà ăn.  Thế mà có những lúc không đủ ăn.  Có bà thợ giặt cảm thương đã mời Hàn Tín đến dùng cơm tại nhà.  Hàn Tín đi đâu cũng mang thanh gươm kè kè bên mình.

Một hôm, có tên đồ tể Ác Thiểu muốn hạ nhục Hàn Tín, chận đường thách:

Chú thường mang gươm, chả biết để làm gì!  Bây giờ tôi không cho chú đi.  Chú có gan thì sẵn thanh gươm đó hãy chém tôi đi, bằng không thì phải lòn trôn tôi mà đi.

Hàn Tín chẳng chút do dự, lòn trôn tên hạ tiện đó mà đi, vì tự nhủ: “Giết thằng này thì được rồi, nhưng mà lấy mạng mình đổi mạng nó, thì không đáng tí nào!”

Sau Hàn Tín nhờ có công giúp Hán Cao Tổ dựng nước mà được phong làm Vua Tam Tể.  Lúc bấy giờ, Hàn Tín bèn mời bà thợ giặt đến biếu nghìn lạng vàng để tạ ơn.  Rồi không những không thèm trả thù tên đồ tể mất dạy xưa, lại phong cho hắn chức Trung Huý.  Ác Thiểu rất ngạc nhiên, khúm núm nói: “Lúc trước tôi ngu lậu thô bỉ, đã dại dột xúc phạm đến oai nghiêm ngài, nay tội ấy được tha chết là may, còn dám mong đâu ban chức tước?

Hàn Tín ôn tồn bảo: “Ta chẳng phải là kẻ tiểu nhân hay cố chấp, đem lòng thù hận.  Hành động của ngươi ngày xưa tuy quá đáng, nhưng cũng là bài học luyện chí cho ta.  Vậy nhà ngươi chớ tị hiềm mà hãy nhận chức ta ban”.

***********************************

ZZLối báo đền ân oán của Hàn Tín thật là hay.  Đối với người ân thì ban thưởng, song đối với người oán cũng vẫn ban thưởng chớ không trả thù.  Thật là một người quân tử.

Là người con của Chúa, Chúa dạy chúng ta hãy làm hoà trước để khỏi xảy ra điều tai hại hơn.  Đây là một lời khuyên quan trọng: Chẳng những không được làm hại ai hay có ý mưu hại ai, mà còn phải đi trước một bước mà làm hoà.  Nói rõ hơn, trước một điều bất công, vô tình hay hữu ý, thiên hạ gây cho ta: Như xỉ nhục, xỉ vả, chê cười, nói hành, vu vạ, cáo gian…  Tất nhiên lòng tự ái chúng ta bị va chạm, không thể nhịn được, lòng chúng ta như muốn trả đũa ngay.  Đó là tính tự nhiên của con người.  Nhưng Chúa muốn chúng ta sống khác hơn, sống cao thượng hơn.  Chúa muốn chúng ta tha thứ và làm hoà.  Tha thứ và làm hoà là điều kiện phải có để đến với Chúa.  Không thể đến với Chúa mà lòng còn ngổn ngang những tức giận, ghen tương, đố kỵ.  Nhân vô thập toàn, ai cũng có những lầm lỗi, ai ai cũng cần được tha thứ, thế nên cũng cần phải biết tha thứ cho nhau.  Người ta vẫn thường nói để sống với Chúa cần có đức tin để mình tin tưởng, phó thác cậy trông vào Chúa giữa những phong ba của dòng đời, và để sống với tha nhân, cần phải có lòng độ lượng, để mình sống bao dung và tha thứ cho người khác.

Nếu chúng ta không có lòng độ lượng có lẽ mình sẽ chẳng sống được với ai, và cũng chẳng ai sống được với mình.  Đây cũng là điều mà Chúa mời gọi chúng ta phải công chính hơn những người biệt phái trong tình yêu tha thứ.  Không chỉ yêu kẻ yêu mình mà còn yêu cả kẻ ghét mình.  Không chỉ quý mến kẻ thi ân cho mình mà còn làm ơn cho kẻ làm hại chính mình.  Bởi vì, oán báo oán thì oán chập chùng.  Chúa mời gọi chúng ta hãy tha thứ cho kẻ thù, hãy làm hoà cùng kẻ thù và hãy cầu nguyện cho kẻ thù.  Chính Chúa đã sống tình yêu đó trên thập tự giá, nơi đó người ta đã tuôn đổ sự tàn ác trên thân thể Ngài, thế mà Ngài vẫn xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm.  Tình thương Chúa không dừng lại ở việc tha thứ mà còn thi ân cho mọi người, kẻ lành cũng như người dữ.  Kẻ thờ phượng Chúa cũng như kẻ chống đối lại Chúa.

Ước gì mỗi người chúng ta hãy sống tình thương bao dung đó cho anh em của mình.  Hãy quên đi những xúc phạm của nhau.  Hãy làm hòa để thêm bạn bớt thù.  Hãy tha thứ để tìm được sự bình an tâm hồn cho bản thân và cho những người chung quanh.  Xin Chúa là Đấng hằng thương xót và tha thứ, xin giúp chúng ta biết tha thứ lỗi lầm của anh em, như Chúa đã tha thứ cho chúng ta. Amen!

Lm Giuse Tạ Duy Tuyền

CHÚA TRONG TÔI RẤT NHỎ…

Tôi được một linh mục dạy giáo lý mỗi tuần một giờ vào chiều thứ tư trong tuần.  Bố tôi thương đứa con gái ngỗ nghịch nhất nhà, tánh tình thẳng thắn và ngang tàng giống con trai, nên bố cho phép tôi học giáo lý công giáo để “tòng phu”.  Học được bao nhiêu giờ tôi cũng không nhớ, học những gì tôi cũng không biết có lưu lại trong tâm hồn tôi được bao nhiêu… chỉ biết khi cha tuyên bố cho phép được làm phép Thánh tẩy là tôi thở phào nhẹ nhõm.  Thế là tôi trở thành một “tân tòng Chúa”, từ ngày “tân tòng phu”.

Trong đời sống hôn nhân, mỗi Chúa Nhật vợ chồng tôi đều diện đẹp đến nhà thờ chánh tòa dự Thánh Lễ mà không khi nào vào ngồi ở hàng ghế trong nhà thờ, ông chồng tôi chỉ muốn đứng ở ngưỡng cửa nhà thờ và khi rước lễ xong là chàng kéo tôi ra, khi không rước lễ thì trong lúc người ta đi lên Cung Thánh, chúng tôi đi ra ngoài, leo lên chiếc xe Honda hai bánh chạy một mạch ra phố, lân la hết hàng phở, đến hàng cà phê, hang chè, hàng bánh… rồi làm một vòng dạo phố, khi trời đẹp chúng tôi cưỡi Honda chạy quanh bờ hồ ngắm cảnh, ngắm hoa ở vườn Bích Câu, rồi mới về nhà.  Bà mẹ đỡ đầu của tôi chắc để ý theo dõi chúng tôi, một hôm bà đón chúng tôi ở sân nhà thờ nhắc nhở, khi nào cha ban phép lành xong các con hãy ra về nhé. – Ôi, quê xệ!!!

Trước và sau khi nhận phép Thánh Tẩy tôi thấy mình chả có gì khác.  Chúa ở trong tôi chả thấy đâu cả, chắc Chúa ngủ yên và ngủ say.  Tôi sống đạo như thế kéo dài chả biết là bao lâu, chỉ có hình thức bên ngoài vào ngày Chúa Nhật thôi, còn bên trong thì rỗng tuếch rỗng toác, chẳng có tí nào là Chúa.  Lần lượt những đứa con ra đời, đứa nào chồng tôi cũng tìm bạn của anh đỡ đầu cho con trong ngày Lễ Thánh Tẩy… và rồi đời sống đức tin cũng vẫn vậy, dù rằng suốt thời gian mang bầu và khi sanh các cháu, tôi thỉnh thoảng lần chuỗi 50 Kinh Kính Mừng, mà không hề biết suy gẫm về sự Thương, sự Vui, sự Mừng ra sao cả.  Tôi cũng chẳng có chút cảm nghiệm gì về Chúa về Đức Mẹ.

Các con tôi bắt đầu đến trường rồi tuổi teen, tôi thấy mình phải có trách nhiệm dạy con biết về Chúa, mà mình có biết gì về Chúa đâu, hỏi chồng, hỏi vài người đạo gốc, đạo dòng mà cũng không ai đáp ứng rõ ràng cho tôi hiểu về Chúa ra sao.  Thôi thì cứ giao các con cho các cha ở nhà thờ.  Đi dự lễ ngày Chúa Nhật tôi nghe các bài đọc, càng thấy chả hiểu gì và nghe giảng tôi cũng chả nhận được chi.

Tôi hỏi cha trong tòa giải tội cũng không được giải thích thỏa đáng.  Bao nhiêu câu hỏi về Chúa vẫn cứ lẩn vẩn trong đầu.  Tôi thắc mắc và hỏi nhiều câu mọi người cho là vớ vẩn nên không giải thích được.

Biến cố tháng 4.1975 đến, chồng tôi phải đi tù cải tạo, một mình nuôi bốn đứa con trong khốn khó, vì chồng là “ngụy quân” nên bị đuổi khỏi sở, không công ăn việc làm, không biết buôn bán, tôi lăn lưng ra đi làm đủ mọi nghề bằng tay chân.  Ở cuối bờ hồ Xuân Hương, gần nhà tôi có một biệt thự, chắc là của ông “cán bộ nhớn” nào đó đang sửa, tôi xin được việc phụ hồ để kiếm gạo nuôi con và để khỏi phải bị đuổi đi kinh tế mới.  Có cô hàng xóm ngày xưa, gần nhà ba mẹ tôi thấy tôi khổ quá, vì mỗi khi cô đi ngang hiện trường nhìn thấy tôi ăn mặc xốc xếch, khệ nệ bưng những ki xi măng, bê những cục gạch nặng nề mà mặt thì chảy xệ buồn hiu, có khi tay xúc hồ, tay quệt nước mắt nên cô thương tình bèn rủ đi buôn bán may ra khá hơn chăng…

Tuy sống khổ cực, thiếu thốn mọi bề mà Chúa Nhật nào mẹ con tôi cũng ăn mặc tươm tất nhất có thể, đi dự Thánh Lễ.  (mẹ con tôi chỉ mỗi người có một bộ đồ tươm tất nhất để dành cho ngày Chúa Nhật)

Bây giờ suy niệm câu Kinh Thánh (Ga. 3,30)” Người phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi” này tôi mới thấy Chúa ở trong tôi có một xí, bé tẹo tèo teo.!!!…

Lúc này chắc Chúa ở trong tôi dường như thức dậy mỗi Chúa Nhật rồi Chúa lại thiếp đi và ngủ say.

Mỗi sáng hai con trai lớn, đứa 11 tuổi, đứa 12 lo dậy sớm để đi giúp lễ 5 giờ 30 sáng.  “Đồ tế nhuyễn, của riêng tây” đã ra hết chợ trời để có gạo cho con ăn nên các cháu không biết giờ, có hôm chúng đến nhà thờ chắc khoảng 3 hay 4 giờ sáng, chưa mở cửa, hai đứa co ro ôm nhau ngoài góc cửa nhà thờ, ngủ quên trong gió lạnh Đà lạt cho đến khi ông từ đến mở cửa nhà thờ.  Tội nghiệp mẹ con tôi quá.!!!

Chắc Chúa cùng ngủ với các con tôi.  Tạ ơn Chúa!!!

Không biết Chúa to hay bé bao nhiêu trong lòng các con tôi???

Từ ngày ra hải ngoại, được sống trong đất nước tự do, lần đầu tiên tôi rủ nhà tôi đi tĩnh tâm do linh mục đồng hương tổ chức, vì từ khi gia nhập đạo Chúa, tôi chưa hề biết tĩnh tâm ra sao.  Từ chiều thứ Bẩy bắt đầu đến nhà tĩnh tâm tôi được gặp gỡ nhiều đồng hương thật vui.  Giới thiệu nhau rồi chúng tôi ăn chiều, sau đó Thánh Lễ rồi đi ngủ.  Lần đầu quen nhau nên chả ai ngủ nghê gì cả.  Suốt đêm cứ rì rầm đủ thứ chuyện về quê nhà, về vượt biên, v.v…  Sáng hôm sau chúng tôi được cha cho mọi người chia sẻ về đời sống đức tin.  Thôi thì các bà, các ông lại tha hồ kể lể đủ thứ chuyện bên quê nhà, chuyện cha xứ, chuyện xứ đạo.  Ăn trưa xong, chúng tôi dự Thánh Lễ rồi chầu Thánh Thể và kết thúc.

Đi tĩnh tâm về tôi cũng vui lắm, thấy thú vị vì quen một số đồng hương, được chia sẻ đủ thứ chuyện, được chầu Thánh Thể (mà hồi giờ tôi chưa hề biết)… rồi năm nào vị linh mục cũng lập lại cuộc tĩnh tâm như thế.

Tôi thấy mình chẳng học được gì về Chúa cả.

Những thắc mắc trong tâm hồn lại ngồn ngộn trở về mà chẳng biết hỏi ai, chẳng có một sách báo hay thông tin nào về đạo mà đọc cả.

Năm 1989 tôi được mời dự Đại Hội Sinh Viên Công Giáo Âu Châu, tổ chức ở Strassbourg, Pháp Quốc.  Dịp này tôi được một linh mục giới thiệu đi dự một khóa tĩnh tâm theo phương pháp linh thao của Thánh Inhaxiô Loyola.  Trong 3 ngày linh thao tại Brüssels, tôi mới biết thế nào là Ơn Cứu Độ, và hiểu sơ sơ về Lịch Sử Cứu Độ.  Tôi được Chúa dạy tập thể thao cho linh hồn tôi, bằng những giờ thinh lặng để lắng nghe tiếng Chúa, khi cầu nguyện với đoạn Phúc Âm mà cha giảng phòng vừa hướng dẫn.

Tiếng Chúa thật mảnh, thật thanh, thật nhẹ, thật khẽ nên càng lắng đọng tâm hồn bao nhiêu, ta nghe được tiếng Chúa rõ bấy nhiêu.

ZZTôi đã gặp được Chúa Giêsu, tôi yêu thích và quý trọng nhất khi Chúa chạm đến trái tim “ngổn ngang trăm mối” của tôi thật dịu dàng mà thắm thiết, thật sâu thẳm mà ngọt ngào biết bao!!!.  Những giọt nước mắt biết ơn, cảm động, sung sướng tuôn tràn, ngập đầy hạnh phúc trong tôi.  Lần đầu tiên tôi biết Chúa Giêsu, là con Thiên Chúa xuống thế làm người, là Đấng Kitô chịu chết trên cây thập tự để chuộc tội cho thiên hạ và cho chính cá nhân tôi.  Lần đầu tiên tôi biết đến Lời Chúa, Kinh Thánh, Tin Mừng là gì, Giáo Hội là ai, các Thánh là ai, và quan trọng nhất tôi là ai.  Là ai mà Chúa thương yêu vậy?

Bây giờ Chúa ở trong tôi thật sự thức dậy rồi.  Chúa thức dậy và làm những điều kỳ diệu, mở trí khôn cho tôi hiểu Ngài, mở trái tim cho tôi biết yêu Ngài. Tôi nhớ đoạn Tin Mừng “Trong khi Đức Giêsu đang ở đằng lái, dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ.  Các môn đệ đánh thức người dậy và nói: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?  Người thức dậy, ngăm đe gió, và truyền cho biển: “Im đi! câm đi!”  Gió liền tắt và biển lặng như tờ” (Mc 4, 38-39).

Tâm hồn tôi bây giờ đã có Chúa ngự “ở đằng lái” để hướng dẫn tôi đi trên con đường của Thầy: “Ta là đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6).

Từ đó mỗi ngày tôi để cho Chúa dắt tôi đi với Lời Chúa, những lúc này tôi được sống giây phút lặng thinh êm ả bên Chúa, tôi hiểu Chúa, và yêu Chúa.  Tôi cố gắng mỗi năm đều đi dự tĩnh tâm linh thao để có những ngày nghỉ ngơi tĩnh lặng bên Chúa, được sống trọn vẹn với Ngài, được Chúa yêu thương an ủi, xoa dịu những vết thương, những nỗi đau trong đời sống thường ngày, và tôi được yêu Ngài dồi dào hơn.

Tôi biết Chúa ở trong tôi đang lớn lên… và lớn chừng nào thì tôi không biết.

Thước để đo xem Chúa lớn bao nhiêu trong linh hồn chúng ta là

Mỗi ngày tôi sống với Chúa trong lòng mình bao nhiêu phút…

Chỉ có một người đã yêu Chúa hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực, chính là Thánh Phaolô, khi Thánh nhân thốt lên: “Tôi sống không phải tôi sống mà là Chúa sống trong tôi”

Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi, Chúa đã gieo vào lòng con hạt giống Giêsu từ bao nhiêu năm nay thế mà con không biết chăm bón cho hạt giống nẩy mần lớn lên, mà chính con đã để cho thế gian trong con đè chết ngạt hạt giống ấy, mặc dầu nhiều lúc hạt giống cũng đã nứt mần, muốn ngoi lên, nhưng bóng tối đầy đặc đã vô tình ngăn chặn không cho Hạt Giống Giêsu lớn lên.

Lạy Chúa Giêsu, xin mở lòng, mở trí cho cá nhân con và cho chúng con, những tín hữu biết yêu Chúa trên hết mọi sự.  Xin cho chúng con biết noi gương và sống như Thánh Phaolô.  Amen!

Elisabeth Nguyễn