LINH MỤC AUGUSTINO NGUYỄN VIẾT CHUNG THẦN TƯỢNG CỦA TÔI

Từ nhà thương đến nhà Chúa

Vốn là một bác sĩ ngoại đạo, cuộc đời thánh hiến đã đến với cha Augustinô Nguyễn Viết Chung, Tu hội Truyền Giáo Thánh Vinh Sơn (CM) từ những dấu ấn khó phai.  Buổi thực hành mô phôi.

Vượt qua cung đường gió bụi, men theo con hẻm nhỏ lạo xạo sỏi đá, khúc khuỷu như thách thức người cầm lái, chúng tôi gặp cha nơi cộng đoàn heo hút giữa núi rừng thuộc xã Đăk Tân, huyện Kon Rẫy, tỉnh Kontum.  Giọng chậm rãi, nhỏ đều, vị linh mục ngoài 60 kể về đời mình như chỉ mới ngày hôm qua.

Sinh ra và lớn lên trong gia đình khó khăn có sáu anh chị em ở Sài Gòn, tuổi thơ cậu bé Chung là những tháng ngày không êm ả vì ba mẹ hay cãi vã, hục hặc.  Ký ức ấy gieo vào tâm trí cậu nỗi ám ảnh, sợ hãi về nơi mà số đông người gọi là tổ ấm.  Năm 1973, khi đang học lớp 12, cậu tình cờ đọc được bài báo về sự ra đi của Đức cha Jean Cassaigne – Giám mục của những người bị bệnh phong.  Cuộc đời nhân đức, phục vụ quên mình của ngài chợt tác động mạnh mẽ lên tâm thức cậu học trò.  Cậu thấy trần gian vẫn còn bao điều tốt đẹp, ý nghĩa và đáng để sống thật trọn vẹn.  Một tia hy vọng, một niềm tin mới dần le lói sau những ngày dài bi quan, chán nản.  Nắng xuân đã về xua tan đông dài lạnh lẽo.
Ngày 4.11.1974, cậu đạt được ước mơ đỗ vào Trung tâm Giáo dục Y khoa Sài Gòn (nay là ĐH Y Dược TP.HCM) để sau này săn sóc bệnh nhân phong như thần tượng J. Cassaigne.  Kinh tế nhà eo hẹp, để có tiền trang trải học phí, chàng sinh viên nghèo đạp xích lô buổi tối kiếm thêm ít đồng.  Được một thời gian, không đủ sức khỏe, giờ giấc lại eo hẹp, cậu ngưng việc, tập trung đèn sách.  Bữa nọ, trước lúc tiến hành thực nghiệm mổ xác, giảng viên dạy môn Mô phôi (là một linh mục) yêu cầu học trò tham dự thánh lễ cầu nguyện cho người đã hiến xác tại nhà thờ Thánh Jeanne d’Arc (quận 5, TPHCM), cách trường 1 cây số.  Nét thánh thiện về đời tu và chuyên môn vượt trội của người thầy đã đặc biệt thu hút cậu.  Thế nên chiều cùng ngày, khi thầy đề nghị viết thông tin cá nhân gởi về, kèm câu hỏi phụ: “Sau khi tốt nghiệp, bạn muốn làm gì?” cậu Chung đã viết: “Con muốn trở thành linh mục giống thầy.”  Dù bấy giờ, cậu chưa là người Công giáo.

Năm 1980, sinh viên Nguyễn Viết Chung ra trường.  Đồng lương Nhà nước eo hẹp khi đất nước còn khó khăn, phải xoay sở bằng việc khác.  Rồi cậu nộp đơn gởi Sở Y tế TP trình bày mong muốn chăm lo người bị bệnh ở Di Linh 517nhưng bị từ chối vì không đúng tay nghề (cậu thuộc chuyên ngành Ký sinh trùng sốt rét).  Khoảng từ 1986 – 1989, bác sĩ Chung làm việc tại Trạm sốt rét Đồng Nai.  Cuối năm 1989, cậu xin vào Bệnh viện Da liễu TPHCM, có cơ hội trau dồi những kiến thức về bệnh phong.  Ba năm sau, bác sĩ Chung lên trại phong Bến Sắn (tỉnh Bình Dương) phục vụ.  Điều ấp ủ, trông đợi lâu nay cuối cùng cũng thành hiện thực.  Ngày qua ngày, chứng kiến sự tận tâm với người bệnh nơi những nữ tu thuộc Tu hội Nữ Tử Bác Ái Vinh Sơn, ý định muốn dâng mình lại sáng lên trong lòng người thầy thuốc.

Nhờ sự hướng dẫn, giúp đỡ của các dì, ngày 15.5.1993, bác sĩ Chung được rửa tội.  Tiếp đến, “người tân tòng” bắt đầu tìm hiểu Tu hội Truyền Giáo Thánh Vinh Sơn.  Cứ làm việc ba tuần, ghé Tu hội một tuần, trong vòng một năm.  Do lớn tuổi và đặc thù công việc nên mọi người cũng cảm thông trường hợp “hiếm, lạ” này.  Năm 2002, thầy hoàn tất chương trình Triết học và Thần học.  Tới lễ Truyền tin năm 2003, thầy Chung thụ phong linh mục tại Dòng Chúa Cứu Thế (quận 3 – TPHCM).  Điều kỳ diệu mà Thiên Chúa làm đã được tỏ bày qua hành trình ơn gọi đầy trúc trắc và không ít những bất ngờ thú vị ấy.

“Xin vâng”

Sau ngày chịu chức, cha giúp Mái ấm Mai Hòa chăm sóc người bị nhiễm HIV (huyện Củ Chi, TPHCM) và dạy học tại một số cộng đoàn của Tu hội.  Năm 2009, vâng lời Bề trên, cha bắt đầu gắn bó cùng bà con dân tộc thiểu số trên dải đất Kontum.  Môi trường sống mới, đối tượng tiếp xúc mới, song cha mau chóng thích nghi và hòa nhập.

Qua tìm hiểu, người mục tử nắm cụ thể những thiệt thòi, khổ cực mà bà con Thượng gánh chịu.  Đi tìm lời giải cho câu hỏi tại sao họ rơi vào cảnh ngộ đó, cha gút nhận ra các rào cản chính như bệnh tật, thất học, không có đất canh tác… “Nhiều nhà có nương rẫy nhưng do họ mù mờ nên bị người dưới xuôi lợi dụng, cho vay nặng lãi tới mức phải bán hết đất, hết vườn để trả nợ”, cha giải thích.  Thế là, cha hỗ trợ anh em mua miếng rẫy khác đặng có chỗ cắm cây mì, trồng cây bắp sinh sống.  Đi đôi với trồng trọt, cha gởi các hộ khó khăn trong thôn cặp bò giống và cùng họ chăn nuôi để chờ ngày có bê.  Một tuần đôi ba lần, cha chạy vào làng thăm chừng chuồng trại, thức ăn, con nào bệnh, con nào sắp đẻ hay có “ẻm” nào “bốc hơi” vì: “Người dân tộc mà, túng quá sẽ bán ngay để có tiền hay làm thịt cho cả nhà ăn chứ đâu suy tính chuyện dài lâu”, cha mỉm cười.

Mấy bận thăm hỏi bản làng, thấy túp lều nhà ai xuống cấp đáng thương, cha ngược xuôi giúp một tay để họ có được chốn tựa lưng đàng hoàng tử tế, để gió mùa đông thôi lùa vào thông thốc. Cái khổ nữa là người Thượng ít có nhà vệ sinh, hầu hết đều “giải quyết” tự do nên cha ra sức giúp bà con “cải thiện thực trạng” vì điều này ảnh hưởng đáng kể tới sức khỏe, môi trường.  Khi mảng dân sinh tạm ổn, cha lo đến y tế.  Hễ làng nào có người phong cùi, bóng dáng “áo chùng thâm” lại xuất hiện ngay bên: đưa họ ra cơ sở chữa trị, lo phí ăn uống, vận chuyển, ủi an…  Sau hết, cha dồn mọi trăn trở vào khoản giáo dục.  Bà con nếu muốn đổi đời, muốn con cháu bớt khổ cần mau mắn “đầu tư” cho chúng chữ nghĩa, tri thức.  Phụ huynh chưa nghĩ xa tới chuyện đó, cha nghĩ và phân tích thay họ.  Để gia đình yên tâm, bớt áp lực, cha đồng hành lo học phí, sách vở…  Dẫu cực mấy nhưng thấy “hoa trái” thu về, lòng lại an yên.

Có thể nói, những tên làng như Konscôi, Konken, Konselat (xã Đăk Ruồng, huyện Kon Rẫy) từ lâu thân thuộc với cha như hình với bóng.  Làng gần nhất cách nơi cha ở 7 km.  Đường đi mù bụi, lởm chởm mấp mô, quệt vội giọt mồ hôi rồi nổ máy, cha cứ thế dấn bước hết năm này tháng nọ.  Nhưng đâu chỉ có vậy.  Ở những thôn xa xôi tận huyện Đăk Hà, Đăk Tô hay Ngọc Hồi cũng in rõ dấu chân vị linh mục vùng cao.  Hôm nào khỏe, cha tranh thủ sáng đi chiều về, lúc mệt thì ngủ qua đêm do đường xấu lại xa.  “Thế mới thấy hết ý nghĩa đời tu.  Nghĩ tới hình ảnh mấy đứa bé chết vì suy dinh dưỡng, ngộ độc khoai mì (*) lòng lại ray rứt không yên nên làm được gì giúp họ cứ làm, kẻo muộn”, cha chia sẻ.

Xế trưa, một phụ nữ thuộc sắc tộc Rơ Ngao cầm nải chuối già từ xa lên biếu cha để cảm ơn vì căn nhà đã xây xong.  Tấm lòng của cha, sự đơn sơ nhưng chân tình của chị khiến chúng tôi chợt nghĩ, nếu ngày trước Đức cha Cassaigne từng hé mở một mùa xuân mới trong cuộc đời cha, thì nay cha đang mang mùa xuân ấm áp đó đến với muôn dân, trên vạn nẻo đường.

Phú Khang

(*): Bà con dân tộc thiểu số thường hái lá khoai mì nấu canh ăn bởi quá nghèo.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *