SÁCH LÊ-VI

I. NGHI THỨC CÁC LỄ TẾ

Lễ toàn thiêu

1.     1 ĐỨC CHÚA gọi ông Mô-sê, và từ Lều Hội Ngộ, Người phán với ông rằng:

2 “Hãy nói với con cái Ít-ra-en và bảo chúng: Khi một người trong các ngươi dâng lễ tiến lên ĐỨC CHÚA, nếu là gia súc thì các ngươi phải dâng bò hay chiên dê làm lễ tiến.

3 Nếu người ấy tiến dâng một con bò làm lễ toàn thiêu, thì phải tiến dâng một con đực toàn vẹn; người ấy sẽ tiến dâng nó ở cửa Lều Hội Ngộ, để được ĐỨC CHÚA đoái nhận.4 Người ấy sẽ đặt tay trên đầu con vật dâng làm lễ toàn thiêu, và nó sẽ được đoái nhận để cử hành nghi thức xá tội cho người ấy.5 Người ấy sẽ sát tế con bò tơ trước nhan ĐỨC CHÚA, và các con A-ha-ron là các tư tế, sẽ tiến dâng máu; chúng sẽ rảy máu chung quanh bàn thờ đặt ở cửa Lều Hội Ngộ.6 Người ấy sẽ lột da con vật dâng làm lễ toàn thiêu, và xả nó ra từng mảnh.7 Các con A-ha-ron, là các tư tế, sẽ nhóm lửa trên bàn thờ và xếp củi trên lửa.8 Các con A-ha-ron là các tư tế, sẽ xếp các mảnh thịt, cùng với đầu và mỡ, trên củi đặt trên lửa ở bàn thờ.9 Còn lòng và chân, người ấy sẽ lấy nước mà rửa, rồi tư tế sẽ đốt tất cả cho cháy nghi ngút trên bàn thờ. Đó là lễ toàn thiêu, lễ hoả tế, là hương thơm làm vui lòng ĐỨC CHÚA.

10 Nếu người ấy tiến dâng chiên dê làm lễ toàn thiêu, một con chiên con hay một con dê, thì phải tiến dâng một con đực toàn vẹn.11 Người ấy sẽ sát tế nó bên cạnh bàn thờ, về phía bắc, trước nhan ĐỨC CHÚA, và các con A-ha-ron là các tư tế, sẽ rảy máu nó chung quanh bàn thờ.12 Người ấy sẽ xả nó ra từng mảnh, rồi tư tế sẽ xếp những mảnh ấy, cùng với đầu và mỡ, trên củi đặt trên lửa ở bàn thờ.13 Còn lòng và chân, người ấy sẽ lấy nước mà rửa, rồi tư tế sẽ tiến dâng tất cả và đốt cho cháy nghi ngút trên bàn thờ. Đó là lễ toàn thiêu, lễ hoả tế, là hương thơm làm vui lòng ĐỨC CHÚA.14 Nếu người ấy tiến dâng lên ĐỨC CHÚA một con chim làm lễ toàn thiêu, thì phải dâng chim gáy hoặc bồ câu non.15 Tư tế sẽ tiến dâng nó tại bàn thờ, cấu đầu nó và đốt nó cho cháy nghi ngút trên bàn thờ, máu thì bóp vào thành bàn thờ.16 Tư tế sẽ lấy cái diều và bộ lông ra, ném bên cạnh bàn thờ, về phía đông, vào chỗ đổ tro.17 Người ta sẽ chặt đôi nó ở giữa hai cánh, nhưng không tách hẳn ra; tư tế sẽ đốt nó cho cháy nghi ngút trên bàn thờ, trên củi đặt trên lửa. Đó là lễ toàn thiêu, lễ hoả tế, là hương thơm làm vui lòng ĐỨC CHÚA.

Lễ phẩm

2.     1 Khi có ai tiến dâng lễ phẩm lên ĐỨC CHÚA, thì phải dâng tinh bột; người ấy sẽ rưới dầu lên trên và đổ nhũ hương vào.2 Người ấy sẽ đưa lễ phẩm đến cho các con A-ha-ron là các tư tế. Tư tế sẽ bốc một nắm đầy tinh bột, dầu và tất cả nhũ hương, rồi đốt cho cháy nghi ngút trên bàn thờ, làm kỷ vật dành cho ĐỨC CHÚA. Đó là lễ hoả tế, là hương thơm làm vui lòng ĐỨC CHÚA.3 Phần còn lại của lễ phẩm thì thuộc về A-ha-ron và các con nó; đó là phần rất thánh lấy từ các lễ hoả tế dâng ĐỨC CHÚA.

4 Khi (các) ngươi dâng lễ phẩm là bột nhào nướng lò làm lễ tiến, thì đó phải là tinh bột làm thành bánh ngọt không men nhào với dầu, và làm thành bánh tráng không men phết dầu.

5 Nếu lễ tiến của (các) ngươi là một lễ phẩm nướng chảo, thì phải là tinh bột nhào với dầu, không men.6 (Các) ngươi sẽ bẻ nó ra từng miếng và rưới dầu lên trên. Đó là lễ phẩm.7 Nếu lễ tiến của (các) ngươi là một lễ phẩm nấu trong nồi, thì phải làm bằng tinh bột với dầu.

8 (Các) ngươi sẽ đem đến dâng ĐỨC CHÚA lễ phẩm làm bằng các thứ ấy; người ta sẽ tiến dâng cho tư tế, tư tế sẽ đem đến gần bàn thờ.9 Từ lễ phẩm ấy, tư tế sẽ lấy ra phần kỷ vật dành cho ĐỨC CHÚA, đem đốt cho cháy nghi ngút trên bàn thờ. Đó là lễ hoả tế, là hương thơm làm vui lòng ĐỨC CHÚA.

10 Phần còn lại của lễ phẩm thì thuộc về A-ha-ron và các con; đó là phần rất thánh lấy từ các lễ hoả tế dâng ĐỨC CHÚA.

11 Không lễ phẩm nào (các) ngươi tiến dâng ĐỨC CHÚA được làm bằng chất lên men, vì (các) ngươi không bao giờ được lấy men và lấy mật ong mà đốt cho cháy nghi ngút làm lễ hoả tế dâng ĐỨC CHÚA.12 (Các) ngươi có thể dâng những thứ ấy lên ĐỨC CHÚA làm lễ tiến sản phẩm đầu mùa, nhưng không được đưa lên bàn thờ để thành hương thơm làm vui lòng ĐỨC CHÚA.13 (Các) ngươi phải bỏ muối vào mọi lễ phẩm (các) ngươi dâng tiến; (các) ngươi không được để lễ phẩm (các) ngươi thiếu muối của giao ước của Thiên Chúa (các) ngươi; (các) ngươi phải dâng muối cùng với mọi lễ tiến của (các) ngươi.14 Nếu (các) ngươi tiến dâng ĐỨC CHÚA của đầu mùa làm lễ phẩm, thì phải tiến dâng gié lúa rang, hột lúa mới đã xay, làm lễ phẩm của đầu mùa.15 (Các) ngươi sẽ đổ dầu lên trên và bỏ nhũ hương vào. Đó là lễ phẩm.16 Tư tế sẽ đốt cho cháy nghi ngút phần kỷ vật dành cho ĐỨC CHÚA, tức là một phần hột lúa xay và dầu cùng với tất cả nhũ hương. Đó là lễ hoả tế dâng ĐỨC CHÚA.

Hy lễ kỳ an

3.     1 Nếu lễ tiến của người ấy là một hy lễ kỳ an, và người ấy muốn tiến dâng bò đực hay bò cái, thì phải tiến dâng trước nhan ĐỨC CHÚA một con vật toàn vẹn.2 Người ấy sẽ đặt tay trên đầu con vật dâng làm lễ tiến, và sẽ sát tế nó ở cửa Lều Hội Ngộ. Các con A-ha-ron, là các tư tế, sẽ rảy máu nó chung quanh bàn thờ.3 Người ấy sẽ tiến dâng một phần hy lễ kỳ an làm lễ hoả tế dâng ĐỨC CHÚA, đó là lớp mỡ bọc ngoài bộ lòng, tất cả lớp mỡ ở trên bộ lòng,4 hai trái cật và lớp mỡ bọc ngoài, gần lưng, và khối mỡ trên gan mà người ấy sẽ tách ra cùng với các trái cật.5 Các con A-ha-ron sẽ đốt những thứ ấy cho cháy nghi ngút trên bàn thờ, bên trên lễ toàn thiêu đặt trên củi ở trên lửa. Đó là lễ hoả tế, là hương thơm làm vui lòng ĐỨC CHÚA.

6 Nếu người ấy tiến dâng chiên dê làm lễ kỳ an dâng ĐỨC CHÚA, thì phải tiến dâng một con đực hay một con cái toàn vẹn.

7 Nếu người ấy dâng một chiên con làm lễ tiến, thì phải tiến dâng nó trước nhan ĐỨC CHÚA.8 Người ấy sẽ đặt tay trên đầu con vật dâng làm lễ tiến, và sẽ sát tế nó trước Lều Hội Ngộ. Các con A-ha-ron sẽ rảy máu nó chung quanh bàn thờ.9 Người ấy sẽ tiến dâng một phần hy lễ kỳ an làm lễ hoả tế dâng ĐỨC CHÚA, đó là: mỡ của nó, trọn cái đuôi mà người ấy sẽ cắt sát xương cùng, lớp mỡ bọc ngoài bộ lòng, tất cả lớp mỡ ở trên bộ lòng,10 hai trái cật và lớp mỡ bọc ngoài, gần lưng, và khối mỡ trên gan mà người ấy sẽ tách ra cùng với các trái cật.11 Tư tế sẽ đốt những thứ ấy cho cháy nghi ngút trên bàn thờ. Đó là thức ăn hoả tế dâng ĐỨC CHÚA.

12 Nếu lễ tiến của người ấy là một con dê, thì phải tiến dâng nó trước nhan ĐỨC CHÚA.13 Người ấy sẽ đặt tay trên đầu con vật, và sẽ sát tế nó trước cửa Lều Hội Ngộ. Các con A-ha-ron sẽ rảy máu nó chung quanh bàn thờ.14 Người ấy sẽ tiến dâng một phần con vật làm lễ tiến, làm lễ hoả tế dâng ĐỨC CHÚA, đó là: lớp mỡ bọc ngoài bộ lòng, tất cả lớp mỡ ở trên bộ lòng,15 hai trái cật và lớp mỡ bọc ngoài, gần lưng, và khối mỡ trên gan mà người ấy sẽ tách ra cùng với các trái cật.16 Tư tế sẽ đốt những thứ ấy cho cháy nghi ngút trên bàn thờ. Đó là thức ăn hoả tế, là hương thơm làm vui lòng ĐỨC CHÚA.

17 Đây là quy tắc vĩnh viễn cho các thế hệ của các ngươi, tại khắp nơi các ngươi ở: tất cả những gì là mỡ và huyết, các ngươi không được ăn.”

Lễ tạ tội

a.  Tạ tội cho tư tế

4.     1 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê rằng:

2 “Hãy nói với con cái Ít-ra-en: Khi có người nào vô ý phạm tội trái với một trong các mệnh lệnh của ĐỨC CHÚA và làm một trong những điều không được làm,3 nếu là tư tế đã được xức dầu tấn phong mà phạm tội, khiến dân cũng mắc lỗi, thì vì tội đã phạm, nó phải tiến dâng một con bò tơ toàn vẹn lên ĐỨC CHÚA làm lễ tạ tội.4 Nó sẽ đưa con bò đến cửa Lều Hội Ngộ trước nhan ĐỨC CHÚA; nó sẽ đặt tay trên đầu con bò và sát tế con bò trước nhan ĐỨC CHÚA.5 Tư tế đã được xức dầu tấn phong sẽ lấy một phần máu con bò và đưa vào Lều Hội Ngộ.6 Tư tế sẽ nhúng ngón tay vào máu và rảy máu đó bảy lần trước nhan ĐỨC CHÚA, phía trước màn trướng thánh điện.7 Tư tế sẽ bôi máu lên các góc cong của bàn thờ dâng hương thơm đặt trong Lều Hội Ngộ, trước nhan ĐỨC CHÚA, rồi đổ tất cả máu bò còn lại xuống chân bàn thờ dâng lễ toàn thiêu đặt ở cửa Lều Hội Ngộ.

8 Còn tất cả mỡ của con bò dâng làm lễ tạ tội, nó sẽ trích riêng ra, đó là: lớp mỡ bọc ngoài bộ lòng, tất cả lớp mỡ ở trên bộ lòng,9 hai trái cật và lớp mỡ bọc ngoài, gần lưng, và khối mỡ trên gan mà nó sẽ tách ra cùng với các trái cật –10 giống như phần trích riêng ra từ con bò dâng làm hy lễ kỳ an- rồi tư tế sẽ đốt những thứ ấy cho cháy nghi ngút trên bàn thờ dâng lễ toàn thiêu.11 Còn da con bò, tất cả thịt của nó, cùng với đầu, chân, lòng và phân của nó,12 tóm lại tất cả con bò, thì tư tế sẽ đưa ra ngoài trại, ở một nơi thanh sạch, chỗ đổ tro, và thiêu trên củi đang cháy; nó sẽ được thiêu tại chính nơi đổ tro.

b.  Tạ tội cho cộng đồng Ít-ra-en

13 Nếu toàn thể cộng đồng Ít-ra-en vô ý phạm tội và đại hội không nhận thấy điều đó, nếu chúng làm một trong những điều mà mệnh lệnh ĐỨC CHÚA cấm làm, khiến chúng mắc lỗi,14 nhưng rồi chúng biết được tội đã phạm, thì đại hội phải tiến dâng một bò tơ làm lễ tạ tội, và sẽ đưa nó đến trước Lều Hội Ngộ.15 Các kỳ mục của cộng đồng sẽ đặt tay trên đầu con bò, trước nhan ĐỨC CHÚA, và người ta sẽ sát tế con bò trước nhan ĐỨC CHÚA.

16 Tư tế đã được xức dầu tấn phong sẽ đem một phần máu con bò vào Lều Hội Ngộ.17 Tư tế sẽ nhúng ngón tay vào máu và rảy bảy lần trước nhan ĐỨC CHÚA, phía trước màn trướng.18 Tư tế sẽ bôi máu vào các góc cong của bàn thờ đặt trong Lều Hội Ngộ, trước nhan ĐỨC CHÚA, rồi đổ tất cả máu còn lại xuống chân bàn thờ dâng lễ toàn thiêu đặt ở cửa Lều Hội Ngộ.

19 Còn tất cả mỡ, tư tế sẽ lấy riêng ra và đốt cho cháy nghi ngút trên bàn thờ.20 Nó sẽ tế con bò này như đã tế con bò dâng làm lễ tạ tội; tư tế sẽ tế nó như vậy. Tư tế sẽ cử hành lễ xá tội như thế cho chúng và chúng sẽ được tha.

21 Tư tế sẽ đưa con bò ra ngoài trại và thiêu nó như đã thiêu con bò trước. Đó là lễ tạ tội cho đại hội.

c.  Tạ tội cho một đầu mục

22 Nếu một đầu mục phạm tội, và vô ý làm một trong những điều mà mệnh lệnh ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của nó, cấm làm, khiến nó mắc lỗi,23 nếu người ta cho nó biết tội nó đã phạm, thì nó phải đưa đến một con dê làm lễ tiến, một con đực toàn vẹn.24 Nó sẽ đặt tay trên đầu con dê và sát tế trước nhan ĐỨC CHÚA, ở nơi sát tế lễ vật toàn thiêu. Đó là lễ tạ tội.25 Tư tế sẽ dùng ngón tay lấy máu lễ vật tạ tội và bôi lên các góc cong của bàn thờ dâng lễ toàn thiêu, rồi đổ máu còn lại xuống chân bàn thờ dâng lễ toàn thiêu.26 Còn tất cả mỡ, tư tế sẽ đốt cho cháy nghi ngút trên bàn thờ, như mỡ của hy lễ kỳ an. Tư tế sẽ cử hành lễ xá tội như thế cho người ấy khỏi tội của mình, và người ấy sẽ được tha.

d. Tạ tội cho một thường dân

27 Nếu một thường dân vô ý phạm tội, làm một trong những điều mà mệnh lệnh của ĐỨC CHÚA cấm làm, khiến nó mắc lỗi,28 nếu người ta cho nó biết tội nó đã phạm, thì vì tội đã phạm, nó sẽ đưa đến một con dê làm lễ tiến, một dê cái toàn vẹn.29 Nó sẽ đặt tay trên đầu lễ vật tạ tội và sát tế lễ vật tạ tội ở nơi sát tế lễ vật toàn thiêu.30 Tư tế sẽ dùng ngón tay lấy máu con vật và bôi lên các góc cong của bàn thờ dâng lễ toàn thiêu, rồi đổ tất cả máu còn lại xuống chân bàn thờ.31 Còn tất cả mỡ, tư tế sẽ tách ra như người ta tách mỡ ra khỏi hy lễ kỳ an, rồi tư tế sẽ đốt cho cháy nghi ngút trên bàn thờ thành hương thơm làm vui lòng ĐỨC CHÚA. Tư tế sẽ cử hành lễ xá tội như thế cho người ấy, và người ấy sẽ được tha.

32 Nếu người ấy đem dâng tiến một con chiên làm lễ tạ tội, thì phải đem đến một con chiên cái toàn vẹn.33 Người ấy sẽ đặt tay trên đầu lễ vật tạ tội và sát tế làm lễ tạ tội ở nơi sát tế lễ vật toàn thiêu.34 Tư tế sẽ dùng ngón tay lấy máu lễ vật tạ tội và bôi lên các góc cong của bàn thờ dâng lễ toàn thiêu, rồi đổ tất cả máu còn lại xuống chân bàn thờ.35 Còn tất cả mỡ, tư tế sẽ tách ra như người ta tách mỡ của con chiên dâng làm hy lễ kỳ an, rồi tư tế sẽ đốt cho cháy nghi ngút trên bàn thờ, bên trên các lễ hoả tế dâng ĐỨC CHÚA. Tư tế sẽ cử hành lễ xá tội như thế cho người ấy, vì tội người ấy đã phạm, và người ấy sẽ được tha.

Một số trường hợp phải dâng lễ tạ tội

5.     1 Khi một người nào phạm tội, vì tuy là nhân chứng về một việc đã thấy hoặc đã biết, mà không chịu nói ra sau khi đã nghe lời khuyến cáo long trọng, thì nó phải mang lấy tội một mình;
2 hoặc khi một người nào đụng đến bất cứ vật gì ô uế -như xác chết một dã thú ô uế, xác chết một gia súc ô uế, xác chết một con vật ô uế- mà không biết, thì nó trở nên ô uế và mắc lỗi;
3 hoặc khi người ấy đụng đến một cái gì ô uế của người ta -những thứ ô uế khiến người ta trở nên ô uế- mà không biết, thì sau khi biết, nó mắc lỗi;
4 hoặc khi một người nào lỡ lời mà thề làm điều gì bất kỳ tốt xấu -trong mọi điều một người có thể lỡ lời mà thề- nhưng không biết, thì sau khi biết, nó mắc lỗi về một trong những điều ấy.
5 Vậy khi ai mắc lỗi về một trong những điều trên, thì nó phải xưng thú tội mình đã phạm,6 rồi phải đưa đến dâng ĐỨC CHÚA lễ vật đền tội vì tội đã phạm, là một con chiên cái hay một con dê cái làm lễ tạ tội, và tư tế sẽ cử hành lễ xá tội cho nó khỏi tội.

Lễ tạ tội cho một thường dân (tiếp)

7 Nếu người ấy không có phương tiện kiếm được chiên dê, thì vì tội đã phạm, nó phải đưa đến dâng ĐỨC CHÚA lễ vật đền tội, là một đôi chim gáy hay một đôi bồ câu non, một con làm lễ tạ tội, một con làm lễ toàn thiêu.8 Nó sẽ đưa đôi chim đến cho tư tế. Trước tiên tư tế sẽ tiến dâng con chim làm lễ tạ tội; tư tế sẽ cấu đầu con chim ở gần gáy, nhưng không tách hẳn ra;9 tư tế sẽ rảy máu lễ vật tạ tội vào thành bàn thờ, phần máu còn lại sẽ được bóp vào chân bàn thờ. Đó là lễ tạ tội.10 Còn con thứ hai, tư tế sẽ dâng làm lễ toàn thiêu như luật định. Tư tế sẽ cử hành lễ xá tội như thế cho nó khỏi tội đã phạm, và nó sẽ được tha.

11 Nếu người ấy không thể kiếm được một đôi chim gáy hay một đôi bồ câu non, thì vì tội đã phạm, nó phải đưa đến dâng lễ tiến, là bốn lít rưỡi tinh bột làm lễ tạ tội. Người ấy sẽ không đổ dầu lên trên, cũng không bỏ hương vào, vì đó là lễ tạ tội.12 Người ấy sẽ đưa đến cho tư tế, tư tế sẽ bốc một nắm làm phần kỷ vật dành cho ĐỨC CHÚA và đốt cho cháy nghi ngút trên bàn thờ, bên trên các lễ hoả tế dâng ĐỨC CHÚA.13 Tư tế sẽ cử hành lễ xá tội như thế cho nó, vì tội nó đã phạm trái với một trong những điều trên, và nó sẽ được tha. Tư tế sẽ có phần, như khi người ta dâng lễ phẩm.”

Lễ đền tội

14 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê rằng:
15 “Khi một người nào bất trung, vô ý phạm đến những của thánh dành cho ĐỨC CHÚA, thì phải đem dâng ĐỨC CHÚA lễ vật đền tội, là một con chiên đực toàn vẹn bắt từ bầy chiên, giá trị bằng một số chỉ bạc -tính theo đơn vị đo lường của thánh điện- để làm lễ đền tội.16 Tội nó đã làm thiệt thánh điện bao nhiêu, nó sẽ phải đền, cộng thêm một phần năm, và nộp cho tư tế. Tư tế sẽ dùng con chiên đực dâng làm lễ chuộc tội mà cử hành lễ xá tội cho nó, và nó sẽ được tha.

17 Nếu một người nào phạm tội và vô tình làm một trong những điều mệnh lệnh ĐỨC CHÚA cấm làm, thì nó mắc lỗi và phải mang lấy tội mình.18 Nó phải đưa đến cho tư tế một con chiên đực toàn vẹn bắt từ bầy chiên, giá trị như đã quy định, để làm lễ đền tội. Tư tế sẽ cử hành lễ xá tội cho nó về tội nó đã vô ý phạm mà không biết, và nó sẽ được tha.19 Đó là lễ đền tội; nó quả là mắc lỗi với ĐỨC CHÚA.”

20 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê rằng:
21 “Khi một người nào phạm tội và bất trung với ĐỨC CHÚA, vì đã từ chối không trả cho người đồng bào một vật ký thác, một vật gởi tay hay một vật mất trộm, hoặc vì đã bóc lột người đồng bào,22 hoặc vì đã từ chối không trả một vật bắt được, khi nó đã thề gian về một trong những điều trên là những tội người ta có thể phạm,23 thì kẻ phạm tội và mắc lỗi như thế phải trả lại vật mình đã ăn trộm, hoặc của đã bóc lột, hoặc cái đã được ký thác cho mình, hoặc vật bị mất mà mình đã bắt được,24 hoặc bất cứ vật nào mà nó đã thề gian là không giữ. Nó phải đền đầy đủ, cộng thêm một phần năm, và phải nộp cho chủ của, ngày mà nó dâng lễ đền tội.25 Nó phải đem dâng ĐỨC CHÚA lễ vật đền tội, là một con chiên đực toàn vẹn bắt từ bầy chiên, giá trị như đã quy định, nộp cho tư tế làm lễ vật đền tội.26 Tư tế sẽ cử hành lễ xá tội cho nó trước nhan ĐỨC CHÚA, thì nó sẽ được tha, bất kể nó đã làm gì khiến mình mắc lỗi.”

Hàng tư tế và các lễ tế

A.  Lễ Toàn Thiêu

6.     1 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê rằng:
2 “Hãy truyền cho A-ha-ron và các con nó: Đây là luật về lễ toàn thiêu. Lễ vật toàn thiêu phải ở trên lò trên bàn thờ suốt đêm cho đến sáng, và lửa phải cháy luôn trên bàn thờ.

3 Tư tế sẽ mặc áo vải gai và mặc quần đùi vải gai che mình; nó sẽ hốt tro lễ toàn thiêu mà lửa đã đốt trên bàn thờ, và đổ bên cạnh bàn thờ.4 Nó sẽ cởi phẩm phục ra, mặc phẩm phục khác vào, rồi đưa tro ra ngoài trại, ở một nơi thanh sạch.

5 Lửa trên bàn thờ phải cháy luôn không tắt: sáng sáng, tư tế sẽ đốt củi trên đó, xếp lễ vật toàn thiêu lên trên và đốt mỡ của lễ vật kỳ an.6 Lửa phải thường xuyên cháy trên bàn thờ, không bao giờ tắt.

B. Lễ phẩm

7 Đây là luật về lễ phẩm:

8 Từ lễ phẩm đó, tư tế sẽ trích ra một nắm tinh bột, dầu và tất cả nhũ hương ở trên lễ phẩm, rồi đốt cho cháy nghi ngút trên bàn thờ, thành hương thơm làm vui lòng ĐỨC CHÚA, đó là phần kỷ vật dành cho ĐỨC CHÚA.9 Phần còn lại của lễ phẩm thì A-ha-ron và các con sẽ được ăn; phần đó sẽ được làm thành bánh không men và ăn trong một nơi thánh; chúng sẽ ăn nó tại khuôn viên Lều Hội Ngộ.10 Phần đó không được trộn men mà nướng. Đó là phần Ta ban cho chúng từ các lễ hoả tế dâng cho Ta; đó là của rất thánh, giống như lễ tạ tội và lễ đền tội.11 Mọi đàn ông con trai trong các con A-ha-ron sẽ được ăn phần ấy; đó là quy luật vĩnh viễn cho các thế hệ của các ngươi, trong những lễ hoả tế dâng ĐỨC CHÚA; tất cả những gì chạm đến các vật ấy sẽ được thánh hiến.”

12 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê rằng:
13 “Đây là lễ tiến mà A-ha-ron và các con sẽ dâng lên ĐỨC CHÚA ngày được xức dầu tấn phong; bốn lít rưỡi tinh bột làm lễ phẩm thường xuyên, một nửa ban sáng và một nửa ban chiều.14 Lễ phẩm ấy sẽ được chiên trên chảo, với dầu. Sau khi trộn kỹ, ngươi sẽ đem dâng lễ phẩm ấy là bánh đã bẻ thành miếng: đó là hương thơm làm vui lòng ĐỨC CHÚA.15 Trong số các con A-ha-ron, tư tế được xức dầu tấn phong để kế vị nó, cũng sẽ làm như thế: đó là quy luật vĩnh viễn. Lễ phẩm sẽ được đốt trọn vẹn cho cháy nghi ngút dâng ĐỨC CHÚA.

16 Mọi lễ phẩm của tư tế phải được dâng trọn vẹn, không được ăn.”

C.  Lễ tạ tội

17 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê rằng:
18 “Hãy nói với A-ha-ron và các con nó:
Đây là luật về lễ tạ tội:
19 Tư tế cử hành lễ tạ tội được ăn lễ vật đó; lễ vật sẽ được ăn trong một nơi thánh, trong khuôn viên Lều Hội Ngộ,20 tất cả những gì chạm đến thịt lễ vật sẽ được thánh hiến; nếu có máu bắn vào quần áo, thì ngươi phải giặt chỗ có máu bắn vào, trong một nơi thánh.21 Nồi đất đã dùng để nấu lễ vật sẽ phải đập vỡ, còn nếu nó đã được nấu trong nồi đồng, thì nồi đó phải được cọ sạch và rửa bằng nước.22 Mọi đàn ông con trai thuộc hàng tư tế sẽ được ăn: đó là của rất thánh.23 Nhưng mọi lễ vật tạ tội mà máu đã được mang vào Lều Hội Ngộ để cử hành lễ xá tội trong nơi thánh, thì không được ăn; lễ vật đó phải bỏ vào lửa mà thiêu.

 D.  Lễ đền tội

7.     1 Đây là luật về lễ đền tội, về một của rất thánh:

2 Phải sát tế lễ vật đền tội ở nơi sát tế lễ vật toàn thiêu, và tư tế sẽ rảy máu nó chung quanh bàn thờ.3 Tư tế sẽ tiến dâng tất cả mỡ của nó: cái đuôi, lớp mỡ bọc ngoài bộ lòng,4 hai trái cật và lớp mỡ bọc ngoài, gần lưng, và khối mỡ trên gan mà tư tế sẽ tách ra cùng với các trái cật.5 Tư tế sẽ đốt những thứ ấy cho cháy nghi ngút trên bàn thờ, làm lễ hoả tế dâng ĐỨC CHÚA. Đó là lễ đền tội.6 Mọi đàn ông con trai thuộc hàng tư tế sẽ được ăn; lễ vật ấy sẽ được ăn trong một nơi thánh: đó là của rất thánh.

Quyền lợi của các tư tế

7 Lễ tạ tội thế nào, lễ đền tội cũng vậy: chỉ có một luật duy nhất cho cả hai. Tư tế nào dâng lễ vật để cử hành lễ xá tội, thì lễ vật sẽ thuộc về tư tế đó.8 Tư tế tiến dâng lễ toàn thiêu của người nào, thì da của lễ vật mà tư tế đó tiến dâng sẽ thuộc về tư tế đó.9 Mọi lễ phẩm nướng trong lò, mọi lễ phẩm nấu trong nồi hay chiên trên chảo sẽ thuộc về tư tế tiến dâng lễ phẩm ấy.10 Mọi lễ phẩm nhào với dầu hay để khô sẽ thuộc về các con A-ha-ron.

Đ. Hy lễ kỳ an

a. Hy lễ tạ ơn

11 Đây là luật về hy lễ kỳ an tiến dâng ĐỨC CHÚA:
12 Nếu tiến dâng hy lễ kỳ an kèm với lễ tạ ơn, thì cùng với hy lễ tạ ơn, phải tiến dâng bánh ngọt không men nhào với dầu, bánh tráng không men phết dầu và tinh bột trộn kỹ làm thành bánh nhào với dầu.13 Cùng với bánh ngọt đó, phải dâng bánh có men làm lễ tiến, kèm theo lễ kỳ an.14 Phải tiến dâng một phần lấy từ mọi lễ tiến làm phần trích dâng ĐỨC CHÚA. Phần ấy sẽ thuộc về tư tế đã rảy máu của lễ vật kỳ an.15 Còn thịt của hy lễ kỳ an để tạ ơn, thì phải ăn trong chính ngày tiến dâng, không được để lại gì cho đến sáng hôm sau.

b. Lễ vật đã khấn hứa hay lễ vật tự nguyện

16 Nếu hy lễ tiến dâng là lễ vật đã khấn hứa hay lễ vật tự nguyện, thì phải ăn trong chính ngày tiến dâng hy lễ; phần còn lại, được ăn ngày hôm sau.17 Sang ngày thứ ba, những gì còn lại của hy lễ, phải bỏ vào lửa mà thiêu.

Quy tắc chung

18 Sang ngày thứ ba mà người ta cứ ăn thịt của hy lễ kỳ an, thì người tiến dâng hy lễ sẽ không được đoái nhận; nó sẽ không được kể là đã dâng hy lễ: đó là thịt ôi, và người nào ăn thì phải mang tội.

19 Thịt đã chạm đến bất cứ cái gì ô uế, thì không được ăn, nhưng phải bỏ vào lửa mà thiêu.
Thịt của hy lễ kỳ an, thì mọi người thanh sạch đều được ăn. 20 Nhưng người nào ở trong tình trạng ô uế mà ăn thịt của hy lễ kỳ an dâng ĐỨC CHÚA, thì sẽ bị khai trừ khỏi dòng họ.21 Người nào chạm tới bất cứ cái gì ô uế -cái gì ô uế của người ta, hay loài vật ô uế, hay bất cứ vật ô uế kinh tởm nào- mà ăn thịt của hy lễ kỳ an dâng ĐỨC CHÚA, thì người ấy sẽ bị khai trừ khỏi dòng họ.”

22 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê rằng:
23 “Hãy nói với con cái Ít-ra-en: Tất cả những gì là mỡ, mỡ bò, mỡ chiên hay mỡ dê, các ngươi không được ăn.24 Mỡ của con vật chết và mỡ của con vật bị thú dữ xé, có thể dùng vào mọi việc, nhưng tuyệt đối các ngươi không được ăn.25 Phàm ai ăn mỡ con vật mà người ta đã dâng tiến một phần làm lễ hoả tế dâng ĐỨC CHÚA, thì chính người ăn sẽ bị khai trừ khỏi dòng họ.

26 Tại khắp nơi các ngươi ở, tất cả những gì là tiết, dù là tiết chim hay tiết loài vật, các ngươi không được ăn.27 Phàm người nào ăn bất cứ cái gì là tiết, thì sẽ bị khai trừ khỏi dòng họ.”

Phần của tư tế

28 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê rằng:
29 “Hãy nói với con cái Ít-ra-en: Ai tiến dâng ĐỨC CHÚA hy lễ kỳ an, thì sẽ đem đến một phần hy lễ kỳ an của mình làm lễ tiến, dâng ĐỨC CHÚA.30 Chính tay người ấy sẽ đem đến những lễ hoả tế của ĐỨC CHÚA là mỡ kèm theo cái ức, nó sẽ đem cái ức đến để làm nghi thức tiến dâng trước nhan ĐỨC CHÚA.31 Tư tế sẽ đốt mỡ cho cháy nghi ngút trên bàn thờ, còn cái ức thì thuộc về A-ha-ron và các con nó.32 Các ngươi sẽ cho tư tế cái đùi phải, làm phần trích ra từ hy lễ kỳ an của các ngươi.33 Người nào trong các con A-ha-ron dâng tiến máu và mỡ của lễ kỳ an, thì cái đùi phải sẽ là phần của nó.34 Thật vậy, cái ức đã tiến dâng theo nghi thức và cái đùi đã trích ra, thì Ta lấy của con cái Ít-ra-en, từ các hy lễ kỳ an của chúng, và Ta ban cho tư tế A-ha-ron và các con nó: đó là quy luật vĩnh viễn cho con cái Ít-ra-en.”

Kết luận

35 Đó là phần của ông A-ha-ron và phần của các con ông, lấy từ các lễ hoả tế dâng ĐỨC CHÚA, từ ngày họ được tiến dâng để làm tư tế của ĐỨC CHÚA.36 Phần đó, ĐỨC CHÚA đã truyền cho con cái Ít-ra-en tặng cho họ, từ ngày Người xức dầu tấn phong họ: đó là quy tắc vĩnh viễn cho họ từ thế hệ này qua thế hệ kia.

37 Đó là luật về lễ toàn thiêu, lễ phẩm, lễ tạ tội, lễ đền tội, lễ trao quyền và hy lễ kỳ an;38 luật đó, ĐỨC CHÚA đã truyền cho ông Mô-sê trên núi Xi-nai, trong ngày Người truyền cho con cái Ít-ra-en dâng ĐỨC CHÚA các lễ tiến của họ trong sa mạc Xi-nai.

II. LỄ TẤN PHONG TƯ TẾ

Nghi thức thánh hiến (Xh 29: 1-37)

8.     1 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê rằng:
2 “Hãy đem theo A-ha-ron cùng với các con nó, và lấy các phẩm phục, dầu tấn phong, con bò dùng làm lễ tạ tội, hai con cừu đực và giỏ bánh không men.3 Rồi hãy tập hợp toàn thể cộng đồng ở cửa Lều Hội Ngộ.”
4 Ông Mô-sê làm như ĐỨC CHÚA đã truyền cho ông, và cộng đồng tụ tập ở cửa Lều Hội Ngộ.5 Ông Mô-sê nói với cộng đồng: “Đây là điều ĐỨC CHÚA truyền phải làm.”
6 Ông Mô-sê cho ông A-ha-ron và các con ông ấy đến gần, và lấy nước tắm rửa họ.
7 Ông mặc áo dài cho ông ấy, thắt đai lưng, choàng áo khoác, và đặt áo ê-phốt trên ông; ông lấy băng chéo của áo ê-phốt thắt cho ông và cho ông mặc áo ấy;8 ông đeo khăn ngực cho ông ấy và bỏ các thẻ xăm u-rim và tum-mim vào khăn ngực;9 ông lấy mũ tế đội lên đầu ông ấy và đính vào phía trước mũ tế huy hiệu bằng vàng, là dấu thánh hiến, như ĐỨC CHÚA đã truyền cho ông Mô-sê.
10 Ông Mô-sê lấy dầu tấn phong xức Nhà Tạm cùng mọi vật ở trong, và thánh hiến tất cả;11 ông lấy dầu rảy trên bàn thờ bảy lần, rồi xức dầu bàn thờ cùng mọi đồ phụ thuộc, vạc và đế vạc, để thánh hiến những vật đó.12 Ông đổ dầu tấn phong lên đầu ông A-ha-ron và xức dầu để thánh hiến ông.
13 Ông cho các con ông A-ha-ron đến gần, mặc áo dài cho họ, thắt đai lưng và lấy mũ đội lên đầu họ, như ĐỨC CHÚA đã truyền cho ông Mô-sê.

14 Ông Mô-sê cho dẫn con bò dùng làm lễ tạ tội đến. Ông A-ha-ron và các con ông đặt tay lên đầu con bò dùng làm lễ tạ tội.15 Ông Mô-sê sát tế nó, lấy máu nó và dùng ngón tay mà bôi vào các góc cong ở chung quanh bàn thờ, và xoá tội cho bàn thờ; ông đổ máu còn lại xuống chân bàn thờ, và cử hành lễ xoá tội cho bàn thờ để thánh hiến.16 Ông Mô-sê lấy tất cả lớp mỡ ở trên bộ lòng, khối mỡ gan, hai trái cật với lớp mỡ, mà đốt cho cháy nghi ngút trên bàn thờ.17 Nhưng con bò, da, thịt và phân nó, thì ông bỏ vào lửa mà thiêu bên ngoài trại, như ĐỨC CHÚA đã truyền cho ông Mô-sê.

18 Ông cho dẫn con cừu đực dùng làm lễ toàn thiêu đến gần. Ông A-ha-ron và các con ông đặt tay lên đầu con cừu.19 Ông Mô-sê sát tế nó và rảy máu chung quanh bàn thờ;20 ông xả con cừu ra từng mảnh, rồi đốt cái đầu, các mảnh đã xẻ và mỡ cho cháy nghi ngút.21 Còn lòng và chân, ông Mô-sê lấy nước mà rửa, rồi ông đốt tất cả con cừu cho cháy nghi ngút trên bàn thờ. Đó là lễ toàn thiêu, là hương thơm làm vui lòng ĐỨC CHÚA, như ĐỨC CHÚA đã truyền cho ông Mô-sê.

22 Ông cho dẫn con cừu đực thứ hai đến gần, con cừu dùng cho lễ trao quyền. Ông A-ha-ron và các con ông đặt tay lên nó.23 Ông Mô-sê sát tế nó, rồi lấy máu bôi vào trái tai phải ông A-ha-ron, vào ngón cái tay phải và ngón cái chân phải ông;24 ông Mô-sê cho các con ông A-ha-ron lại gần và lấy máu bôi vào trái tai phải của họ, vào ngón cái tay phải của họ, và vào ngón cái chân phải của họ; ông Mô-sê rảy máu chung quanh bàn thờ.25 Ông lấy mỡ, đuôi, tất cả lớp mỡ bọc ngoài bộ lòng, khối mỡ của gan, hai trái cật với lớp mỡ, và đùi phải.26 Từ trong giỏ bánh không men ở trước nhan ĐỨC CHÚA, ông lấy ra một tấm bánh ngọt không men, một tấm bánh ngọt chiên với dầu và một tấm bánh tráng, và đặt lên trên mỡ và đùi phải.27 Tất cả những thứ đó, ông đặt trên bàn tay ông A-ha-ron và trên bàn tay các con ông ấy, rồi làm nghi thức tiến dâng trước nhan ĐỨC CHÚA.28 Sau đó, ông lấy lại các vật ấy từ bàn tay họ, và đem đốt cho cháy nghi ngút ở bàn thờ, bên trên lễ vật toàn thiêu. Đó là hy lễ dâng trong ngày trao quyền, là hương thơm làm vui lòng ĐỨC CHÚA, là lễ hoả tế dâng ĐỨC CHÚA.29 Ông Mô-sê lấy cái ức và làm nghi thức tiến dâng trước nhan ĐỨC CHÚA; đó là phần dành cho ông Mô-sê, lấy từ con cừu dâng trong lễ trao quyền, như ĐỨC CHÚA đã truyền cho ông Mô-sê.

30 Ông Mô-sê lấy dầu tấn phong và lấy máu trên bàn thờ rảy trên ông A-ha-ron và phẩm phục của ông, trên các con ông ấy và phẩm phục của họ; như thế ông thánh hiến ông A-ha-ron và phẩm phục của ông, các con ông và phẩm phục của họ.

31 Ông Mô-sê nói với ông A-ha-ron và các con ông: “Hãy nấu thịt ở cửa Lều Hội Ngộ, ở đó hãy ăn thịt và ăn bánh để trong giỏ dùng trong lễ trao quyền, như tôi đã truyền rằng: “Ông A-ha-ron và các con sẽ ăn thứ ấy.32 Thịt và bánh còn thừa, ông và anh em hãy bỏ vào lửa mà thiêu.33 Trong vòng bảy ngày, ông và anh em không được ra khỏi Lều Hội Ngộ, cho đến khi mãn thời gian làm lễ trao quyền cho ông và anh em, vì người ta sẽ làm lễ trao quyền cho ông và anh em trong vòng bảy ngày.34 ĐỨC CHÚA đã truyền phải làm như hôm nay người ta đã làm để cử hành lễ xá tội cho ông và anh em.35 Trong vòng bảy ngày, ông và anh em phải ở lại cửa Lều Hội Ngộ, ngày và đêm, phải giữ điều ĐỨC CHÚA truyền giữ, để ông và anh em khỏi chết. Đó là lệnh truyền tôi đã nhận được.”36 Ông A-ha-ron và các con đã làm điều ĐỨC CHÚA dùng ông Mô-sê mà truyền.

Các tư tế nhậm chức

9.     1 Đến ngày thứ tám, ông Mô-sê gọi ông A-ha-ron và các con ông ấy, cũng như các kỳ mục Ít-ra-en,2 và nói với ông A-ha-ron: “Ông hãy bắt một con bê để làm lễ tạ tội, với một con cừu đực để làm lễ toàn thiêu, cả hai còn toàn vẹn, và hãy tiến dâng chúng trước nhan ĐỨC CHÚA.3 Rồi ông hãy nói với con cái Ít-ra-en rằng: “Hãy bắt một con dê đực để làm lễ tạ tội, một con bê với một con chiên, cả hai phải được một tuổi, toàn vẹn, để làm lễ toàn thiêu,4 một con bò đực và một con dê đực để làm lễ kỳ an dâng trước nhan ĐỨC CHÚA, và một lễ phẩm nhào với dầu; vì hôm nay ĐỨC CHÚA sẽ xuất hiện giữa anh em.”

5 Họ đưa đến trước Lều Hội Ngộ những gì ông Mô-sê đã truyền, rồi toàn thể cộng đồng lại gần và đứng trước nhan ĐỨC CHÚA.6 Ông Mô-sê nói: “Đây là điều ĐỨC CHÚA đã truyền cho anh em; anh em hãy thi hành để vinh quang ĐỨC CHÚA xuất hiện giữa anh em.”7 Ông Mô-sê nói với ông A-ha-ron: “Ông hãy lại gần bàn thờ, hãy dâng lễ tạ tội và lễ toàn thiêu của ông, để làm lễ xá tội cho ông và cho dân, rồi hãy dâng lễ tiến của dân để cử hành lễ xá tội cho họ, như ĐỨC CHÚA đã truyền.”8 Ông A-ha-ron lại gần bàn thờ và sát tế con bê để làm lễ tạ tội cho chính mình.9 Các con ông A-ha-ron đem máu lại cho ông; ông nhúng ngón tay vào máu, bôi lên các góc cong của bàn thờ, rồi đổ máu xuống trên bàn thờ.10 Mỡ, hai trái cật và khối mỡ lấy từ gan của lễ vật tạ tội, thì ông đốt cho cháy nghi ngút trên bàn thờ, như ĐỨC CHÚA đã truyền cho ông Mô-sê;11 còn thịt và da, ông bỏ vào lửa mà thiêu bên ngoài trại.

12 Ông sát tế lễ vật toàn thiêu; các con ông A-ha-ron mang máu đến cho ông, và ông rảy máu chung quanh bàn thờ.13 Họ cũng mang đến cho ông lễ vật toàn thiêu đã xả thành mảnh, cùng với cái đầu, và ông đốt cho cháy nghi ngút trên bàn thờ.14 Ông rửa lòng và chân nó, rồi đốt cho cháy nghi ngút trên bàn thờ, bên trên lễ toàn thiêu.

15 Ông dâng lễ tiến của dân: ông bắt con dê đực dùng làm lễ tạ tội cho dân, sát tế và dâng nó làm lễ tạ tội như con trước.16 Ông dâng tiến lễ toàn thiêu và làm như luật định.17 Ông tiến dâng lễ phẩm: ông bốc một nắm đầy lễ phẩm và đốt cho cháy nghi ngút trên bàn thờ, thêm vào lễ toàn thiêu buổi sáng.

18 Ông sát tế con bò đực, và con cừu đực làm hy lễ kỳ an cho dân; các con ông A-ha-ron mang máu đến cho ông, và ông rảy máu chung quanh bàn thờ.19 Mỡ con bò và mỡ con cừu, cái đuôi, mỡ chài, hai trái cật và khối mỡ của gan,20 thì họ đặt trên những cái ức, và ông đốt cho cháy nghi ngút trên bàn thờ.21 Ức và đùi phải, thì ông A-ha-ron làm nghi thức tiến dâng trước nhan ĐỨC CHÚA, như ông Mô-sê đã truyền.

22 Ông A-ha-ron giơ tay trên dân và chúc phúc cho họ; rồi ông đi xuống, sau khi đã cử hành lễ tạ tội, lễ toàn thiêu và lễ kỳ an.23 Ông Mô-sê và ông A-ha-ron vào Lều Hội Ngộ, rồi đi ra chúc phúc cho dân. Vinh quang ĐỨC CHÚA xuất hiện giữa toàn dân.24 Lửa phát ra từ trước nhan ĐỨC CHÚA đốt sạch lễ toàn thiêu và mỡ trên bàn thờ. Thấy thế, toàn dân reo mừng và cúi rạp xuống.

Quy định bổ sung

A. Trường hợp ông Na-đáp và ông A-vi-hu

10.     1 Hai người con của ông A-ha-ron là Na-đáp và A-vi-hu, mỗi người lấy bình hương của mình, bỏ lửa vào, rồi đặt hương lên trên, họ tiến dâng ĐỨC CHÚA lửa phàm tục, điều mà Người đã không truyền cho họ.2 Bấy giờ lửa từ trước nhan ĐỨC CHÚA phát ra, thiêu sống họ, họ đã chết trước nhan ĐỨC CHÚA.3 Ông Mô-sê nói với ông A-ha-ron: “Đó là điều ĐỨC CHÚA đã phán:
Giữa các kẻ đến gần Ta,
Ta sẽ biểu dương sự thánh thiện của Ta;
trước mặt toàn dân, Ta sẽ cho thấy vinh quang của Ta.”
Ông A-ha-ron lặng thinh.

B.  Khiêng xác đi

4 Ông Mô-sê gọi các ông Mi-sa-ên và En-xa-phan, con ông Út-di-ên là chú ông A-ha-ron, và bảo họ: “Các chú lại đây, khiêng các người anh em của các chú từ nơi thánh ra ngoài trại.”5 Họ lại gần, khiêng hai người kia vẫn còn mặc áo dài, đưa ra ngoài trại, như ông Mô-sê đã nói.

C.  Tang chế của tư tế

6 Ông Mô-sê nói với ông A-ha-ron và hai người con ông ấy là E-la-da và I-tha-ma: “Ông và các anh đừng xoã tóc cũng đừng xé áo, để khỏi phải chết, và để Người khỏi nổi giận với toàn thể cộng đồng. Các người anh em của ông và các anh cùng toàn thể nhà Ít-ra-en sẽ khóc những kẻ ĐỨC CHÚA đã thiêu.7 Ông và các anh cũng không được rời cửa Lều Hội Ngộ, để khỏi phải chết, vì ông và các anh đã được xức dầu tấn phong của ĐỨC CHÚA.” Họ làm theo lời ông Mô-sê.

D.  Cấm uống rượu

8 ĐỨC CHÚA phán với ông A-ha-ron rằng:
9 “Ngươi cùng các con ngươi không được uống rượu và đồ uống có men, khi các ngươi vào Lều Hội Ngộ, kẻo các ngươi phải chết. Đó là quy tắc vĩnh viễn cho các thế hệ của các ngươi.10 Như vậy là để phân biệt của thánh với của phàm tục, vật ô uế với vật thanh sạch,11 và để dạy con cái Ít-ra-en mọi thánh chỉ ĐỨC CHÚA đã dùng ông Mô-sê mà phán với các ngươi.”

Đ. Phần lễ tiến dành cho tư tế

12 Ông Mô-sê nói với ông A-ha-ron và hai người con còn lại của ông ấy là E-la-da và I-tha-ma: “Ông và các anh hãy lấy phần lễ phẩm còn lại sau khi đã dâng hoả tế lên ĐỨC CHÚA, và hãy làm thành bánh không men mà ăn bên cạnh bàn thờ, vì đó là của rất thánh.13 Ông và các anh hãy ăn trong một nơi thánh, vì đó là quyền lợi của ông và quyền lợi của con cái ông, mỗi khi có lễ hoả tế dâng ĐỨC CHÚA. Đó là lệnh truyền tôi đã nhận được.
14 Còn cái ức đã tiến dâng theo nghi thức trước nhan ĐỨC CHÚA và cái đùi đã trích ra, ông cùng các con trai con gái ông sẽ ăn trong một nơi thanh sạch, vì những thứ ấy là phần quy định cho ông và phần quy định cho các con ông, mỗi khi con cái Ít-ra-en dâng hy lễ kỳ an.15 Cái đùi trích ra và cái ức tiến dâng theo nghi thức, người ta sẽ đem đến cùng với các phần mỡ làm lễ hoả tế, để làm nghi thức tiến dâng trước nhan ĐỨC CHÚA; rồi đùi và ức đó sẽ là của ông và các con ông. Đó là quy luật vĩnh viễn, như ĐỨC CHÚA đã truyền.”

E.  Quy định đặc biệt về lễ tạ tội

16 Ông Mô-sê hỏi đi hỏi lại về con dê đực dâng làm lễ tạ tội và thấy là nó đã bị thiêu. Ông nổi giận với hai người con còn lại của ông A-ha-ron là E-la-da và I-tha-ma, và nói:17 “Tại sao các anh không ăn lễ vật tạ tội trong nơi thánh, vì đó là của rất thánh? Người đã ban nó cho các anh để xoá bỏ tội lỗi của cộng đồng, để cử hành lễ xá tội cho họ trước nhan ĐỨC CHÚA.18 Vì máu nó đã không được đưa vào nơi thánh, nên lẽ ra các anh phải ăn nó trong nơi thánh, như tôi đã truyền.”19 Ông A-ha-ron nói với ông Mô-sê: “Này, hôm nay chúng đã tiến dâng lễ tạ tội và lễ toàn thiêu của chúng trước nhan ĐỨC CHÚA. Sau khi sự việc đã xảy đến cho tôi như thế, nếu hôm nay tôi ăn lễ vật tạ tội, thì liệu điều ấy có vừa lòng ĐỨC CHÚA không? “20 Nghe vậy, ông Mô-sê lấy làm vừa lòng.

III. LUẬT LIÊN QUAN ĐẾN CÁI THANH SẠCH VÀ CÁI Ô UẾ

Loài vật thanh sạch và loài vật ô uế

11.   1 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê và ông A-ha-ron và bảo các ông rằng:
2 “Hãy nói với con cái Ít-ra-en: Trong tất cả các loài vật sống trên đất, đây là những loài các ngươi được ăn:

3 Mọi con vật có chân chẻ làm hai móng và thuộc loài nhai lại, thì các ngươi được ăn.4 Tuy nhiên, trong các loài nhai lại và các loài có móng chẻ hai, các ngươi không được ăn các con này: con lạc đà, vì nó nhai lại, nhưng không có móng chẻ hai: các ngươi phải coi nó là loài ô uế;5 con ngân thử, vì nó nhai lại, nhưng không có móng chẻ hai: các ngươi phải coi nó là loài ô uế;6 con thỏ rừng, vì nó nhai lại, nhưng không có móng chẻ hai: các ngươi phải coi nó là ô uế;7 con heo, vì nó có chân chẻ làm hai móng, nhưng không nhai lại: các ngươi phải coi nó là loài ô uế.8 Thịt của chúng, các ngươi không được ăn, xác chết của chúng, các ngươi không được đụng đến; các ngươi phải coi chúng là loài ô uế.

9 Trong tất cả các loài sống dưới nước, đây là những loài các ngươi được ăn:

10 Còn tất cả những loài không có vây, không có vảy, ở sông hay ở biển, trong số mọi vật nhỏ sống dưới nước và mọi sinh vật sống dưới nước, thì các ngươi phải coi chúng là loài kinh tởm.11 Các ngươi phải coi chúng là loài kinh tởm: thịt của chúng, các ngươi không được ăn, xác chết của chúng, các ngươi phải coi là vật kinh tởm.12 Tất cả những loài sống dưới nước mà không có vây, không có vảy, các ngươi phải coi là loài kinh tởm.

13 Trong các loài chim, đây là những loài các ngươi phải coi là kinh tởm: người ta không được ăn, vì là loài kinh tởm: đại bàng, diều hâu, ó biển,14 diều hâu đen, mọi thứ kền kền,15 mọi thứ quạ,16 đà điểu, cú, mòng biển, mọi thứ bồ cắt,17 cú vọ, cóc, cú mèo,18 chim lợn, bồ nông, ó,19 cò, mọi thứ diệc, chim đầu rìu và dơi.

20 Mọi loài vật nhỏ có cánh đi bằng bốn chân, các ngươi phải coi là loài kinh tởm.21 Trong các loài vật nhỏ có cánh đi bằng bốn chân, các ngươi chỉ được ăn những thứ sau đây: những con ngoài chân ra có thêm càng để nhảy trên đất.22 Trong số những loài đó, đây là những loài các ngươi được ăn: mọi thứ cào cào, mọi thứ châu chấu, mọi thứ muỗm, mọi thứ dế.23 Nhưng mọi vật nhỏ có cánh mà có bốn chân, các ngươi phải coi là loài kinh tởm.

Đụng vào loài vật ô uế

24 Vì các vật ấy, các ngươi sẽ ra ô uế: ai đụng vào xác chết của chúng, sẽ ra ô uế cho đến chiều,25 bất cứ ai mang xác chết của chúng, thì phải giặt quần áo và sẽ ra ô uế cho đến chiều.26 Mọi con vật không có chân chẻ làm hai móng và không nhai lại, các ngươi phải coi là loài ô uế: bất cứ ai đụng vào chúng, sẽ ra ô uế.27 Trong số các loài vật đi bằng bốn chân, tất cả các con đi bằng bàn chân, các ngươi phải coi là loài ô uế; bất cứ ai đụng vào chúng, sẽ ra ô uế cho đến chiều.28 Bất cứ ai mang xác chết của chúng, thì phải giặt quần áo và sẽ ra ô uế cho đến chiều; các ngươi phải coi chúng là vật ô uế.

Đ. Vật nhỏ sống trên mặt đất
29 Trong số các loài vật nhỏ lúc nhúc trên mặt đất, các ngươi phải coi những loài này là ô uế: chuột chũi, chuột nhắt, mọi thứ thằn lằn,30 tắc kè, kỳ đà, cắc ké, kỳ nhông, thạch sùng.
Quy định khác về việc đụng vào vật ô uế

31 Trong số mọi loài vật nhỏ, các ngươi phải coi những loài trên là ô uế. Bất cứ ai đụng đến chúng khi chúng đã chết, thì sẽ ra ô uế cho đến chiều.

32 Trong những con vật đó, con nào chết mà rơi trên bất cứ vật gì, thì vật ấy sẽ ra ô uế, dù là đồ dùng bằng gỗ, quần áo, da, bị, mọi đồ dùng để làm một công việc gì; phải nhúng vật ấy vào nước, nó sẽ ra ô uế cho đến chiều, rồi sẽ được thanh sạch.33 Nếu một con vật rơi vào trong bất cứ bình sành nào, thì tất cả những gì trong đó sẽ ra ô uế, và các ngươi phải đập vỡ bình ấy.34 Mọi thứ người ta ăn, nếu bị nước bình ấy đổ lên trên, thì sẽ ra ô uế; mọi thứ người ta uống, đựng trong bất cứ bình nào nói trên, sẽ ra ô uế.35 Một xác chết của chúng mà rơi trên bất cứ vật gì, thì vật ấy sẽ ra ô uế; lò và bếp sẽ phải phá đi: các vật ấy là ô uế và các ngươi phải coi là những vật ô uế.36 Tuy nhiên suối và hầm nước thì khối nước vẫn thanh sạch, nhưng ai đụng đến xác chết của chúng, sẽ ra ô uế.37 Nếu một xác chết của chúng rơi trên hạt giống để gieo, thì hạt giống vẫn thanh sạch;38 nhưng nếu đã đổ nước vào hạt giống, mà một xác chết của chúng rơi trên đó, thì các ngươi phải coi hạt giống đó là ô uế.

39 Nếu một con vật làm đồ ăn cho các ngươi mà chết, thì ai đụng vào xác chết của nó, sẽ ra ô uế cho đến chiều;40 ai ăn thịt xác chết của nó, sẽ phải giặt quần áo và sẽ ra ô uế cho đến chiều; ai mang xác chết của nó, sẽ phải giặt quần áo và sẽ ra ô uế cho đến chiều.

41 Mọi loài vật nhỏ lúc nhúc trên mặt đất là vật kinh tởm, không được ăn.42 Mọi con vật bò bằng bụng, mọi thứ đi bằng bốn chân hay nhiều chân hơn, tóm lại mọi loài vật lúc nhúc trên mặt đất, các ngươi không được ăn, vì chúng là vật kinh tởm.43 Các ngươi đừng làm cho chính mình ra kinh tởm vì mọi loài vật nhỏ lúc nhúc, các ngươi đừng làm cho mình ra ô uế vì chúng: các ngươi sẽ ra ô uế vì chúng.44 Thật vậy, Ta là ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của các ngươi; các ngươi phải nên thánh và phải thánh thiện, vì Ta là Đấng Thánh; các ngươi đừng làm cho chính mình ra ô uế vì mọi loài vật nhỏ bò trên đất.45 Thật vậy, Ta là ĐỨC CHÚA, Đấng đã đưa các ngươi từ đất Ai-cập lên, để Ta làm Thiên Chúa của các ngươi; vậy các ngươi phải thánh thiện vì Ta là Đấng Thánh.”

Kết luận

46 Đó là luật về loài vật, chim chóc, mọi sinh vật vẫy vùng dưới nước và mọi sinh vật lúc nhúc trên mặt đất,47 để phân biệt vật ô uế với vật thanh sạch, loài vật được ăn với loài vật không được ăn.

Thanh tẩy đàn bà mới ở cữ

  1. 1 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê rằng:
    2 “Hãy nói với con cái Ít-ra-en: Khi một người đàn bà có thai và sinh con trai, thì sẽ ra ô uế trong vòng bảy ngày, nó sẽ ra ô uế như những ngày bị khó ở vì kinh nguyệt.3 Đến ngày thứ tám, đứa trẻ sẽ được cắt bì nơi da quy đầu.4 Rồi người đàn bà phải đợi ba mươi ba ngày cho máu được thanh tẩy; nó không được đụng đến vật thánh nào và không được vào thánh điện, cho đến khi mãn thời gian thanh tẩy của mình.5 Nếu sinh con gái, thì người đàn bà sẽ ra ô uế trong vòng hai tuần, như khi có kinh; rồi nó phải đợi sáu mươi sáu ngày cho máu được thanh tẩy.6 Khi mãn thời gian thanh tẩy, dù sinh con trai hay con gái, nó phải đem đến cho tư tế, ở cửa Lều Hội Ngộ, một con chiên một tuổi làm lễ toàn thiêu, và một bồ câu non hay một chim gáy làm lễ tạ tội.7 Tư tế sẽ tiến dâng chúng trước nhan ĐỨC CHÚA và cử hành lễ xá tội cho nó và nó sẽ được thanh tẩy sau khi đã xuất huyết.8 Nếu không có phương tiện kiếm được chiên, thì nó sẽ bắt một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non, một con để làm lễ toàn thiêu, một con để làm lễ tạ tội. Tư tế sẽ cử hành lễ xá tội cho nó, và nó sẽ ra thanh sạch.”

Bệnh phong hủi ở người

  1. 1 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê và ông A-ha-ron:2 “Khi trên da thịt người nào phát ra nhọt, lác hoặc đốm, và cái đó trở thành vết thương phong hủi, thì người ta sẽ đưa người ấy đến với tư tế A-ha-ron hoặc với một trong các tư tế, con của A-ha-ron.3 Tư tế sẽ khám vết thương trên da thịt nó: nếu lông ở vết thương đã chuyển sang màu trắng và vết thương xem ra lõm vào da thịt, thì đó là vết thương phong hủi; sau khi khám, tư tế sẽ tuyên bố người ấy là ô uế.4 Nếu là đốm trắng trên da thịt, mà xem ra không lõm vào da, và lông không chuyển sang màu trắng, thì tư tế sẽ cô lập người mắc vết thương trong vòng bảy ngày.5 Đến ngày thứ bảy, tư tế sẽ khám nó: nếu chính mắt tư tế thấy là vết thương vẫn y nguyên, không lan ra trên da, thì tư tế sẽ lại cô lập nó trong vòng bảy ngày nữa.6 Đến ngày thứ bảy, tư tế sẽ tái khám nó: nếu vết thương đã mờ đi và không lan ra trên da, thì tư tế sẽ tuyên bố người ấy là thanh sạch: đó là lác; nó sẽ giặt áo và sẽ ra thanh sạch.7 Nhưng nếu lác cứ lan ra trên da, sau khi người ấy đã được tư tế khám để được tuyên bố là thanh sạch, thì nó phải được tư tế tái khám.8 Tư tế sẽ khám: nếu lác đã lan ra trên da, tư tế sẽ tuyên bố người ấy là ô uế: đó là bệnh phong hủi.
  2. Phong hủi kinh niên
    9 Khi trên người nào có vết thương phong hủi, thì phải đưa nó đến với tư tế.10 Tư tế sẽ khám: nếu ở trên da có nhọt trắng, và nhọt ấy làm cho lông chuyển sang màu trắng, và trong nhọt có thịt đỏ lòm sùi ra,11 thì đó là bệnh phong hủi kinh niên ở da thịt nó. Tư tế sẽ tuyên bố nó là ô uế; tư tế sẽ không cô lập nó, vì nó là ô uế.12 Nhưng nếu phong hủi ấy cứ loang ra trên da và phủ tất cả da của người bệnh, từ đầu đến chân, bất kỳ đâu đâu mắt tư tế nhìn thấy,13 thì tư tế sẽ khám: nếu phong hủi phủ tất cả da, thì tư tế sẽ tuyên bố người bệnh là thanh sạch: nó đã chuyển tất cả ra màu trắng, nó thanh sạch.14 Nhưng ngày nào thấy người ấy có chỗ thịt đỏ lòm, thì nó sẽ ra ô uế;15 tư tế sẽ khám chỗ thịt đỏ lòm và sẽ tuyên bố người ấy là ô uế; thịt đỏ lòm là ô uế: đó là bệnh phong hủi.16 Hoặc khi thịt đỏ lòm lại chuyển sang màu trắng, thì nó sẽ đến với tư tế;17 tư tế sẽ khám nó: nếu vết thương đã chuyển sang màu trắng, tư tế sẽ tuyên bố vết thương là thanh sạch: người ấy thanh sạch.
  3. Ung
    18 Khi người nào có ung ở da mà đã khỏi,19 nhưng ở chỗ cái ung lại có một nhọt trắng hay một đốm trắng đỏ nhạt, thì nó phải để cho tư tế khám.20 Tư tế sẽ khám: nếu đốm ấy xem ra ăn sâu vào da và lông đã chuyển sang màu trắng, thì tư tế sẽ tuyên bố người ấy là ô uế: đó là một vết thương phong hủi đã loang ra chỗ cái ung.21 Nhưng nếu khi tư tế khám mà thấy ở đó không có lông trắng, cái ung không ăn sâu vào da và đã mờ đi, thì tư tế sẽ cô lập nó trong vòng bảy ngày.22 Nếu vết đốm cứ loang ra trên da, thì tư tế sẽ tuyên bố người ấy là ô uế: đó là một vết thương.23 Nhưng nếu vết đốm vẫn y nguyên, không lan ra, thì đó là sẹo của cái ung: tư tế sẽ tuyên bố người ấy là thanh sạch.
  4. Phỏng
    24 Trường hợp khác: khi người nào có chỗ phỏng lửa trên da và ở chỗ phỏng có đốm trắng đỏ nhạt hoặc trắng,25 thì tư tế sẽ khám chỗ ấy: nếu lông ở đốm đã chuyển sang màu trắng, và vết đốm xem ra lõm vào da, thì đó là phong hủi loang ra ở chỗ phỏng; tư tế sẽ tuyên bố người ấy là ô uế: đó là vết thương phong hủi.26 Nhưng nếu khi tư tế khám mà thấy vết đốm không có lông trắng, không ăn sâu vào da và đã mờ đi, thì tư tế sẽ cô lập người ấy trong vòng bảy ngày.27 Đến ngày thứ bảy, tư tế sẽ khám người ấy: nếu vết đốm cứ lan ra trên da, thì tư tế sẽ tuyên bố người ấy là ô uế: đó là vết thương phong hủi.28 Nhưng nếu vết đốm cứ y nguyên, không lan ra trên da, và đã mờ đi, thì đó là một cái nhọt do phỏng gây ra; tư tế sẽ tuyên bố người ấy là thanh sạch, vì đó là sẹo của chỗ phỏng.

Đ. Chốc
29 Khi một người đàn ông hay một người đàn bà có vết thương ở đầu hoặc cằm,30 thì tư tế sẽ khám vết thương: nếu nó xem ra lõm vào da, có lông vàng và nhỏ, thì tư tế sẽ tuyên bố người ấy là ô uế: đó là chốc, tức là phong hủi ở đầu hay ở cằm.31 Nhưng nếu khi tư tế khám vết thương chốc, mà nó xem ra không lõm vào da và không có lông đen, thì tư tế sẽ cô lập người có vết thương chốc trong vòng bảy ngày.32 Đến ngày thứ bảy, tư tế sẽ khám vết thương: nếu chốc không lan ra, không có lông vàng và chốc xem ra không lõm vào da,33 thì người ấy phải cạo đầu cạo cằm nhưng không cạo chỗ chốc, rồi tư tế sẽ lại cô lập người bị chốc trong vòng bảy ngày nữa.34 Đến ngày thứ bảy, tư tế sẽ khám chỗ chốc: nếu chỗ chốc không lan ra trên da và xem ra không lõm vào da, thì tư tế sẽ tuyên bố người ấy là thanh sạch; nó sẽ giặt áo và sẽ ra thanh sạch.35 Nhưng nếu chỗ chốc cứ lan ra trên da, sau khi người ấy được tuyên bố là thanh sạch,36 thì tư tế sẽ khám người ấy: nếu chỗ chốc đã lan ra trên da, thì tư tế sẽ không phải tìm xem có lông vàng không; người ấy ô uế.37 Nhưng nếu chính mắt tư tế thấy là chỗ chốc vẫn y nguyên và có lông đen mọc ở đó, thì chỗ chốc đã khỏi và người ấy là thanh sạch; tư tế sẽ tuyên bố người ấy là thanh sạch.

  1. Lang ben
    38 Khi trên da thịt một người đàn ông hay một người đàn bà phát ra những đốm, những đốm trắng,39 thì tư tế sẽ khám: nếu những đốm trên da thịt họ trắng đục, thì đó là lang ben đã loang ra trên da: họ thanh sạch.
  2. Sói đầu
    40 Người rụng tóc ở đầu là người sói đầu: người ấy thanh sạch.41 Người rụng tóc phía trước là người sói trán: người ấy thanh sạch.42 Nhưng nếu chỗ sói đầu hoặc sói trán có vết thương trắng đỏ nhạt, thì đó là phong hủi loang ra ở chỗ sói đầu hoặc sói trán.43 Tư tế sẽ khám người ấy: nếu nhọt ở vết thương có màu trắng đỏ nhạt ở chỗ sói đầu hoặc sói trán, trông giống như phong hủi da thịt,44 thì người ấy bị phong hủi: người ấy ô uế. Tư tế sẽ tuyên bố người ấy là ô uế; nó bị vết thương ở đầu.

Quy chế người phong hủi

45 Người mắc bệnh phong hủi phải mặc áo rách, xoã tóc, che râu và kêu lên: “Ô uế! Ô uế! “46 Bao lâu còn mắc bệnh, thì nó ô uế; nó ô uế: nó phải ở riêng ra, chỗ ở của nó là một nơi bên ngoài trại.
Phong hủi ở quần áo

47 Khi áo có vết phong hủi, áo len hay áo gai,48 áo dệt hay áo đan bằng gai hoặc bằng len, hoặc da hay bất cứ đồ vật gì bằng da,49 nếu vết ấy xanh hay đỏ nhạt trên áo, trên da, trên áo dệt hoặc đan, hay trên bất cứ đồ vật gì bằng da, thì đó là vết phong hủi: phải đưa cho tư tế khám.50 Tư tế sẽ khám vết ấy và để riêng đồ vật có vết ra, trong vòng bảy ngày.51 Đến ngày thứ bảy, tư tế sẽ khám vết ấy: nếu vết đã lan ra trên áo, áo dệt hay áo đan, trên da, trên bất cứ đồ vật gì làm bằng da, thì đó là phong hủi dễ lây: vật đó là ô uế.52 Người ta phải đốt áo dệt hay áo đan bằng len hay bằng gai, hay bất cứ đồ vật gì bằng da có vết, vì đó là phong hủi dễ lây; đồ vật ấy phải bỏ vào lửa mà thiêu.

53 Nhưng nếu khi tư tế khám, vết ấy không lan ra trên áo, áo dệt hoặc áo đan, hay trên bất cứ đồ vật gì bằng da,54 thì tư tế sẽ truyền giặt đồ vật có vết, rồi lại để riêng nó ra, trong vòng bảy ngày nữa.55 Sau khi vết đã được gột rửa, tư tế sẽ khám: nếu vết ấy không thay đổi hình dạng và không lan ra, thì đồ vật ấy là ô uế, các ngươi phải bỏ vào lửa mà thiêu: đó là đồ vật bị ăn thủng mặt phải hay mặt trái.

56 Nhưng nếu khi tư tế khám, vết ấy đã mờ đi sau khi gột rửa, thì tư tế sẽ xé chỗ đó ra khỏi áo hay khỏi da, khỏi áo dệt hoặc áo đan.57 Nếu nó lại xuất hiện trên áo, áo dệt hoặc áo đan, hay bất cứ đồ vật gì bằng da, thì đó là phong hủi đã loang ra: ngươi phải bỏ đồ vật có vết vào lửa mà thiêu.58 Áo, áo dệt hoặc áo đan, hay bất cứ đồ vật gì bằng da, các ngươi đã giặt mà vết đã biến đi, thì sẽ được giặt một lần thứ hai, và sẽ thanh sạch.”

59 Đó là luật về vết phong hủi trên áo bằng len hoặc bằng gai, áo dệt hoặc áo đan, hay bất cứ đồ vật gì bằng da, để dựa vào đó mà tuyên bố đồ vật ấy thanh sạch hay ô uế.

Thanh tẩy người phong hủi

  1. 1 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê rằng:2 “Đây là luật về người phong hủi, trong ngày nó được thanh tẩy. Nó sẽ được đưa đến với tư tế;3 tư tế sẽ ra khỏi trại. Tư tế sẽ khám: nếu người phong hủi đã khỏi vết thương phong hủi,4 thì tư tế sẽ truyền lấy cho người được thanh tẩy hai con chim còn sống và thanh sạch, gỗ bá hương, phẩm cánh kiến và cành hương thảo.5 Tư tế sẽ truyền sát tế một con chim trên một bình sành đựng nước mạch.6 Con chim còn sống, thì tư tế sẽ lấy nó, cùng với gỗ bá hương, phẩm cánh kiến và cành hương thảo, và nhúng hết, kể cả con chim còn sống, vào máu con chim đã bị sát tế trên nước mạch.7 Tư tế sẽ rảy bảy lần trên người đang được thanh tẩy khỏi phong hủi, tuyên bố nó thanh sạch, rồi thả con chim còn sống ra ngoài đồng.8 Người được thanh tẩy sẽ cạo hết lông, lấy nước mà tắm rửa, và sẽ ra thanh sạch. Sau đó nó sẽ trở về trại, nhưng phải ở bên ngoài lều của mình trong vòng bảy ngày.9 Đến ngày thứ bảy, nó sẽ cạo hết lông, cạo đầu, râu và lông mày; nó sẽ cạo hết lông, sẽ giặt áo, lấy nước tắm rửa thân thể, và sẽ ra thanh sạch.10 Ngày thứ tám, nó sẽ lấy hai con chiên đực toàn vẹn, một con chiên cái toàn vẹn, một tuổi, mười ba lít rưỡi tinh bột nhào với dầu làm lễ phẩm, và nửa lít dầu.11 Tư tế cử hành lễ thanh tẩy sẽ đặt người được thanh tẩy cùng với các lễ vật trước nhan ĐỨC CHÚA, ở cửa Lều Hội Ngộ.12 Tư tế sẽ bắt một con chiên, tiến dâng làm lễ đền tội cùng với nửa lít dầu, và tư tế sẽ làm nghi thức tiến dâng những thứ ấy trước nhan ĐỨC CHÚA.13 Tư tế sẽ sát tế con chiên ở nơi sát tế lễ vật tạ tội và lễ vật toàn thiêu, trong nơi thánh; -vì lễ vật đền tội thuộc về tư tế, cũng như lễ vật tạ tội: đó là của rất thánh-.14 Tư tế sẽ lấy máu lễ vật đền tội bôi vào trái tai phải người được thanh tẩy, vào ngón cái tay phải và ngón cái chân phải nó.15 Tư tế sẽ lấy nửa lít dầu, đổ một ít vào lòng bàn tay trái;16 Tư tế sẽ nhúng một ngón tay phải vào dầu ở trong lòng bàn tay trái và lấy ngón tay rảy dầu bảy lần trước nhan ĐỨC CHÚA.17 Tư tế sẽ lấy dầu còn lại trong lòng bàn tay bôi vào trái tai phải người được thanh tẩy, vào ngón cái tay phải và ngón cái chân phải nó, bên trên máu lễ vật đền tội.18 Chỗ dầu còn lại trong lòng bàn tay, tư tế sẽ bôi lên đầu người được thanh tẩy. Tư tế sẽ cử hành lễ xá tội cho nó trước nhan ĐỨC CHÚA.19 Tư tế sẽ làm lễ tạ tội và sẽ cử hành lễ xá tội cho người đang được thanh tẩy khỏi sự ô uế, sau đó sẽ sát tế lễ vật toàn thiêu.20 Tư tế sẽ dâng lễ toàn thiêu và lễ phẩm trên bàn thờ; tư tế sẽ cử hành lễ xá tội cho nó và nó sẽ thanh sạch.21 Nếu nó nghèo không thể kiếm được những thứ ấy, thì nó sẽ chỉ bắt một con chiên đực dùng làm lễ đền tội, người ta sẽ làm nghi thức tiến dâng con chiên ấy để cử hành lễ xá tội cho nó; nó cũng sẽ lấy bốn lít tinh bột nhào với dầu làm lễ phẩm, một nửa lít dầu,22 và một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non, là những thứ nó có thể kiếm được, một con sẽ dùng làm lễ tạ tội, một con làm lễ toàn thiêu.23 Đến ngày thứ tám, nó sẽ mang những thứ ấy đến cho tư tế, ở cửa lều Hội Ngộ, trước nhan ĐỨC CHÚA, để được thanh tẩy.24 Tư tế sẽ lấy con chiên dâng làm lễ đền tội và nửa lít dầu mà làm nghi thức tiến dâng trước nhan ĐỨC CHÚA.25 Tư tế sẽ sát tế con chiên làm lễ đền tội, rồi lấy máu lễ vật đền tội bôi vào trái tai phải người được thanh tẩy, vào ngón cái tay phải và ngón cái chân phải nó.26 Tư tế sẽ đổ một ít dầu vào lòng bàn tay trái;27 tư tế sẽ dùng một ngón tay phải lấy dầu ở trong lòng bàn tay trái rảy bảy lần trước nhan ĐỨC CHÚA.28 Tư tế sẽ lấy dầu trong lòng bàn tay bôi vào trái tai phải người được thanh tẩy, vào ngón cái tay phải và ngón cái chân phải nó, ở chỗ đã bôi máu lễ vật đền tội.29 Chỗ dầu còn lại trong lòng bàn tay, tư tế sẽ bôi lên đầu người được thanh tẩy, để cử hành lễ xá tội cho nó trước nhan ĐỨC CHÚA.30 Còn đôi chim gáy hay cặp bồ câu non, là những thứ người ấy có thể kiếm được,31 thì trong những con chim nó đã có thể kiếm được, tư tế sẽ dâng một con làm lễ tạ tội, một con làm lễ toàn thiêu kèm với lễ phẩm. Tư tế sẽ cử hành lễ xá tội cho người được thanh tẩy, trước nhan ĐỨC CHÚA.”32 Đó là luật về người có vết thương phong hủi mà không thể kiếm được cái cần thiết cho lễ nghi thanh tẩy của mình.

Phong hủi nơi nhà cửa
33 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê và ông A-ha-ron rằng:
34 “Khi các ngươi vào đất Ca-na-an mà Ta ban cho các ngươi làm sở hữu, nếu Ta đặt một vết phong hủi vào một nhà trong đất là sở hữu các ngươi,35 thì chủ nhà sẽ đến báo cho tư tế rằng: “Tôi thấy trong nhà tôi có cái gì như vết phong hủi.”36 Trước khi vào khám vết đó, tư tế sẽ truyền dọn trống nhà, để không có vật gì trong nhà ra ô uế; sau đó tư tế sẽ vào khám nhà.37 Tư tế sẽ khám vết: nếu vết ở các tường nhà làm thành những chỗ lõm xanh xanh hoặc đỏ đỏ xem ra như ăn sâu vào tường,38 thì tư tế sẽ ra khỏi nhà, đến tận cửa, và cô lập căn nhà trong vòng bảy ngày.39 Đến ngày thứ bảy, tư tế sẽ trở lại khám: nếu vết đã lan ra các tường nhà,40 thì tư tế sẽ truyền gỡ những viên đá có vết và ném ra ngoài thành, vào một nơi ô uế;41 rồi tư tế sẽ cho cạo tất cả bên trong nhà và đổ vữa đã cạo ra ngoài thành, vào một nơi ô uế.42 Người ta sẽ lấy những viên đá khác thay vào các viên đá trước, và lấy vữa khác mà trát nhà.

43 Nếu vết lại loang ra trong nhà, sau khi đã gỡ đá ra, sau khi đã cạo và trát nhà,44 thì tư tế sẽ đến khám: nếu vết đã lan ra trong nhà, thì đó là phong hủi dễ lây trong nhà, nhà đó ô uế.45 Người ta sẽ phá nhà đi: đá, gỗ, tất cả vữa của nhà ấy, người ta sẽ đưa ra ngoài thành, vào một nơi ô uế.

46 Ai vào nhà trong suốt thời gian nhà bị cô lập, sẽ ra ô uế cho đến chiều.47 Ai ngủ trong nhà sẽ phải giặt áo, ai ăn trong nhà sẽ phải giặt áo.48 Nhưng nếu khi tư tế vào khám, vết đã không lan ra trong nhà sau khi trát lại nhà, thì tư tế sẽ tuyên bố nhà ấy là thanh sạch, vì vết phong hủi đã lành.

49 Để xoá tội cho nhà ấy, tư tế sẽ lấy hai con chim, gỗ bá hương, phẩm cánh kiến và cành hương thảo.50 Tư tế sẽ sát tế một con chim trên một bình sành đựng nước mạch.51 Tư tế sẽ lấy gỗ bá hương, cành hương thảo, phẩm cánh kiến và con chim còn sống, nhúng vào máu con chim đã bị sát tế và vào nước mạch, và rảy vào nhà bảy lần;52 sau khi đã dùng máu con chim, dùng nước mạch, con chim còn sống, gỗ bá hương, cành hương thảo và phẩm cánh kiến mà xoá tội cho căn nhà,53 tư tế sẽ thả con chim còn sống ra ngoài đồng, ở ngoài thành. Tư tế sẽ cử hành nghi thức xá tội cho căn nhà, và nhà ấy sẽ thanh sạch.”

54 Đó là luật về mọi vết phong hủi, về chốc,55 về phong hủi nơi áo và nhà cửa,56 về nhọt, lác, đốm,57 để xác định khi nào một vật ô uế, khi nào thanh sạch.
Đó là luật về phong hủi.

Ô uế về sinh dục

  1. 1 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê và ông A-ha-ron rằng:
    2 “Hãy nói với con cái Ít-ra-en và bảo chúng: Khi bất cứ một người đàn ông nào mắc bệnh lậu trong thân thể, thì bệnh lậu đó làm nó ra ô uế.3 Sự ô uế của nó khi có bệnh lậu là thế này:
    Dù thân thể nó tiết ra hay giữ lại mủ lậu, thì nó cũng mắc phải ô uế.4 Mọi giường người bị lậu nằm, sẽ ra ô uế, mọi đồ vật nó ngồi lên, sẽ ra ô uế.5 Người nào đụng vào giường của nó, sẽ phải giặt áo, lấy nước mà tắm rửa, và sẽ ra ô uế cho đến chiều.6 Ai ngồi lên đồ vật người bị lậu đã ngồi lên, sẽ phải giặt áo, lấy nước mà tắm rửa, và sẽ ra ô uế cho đến chiều.7 Ai đụng đến thân thể người bị lậu, sẽ phải giặt áo, lấy nước mà tắm, và sẽ ra ô uế cho đến chiều.8 Nếu người bị lậu nhổ vào một người thanh sạch, người này sẽ phải giặt áo, lấy nước mà tắm rửa, và sẽ ra ô uế cho đến chiều.9 Mọi cái yên người bị lậu cưỡi lên sẽ ra ô uế.

    10 Bất cứ ai đụng vào một đồ vật nào mà người ấy nằm hay ngồi lên, sẽ ra ô uế cho đến chiều.
    Ai mang một đồ vật như thế, sẽ phải giặt áo, lấy nước mà tắm rửa, và sẽ ra ô uế cho đến chiều.

    11 Người bị lậu chưa rửa tay mà đụng vào bất cứ người nào, thì người ấy sẽ phải giặt áo, lấy nước mà tắm rửa, và sẽ ra ô uế cho đến chiều.

    12 Bình sành người bị lậu đụng vào, sẽ phải đập vỡ, còn mọi bình gỗ sẽ được rửa bằng nước.

    13 Khi người bị lậu được lành bệnh, nó phải tính bảy ngày mới được thanh tẩy; nó phải giặt áo, lấy nước tắm rửa thân thể, và nó sẽ ra thanh sạch.14 Ngày thứ tám, nó sẽ bắt một đôi chim gáy, hay một cặp bồ câu non, đến trước nhan ĐỨC CHÚA, ở cửa Lều Hội Ngộ, mà đưa cho tư tế.15 Tư tế sẽ dâng một con làm lễ tạ tội, một con làm lễ toàn thiêu; tư tế sẽ cử hành lễ xá tội cho nó, trước nhan ĐỨC CHÚA, vì nó đã bị lậu.

    16 Khi một người đàn ông xuất tinh, thì phải lấy nước tắm rửa thân thể, và sẽ ra ô uế cho đến chiều,17 khi có xuất tinh mà giây ra bất cứ áo hay đồ da nào, thì sẽ phải lấy nước mà giặt rửa, và những thứ ấy sẽ ra ô uế cho đến chiều.

    18 Khi một người đàn bà giao hợp với một người đàn ông, thì cả hai phải lấy nước mà tắm rửa, và sẽ ra ô uế cho đến chiều.

  2. Đàn bà
    19 Khi một người đàn bà ra huyết, huyết từ thân thể chảy ra, thì nó sẽ ra ô uế bảy ngày vì có kinh.
    Bất cứ ai đụng vào nó, sẽ ra ô uế cho đến chiều.20 Mọi cái gì nó nằm khi có kinh, sẽ ra ô uế, mọi đồ vật nó ngồi lên, sẽ ra ô uế.21 Bất cứ ai đụng vào giường của nó, sẽ phải giặt áo, lấy nước mà tắm rửa, và sẽ ra ô uế cho đến chiều.22 Bất cứ ai đụng vào đồ vật nó đã ngồi lên, sẽ phải giặt áo, lấy nước mà tắm rửa, và sẽ ra ô uế cho đến chiều.23 Nếu có cái gì trên giường hoặc trên đồ vật nó đã ngồi lên, thì ai đụng đến cái đó, sẽ ra ô uế cho đến chiều.24 Nếu một người đàn ông cứ nằm với nó, thì sự ô uế của kinh nguyệt của nó sẽ truyền sang người ấy: người ấy sẽ ra ô uế trong vòng bảy ngày, và bất cứ giường nào người ấy nằm, sẽ ra ô uế.25 Khi một người đàn bà bị rong huyết trong vòng nhiều ngày, ngoài thời kỳ kinh nguyệt, hoặc rong huyết quá thời kỳ kinh nguyệt, thì sự ô uế sẽ kéo dài suốt thời gian bị rong huyết; nó sẽ ra ô uế như trong thời gian có kinh.26 Mọi giường nó nằm trong suốt thời gian rong huyết, sẽ ra ô uế như cái giường trong thời gian nó có kinh; mọi đồ vật nó ngồi lên, sẽ ra ô uế, như bị ô uế trong thời gian nó có kinh.27 Bất cứ ai đụng vào những thứ đó, sẽ ra ô uế; nó sẽ phải giặt áo, lấy nước mà tắm rửa, và sẽ ra ô uế cho đến chiều.28 Nếu nó không còn rong huyết, nó phải tính bảy ngày, sau đó sẽ được thanh sạch.29 Ngày thứ tám, nó sẽ bắt một đôi chim gáy, hay một cặp bồ câu non và đem đến cho tư tế, ở cửa Lều Hội Ngộ.30 Tư tế sẽ dâng một con làm lễ tạ tội, một con làm lễ toàn thiêu. Trước nhan ĐỨC CHÚA, tư tế sẽ cử hành lễ xá tội cho nó, khỏi chứng rong huyết làm cho nó ra ô uế.

Kết luận

31 Các ngươi hãy bảo con cái Ít-ra-en kiêng cữ khi bị ô uế, như vậy chúng sẽ không phải chết vì sự ô uế của chúng, khi chúng làm cho Nhà Tạm của Ta ở giữa chúng ra ô uế.”

32 Đó là luật về người bị bệnh lậu và người xuất tinh và bởi vậy ra ô uế,33 về người khó ở vì kinh nguyệt, về người đàn ông bị lậu hay người đàn bà bị rong huyết, cũng như về người đàn ông nằm với người đàn bà bị ô uế.

Ngày xá tội

  1. 1 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê sau khi hai người con của ông A-ha-ron chết; chúng đã chết khi lại gần ĐỨC CHÚA.2 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê: “Hãy nói với A-ha-ron, anh ngươi, đừng vào bất cứ lúc nào trong thánh điện, phía sau màn trướng, trước nắp xá tội ở trên Hòm Bia, và như vậy nó sẽ không phải chết khi Ta hiện ra trong đám mây trên nắp xá tội.3 A-ha-ron sẽ vào thánh điện như thế này: Nó phải bắt một bò tơ để làm lễ tạ tội và một cừu đực để làm lễ toàn thiêu.4 Nó sẽ mặc áo dài thánh bằng vải gai, mặc trên mình quần đùi vải gai, thắt đai lưng vải gai, đội mũ tế vải gai. Đó là phẩm phục thánh, nó sẽ lấy nước tắm rửa thân thể trước khi mặc vào.5 Nó sẽ nhận hai con dê đực để làm lễ tạ tội và một con cừu đực để làm lễ toàn thiêu, do cộng đồng con cái Ít-ra-en đem tới.6 A-ha-ron sẽ tiến dâng con bò tơ làm lễ tạ tội cho chính mình, và sẽ cử hành lễ xá tội cho mình và cho nhà mình.7 Nó sẽ lấy hai con dê và đặt trước nhan ĐỨC CHÚA, ở cửa Lều Hội Ngộ.8 Nó sẽ bắt thăm chọn giữa hai con dê: một thăm “dành cho ĐỨC CHÚA”, một thăm “dành cho quỷ A-da-dên.”9 A-ha-ron sẽ tiến dâng con dê trúng thăm “dành cho ĐỨC CHÚA” và dùng làm lễ tạ tội.10 Còn con dê trúng thăm “dành cho A-da-dên”, A-ha-ron sẽ để sống và đặt trước nhan ĐỨC CHÚA, để cử hành lễ xá tội trên nó và thả nó cho A-da-dên trong sa mạc.11 A-ha-ron sẽ tiến dâng con bò tơ dùng làm lễ tạ tội cho chính mình, và cử hành lễ xá tội cho mình và cho nhà mình: nó sẽ sát tế con bò tơ làm lễ tạ tội cho chính mình.12 Nó sẽ lấy than hồng trên bàn thờ trước nhan ĐỨC CHÚA bỏ đầy vào bình hương, sẽ bốc hai nắm đầy bột hương thơm, và đem vào phía sau màn trướng.13 Nó sẽ bỏ hương vào lửa, trước nhan ĐỨC CHÚA, và khói hương như mây sẽ phủ nắp xá tội ở trên Chứng Ước, và như vậy nó sẽ không phải chết.14 Nó sẽ dùng một ngón tay lấy máu con bò tơ rảy trên nắp xá tội, về phía đông; rồi đằng trước nắp xá tội, nó cũng dùng ngón tay mà rảy máu bảy lần.15 Nó sẽ sát tế con dê dùng làm lễ tạ tội cho dân, sẽ đem máu nó vào phía sau màn trướng, và cũng sẽ lấy máu đó mà rảy như đã rảy máu con bò tơ: nó sẽ rảy máu đó lên nắp xá tội, và đàng trước nắp xá tội.16 Nó sẽ cử hành lễ xá tội cho thánh điện, vì những điều ô uế của con cái Ít-ra-en và những việc phản nghịch của chúng, nghĩa là mọi tội lỗi chúng.17 Không một người nào được có mặt trong Lều Hội Ngộ, từ khi A-ha-ron vào để cử hành lễ xá tội trong thánh điện, cho đến khi nó ra.

    18 Rồi nó sẽ ra ngoài, đến bàn thờ ở trước nhan ĐỨC CHÚA và sẽ cử hành lễ xá tội cho bàn thờ: nó sẽ lấy máu con bò tơ và máu con dê mà bôi lên các góc cong của bàn thờ.19 Nó sẽ dùng một ngón tay rảy máu bảy lần lên bàn thờ, mà thanh tẩy cho khỏi các điều ô uế của con cái Ít-ra-en, và thánh hiến bàn thờ.

    20 Khi đã cử hành xong lễ xá tội cho thánh điện, cho Lều Hội Ngộ và bàn thờ, nó sẽ cho dẫn con dê còn sống tới.21 A-ha-ron sẽ đặt hai tay lên đầu con dê còn sống, sẽ xưng thú trên con vật mọi lỗi lầm của con cái Ít-ra-en, mọi việc phản nghịch của chúng, nghĩa là mọi tội lỗi chúng; nó sẽ trút cả lên đầu con dê, rồi sẽ dùng tay một người đang chờ sẵn mà thả vào sa mạc.22 Con dê sẽ mang trên mình mọi lỗi lầm của chúng vào hoang địa.

    23 A-ha-ron sẽ vào trong Lều Hội Ngộ, cởi phẩm phục bằng vải gai nó đã mặc khi vào thánh điện; và để lại đó.24 Nó sẽ lấy nước tắm rửa thân thể trong một nơi thánh, và sẽ mặc lại phẩm phục. Rồi nó sẽ ra mà dâng lễ toàn thiêu của mình và lễ toàn thiêu của dân; nó sẽ cử hành lễ xá tội cho chính mình và cho dân.25 Còn mỡ của lễ tạ tội, thì nó sẽ đốt cho cháy nghi ngút ở bàn thờ.

    26 Người đã thả con dê “dành cho A-da-dên” sẽ giặt áo, lấy nước tắm rửa thân thể, sau đó mới được về trại.27 Con bò tơ dùng làm lễ tạ tội và con dê dùng làm lễ tạ tội, mà máu đã được đưa vào thánh điện để cử hành lễ xá tội, người ta sẽ đem ra bên ngoài trại, bỏ vào lửa mà thiêu, cả da, cả thịt, cả phân.28 Người đã đốt những con vật đó phải giặt áo, lấy nước tắm rửa thân thể, sau đó mới được về trại.

    29 Đó sẽ là quy tắc vĩnh viễn cho các ngươi.

    30 Thật vậy, ngày ấy, sẽ cử hành lễ xá tội cho các ngươi, để thanh tẩy các ngươi: trước nhan ĐỨC CHÚA, các ngươi sẽ được thanh sạch khỏi mọi tội lỗi của các ngươi.31 Đối với các ngươi, đó sẽ là một ngày sa-bát, một ngày nghỉ: đó là quy tắc vĩnh viễn.

    32 Tư tế đã được xức dầu và được trao quyền làm tư tế thay cho cha mình, sẽ cử hành lễ xá tội. Nó sẽ mặc phẩm phục bằng vải gai, phẩm phục thánh;33 nó sẽ cử hành lễ xá tội cho thánh điện cực thánh; nó sẽ cử hành lễ xá tội cho Lều Hội Ngộ và cho bàn thờ; nó sẽ cử hành lễ xá tội cho các tư tế và cho toàn dân trong đại hội.34 Đó sẽ là quy tắc vĩnh viễn cho các ngươi: mỗi năm một lần sẽ cử hành lễ xá tội cho con cái Ít-ra-en khỏi mọi tội của chúng.”
    Người ta đã làm như ĐỨC CHÚA truyền cho ông Mô-sê.

 

IV. LUẬT VỀ SỰ THÁNH THIỆN

Sát sinh. Các lễ vật.

  1. 1 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê rằng:2 “Hãy nói với A-ha-ron, với các con nó cùng toàn thể con cái Ít-ra-en, và bảo chúng: Đây là lời ĐỨC CHÚA truyền:3 Bất cứ người đàn ông nào thuộc nhà Ít-ra-en giết bò, chiên, hoặc dê trong trại, hay giết ngoài trại,4 mà không mang con vật đến cửa Lều Hội Ngộ để dâng làm lễ tiến cho ĐỨC CHÚA trước Nhà Tạm ĐỨC CHÚA, thì nó sẽ chịu trách nhiệm về máu ấy: nó đã đổ máu, nó sẽ bị khai trừ khỏi dân nó.5 Như vậy, con cái Ít-ra-en sẽ mang đến những hy lễ mà chúng tế ở ngoài đồng; chúng sẽ mang đến cho tư tế, để dâng ĐỨC CHÚA, ở cửa Lều Hội Ngộ, và chúng sẽ tế dâng ĐỨC CHÚA làm hy lễ kỳ an.6 Tư tế sẽ rảy máu trên bàn thờ ĐỨC CHÚA ở cửa Lều Hội Ngộ, và sẽ đốt mỡ cho cháy nghi ngút thành hương thơm làm vui lòng ĐỨC CHÚA.7 Chúng sẽ không còn tế dâng các hy lễ của chúng cho các thần dê, những thần chúng chạy theo mà làm điếm. Đó là quy tắc vĩnh viễn cho chúng, cho các thế hệ của chúng.8 Ngươi hãy bảo chúng: bất cứ người nào, thuộc nhà Ít-ra-en hoặc trong số ngoại kiều sống giữa chúng, dâng lễ toàn thiêu hay hy lễ,9 mà không đem đến cửa Lều Hội Ngộ để dâng lên ĐỨC CHÚA, thì người ấy sẽ bị khai trừ khỏi dòng họ.10 Bất cứ người nào thuộc nhà Ít-ra-en hoặc trong số ngoại kiều sống giữa chúng, ăn bất cứ thứ huyết nào, thì Ta sẽ quay mặt lại phạt kẻ ăn huyết và sẽ khai trừ khỏi dân nó;11 vì mạng sống của xác thịt thì ở trong máu, và Ta, Ta đã ban máu cho các ngươi, trên bàn thờ, để cử hành lễ xá tội cho mạng sống các ngươi. Thật vậy, máu xá tội được vì nó là mạng sống.12 Vì thế, Ta đã bảo con cái Ít-ra-en: Không một ai trong các ngươi được ăn huyết, ngoại kiều sống giữa các ngươi cũng không được ăn huyết.13 Bất cứ người nào, thuộc con cái Ít-ra-en hoặc trong số ngoại kiều sống giữa chúng, săn được một con thú hoặc một con chim được phép ăn, thì phải đổ máu nó ra và lấy bụi đất phủ lên;14 vì mạng sống của mọi xác thịt là máu nó bao lâu nó còn sống, và Ta đã bảo con cái Ít-ra-en: Các ngươi không được ăn huyết của bất cứ xác thịt nào, vì mạng sống của mọi xác thịt là máu nó; bất cứ ai ăn huyết sẽ bị khai trừ.15 Phàm người nào, dù là người bản xứ hay ngoại kiều, ăn con vật chết hay bị xé, sẽ phải giặt áo, lấy nước mà tắm rửa, và sẽ ra ô uế cho đến chiều, rồi nó sẽ được thanh sạch.16 Nếu nó không giặt áo và tắm rửa thân thể, nó sẽ phải mang lấy tội mình.”

Những điều cấm đoán về sinh dục

  1. 1 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê rằng:
    2 “Hãy nói với con cái Ít-ra-en và bảo chúng: Ta là ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của các ngươi.3 Các ngươi không được làm như người ta làm trên đất Ai-cập, nơi các ngươi đã ở; các ngươi không được làm như người ta làm trên đất Ca-na-an, nơi Ta sắp đưa các ngươi vào. Các ngươi không được theo các quy tắc của chúng.4 Các ngươi hãy thi hành các quyết định của Ta, giữ và theo các quy tắc của Ta.5 Các ngươi phải giữ các quy tắc và quyết định của Ta: khi con người đem các điều ấy ra thực hành thì nhờ đó sẽ được sống.
    Ta là ĐỨC CHÚA.6 Không người nào trong các ngươi được đến gần một người bà con ruột thịt để lột trần chỗ kín của nó. Ta là ĐỨC CHÚA.7 Ngươi không được lột trần chỗ kín của cha ngươi và chỗ kín của mẹ ngươi: đó là mẹ ngươi, ngươi không được lột trần chỗ kín của nó.8 Ngươi không được lột trần chỗ kín của vợ của cha ngươi: đó là chỗ kín của cha ngươi.9 Ngươi không được lột trần chỗ kín của chị em ngươi, dù là con gái của cha ngươi hay con gái của mẹ ngươi, sinh tại nhà hay sinh ở ngoài; ngươi không được lột trần chỗ kín của chúng.10 Ngươi không được lột trần chỗ kín của cháu nội gái hay cháu ngoại gái ngươi, vì đó là chỗ kín của ngươi.

    11 Ngươi không được lột trần chỗ kín của chị em cùng cha khác mẹ với ngươi: đó là chị em ngươi, ngươi không được lột trần chỗ kín của chúng.

    12 Ngươi không được lột trần chỗ kín của chị em gái của cha ngươi: đó là ruột thịt của cha ngươi.

    13 Ngươi không được lột trần chỗ kín của chị em gái của mẹ ngươi: đó là ruột thịt của mẹ ngươi.

    14 Ngươi không được lột trần chỗ kín của chú bác ngươi; ngươi không được đến gần vợ của chúng: đó là bác gái, là thím ngươi.

    15 Ngươi không được lột trần chỗ kín của con dâu ngươi: đó là vợ của con trai ngươi, ngươi không được lột trần chỗ kín của nó.

    16 Ngươi không được lột trần chỗ kín của chị em dâu ngươi: đó là chỗ kín của anh em ngươi.

    17 Ngươi không được lột trần chỗ kín của một người đàn bà và của con gái nó; ngươi không được lấy cháu nội gái hay cháu ngoại gái của nó để lột trần chỗ kín của chúng: đó là ruột thịt của nó; đó là tội ác tày trời.

    18 Ngươi không được lấy chị em của vợ ngươi mà gây ra cảnh ghen tuông, khi lột trần chỗ kín của chúng, lúc vợ ngươi còn sống.

    19 Ngươi không được đến gần một người đàn bà đang bị ô uế vì kinh nguyệt, để lột trần chỗ kín của nó.

    20 Ngươi không được giao hợp với vợ của một người đồng bào, để khỏi ra ô uế vì người đàn bà ấy.

    21 Ngươi không được lấy đứa nào trong con cái ngươi mà nhượng lại cho thần Mô-léc và không được xúc phạm đến danh của Thiên Chúa ngươi. Ta là ĐỨC CHÚA.

    22 Ngươi không được nằm với đàn ông như nằm với đàn bà: đó là điều ghê tởm.

    23 Ngươi không được giao hợp với bất cứ con vật nào, để khỏi ra ô uế vì nó; đàn bà không được đứng trước thú vật để giao cấu với nó: đó là điều quái đản.

    24 Các ngươi đừng làm cho mình ra ô uế vì tất cả những điều đó, bởi lẽ tại tất cả những điều đó, mà các dân tộc Ta sắp tống đi cho khuất mắt các ngươi, đã ra ô uế.25 Đất đã ra ô uế: Ta đã phạt nó vì tội lỗi nó, và nó đã mửa dân cư nó ra.26 Phần các ngươi, hãy giữ các quy tắc và quyết định của Ta, và không được làm một điều nào trong những điều ghê tởm ấy, dù là người bản xứ hay ngoại kiều sống giữa các ngươi.27 Thật vậy, những người ở trong đất trước các ngươi đã làm tất cả những điều ghê tởm ấy, và đất đã ra ô uế.28 Nhưng đất sẽ không mửa các ngươi ra, khi các ngươi làm cho nó ra ô uế, như nó đã mửa dân tộc ở đó trước các ngươi.29 Vì bất cứ ai làm một trong những điều ghê tởm ấy, thì chính người làm sẽ bị khai trừ ra khỏi dân nó.30 Các ngươi phải giữ điều Ta truyền giữ, là không được thực hành các quy tắc ghê tởm mà người ta đã thực hành trước các ngươi, và các ngươi không được làm cho mình ra ô uế vì những điều ấy. Ta là ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của các ngươi.”

Chỉ thị về luân lý và phụng tự

  1. 1 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê rằng:
    2 “Hãy nói với toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en và bảo chúng: Các ngươi phải thánh thiện, vì Ta, ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của các ngươi, Ta là Đấng Thánh.3 Mỗi người trong các ngươi phải kính sợ cha mẹ.
    Các ngươi phải giữ những ngày sa-bát của Ta. Ta là ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của các ngươi.4 Các ngươi không được hướng về các tà thần, không được đúc tượng thần mà thờ. Ta là ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của các ngươi.5 Khi các ngươi tế hy lễ kỳ an dâng ĐỨC CHÚA, các ngươi phải tế thế nào để được đoái nhận.6 Phải ăn lễ vật đó trong ngày tế lễ và ngày hôm sau; sang ngày thứ ba, cái gì còn lại phải bỏ vào lửa mà thiêu.7 Sang ngày thứ ba mà cứ ăn, thì đó là thịt ôi, và lễ tế sẽ không được đoái nhận.8 Người nào ăn, phải mang lấy tội mình, vì đã xúc phạm đến của được thánh hiến cho ĐỨC CHÚA; người ấy sẽ bị khai trừ ra khỏi dòng họ.9 Khi các ngươi gặt lúa trong đất của các ngươi, (các) ngươi không được gặt cho tới sát bờ ruộng; lúa gặt sót, (các) ngươi không được mót.10 Vườn nho (các) ngươi, (các) ngươi không được hái lại, những trái rớt, (các) ngươi không được nhặt: (các) ngươi sẽ bỏ lại cho người nghèo và ngoại kiều. Ta là ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của các ngươi.11 Các ngươi không được trộm cắp, không được nói dối, không được lừa gạt đồng bào mình.12 Các ngươi không được lấy danh Ta mà thề gian: làm thế là (các) ngươi xúc phạm đến danh Thiên Chúa của (các) ngươi. Ta là ĐỨC CHÚA.13 Ngươi không được bóc lột người đồng loại, không được cướp của; tiền công người làm thuê, ngươi không được giữ lại qua đêm cho đến sáng.14 Ngươi không được rủa người điếc, đặt chướng ngại cho người mù vấp chân, nhưng phải kính sợ Thiên Chúa của ngươi, Ta là ĐỨC CHÚA.15 Các ngươi không được làm điều bất công khi xét xử: không được thiên vị người yếu thế, cũng không được nể mặt người quyền quý, nhưng hãy xét xử công minh cho người đồng bào.16 Ngươi không được vu khống những người trong dòng họ, không được ra toà đòi người đồng loại phải chết. Ta là ĐỨC CHÚA.17 Ngươi không được để lòng ghét người anh em, nhưng phải mạnh dạn quở trách người đồng bào, như thế, ngươi sẽ khỏi mang tội vì nó.18 Ngươi không được trả thù, không được oán hận những người thuộc về dân ngươi. Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình. Ta là ĐỨC CHÚA.19 Các ngươi phải giữ các quy tắc của Ta.
    Ngươi không được cho hai con vật khác giống giao cấu với nhau, không được gieo trong cánh đồng của ngươi hai thứ hạt khác nhau, không được mặc áo vải hỗn hợp, dệt bằng hai thứ sợi khác nhau.

    20 Khi một người đàn ông giao hợp với một người đàn bà, mà người này lại là tỳ thiếp của một người đàn ông khác, nhưng chưa được chuộc hay phóng thích, thì người đàn ông kia sẽ bị phạt; chúng sẽ không bị xử tử, vì người đàn bà chưa được phóng thích.21 Người đàn ông sẽ đem dâng ĐỨC CHÚA lễ vật đền tội của mình ở cửa Lều Hội Ngộ, đó là con cừu đực dùng làm lễ đền tội.22 Tư tế sẽ lấy con cừu đực dùng làm lễ đền tội mà cử hành lễ xá tội cho nó, trước nhan ĐỨC CHÚA, vì tội nó đã phạm, và nó sẽ được tha tội đã phạm.

    23 Khi các ngươi đã vào đất và trồng bất cứ cây ăn trái nào, thì các ngươi sẽ kể trái nó là chưa cắt bì; trong ba năm các ngươi phải coi trái nó là chưa cắt bì, không được ăn.24 Năm thứ tư, mọi trái nó sẽ được thánh hiến trong một buổi lễ mừng ĐỨC CHÚA.25 Năm thứ năm, các ngươi được ăn trái nó; như thế hoa trái nó sẽ tăng thêm cho các ngươi. Ta là ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của các ngươi.

    26 Các ngươi không được ăn gì với máu. Các ngươi không được làm nghề tướng số, chiêm tinh.

    27 Các ngươi không được hớt tóc vòng quanh đầu, không được xén râu.28 Các ngươi không được rạch mình mà để tang một người chết, không được xăm mình. Ta là ĐỨC CHÚA.29 Đừng xúc phạm đến con gái ngươi, nghĩa là bắt nó làm điếm, kẻo đất cũng làm điếm và tràn ngập tội ác tày trời.

    30 Các ngươi phải giữ các ngày sa-bát của Ta và kính trọng thánh điện của Ta. Ta là ĐỨC CHÚA.

    31 Các ngươi không được đến với các người ngồi đồng ngồi bóng và không được hỏi ý kiến chúng, kẻo vì chúng mà ra ô uế. Ta là ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của các ngươi.

    32 Thấy người đầu bạc, ngươi phải đứng lên, ngươi phải kính trọng người già cả: như vậy là ngươi kính sợ Thiên Chúa của ngươi. Ta là ĐỨC CHÚA.33 Khi có ngoại kiều cư ngụ với (các) ngươi trong xứ các ngươi, các ngươi đừng bức hiếp nó.34 (Các) ngươi phải đối xử với người ngoại kiều cư ngụ với các ngươi như với một người bản xứ, một người trong các ngươi; (các) ngươi phải yêu nó như chính mình, vì các ngươi đã từng là ngoại kiều tại đất Ai-cập. Ta là ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của các ngươi.

    35 Các ngươi không được làm điều bất công khi xét xử, cũng như khi đo đạc hay cân đong.36 Các ngươi phải có cán cân đúng, quả cân đúng, đúng thùng, đúng lít. Ta là ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của các ngươi, Đấng đã đưa các ngươi ra khỏi đất Ai-cập.

    37 Các ngươi phải giữ mọi quy tắc, mọi quyết định của Ta và đem ra thực hành. Ta là ĐỨC CHÚA.

Quy định về hình phạt

  1. 1 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê rằng:
    2 “Hãy nói với con cái Ít-ra-en: Bất cứ người nào, thuộc con cái Ít-ra-en hoặc trong số ngoại kiều sống tại Ít-ra-en, dâng một đứa trong con cái mình cho thần Mô-léc, thì sẽ bị xử tử; dân trong xứ sẽ ném đá nó.3 Phần Ta, Ta sẽ quay mặt lại phạt nó và sẽ khai trừ khỏi dân nó, vì nó đã dâng một đứa con trong con cái mình cho thần Mô-léc, khiến thánh điện Ta ra ô uế và thánh danh Ta bị xúc phạm.4 Nếu dân trong xứ che mắt không nhìn người ấy, khi nó dâng một đứa trong con cái mình cho thần Mô-léc, để khỏi phải giết nó,5 thì chính Ta sẽ hướng mặt Ta về người ấy và dòng họ nó, Ta sẽ khai trừ nó và những kẻ làm điếm như nó, những kẻ chạy theo thần Mô-léc mà làm điếm, Ta sẽ khai trừ khỏi dân của chúng.6 Người nào đến với các người ngồi đồng ngồi bóng để chạy theo chúng mà làm điếm, thì Ta sẽ quay mặt lại phạt người ấy và sẽ khai trừ khỏi dân nó.7 Các ngươi phải nên thánh và phải thánh thiện, vì Ta là ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của các ngươi.
  2. Tội liên quan đến gia đình
    8 Các ngươi phải giữ các quy tắc của Ta và đem ra thực hành. Ta là ĐỨC CHÚA, Đấng thánh hiến các ngươi.9 Vậy: Bất cứ người nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải bị xử tử. Nó đã nguyền rủa cha mẹ, thì máu nó đổ xuống đầu nó.10 Khi người đàn ông nào ngoại tình với đàn bà có chồng, ngoại tình với vợ người đồng loại, thì cả đàn ông ngoại tình lẫn đàn bà ngoại tình phải bị xử tử.11 Khi người đàn ông nào nằm với vợ của cha mình, thì đã lột trần chỗ kín của cha mình; cả hai phải bị xử tử, máu chúng đổ xuống đầu chúng.12 Khi người đàn ông nào nằm với con dâu mình, thì cả hai phải bị xử tử; chúng đã làm điều quái đản, máu chúng đổ xuống đầu chúng.13 Khi người đàn ông nào nằm với một người đàn ông như nằm với đàn bà, thì cả hai đã làm điều ghê tởm; chúng phải bị xử tử, máu chúng đổ xuống đầu chúng.14 Khi người đàn ông nào lấy cả con gái lẫn mẹ, thì đó là tội ác tày trời; người ta sẽ bỏ nó và hai người đàn bà vào lửa mà thiêu, để không còn tội ác tày trời giữa các ngươi.

    15 Khi người đàn ông nào giao hợp với con vật, thì phải bị xử tử, và các ngươi sẽ giết con vật.

    16 Khi người đàn bà nào đến gần bất cứ con vật nào để giao cấu với nó, thì (các) ngươi phải giết người đàn bà và con vật; chúng phải bị xử tử, máu chúng đổ xuống đầu chúng.

    17 Khi người đàn ông nào lấy chị em mình, dù là con gái của cha mình hay con gái của mẹ mình, và thấy chỗ kín của người chị em cũng như người này thấy chỗ kín của nó, thì đó là điều bỉ ổi; chúng sẽ bị khai trừ trước mắt những người thuộc về dân của chúng; nó đã lột trần chỗ kín của người chị em nó, thì nó sẽ phải mang lấy tội mình.

    18 Khi người đàn ông nào nằm với một người đàn bà đang khó ở, và lột trần chỗ kín của người đàn bà, thì nó phơi bày nguồn máu của người đàn bà, và người đàn bà lột trần nguồn máu của mình; cả hai sẽ bị khai trừ khỏi dân chúng.

    19 Ngươi không được lột trần chỗ kín của chị em gái của mẹ ngươi hay chị em gái của cha ngươi; đó là lột trần người ruột thịt của chính mình; chúng sẽ phải mang lấy tội mình.

    20 Khi người đàn ông nào nằm với bác gái hay thím mình, thì đã lột trần chỗ kín của bác hay chú mình, chúng sẽ phải mang lấy tội mình, chúng sẽ chết không con cái.

    21 Khi người đàn ông nào lấy chị dâu hay em dâu mình, thì đó là một điều nhơ nhớp; nó đã lột trần chỗ kín của anh em nó, chúng sẽ không có con cái.
    Lời khuyên nhủ cuối cùng

    22 Các ngươi phải giữ mọi quy tắc, mọi quyết định của Ta và đem ra thực hành; như vậy đất Ta sắp đưa các ngươi vào ở đó, sẽ không mửa các ngươi ra.23 Các ngươi không được theo các quy tắc của dân tộc mà Ta sắp tống đi cho khuất mắt các ngươi, vì chúng đã làm tất cả những điều đó, và Ta đã chán ngấy chúng.24 Bởi vậy Ta đã nói với các ngươi: “Chính các ngươi sẽ chiếm hữu đất đai của chúng, và chính Ta sẽ ban cho các ngươi chiếm hữu nó, miền đất tràn trề sữa và mật.” Chính Ta, ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của các ngươi, đã tách biệt các ngươi ra khỏi các dân.25 Vậy các ngươi phải phân biệt giữa thú vật thanh sạch và ô uế, giữa chim ô uế và thanh sạch; các ngươi đừng làm cho chính mình ra kinh tởm vì thú vật, các loài chim và mọi loài bò dưới đất, tức là các loài Ta đã phân biệt để các ngươi coi chúng là ô uế.

    26 Các ngươi phải thuộc về Ta, phải thánh thiện, vì Ta, ĐỨC CHÚA, Ta là Đấng Thánh, và Ta đã tách biệt các ngươi ra khỏi các dân để các ngươi thuộc về Ta.

    27 Khi người đàn ông hay người đàn bà nào có ma nhập thần ốp, thì phải bị xử tử; người ta sẽ ném đá chúng, máu chúng đổ xuống đầu chúng.”

Sự thánh thiện của hàng tư tế

  1. 1 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê:2 ngoại trừ vì một người gần nhất, một người ruột thịt: mẹ, cha, con trai, con gái, anh em nó.3 Một người chị em còn trinh, vẫn là người gần nhất với nó, vì chưa thuộc về một người đàn ông, thì nó có thể làm cho mình ra ô uế vì người ấy.4 Vì là người đứng đầu trong dòng họ mình, nó không được làm cho mình ra ô uế mà trở nên phàm tục.5 Các tư tế không được cạo đầu và cắt riềm râu, không được rạch mình.6 Chúng sẽ được thánh hiến cho Thiên Chúa của chúng và không được xúc phạm đến danh Thiên Chúa của chúng, vì chúng là những người tiến dâng lên ĐỨC CHÚA các lễ hoả tế, là thức ăn dành cho Thiên Chúa của chúng; chúng phải sống thánh thiện.7 Chúng không được lấy một gái điếm hay một người đàn bà bị làm nhục, chúng không được lấy một người đàn bà bị chồng bỏ, vì tư tế được thánh hiến cho Thiên Chúa của mình.8 Ngươi phải coi nó là thánh, vì nó là người tiến dâng thức ăn dành cho Thiên Chúa của ngươi: đối với ngươi, nó sẽ là thánh, vì Ta là Đấng Thánh, Ta, ĐỨC CHÚA, Đấng thánh hoá các ngươi.9 Nếu con gái của một tư tế làm nhục chính mình mà đi làm điếm, thì nó làm nhục chính cha nó; nó phải bị bỏ vào lửa mà thiêu.
  2. Thượng tế
    10 Tư tế lớn nhất trong hàng anh em nó, người đã được đổ dầu tấn phong lên đầu và được trao quyền khi mặc phẩm phục, thì không được xoã tóc và xé áo,11 không được đến gần người chết nào, và không được làm cho mình ra ô uế, dù vì cha hay vì mẹ mình.12 Nó không được ra khỏi thánh điện và không được xúc phạm đến thánh điện của Thiên Chúa nó, vì nó đã được dầu tấn phong của Thiên Chúa nó ghi dấu trên mình. Ta là ĐỨC CHÚA.13 Nó sẽ cưới một người nữ còn trinh.14 Đàn bà goá hay bị chồng bỏ, người bị làm nhục hay làm điếm, những người đó nó không được lấy, mà chỉ được lấy một trinh nữ trong gia tộc mình làm vợ;15 như vậy, nó sẽ không làm nhục dòng dõi nó trong gia tộc nó, vì Ta là ĐỨC CHÚA, Đấng thánh hoá nó.”
  3. Những trường hợp không được làm tư tế
    16 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê rằng:
    17 “Hãy nói với A-ha-ron: Qua các thế hệ, người đàn ông nào trong dòng dõi ngươi có tật, thì không được lại gần để tiến dâng thức ăn dành cho Thiên chúa của nó.18 Thật vậy, bất cứ người nào có tật không được lại gần: người đui mù, què quặt, dị tướng, dị hình,19 người bị gãy chân gãy tay,20 gù, còi, bị đốm ở mắt, ghẻ, hắc lào, hay bị giập tinh hoàn.21 Bất cứ người đàn ông nào trong dòng dõi tư tế A-ha-ron có tật, thì không được đến gần để tiến dâng các lễ hoả tế lên ĐỨC CHÚA; nó có tật, nó không được đến gần để tiến dâng thức ăn dành cho Thiên Chúa của nó.22 Thức ăn dành cho Thiên Chúa của nó, những của rất thánh, và những của thánh, nó được ăn,23 nhưng nó không được tới chỗ màn trướng, không được đến gần bàn thờ, vì nó có tật; như vậy nó sẽ không xúc phạm đến các nơi thánh của Ta, vì Ta là ĐỨC CHÚA, Đấng thánh hoá những nơi ấy.”24 Ông Mô-sê nói thế với ông A-ha-ron, với các con ông này và toàn thể con cái Ít-ra-en.

Phải thánh mới được ăn của thánh

  1. 1 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê rằng:
    2 “Hãy bảo A-ha-ron và các con nó, trong những trường hợp sau đây, phải kiêng những của thánh con cái Ít-ra-en thánh hiến cho ta, để khỏi xúc phạm đến thánh danh Ta. Ta là ĐỨC CHÚA.3 Hãy bảo chúng: Trong các thế hệ các ngươi, bất cứ người nào trong dòng dõi các ngươi, khi bị ô uế, mà lại gần các của thánh con cái Ít-ra-en thánh hiến cho ĐỨC CHÚA, thì người ấy sẽ bị khai trừ cho khuất mắt Ta. Ta là ĐỨC CHÚA.4 Không người nào trong dòng dõi A-ha-ron bị phong hủi hay bị lậu, được ăn các của thánh khi chưa được thanh sạch. Ai đụng vào bất cứ cái gì đã ra ô uế vì xác chết, người đàn ông đã xuất tinh,5 người đàn ông đã đụng vào bất cứ một con vật nhỏ nào làm cho người ấy ra ô uế, hay đụng vào người nào làm cho người ấy ra ô uế, dù là thứ ô uế nào,6 ai đã đụng vào những thứ như vậy, sẽ ra ô uế cho đến chiều, và không được ăn những của thánh khi chưa lấy nước tắm rửa thân thể.7 Lúc mặt trời lặn, nó sẽ được thanh sạch, bấy giờ nó được ăn những của thánh, vì đó là thức ăn của nó.8 Con vật chết hay bị thú dữ xé, nó không được ăn, kẻo ra ô uế vì vật đó. Ta là ĐỨC CHÚA.9 Chúng phải giữ điều Ta truyền giữ, nếu không sẽ mang tội vì chuyện đó và phải chết vì phạm đến của thánh. Ta là ĐỨC CHÚA, Đấng thánh hoá những của ấy.
  2. Người ngoài
    10 Không người ngoài nào được ăn của thánh; khách trọ nhà tư tế và người làm thuê không được ăn của thánh.11 Nhưng nếu tư tế dùng tiền mà mua người nào, thì người ấy được ăn; nô lệ sinh ra trong nhà cũng được ăn thức ăn của tư tế.12 Con gái một tư tế, nếu lấy một người ngoài, thì không được ăn phần trích ra từ các của thánh;13 nhưng nếu con gái tư tế goá chồng hay bị chồng bỏ, mà không có con, trở về nhà cha mình như khi còn trẻ, thì được ăn thức ăn của cha, mặc dầu không một người ngoài nào được ăn.14 Nếu người nào vô ý ăn của thánh, thì phải đền của thánh cho tư tế, cộng thêm một phần năm.15 Các tư tế không được phạm đến các của thánh con cái Ít-ra-en đã trích dâng ĐỨC CHÚA;16 tư tế sẽ làm cho chúng mang một lỗi, một lỗi mà chúng phải đền vì đã ăn các của thánh, vì Ta là ĐỨC CHÚA, Đấng thánh hoá những của ấy.”
  3. Tế vật
    17 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê rằng:
    18 “Hãy nói với A-ha-ron, với các con nó cùng toàn thể con cái Ít-ra-en, và bảo chúng: Bất cứ người nào, trong nhà Ít-ra-en hoặc trong số ngoại kiều sống tại Ít-ra-en, vì đã khấn hứa hay tự nguyện, mà dâng lễ tiến của mình, và tiến dâng ĐỨC CHÚA làm lễ toàn thiêu19 thì phải dâng một con đực toàn vẹn bắt từ đàn bò, chiên hay dê, nếu muốn được đoái nhận.20 Các ngươi không được tiến dâng con vật nào có tật, vì các ngươi sẽ không được đoái nhận.21 Khi một người tiến dâng ĐỨC CHÚA bò hay chiên dê làm hy lễ kỳ an để giữ trọn lời khấn hứa hoặc vì đã tự nguyện, thì con vật phải toàn vẹn, không có một tật nào, nếu muốn được đoái nhận.22 Con vật mù, què, bị cắt xẻo, lở loét, ghẻ, hắc lào, thì các ngươi không được tiến dâng lên ĐỨC CHÚA, không được lấy phần nào đặt trên bàn thờ làm lễ hoả tế dâng ĐỨC CHÚA.23 Bò, chiên dê dị hình hay còi, ngươi có thể dâng làm lễ vật tự nguyện, nhưng nếu dâng làm lễ vật đã khấn hứa, thì chúng sẽ không được đoái nhận.24 Các ngươi không được tiến dâng ĐỨC CHÚA một con vật có tinh hoàn bị giập, bị nghiền, bị moi hay cắt; các ngươi không được làm thế trong đất các ngươi.25 Các ngươi không được nhận những con vật như thế từ tay người nước ngoài, để tiến dâng làm thức ăn dành cho Thiên Chúa các ngươi: chúng bị thiến tức là có tật, chúng sẽ không được đoái nhận như lễ vật của các ngươi.”26 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê rằng:27 “Bê, chiên hay dê, sau khi sinh, sẽ ở với mẹ nó bảy ngày; từ ngày thứ tám trở đi, nó sẽ được đoái nhận làm lễ tiến, làm lễ hoả tế dâng ĐỨC CHÚA.28 Dù là bò hay chiên dê, ngươi không được sát tế mẹ và con cùng một ngày.29 Khi các ngươi dâng ĐỨC CHÚA hy lễ tạ ơn, hãy dâng thế nào để được đoái nhận;30 phải ăn lễ vật trong chính ngày đó, các ngươi không được để lại gì cho đến sáng hôm sau. Ta là ĐỨC CHÚA.

Lời khuyên nhủ cuối cùng

31 Các ngươi phải giữ các mệnh lệnh của Ta và đem ra thực hành. Ta là ĐỨC CHÚA.32 Các ngươi không được  xúc phạm đến thánh danh Ta, để Ta biểu dương sự thánh thiện của Ta giữa con cái Ít-ra-en. Ta là ĐỨC CHÚA, Đấng thánh hoá các ngươi.33 Đấng đã đưa các ngươi ra khỏi đất Ai-cập để làm Thiên Chúa của các ngươi, chính là Ta, ĐỨC CHÚA.

Nghi thức cử hành các lễ trong năm

  1. 1 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê rằng:
    2 “Hãy nói với con cái Ít-ra-en và bảo chúng: Các đại lễ của ĐỨC CHÚA là những ngày mà các ngươi phải triệu tập những cuộc họp để thờ phượng Ta. Đây là những đại lễ của Ta:
  2. Ngày sa-bát
    3 Trong sáu ngày, người ta sẽ làm công việc của mình; còn ngày thứ bảy là ngày sa-bát, một ngày nghỉ, có cuộc họp để thờ phượng, các ngươi không được làm công việc nào. Đó là ngày sa-bát kính ĐỨC CHÚA, tại khắp nơi các ngươi ở.4 Đây là các đại lễ của ĐỨC CHÚA, các cuộc họp để thờ phượng mà các ngươi phải triệu tập vào thời gian ấn định:5 Tháng thứ nhất, ngày mười bốn trong tháng, vào lúc chập tối, là lễ Vượt Qua kính ĐỨC CHÚA.6 Ngày mười lăm tháng ấy là lễ Bánh Không Men kính ĐỨC CHÚA. Trong vòng bảy ngày, các ngươi phải ăn bánh không men.7 Ngày đầu tiên, các ngươi phải họp nhau để thờ phượng Ta, các ngươi không được làm một công việc nặng nhọc nào.8 Trong vòng bảy ngày, các ngươi phải tiến dâng lễ hoả tế lên ĐỨC CHÚA. Ngày thứ bảy, có cuộc họp để thờ phượng Ta, các ngươi không được làm một công việc nặng nhọc nào.
  3. Dâng bó lúa đầu mùa
    9 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê rằng:
    10 “Hãy nói với con cái Ít-ra-en và bảo chúng: Khi các ngươi vào đất Ta ban cho các ngươi, và gặt mùa ở đó, thì phải đem đến cho tư tế một bó lúa, sản phẩm đầu mùa gặt hái của các ngươi.11 Nó sẽ làm nghi thức tiến dâng trước nhan ĐỨC CHÚA để các ngươi được đoái nhận; tư tế sẽ làm nghi thức tiến dâng hôm sau ngày sa-bát.12 Ngày các ngươi làm nghi thức tiến dâng bó lúa ấy, các ngươi phải dâng một con chiên toàn vẹn, một tuổi, làm lễ toàn thiêu lên ĐỨC CHÚA,13 cùng với lễ phẩm là chín lít tinh bột nhào với dầu: đó là lễ hoả tế dâng ĐỨC CHÚA, là hương thơm làm vui lòng ĐỨC CHÚA; lễ tưới rượu kèm theo là hai lít.14 Cho đến chính ngày đó, khi các ngươi mang lễ phẩm của Thiên Chúa các ngươi đến, các ngươi không được ăn bánh, ăn gié lúa rang và hột lúa mới. Đó là quy tắc vĩnh viễn cho các thế hệ của các ngươi, tại khắp nơi các ngươi ở.15 Từ hôm sau ngày sa-bát, ngày các ngươi đem bó lúa đến để làm nghi thức tiến dâng, các ngươi phải tính bảy tuần, bảy tuần chẵn.16 Các ngươi phải tính năm mươi ngày cho đến hôm sau ngày sa-bát thứ bảy, và các ngươi sẽ tiến dâng một lễ phẩm mới lên ĐỨC CHÚA:17 từ những nơi các ngươi ở, các ngươi phải đem đến hai chiếc bánh để làm nghi thức tiến dâng, bánh làm bằng chín lít tinh bột và trộn men mà nướng: đó là của đầu mùa dâng ĐỨC CHÚA.18 Thêm vào với bánh, các ngươi phải tiến dâng bảy con chiên toàn vẹn, một tuổi, một con bò tơ và hai con cừu đực làm lễ toàn thiêu dâng ĐỨC CHÚA, cùng với lễ phẩm và lễ tưới rượu kèm theo: đó là lễ hoả tế, là hương thơm làm vui lòng ĐỨC CHÚA.19 Các ngươi phải lấy một con dê đực làm lễ tạ tội và hai con chiên một tuổi làm hy lễ kỳ an;20 tư tế sẽ làm nghi thức tiến dâng trước nhan ĐỨC CHÚA hai con chiên cùng với bánh đầu mùa: đó là của thánh thuộc về ĐỨC CHÚA, dành cho tư tế.21 Chính ngày đó, các ngươi phải triệu tập dân, phải họp nhau để thờ phượng Ta; các ngươi không được làm một công việc nặng nhọc nào. Đó là quy tắc vĩnh viễn cho các thế hệ của các ngươi, tại khắp nơi các ngươi ở.22 Khi các ngươi gặt lúa trong đất các ngươi, (các) ngươi không được gặt cho tới sát bờ ruộng; lúa gặt sót, (các) ngươi không được mót: (các) ngươi sẽ bỏ lại cho người nghèo và ngoại kiều. Ta là ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của các ngươi.”23 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê rằng:
    24 “Hãy nói với con cái Ít-ra-en và bảo chúng: Tháng thứ bảy, ngày mồng một, đối với các ngươi sẽ là một ngày nghỉ, một ngày tưởng niệm giữa tiếng reo hò, và họp nhau để thờ phượng Ta.25 Các ngươi không được làm một công việc nặng nhọc nào, và phải tiến dâng một lễ hoả tế lên ĐỨC CHÚA.”26 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê rằng:
    27 “Ngoài ra, ngày mồng mười tháng bảy là ngày Xá tội, các ngươi phải họp nhau để thờ phượng Ta, phải ăn chay hãm mình và tiến dâng một lễ hoả tế lên ĐỨC CHÚA.28 Chính ngày ấy, các ngươi không được làm một công việc nặng nhọc nào, vì đó là ngày Xá tội, ngày cử hành lễ xá tội cho các ngươi trước nhan ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của các ngươi.29 Như vậy bất cứ người nào không ăn chay hãm mình vào chính ngày đó, sẽ bị khai trừ khỏi dòng họ;30 và bất cứ người nào làm một việc gì vào chính ngày đó, Ta sẽ làm cho nó biến mất không còn dấu vết giữa dân nó.31 Các ngươi không được làm một công việc nào: đó là quy tắc vĩnh viễn cho các thế hệ của các ngươi, tại khắp nơi các ngươi ở.32 Đối với các ngươi, đó sẽ là một ngày sa-bát, một ngày nghỉ, và các ngươi phải ăn chay hãm mình. Từ chiều ngày mồng chín đến chiều hôm sau, các ngươi phải nghỉ để giữ ngày sa-bát.”33 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê rằng:
    34 “Hãy nói với con cái Ít-ra-en: Ngày mười lăm tháng bảy là lễ Lều kính ĐỨC CHÚA, trong vòng bảy ngày.35 Ngày đầu tiên, phải họp nhau để thờ phượng Ta, các ngươi không được làm một công việc nặng nhọc nào.36 Trong vòng bảy ngày, các ngươi phải tiến dâng lễ hoả tế lên ĐỨC CHÚA. Ngày thứ tám, các ngươi phải họp nhau để thờ phượng Ta, và phải tiến dâng một lễ hoả tế lên ĐỨC CHÚA: đó là một buổi họp long trọng, các ngươi không được làm một công việc nặng nhọc nào.

Kết luận (Đn 29: 39)

37 Đó là các đại lễ của ĐỨC CHÚA, là những ngày mà các ngươi phải triệu tập những cuộc họp để thờ phượng Ta, để tiến dâng lễ hoả tế lên ĐỨC CHÚA: lễ toàn thiêu hay lễ phẩm, hy lễ hay những lễ tưới rượu, việc nào vào ngày đó,38 không kể các ngày sa-bát của ĐỨC CHÚA, không kể các lễ vật, không kể tất cả các lễ vật đã khấn hứa và tất cả các lễ vật tự nguyện các ngươi dâng ĐỨC CHÚA.

Lại nói về lễ Lều

39 Ngoài ra, ngày mười lăm tháng bảy, khi các ngươi đã thu hoa lợi ruộng đất, các ngươi phải mở lễ kính ĐỨC CHÚA trong vòng bảy ngày. Ngày đầu tiên là ngày nghỉ, ngày thứ tám là ngày nghỉ.40 Ngày đầu tiên, các ngươi phải lấy những trái cây đẹp, những tàu lá chà là, những cành cây nhiều lá và cành liễu mọc bên bờ suối, và phải liên hoan trước nhan ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của các ngươi, trong vòng bảy ngày.41 Các ngươi phải mừng lễ đó như một lễ kính ĐỨC CHÚA trong vòng bảy ngày mỗi năm: đó là quy tắc vĩnh viễn cho các thế hệ của các ngươi.

42 Trong vòng bảy ngày, các ngươi phải ở trong lều bằng cành cây; mọi người bản xứ tại Ít-ra-en phải ở trong lều bằng cành cây,43 để các thế hệ của các ngươi biết rằng Ta đã cho con cái Ít-ra-en ở trong lều bằng cành cây, khi Ta đưa chúng ra khỏi đất Ai-cập. Ta là ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của các ngươi.”

44 Ông Mô-sê nói cho con cái Ít-ra-en biết các đại lễ của ĐỨC CHÚA.

Quy định bổ sung về nghi lễ

  1. 1 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê rằng:
    2 “Hãy truyền cho con cái Ít-ra-en phải giã ô-liu lấy dầu nguyên chất cho ngươi, để thắp đèn, hầu cho luôn luôn có ngọn lửa cháy.3 A-ha-ron sẽ đặt chiếc đèn đó bên ngoài bức màn trướng che Chứng Ước, trong Lều Hội Ngộ, sao cho nó luôn luôn cháy từ chiều đến sáng trước nhan ĐỨC CHÚA. Đó là quy tắc vĩnh viễn cho các thế hệ của các ngươi.4 A-ha-ron sẽ phải đặt các đèn trên trụ đèn bằng vàng ròng trước nhan ĐỨC CHÚA, luôn luôn.
  2. Bánh tiến
    5 Ngươi phải lấy tinh bột và nướng thành mười hai cái bánh, mỗi cái sẽ là chín lít bột.6 Ngươi phải xếp bánh thành hai chồng, mỗi chồng sáu cái, trên bàn bằng vàng ròng, trước nhan ĐỨC CHÚA.7 Trên mỗi chồng, ngươi phải để hương tinh khiết, hương đó sẽ là kỷ vật thay cho bánh, là hoả tế dâng ĐỨC CHÚA.8 Mỗi ngày sa-bát, người ta phải đặt luôn luôn trước nhan ĐỨC CHÚA, bánh con cái Ít-ra-en dâng: đó là một giao ước vĩnh cửu.9 Bánh đó sẽ dành cho A-ha-ron và các con nó; chúng sẽ ăn trong một nơi thánh, vì đó là của rất thánh dành cho nó, lấy từ các lễ hoả tế dâng ĐỨC CHÚA: đó là quy luật vĩnh viễn.”

Nói phạm thượng. Luật báo phục tương xứng.

10 Có một người con trai, mẹ là người Ít-ra-en, cha là người Ai-cập, đến giữa con cái Ít-ra-en, và ngay giữa trại, con của người đàn bà Ít-ra-en đó xô xát với một người đàn ông Ít-ra-en.11 Con của người đàn bà Ít-ra-en đó nói phạm đến thánh danh và buông lời nguyền rủa. Người ta đem nó đến cho ông Mô-sê. Mẹ nó tên là Sơ-lô-mít, con ông Đíp-ri, thuộc chi tộc Đan.12 Người ta nhốt nó lại, để chờ quyết định theo lệnh ĐỨC CHÚA.

13 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê:

14 “Hãy đưa kẻ nói lời nguyền rủa ra ngoài trại. Tất cả những ai đã nghe, phải đặt tay lên đầu nó, và toàn thể cộng đồng phải ném đá nó.15 Rồi ngươi sẽ nói với con cái Ít-ra-en rằng: Bất cứ người nào nguyền rủa Thiên Chúa của nó, sẽ phải mang lấy tội mình.16 Ai nói phạm đến danh ĐỨC CHÚA, sẽ bị xử tử: toàn thể cộng đồng sẽ ném đá nó; dù là ngoại kiều hay người bản xứ, nếu nói phạm đến thánh danh, sẽ bị xử tử.

17 Nếu ai đánh chết bất cứ người nào, thì sẽ bị xử tử.18 Ai đánh chết một con vật, thì phải đền: vật sống đền vật sống.

19 Nếu ai làm cho người đồng bào phải mang tật, thì phải xử với nó như nó đã xử với người ta:20 chỗ gãy đền chỗ gãy, mắt đền mắt, răng đền răng; nó đã làm cho người khác mang tật thế nào, thì người ta cũng sẽ làm cho nó như vậy.21 Ai đánh chết một con vật, thì phải đền; ai đánh chết người, sẽ bị xử tử.22 Các ngươi chỉ được có một pháp luật, cho ngoại kiều cũng như cho người bản xứ, vì Ta là ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của các ngươi.”

23 Ông Mô-sê nói thế với con cái Ít-ra-en. Họ liền đưa kẻ nói lời nguyền rủa ra ngoài trại và ném đá nó. Con cái Ít-ra-en làm như ĐỨC CHÚA đã truyền cho ông Mô-sê.

Các năm thánh

  1. 1 Trên núi Xi-nai, ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê rằng:
    2 “Hãy nói với con cái Ít-ra-en và bảo chúng: Khi các ngươi vào đất Ta sắp ban cho các ngươi, đất phải nghỉ một sa-bát kính ĐỨC CHÚA.3 Trong sáu năm, (các) ngươi sẽ gieo vãi trong cánh đồng của (các) ngươi, trong sáu năm, (các) ngươi sẽ tỉa vườn nho của (các) ngươi, và (các) ngươi sẽ thu hoa lợi.4 Nhưng năm thứ bảy sẽ là một sa-bát, một thời kỳ đất nghỉ, một sa-bát kính ĐỨC CHÚA: (các) ngươi không được gieo vãi trong cánh đồng của (các) ngươi, không được tỉa vườn nho của các ngươi;5 (các) ngươi không được gặt lúa tự nhiên mọc sau mùa gặt, không được hái những chùm nho từ vườn nho không cắt tỉa của (các) ngươi: đó sẽ là một năm đất nghỉ.6 Sản phẩm tự nhiên của đất trong năm sa-bát sẽ nuôi các ngươi, tôi tớ nam nữ của (các) ngươi, người làm thuê của (các) ngươi, khách trọ nhà (các) ngươi; tóm lại các người trú ngụ nơi (các) ngươi.7 Còn gia súc và dã thú ở trong đất (các) ngươi, thì tất cả hoa lợi của đất sẽ là lương thực cho chúng.
  2. Năm toàn xá
    8 (Các) ngươi phải tính bảy tuần năm, nghĩa là bảy lần bảy năm; thời gian của bảy tuần năm đó là bốn mươi chín năm.9 Tháng thứ bảy, ngày mồng mười trong tháng, (các) ngươi sẽ thổi tù và giữa tiếng reo hò; vào ngày Xá tội, (các) ngươi sẽ thổi tù và trong toàn xứ các ngươi.10 Các ngươi sẽ công bố năm thứ năm mươi là năm thánh và sẽ tuyên cáo trong xứ lệnh ân xá cho mọi người sống tại đó. Đối với (các) ngươi, đó là thời kỳ toàn xá: mỗi người trong các ngươi sẽ trở về phần sở hữu của mình, mỗi người sẽ trở về dòng họ của mình.11 Đối với các ngươi, năm thứ năm mươi sẽ là thời kỳ toàn xá: các ngươi không được gieo, không được gặt lúa tự nhiên mọc, không được hái trong vườn nho không cắt tỉa.12 Vì đó là thời kỳ toàn xá, một năm thánh đối với các ngươi, các ngươi sẽ ăn hoa lợi của đồng ruộng.13 Năm toàn xá đó, mỗi người trong các ngươi sẽ trở về phần sở hữu của mình.14 Nếu các ngươi bán cái gì cho người đồng bào hoặc mua cái gì từ tay người đồng bào, thì đừng ai làm thiệt hại người anh em mình.15 Ngươi sẽ mua của người đồng bào theo số năm sau năm toàn xá, và nó sẽ bán cho ngươi theo số năm thu hoạch.16 Còn nhiều năm thì ngươi mua giá cao, còn ít năm thì ngươi mua giá thấp, vì nó bán cho ngươi một số năm thu hoạch.17 Không ai trong các ngươi được làm thiệt hại người đồng bào, nhưng (các) ngươi phải kính sợ Thiên Chúa của (các) ngươi, vì Ta là ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của (các) ngươi.

Thiên Chúa bảo đảm về năm sa-bát

18 Các ngươi phải đem ra thực hành các quy tắc của Ta, phải giữ và đem ra thực hành các quyết định của Ta, và các ngươi sẽ được sống yên hàn trên đất ấy.19 Đất sẽ sinh hoa trái, các ngươi sẽ được ăn no nê và được sống yên hàn tại đó.

20 Có lẽ các ngươi sẽ nói: “Năm thứ bảy chúng tôi sẽ ăn gì, nếu chúng tôi không gieo vãi và không thu hoa lợi? “21 Ta sẽ truyền cho phúc lành của Ta đến với các ngươi vào năm thứ sáu, và phúc lành sẽ sinh hoa lợi đủ cho ba năm.22 Năm thứ tám, các ngươi sẽ gieo vãi, nhưng sẽ lấy hoa lợi cũ mà ăn; đến năm thứ chín, đến khi gặt hoa lợi năm ấy, các ngươi sẽ ăn hoa lợi cũ.

Chuộc đất, chuộc nhà

23 Đất thì không được bán đứt, vì đất là của Ta, còn các ngươi chỉ là ngoại kiều, là khách trọ nhà Ta.24 Trong toàn xứ sẽ thuộc quyền sở hữu của các ngươi, các ngươi phải cho người ta quyền chuộc lại đất.25 Nếu người anh em của (các) ngươi lâm cảnh túng thiếu và phải bán một phần sở hữu của nó, thì người có quyền chuộc, tức là người bà con gần nhất, sẽ đến chuộc lại cái mà người anh em nó đã bán.26 Nếu ai không có bà con có quyền chuộc, nhưng lại có phương tiện và kiếm được tiền chuộc,27 thì nó sẽ tính những năm từ khi bán, còn trội bao nhiêu, nó sẽ trả cho người mua, và sẽ trở về phần sở hữu của mình.28 Nhưng nếu nó không kiếm được phương tiện để trả tiền lại cho người kia, thì của nó bán sẽ ở lại trong tay người mua cho đến năm toàn xá; đến thời kỳ toàn xá, của bán sẽ ra khỏi tay người mua, và người bán sẽ trở về phần sở hữu của mình.

29 Nếu người nào bán nhà ở, trong một thành có tường luỹ, thì quyền chuộc sẽ kéo dài đến hết năm bán; quyền chuộc nhà sẽ kéo dài một năm.30 Nếu trong vòng một năm trọn mà nhà không được chuộc, thì nhà ở trong thành có tường luỹ sẽ thuộc hẳn về người mua và con cháu nó; vào năm toàn xá, nhà sẽ không ra khỏi tay nó.31 Nhà cửa trong các làng không có tường luỹ chung quanh, thì được kể như đồng ruộng; người ta có quyền chuộc những nhà ấy, và năm toàn xá những nhà ấy sẽ ra khỏi tay người mua.

32 Còn các thành của các thầy Lê-vi, nhà cửa trong các thành thuộc quyền sở hữu của chúng, thì các thầy Lê-vi mãi mãi có quyền chuộc.33 Dù một thầy Lê-vi đã mua, thì nhà đã bán -trong một thành là sở hữu của nó- sẽ ra khỏi tay người mua vào thời kỳ toàn xá, vì nhà cửa trong các thành của các thầy Lê-vi là sở hữu của chúng giữa con cái Ít-ra-en.34 Còn đồng cỏ chung quanh các thành của chúng thì không được bán, vì đó là phần sở hữu vĩnh viễn của chúng.

Chuộc người

35 Nếu người anh em của (các) ngươi lâm cảnh túng thiếu, và không trả nợ được (các) ngươi, thì (các) ngươi phải nâng đỡ nó, dù nó là ngoại kiều hay khách trọ, để nó có thể sống bên (các) ngươi.36 Với nó, (các) ngươi không được lấy lãi ăn lời, nhưng (các) ngươi phải kính sợ Thiên Chúa, và người anh em của (các) ngươi sẽ có thể sống bên (các) ngươi.37 (Các) ngươi không được cho nó vay bạc của (các) ngươi để lấy lãi và vay lương thực của (các) ngươi để ăn lời.38 Ta là ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của các ngươi, Đấng đã đưa các ngươi ra khỏi đất Ai-cập, để ban cho các ngươi đất Ca-na-an và để làm Thiên chúa của các ngươi.

39 Nếu người anh em của (các) ngươi lâm cảnh túng thiếu bên cạnh (các) ngươi và phải bán mình cho (các) ngươi, thì (các) ngươi không được bắt nó làm công việc của người nô lệ;40 nó sẽ ở với (các) ngươi như một người làm thuê, một khách trọ, và sẽ phục vụ trong nhà (các) ngươi cho đến năm toàn xá;41 khi đó, nó cùng với con cái nó sẽ ra khỏi nhà (các) ngươi, sẽ trở về thị tộc mình, sẽ trở về phần sở hữu của cha ông nó.42 Quả thế, chúng là tôi tớ của Ta, mà Ta đã đưa ra khỏi đất Ai-cập, không được bán chúng như bán nô lệ.43 (Các) ngươi không được thống trị chúng cách hà khắc, nhưng hãy kính sợ Thiên Chúa của (các) ngươi.

44 Tôi tớ nam nữ mà (các) ngươi sẽ có, phải là những người thuộc các dân tộc chung quanh các ngươi; các ngươi sẽ mua tôi tớ nam nữ từ các dân tộc ấy.45 Các ngươi cũng có thể mua trong số con cái các khách trọ, trú ngụ giữa các ngươi, trong các gia đình của chúng đang ở giữa các ngươi, những kẻ chúng đã sinh ra trên đất các ngươi: chúng sẽ là sở hữu của các ngươi.46 Các ngươi sẽ để chúng lại làm gia nghiệp cho con cái các ngươi mai sau; để con cái các ngươi giữ làm sở hữu. Các ngươi có thể bắt chúng làm nô lệ mãi mãi, nhưng anh em các ngươi là con cái Ít-ra-en, thì không ai trong các ngươi được thống trị cách hà khắc.

47 Nếu một ngoại kiều hay khách trọ giữa (các) ngươi có phương tiện, và nếu người anh em của (các) ngươi lâm cảnh túng thiếu bên cạnh nó và phải bán mình cho ngoại kiều đó hoặc cho khách trọ giữa (các) ngươi, hoặc cho con cháu một gia đình ngoại kiều,48 thì sau khi bán mình, người anh em ấy vẫn có quyền chuộc: một người trong các anh em nó có thể chuộc nó;49 chú bác nó hay con của chú bác nó, hay một người bà con ruột thịt trong gia tộc nó có thể chuộc nó; hoặc nếu có phương tiện thì có thể tự chuộc mình.50 Với người đã mua nó, nó sẽ tính thời gian từ năm nó bán mình cho đến năm toàn xá, và giá tiền bán nó cứ tuỳ số năm mà tính, theo lương công nhật của người làm thuê.51 Nếu còn nhiều năm, thì nó cứ tuỳ theo số năm ấy mà khấu trừ vào tiền bán nó, để trả tiền chuộc mình.52 Nếu còn lại ít năm trước năm toàn xá, thì nó sẽ tính theo số năm ấy mà trả tiền chuộc.53 Nó sẽ ở với người kia như một người làm thuê từ năm nọ sang năm kia, nhưng người kia không được thống trị nó cách hà khắc.

54 Nếu nó không được chuộc bằng những cách trên, thì nó sẽ được ra đi, nó cùng với các con nó, vào năm toàn xá.55 Thật vậy, con cái Ít-ra-en làm tôi tớ cho Ta, chúng là tôi tớ của Ta, những kẻ Ta đã đưa ra khỏi đất Ai-cập. Ta là ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của các ngươi.

Tóm kết

  1. 1 Các người không được làm ra các tà thần mà thờ, không được dựng tượng và trụ đá để mà thờ, không được đặt trong đất các ngươi hình tượng bằng đá để sụp lạy chúng, vì Ta là ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của các ngươi.2 Các ngươi phải giữ ngày sa-bát của Ta và kính sợ thánh điện của Ta. Ta là ĐỨC CHÚA.

Các lời chúc phúc (Đnl 7: 12-24; 28: 1-14)

3 Nếu các ngươi theo các quy tắc của Ta, nếu các ngươi giữ các mệnh lệnh của Ta và đem ra thực hành,4 thì Ta sẽ ban mưa cho các ngươi đúng mùa, đất sẽ sinh hoa màu, cây cối ngoài đồng sẽ ra trái;5 các ngươi sẽ được gặt lúa cho đến thời hái nho, và sẽ được hái nho cho đến thời gieo giống; các ngươi sẽ được ăn bánh của mình no nê và sẽ được sống yên hàn trên đất các ngươi.

6 Ta sẽ thiết lập hoà bình trong đất các ngươi, và các ngươi sẽ ngủ nghỉ mà không ai quấy phá, Ta sẽ khiến thú dữ biến khỏi đất các ngươi, và gươm sẽ không đi qua đất các ngươi.7 Các ngươi sẽ đuổi kẻ thù của các ngươi, và chúng sẽ bị gươm đâm ngã gục trước mặt các ngươi.8 Năm người trong các ngươi sẽ đuổi được một trăm, một trăm người trong các ngươi sẽ đuổi được mười ngàn, và kẻ thù của các ngươi sẽ bị gươm đâm ngã gục trước mặt các ngươi.

9 Ta sẽ hướng về các ngươi, sẽ cho các ngươi sinh sôi nảy nở thật nhiều và sẽ giữ vững giao ước của Ta với các ngươi.

10 Các ngươi sẽ ăn lúa cũ, lúa mùa trước, và sẽ đổ lúa cũ ra lấy chỗ cho lúa mới.

11 Ta sẽ đặt Nhà Tạm của ta giữa các ngươi, và sẽ không chán ghét các ngươi.12 Ta sẽ đi đi lại lại giữa các ngươi; Ta sẽ là Thiên Chúa của các ngươi, còn các ngươi sẽ là dân của Ta.13 Ta là ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của các ngươi, Đấng đã đưa các ngươi ra khỏi đất Ai-cập, để các ngươi không còn làm nô lệ cho chúng nữa; Ta đã bẻ gông bẻ ách cho các ngươi và đã cho các ngươi tiến bước hiên ngang.

Các lời nguyền rủa (Đnl 28: 15 -68)

14 Nhưng nếu các ngươi không nghe Ta và không đem tất cả các mệnh lệnh đó ra thực hành,15 nếu các ngươi gạt bỏ các quy tắc của Ta và chán ghét các quyết định của Ta, mà không đem ra thực hành các mệnh lệnh của Ta, lại huỷ bỏ giao ước của Ta,16 thì Ta cũng vậy, Ta sẽ làm cho các ngươi như thế này:

17 Ta sẽ quay mặt lại phạt các ngươi và các ngươi sẽ bị quân thù đánh bại; các kẻ ghét các ngươi sẽ thống trị các ngươi, và các ngươi sẽ chạy trốn dù không có người đuổi theo.

18 Dù vậy, nếu các ngươi vẫn không chịu nghe Ta, thì Ta sẽ còn sửa phạt các ngươi gấp bảy lần vì tội lỗi của các ngươi.19 Ta sẽ bẻ gãy sự kiêu hùng của các ngươi, Ta sẽ làm cho trời các ngươi ra như sắt, đất các ngươi ra như đồng;20 các ngươi sẽ tiêu hao sức lực uổng công, đất các ngươi sẽ không còn sinh hoa màu, cây cối của đất sẽ không còn ra trái.

21 Nếu các ngươi chống Ta và không muốn nghe Ta, thì Ta sẽ còn đánh phạt các ngươi gấp bảy lần tội lỗi các ngươi.22 Ta sẽ sai dã thú đến giữa các ngươi, chúng sẽ cướp con cái các ngươi, tiêu diệt gia súc các ngươi và giảm dân số các ngươi đến nỗi đường sá của các ngươi thành hoang vắng.

23 Dù vậy, nếu các ngươi vẫn không chịu để Ta sửa dạy, mà cứ chống Ta,24 thì Ta cũng vậy, Ta sẽ chống các ngươi và Ta cũng sẽ đánh phạt các ngươi gấp bảy lần vì tội lỗi các ngươi.25 Ta sẽ giáng xuống các ngươi lưỡi gươm báo oán để rửa hận cho giao ước. Các ngươi sẽ rút cả vào trong các thành của các ngươi, nhưng Ta sẽ gửi ôn dịch đến giữa các ngươi, và các ngươi sẽ bị trao vào tay kẻ thù.26 Khi Ta làm cạn nguồn lương thực nuôi các ngươi, thì mười người đàn bà sẽ nướng bánh của các ngươi trong một lò duy nhất và sẽ chia bánh cho các ngươi theo định lượng; các ngươi sẽ ăn mà chẳng được no.

27 Dù vậy, nếu các ngươi vẫn không chịu nghe Ta mà cứ chống Ta,28 thì Ta sẽ nổi cơn lôi đình chống các ngươi và Ta cũng sẽ sửa phạt các ngươi gấp bảy lần vì tội lỗi các ngươi.29 Các ngươi sẽ ăn thịt con trai, ăn thịt con gái các ngươi.30 Ta sẽ tiêu huỷ những nơi cao của các ngươi, sẽ chặt những hương án của các ngươi, sẽ chất thây các ngươi trên thây những ngẫu tượng của các ngươi, và Ta sẽ chán ghét các ngươi.31 Ta sẽ làm cho thành thị của các ngươi nên chốn tan hoang, sẽ tàn phá những thánh điện của các ngươi; các ngươi có dâng hương thơm làm vui lòng Ta, Ta cũng không ngửi.32 Chính Ta sẽ tàn phá đất của các ngươi, và kẻ thù của các ngươi đến ở đó sẽ phải sửng sốt trước cảnh tượng ấy.33 Còn các ngươi, Ta sẽ phân tán giữa các dân tộc, Ta sẽ tuốt gươm đuổi theo các ngươi; đất các ngươi sẽ bị tàn phá và thành thị của các ngươi sẽ nên chốn tan hoang.34 Bấy giờ đất sẽ được hưởng bù những năm sa-bát của nó, suốt thời gian nó bị tàn phá và các ngươi phải ở trong đất của kẻ thù; bấy giờ đất sẽ nghỉ và sẽ được hưởng bù những năm sa-bát của nó.35 Suốt thời gian nó bị tàn phá, nó sẽ nghỉ bù những năm sa-bát của các ngươi mà nó đã không được nghỉ, khi các ngươi sống ở đó.36 Những kẻ còn lại trong số các ngươi, Ta sẽ làm cho chúng nản lòng trong đất của kẻ thù chúng. Tiếng một chiếc lá bay sẽ đuổi theo chúng; chúng sẽ chạy trốn như chạy trốn lưỡi gươm, và sẽ ngã gục dù không có người đuổi theo.37 Chúng sẽ vấp vào nhau, người nọ vào người kia, như trước lưỡi gươm, dù không có người đuổi theo. Các ngươi sẽ không đứng vững trước mặt quân thù;38 các ngươi sẽ bị diệt vong giữa các dân tộc, và đất của kẻ thù các ngươi sẽ nuốt các ngươi.39 Những kẻ còn lại trong số các ngươi sẽ chết dần chết mòn vì lỗi lầm của chúng, trong đất của kẻ thù chúng; chúng sẽ chết dần chết mòn vì lỗi lầm của cha ông chúng, cộng với lỗi lầm của chúng.

40 Chúng sẽ xưng thú lỗi lầm của chúng và lỗi lầm của cha ông chúng: chúng đã phạm tội bất trung đối với Ta, lại còn chống Ta,41 khiến Ta cũng chống chúng và đưa chúng đến đất của kẻ thù chúng. Bấy giờ tâm hồn không cắt bì của chúng sẽ tự hạ, và bấy giờ chúng sẽ chịu phạt vì lỗi lầm của chúng.42 Ta sẽ nhớ lại giao ước của Ta với Gia-cóp, Ta cũng sẽ nhớ lại giao ước của Ta với I-xa-ác và giao ước của Ta với Áp-ra-ham; Ta sẽ nhớ lại đất ấy.

43 Đất sẽ bị chúng bỏ rơi và sẽ được hưởng bù những năm sa-bát của nó, khi đất bị tàn phá không có chúng ở nữa, khi chúng chịu phạt vì lỗi lầm của chúng, bởi lẽ chúng đã gạt bỏ các quyết định của Ta và chán ghét các quy tắc của Ta.

44 Nhưng cả khi ấy nữa, khi chúng ở trong đất của kẻ thù chúng, Ta cũng sẽ không gạt bỏ chúng và không chán ghét chúng, đến nỗi tận diệt chúng và huỷ bỏ giao ước của Ta với chúng, vì Ta là ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của chúng.45 Vì chúng, Ta sẽ nhớ lại giao ước với tiền nhân chúng, những kẻ Ta đã đưa ra khỏi đất Ai-cập, trước mắt các dân tộc, để Ta là Thiên Chúa của chúng. Ta là ĐỨC CHÚA.”

46 Đó là các thánh chỉ, quyết định và luật lệ ĐỨC CHÚA đã dùng ông Mô-sê mà lập ra giữa Người với con cái Ít-ra-en tại núi Xi-nai.

PHỤ LỤC

  1. 1 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê rằng:
    2 “Hãy nói với con cái Ít-ra-en và bảo chúng: Nếu ai muốn giữ trọn lời khấn hứa dâng một người cho ĐỨC CHÚA, thì phải định giá như sau:3 Nếu là phái nam từ hai mươi đến sáu mươi tuổi, thì phải định giá là mười lăm lượng bạc, tính theo đơn vị đo lường của thánh điện;4 nếu là phái nữ, thì phải định giá là chín lượng;5 từ năm đến hai mươi tuổi, thì phải định giá nam là sáu lượng, nữ là ba lượng;6 từ một tháng đến năm tuổi, thì phải định giá nam là mười lăm chỉ bạc, nữ là chín chỉ bạc;7 từ sáu mươi tuổi trở lên, thì phải định giá nam là bốn mươi lăm chỉ bạc, nữ là ba lượng.8 Nếu ai túng thiếu, không trả nổi giá đó, thì phải đặt nó trước mặt tư tế để tư tế định giá; tư tế sẽ dựa vào khả năng của người khấn hứa mà định giá.
  2. Loài vật
    9 Nếu là một con vật thuộc loại có thể dâng làm lễ tiến lên ĐỨC CHÚA, thì bất cứ con nào người ta hiến cho ĐỨC CHÚA đều là của thánh.10 Không được đổi, không được thay thế con tốt bằng con xấu, hay con xấu bằng con tốt. Nếu cứ thay thế một con vật này bằng một con khác, thì cả con vật này lẫn con vật thay thế đều là của thánh.11 Nếu là một con vật ô uế, thuộc loại không được dâng làm lễ tiến lên ĐỨC CHÚA, thì phải đặt con vật trước mặt tư tế;12 tư tế sẽ định giá nó là tốt hay xấu, và tư tế định giá thế nào thì cứ như vậy.13 Nếu muốn chuộc lại, thì phải trả thêm một phần năm giá đã định.
  3. Nhà cửa
    14 Khi một người thánh hiến nhà mình làm của thánh dâng ĐỨC CHÚA, thì tư tế sẽ định giá nhà ấy là tốt hay xấu; tư tế định giá thế nào thì cứ y như vậy.15 Nếu người đã thánh hiến nhà muốn chuộc lại, thì sẽ phải trả thêm một phần năm giá đã định và nhà ấy sẽ là của nó.
  4. Đồng ruộng
    16 Nếu một người thánh hiến cho ĐỨC CHÚA một cánh đồng là sở hữu của mình, thì phải dựa vào số lượng lúa giống mà định giá: hai mươi thùng giống lúa mạch là mười lăm lượng bạc.17 Nếu nó thánh hiến cánh đồng ngay từ năm toàn xá, thì cứ theo như giá đã định.18 Nếu nó thánh hiến cánh đồng sau năm toàn xá, thì tư tế sẽ tính giá tuỳ theo số năm còn lại cho đến năm toàn xá, và có giảm bớt giá đã định.19 Nếu người đã thánh hiến cánh đồng muốn chuộc lại, thì sẽ phải trả thêm vào đó một phần năm giá đã định, và cánh đồng sẽ thuộc về nó.20 Nếu nó không chuộc lại cánh đồng nhưng bán cho người khác, thì cánh đồng không chuộc lại được nữa,21 và khi cánh đồng ra khỏi tay người mua, vào thời kỳ toàn xá, thì cánh đồng sẽ là của thánh dâng ĐỨC CHÚA, như một cánh đồng được biệt hiến; cánh đồng sẽ thuộc quyền sở hữu của tư tế.22 Nếu nó thánh hiến cho ĐỨC CHÚA một cánh đồng nó đã mua, chứ không phải cánh đồng thuộc quyền sở hữu của nó,23 thì tư tế sẽ tính số tiền phải trả cho đến năm toàn xá, và ngay hôm đó người kia phải nộp theo giá đã định; đó là của thánh dâng ĐỨC CHÚA.24 Đến năm toàn xá, cánh đồng sẽ lại về tay người bán, là người có quyền sở hữu đất.25 Mỗi khi định giá thì phải theo đơn vị đo lường của thánh điện: một se-ken ăn hai mươi ghê-ra.

Quy định đặc biệt về việc chuộc lại những của thánh hiến

26 Con đầu lòng trong đàn gia súc, không ai được thánh hiến: vì là con đầu lòng, nó đã thuộc về ĐỨC CHÚA; dù là bò hay chiên dê, nó thuộc về ĐỨC CHÚA.27 Nhưng nếu là loài vật ô uế, thì có thể chuộc theo giá đã định, cộng thêm một phần năm; nếu nó không được chuộc, thì sẽ được bán theo giá đã định.

  1. Của biệt hiến28 Tuy nhiên, trong những cái thuộc về một người -như người, gia súc hay cánh đồng là sở hữu của nó- bất cứ cái gì nó đã biệt hiến dâng ĐỨC CHÚA làm của biệt hiến, thì không được bán, cũng không được chuộc. Mọi của biệt hiến là của rất thánh, nó thuộc về ĐỨC CHÚA.29 Của biệt hiến mà là một người biệt hiến, thì không thể được chuộc: nó phải bị xử tử.
  2. Thuế thập phân30 Mọi thuế thập phân đánh vào đất, trích từ sản phẩm của đất và từ hoa trái của cây cối, đều thuộc về ĐỨC CHÚA: đó là của thánh dâng ĐỨC CHÚA.31 Nếu người nào muốn chuộc một phần thuế thập phân, thì phải trả thêm một phần năm.32 Mọi thuế thập phân đánh vào bò và chiên dê, tức là một phần mười của mọi vật đi qua dưới cây gậy người chăn, đều là của rất thánh dâng ĐỨC CHÚA.33 Không được tìm xem con nào tốt hay xấu và không được thay thế; nếu cứ thay thế, thì con vật ấy và con vật thay thế sẽ là của rất thánh, không thể được chuộc lại.”34 Đó là những mệnh lệnh ĐỨC CHÚA đã truyền cho ông Mô-sê nói lại cho con cái Ít-ra-en, trên núi Xi-nai.

SÁCH XUẤT HÀNH

I. CÔNG CUỘC GIẢI THOÁT KHỎI AI-CẬP

1. DÂN ÍT-RA-EN BÊN AI-CẬP

Cảnh sống thịnh vượng của người Híp-ri ở Ai-cập

1.     1 Sau đây là tên những con cái Ít-ra-en đã đến Ai-cập với ông Gia-cóp, mỗi người đem theo gia đình mình:2 Rưu-vên, Si-mê-ôn, Lê-vi và Giu-đa,3 Ít-xa-kha, Dơ-vu-lun và Ben-gia-min,4 Đan và Náp-ta-li, Gát và A-se.5 Dòng giống ông Gia-cóp tính tất cả là bảy mươi người; ông Giu-se thì đang ở bên Ai-cập.6 Rồi ông Giu-se qua đời, cũng như anh em ông và tất cả thế hệ đó.7 Con cái Ít-ra-en sinh sôi nảy nở, nên đông đúc và ngày càng hùng mạnh: họ lan tràn khắp xứ.

Dân Híp-ri bị áp bức

8 Thời ấy có một vua mới lên trị vì nước Ai-cập, vua này không biết ông Giu-se.9 Vua nói với dân mình: “Này đám dân con cái Ít-ra-en đông đúc và hùng mạnh hơn chúng ta.10 Chúng ta hãy dùng những biện pháp khôn ngoan đối với dân đó, đừng để chúng nên đông đúc, kẻo khi có chiến tranh, chúng hùa với địch mà đánh lại chúng ta, rồi ra khỏi xứ.”11 Người ta bèn đặt lên đầu lên cổ họ những viên đốc công, để hành hạ họ bằng những việc khổ sai; họ phải xây cho Pha-ra-ô các thành làm kho lương thực là Pi-thôm và Ram-xết.12 Nhưng chúng càng hành hạ họ, thì họ càng nên đông đúc và lan tràn, khiến chúng đâm ra sợ con cái Ít-ra-en.13 Người Ai-cập cưỡng bách con cái Ít-ra-en lao động cực nhọc.14 Chúng làm cho đời sống họ ra cay đắng vì phải lao động cực nhọc: phải trộn hồ làm gạch, phải làm đủ thứ công việc đồng áng; tóm lại, tất cả những việc lao động cực nhọc, chúng đều cưỡng bách họ làm.

15 Vua Ai-cập nói với những bà đỡ đi giúp sản phụ Híp-ri, một bà tên là Síp-ra, một bà tên là Pu-a:16 “Khi đỡ cho sản phụ Híp-ri, các người hãy xem đứa trẻ là trai hay gái. Nếu là trai thì giết đi, nếu là gái thì để cho sống.”17 Nhưng các bà đỡ có lòng kính sợ Thiên Chúa, nên không làm như vua Ai-cập đã truyền, và cứ để cho con trai sống.18 Vua Ai-cập bèn gọi các bà đỡ đến và hỏi: “Tại sao các ngươi làm thế và cứ để cho con trai sống? “19 Các bà đỡ thưa với Pha-ra-ô: “Đàn bà Híp-ri không như đàn bà Ai-cập, họ khoẻ lắm: bà đỡ chưa kịp đến thì họ đã sinh rồi.”20 Thiên Chúa ban ơn lành cho các bà đỡ; còn dân thì trở nên đông đúc và rất hùng mạnh.21 Vậy, vì các bà đỡ có lòng kính sợ Thiên Chúa, nên Người đã cho họ có con để nối dòng.

22 Pha-ra-ô ra lệnh cho toàn dân của mình: “Mọi con trai Híp-ri sinh ra, hãy ném xuống sông Nin; mọi con gái thì để cho sống.”

2. THỜI NIÊN THIẾU VÀ ƠN GỌI CỦA ÔNG MÔ-SÊ

Ông Mô-sê chào đời

2.     1 Có một người thuộc dòng họ Lê-vi đi lấy một người con gái cũng thuộc họ Lê-vi.2 Người đàn bà ấy thụ thai và sinh một con trai. Thấy đứa bé kháu khỉnh, nàng giấu nó ba tháng trời.3 Khi không thể giấu lâu hơn được nữa, nàng lấy một cái thúng cói, trét hắc ín và nhựa chai, bỏ đứa bé vào, rồi đặt thúng trong đám sậy ở bờ sông Nin.4 Chị đứa bé đứng đàng xa để xem cho biết cái gì sẽ xảy ra cho em nó.5 Có nàng công chúa của Pha-ra-ô xuống tắm dưới sông, trong khi các thị nữ đi đi lại lại trên bờ. Nàng thấy chiếc thúng ở giữa đám sậy, thì sai con hầu đi lấy.6 Mở thúng ra, nàng thấy đứa trẻ: thì ra là một bé trai đang khóc. Nàng động lòng thương nó và nói: “Thằng này là một trong những đứa trẻ Híp-ri.”7 Chị đứa bé thưa với công chúa của Pha-ra-ô: “Bà có muốn con đi gọi cho bà một vú nuôi người Híp-ri, để nuôi đứa bé cho bà không? “8 Công chúa của Pha-ra-ô trả lời: “Cứ đi đi! ” Người con gái liền đi gọi mẹ đứa bé.9 Công chúa của Pha-ra-ô bảo bà ấy: “Chị đem đứa bé này về nuôi cho tôi. Chính tôi sẽ trả công cho chị.” Người đàn bà mang ngay đứa bé về nuôi.10 Khi đứa bé lớn lên, bà đưa nó đến cho công chúa của Pha-ra-ô. Nàng coi nó như con và đặt tên là Mô-sê; nàng nói: “Đó là vì ta đã vớt nó lên khỏi nước.”

Ông Mô-sê trốn sang Ma-đi-an

11 Hồi đó, ông Mô-sê đã lớn, ông ra ngoài thăm anh em đồng bào và thấy những việc khổ sai họ phải làm. Ông thấy một người Ai-cập đang đánh một người Híp-ri, anh em đồng bào của ông.12 Nhìn trước nhìn sau không thấy có ai, ông liền giết người Ai-cập, rồi vùi dưới cát.13 Hôm sau, ông lại đi ra, gặp hai người Híp-ri đang xô xát nhau, ông nói với người có lỗi: “Tại sao anh lại đánh người đồng chủng? “14 Người đó trả lời: “Ai đã đặt ông lên làm người lãnh đạo và xét xử chúng tôi? Hay là ông tính giết tôi như đã giết tên Ai-cập? ” Ông Mô-sê phát sợ và tự bảo: “Vậy ra người ta đã biết chuyện rồi! “15 Nghe biết chuyện này, Pha-ra-ô tìm cách giết ông Mô-sê. Ông Mô-sê liền đi trốn Pha-ra-ô và ở lại miền Ma-đi-an. Ông ngồi bên bờ giếng.

16 Thầy tư tế Ma-đi-an có bảy người con gái. Các cô đến múc nước và đổ đầy máng cho chiên của cha mình uống.17 Bấy giờ, có những người chăn chiên đến và đuổi các cô đi. Ông Mô-sê liền đứng lên bênh vực các cô và cho chiên uống.18 Các cô về với cha là ông Rơ-u-ên. Ông hỏi: “Sao hôm nay các con về sớm thế? “19 Các cô thưa: “Có một người Ai-cập đã cứu chúng con khỏi tay bọn chăn chiên, lại còn múc nước giùm chúng con và cho chiên uống nữa.”20 Người cha hỏi các con: “Thế người đó đâu rồi? Sao lại bỏ người ta ở đấy? Mời người ta đến dùng bữa đi! “21 Ông Mô-sê bằng lòng ở lại với thầy tư tế, và ông này gả con gái là Xíp-pô-ra cho ông.22 Nàng sinh một con trai và ông đặt tên cho nó là Ghéc-sôm, vì ông nói: “Tôi là ngoại kiều nơi đất khách quê người.”

Thiên Chúa nhớ tới dân Ít-ra-en

23 Sau những năm dài ấy, vua Ai-cập qua đời. Con cái Ít-ra-en rên siết trong cảnh nô lệ. Họ ta thán, và tiếng họ kêu từ cảnh nô lệ đã thấu tới Thiên Chúa.24 Thiên Chúa đã nghe tiếng họ than van và Thiên Chúa nhớ lại giao ước của Người với các tổ phụ Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp.25 Thiên Chúa đã nhìn thấy con cái Ít-ra-en và Thiên Chúa đã biết. ..

Thiên Chúa gọi ông Mô-sê từ bụi cây bốc cháy

3.     1 Bấy giờ ông Mô-sê đang chăn chiên cho bố vợ là Gít-rô, tư tế Ma-đi-an. Ông dẫn đàn chiên qua bên kia sa mạc, đến núi của Thiên Chúa, là núi Khô-rếp.2 Thiên sứ của ĐỨC CHÚA hiện ra với ông trong đám lửa từ giữa bụi cây. Ông Mô-sê nhìn thì thấy bụi cây cháy bừng, nhưng bụi cây không bị thiêu rụi.3 Ông tự bảo: “Mình phải lại xem cảnh tượng kỳ lạ này mới được: vì sao bụi cây lại không cháy rụi? “4 ĐỨC CHÚA thấy ông lại xem, thì từ giữa bụi cây Thiên Chúa gọi ông: “Mô-sê! Mô-sê! ” Ông thưa: “Dạ, tôi đây! “5 Người phán: “Chớ lại gần! Cởi dép ở chân ra, vì nơi ngươi đang đứng là đất thánh.”6 Người lại phán: “Ta là Thiên Chúa của cha ngươi, Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-xa-ác, Thiên Chúa của Gia-cóp.” Ông Mô-sê che mặt đi, vì sợ nhìn phải Thiên Chúa.

Sứ mạng của ông Mô-sê

7 ĐỨC CHÚA phán: “Ta đã thấy rõ cảnh khổ cực của dân Ta bên Ai-cập, Ta đã nghe tiếng chúng kêu than vì bọn cai hành hạ. Phải, Ta biết các nỗi đau khổ của chúng.8 Ta xuống giải thoát chúng khỏi tay người Ai-cập, và đưa chúng từ đất ấy lên một miền đất tốt tươi, rộng lớn, miền đất tràn trề sữa và mật, xứ sở của người Ca-na-an, Khết, E-mô-ri, Pơ-rít-di, Khi-vi và Giơ-vút.9 Giờ đây, tiếng rên siết của con cái Ít-ra-en đã thấu tới Ta; Ta cũng đã thấy cảnh áp bức chúng phải chịu vì người Ai-cập.10 Bây giờ, ngươi hãy đi! Ta sai ngươi đến với Pha-ra-ô để đưa dân Ta là con cái Ít-ra-en ra khỏi Ai-cập.”

11 Ông Mô-sê thưa với Thiên Chúa: “Con là ai mà dám đến với Pha-ra-ô và đưa con cái Ít-ra-en ra khỏi Ai-cập? “12 Người phán: “Ta sẽ ở với ngươi. Và đây là dấu cho ngươi biết là Ta đã sai ngươi: khi ngươi đưa dân ra khỏi Ai-cập, các ngươi sẽ thờ phượng Thiên Chúa trên núi này.”

Mặc khải danh Thiên Chúa

13 Ông Mô-sê thưa với Thiên Chúa: “Bây giờ, con đến gặp con cái Ít-ra-en và nói với họ: Thiên Chúa của cha ông anh em sai tôi đến với anh em. Vậy nếu họ hỏi con: Tên Đấng ấy là gì? Thì con sẽ nói với họ làm sao? “14 Thiên Chúa phán với ông Mô-sê: “Ta là Đấng Hiện Hữu.” Người phán: “Ngươi nói với con cái Ít-ra-en thế này: “Đấng Hiện Hữu sai tôi đến với anh em.”15 Thiên Chúa lại phán với ông Mô-sê: “Ngươi sẽ nói với con cái Ít-ra-en thế này: ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của cha ông anh em, Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-xa-ác, Thiên Chúa của Gia-cóp, sai tôi đến với anh em. Đó là danh Ta cho đến muôn thuở, đó là danh hiệu các ngươi sẽ dùng mà kêu cầu Ta từ đời nọ đến đời kia.”

Chỉ thị về sứ mạng của ông Mô-sê

16 “Ngươi hãy đi triệu tập các kỳ mục Ít-ra-en và nói với họ: ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của cha ông anh em, Thiên Chúa của Áp-ra-ham, của I-xa-ác, của Gia-cóp, đã hiện ra với tôi và phán: Ta đã thật sự quan tâm đến các ngươi và cách người ta đối xử với các ngươi bên Ai-cập.17 Ta đã phán: Ta sẽ cho các ngươi thoát cảnh khổ cực bên Ai-cập mà lên miền đất người Ca-na-an, Khết, E-mô-ri, Pơ-rít-di, Khi-vi và Giơ-vút, lên miền đất tràn trề sữa và mật.18 Họ sẽ nghe tiếng ngươi, rồi ngươi sẽ đi với các kỳ mục Ít-ra-en đến cùng vua Ai-cập, các ngươi sẽ nói với vua ấy rằng: ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của người Híp-ri, đã cho chúng tôi được gặp Người. Giờ đây, xin cho chúng tôi đi ba ngày đường vào sa mạc để tế lễ ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa chúng tôi.19 Ta thừa biết rằng vua Ai-cập sẽ không cho các ngươi đi, trừ phi là có một bàn tay mạnh mẽ can thiệp.20 Ta sẽ ra tay, sẽ làm mọi thứ phép lạ giữa dân Ai-cập để đánh nó, và sau đó vua ấy sẽ cho các ngươi đi.

Tước đoạt của cải người Ai-cập

21 “Ta sẽ cho dân này được lòng người Ai-cập; nên khi ra đi, các ngươi sẽ chẳng ra đi tay không.22 Mỗi người đàn bà sẽ xin đàn bà láng giềng và người ở chung một nhà những đồ bạc, đồ vàng, và áo xống. Các ngươi sẽ cho con trai con gái các ngươi mang những thứ đó. Như vậy là các ngươi tước đoạt của cải người Ai-cập.”

Ông Mô-sê làm dấu lạ

4.     1 Ông Mô-sê đáp: “Họ sẽ không tin con đâu, họ sẽ không nghe lời con, vì họ sẽ nói: ĐỨC CHÚA chẳng có hiện ra với ông.”2 ĐỨC CHÚA phán với ông: “Tay ngươi cầm cái gì đó? ” Ông đáp: “Thưa một cây gậy.”3 Người phán: “Vất nó xuống đất đi! ” Ông Mô-sê vất nó xuống đất, và nó hoá ra con rắn. Ông Mô-sê liền chạy trốn.4 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê: “Hãy giơ tay nắm lấy đuôi nó! ” -Ông giơ tay bắt lấy nó và nó lại hoá thành cây gậy trong tay ông.-5 “Ấy là để họ tin rằng ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của cha ông họ, Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-xa-ác, Thiên Chúa của Gia-cóp, đã hiện ra với ngươi.”

6 ĐỨC CHÚA còn phán với ông: “Hãy luồn tay vào ngực ngươi! ” Ông luồn tay vào ngực, rồi rút tay ra. Và này tay ông bị phong cùi, trắng như tuyết.7 Người phán: “Hãy lại cho tay vào ngực ngươi! ” -Ông lại cho tay vào ngực, rồi rút ra khỏi ngực. Thì này tay ông trở lại như da thịt của ông.-8 “Như thế, nếu họ không tin ngươi và không hiểu ý nghĩa của dấu thứ nhất, thì họ sẽ tin dấu thứ hai.9 Mà nếu họ cũng không tin cả hai dấu ấy và không nghe tiếng ngươi, thì ngươi sẽ lấy nước sông Nin mà đổ trên đất khô. Nước ngươi đã lấy dưới sông Nin sẽ hoá thành máu trên đất khô.”

Ông A-ha-ron, phát ngôn viên của ông Mô-sê

10 Ông Mô-sê thưa với ĐỨC CHÚA: “Lạy Chúa, xin xá lỗi cho con, từ hồi nào đến giờ, ngay cả từ lúc Chúa ban lời cho tôi tớ Ngài, con không phải là kẻ có tài ăn nói, vì con cứng miệng cứng lưỡi.”11 ĐỨC CHÚA phán: “Ai cho con người có mồm có miệng? Ai làm cho nó phải câm phải điếc, cho mắt nó sáng hay phải mù loà? Há chẳng phải là Ta, ĐỨC CHÚA, đó sao?12 Vậy bây giờ ngươi hãy đi, chính Ta sẽ ngự nơi miệng ngươi, và Ta sẽ chỉ cho ngươi phải nói những gì.”

13 Ông thưa: “Lạy Chúa, xin xá lỗi cho con, xin Chúa sai ai làm môi giới thì sai.”14 ĐỨC CHÚA nổi giận với ông Mô-sê; Người phán: “Nào chẳng có A-ha-ron, anh ngươi, là người Lê-vi đó sao? Ta biết: nó ăn nói được lắm; hơn nữa, kìa nó ra đón ngươi, và khi thấy ngươi, lòng nó sẽ hoan hỷ.15 Ngươi sẽ nói với anh ngươi và đặt lời lẽ vào miệng nó. Chính Ta sẽ ngự nơi miệng ngươi và nơi miệng nó. Ta sẽ chỉ cho các ngươi những gì các ngươi phải làm.16 Chính anh ngươi sẽ thay ngươi mà nói với dân. Chính nó sẽ là miệng của ngươi; còn ngươi, ngươi sẽ là một vị thần đối với nó.17 Cây gậy này, ngươi hãy cầm lấy trong tay; ngươi sẽ dùng nó mà làm các dấu lạ.”

Ông Mô-sê rời Ma-đi-an trở về Ai-cập

18 Ông Mô-sê ra đi, trở về với bố vợ là ông Gít-rô và nói: “Xin để con đi về với anh em con bên Ai-cập xem họ còn sống hay không.” Ông Gít-rô trả lời ông Mô-sê: “Anh đi bình an! ”

19 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê ở Ma-đi-an: “Đi đi, hãy trở về Ai-cập, bởi vì mọi kẻ tìm cách làm hại mạng sống ngươi đã chết cả rồi.”20 Ông Mô-sê đem vợ và con cái đi theo, cho họ cỡi lừa và trở về đất Ai-cập. Ông Mô-sê cầm cây gậy của Thiên Chúa trong tay.21 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê: “Khi ngươi ra đi để trở về Ai-cập, ngươi hãy nhìn xem: mọi điều lạ lùng Ta đã ban cho ngươi có quyền làm, thì ngươi sẽ làm trước mặt Pha-ra-ô. Nhưng Ta, Ta sẽ làm cho nó cứng lòng và nó sẽ không thả cho dân đi! “22 Bấy giờ, ngươi sẽ nói với Pha-ra-ô: “ĐỨC CHÚA phán thế này: Con đầu lòng của Ta là Ít-ra-en.23 Ta đã phán với ngươi: Hãy thả con Ta ra để nó đi thờ phượng Ta. Nhưng ngươi đã từ chối không thả nó đi, thì này chính Ta sẽ giết chết con đầu lòng của ngươi.”

Con ông Mô-sê được cắt bì

24 Vậy dọc đường, tại nơi ông dừng lại nghỉ đêm, ĐỨC CHÚA bắt gặp ông và tìm cách giết ông.25 Bấy giờ, bà Xíp-pô-ra lấy mảnh đá sắc cắt bì cho con, đụng vào chân ông, rồi nói: “Nhờ máu, ông đã kết nghĩa vợ chồng với tôi.”26 Và ĐỨC CHÚA tha cho ông. Bà nói: “Nhờ máu, ông đã kết nghĩa vợ chồng với tôi” là vì phép cắt bì.

Ông Mô-sê gặp ông A-ha-ron

27 ĐỨC CHÚA phán với ông A-ha-ron: “Ngươi hãy đi vào sa mạc đón Mô-sê.” Ông đi và gặp ông Mô-sê trên núi của Thiên Chúa; ông đã ôm hôn ông Mô-sê.28 Ông Mô-sê cho ông A-ha-ron biết mọi lời ĐỨC CHÚA đã sai ông nói, và mọi dấu lạ Người đã truyền cho ông làm.29 Ông Mô-sê và ông A-ha-ron đi triệu tập mọi kỳ mục của con cái Ít-ra-en.30 Ông A-ha-ron nói tất cả những lời ĐỨC CHÚA đã ngỏ cùng ông Mô-sê và làm những dấu lạ trước mắt dân.31 Và dân đã tin. Họ đã hiểu là ĐỨC CHÚA đến viếng thăm con cái Ít-ra-en và nhìn thấy cảnh khổ cực của họ. Và họ đã phủ phục mà thờ lạy.

Cuộc hội kiến đầu tiên với Pha-ra-ô

5.     1 Sau đó, ông Mô-sê và ông A-ha-ron đến nói với Pha-ra-ô: “ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của Ít-ra-en, phán thế này: Hãy thả cho dân Ta đi, để chúng mở lễ kính Ta trong sa mạc.”2 Pha-ra-ô đáp: “ĐỨC CHÚA là ai, khiến ta phải nghe lời mà thả cho Ít-ra-en đi? Ta chẳng biết ĐỨC CHÚA, cũng sẽ không thả cho Ít-ra-en đi.”3 Hai ông nói: “Thiên Chúa của người Híp-ri đã hiện ra với chúng tôi. Xin cho chúng tôi đi ba ngày đường vào sa mạc để tế lễ ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa chúng tôi; nếu không, Người sẽ dùng dịch hạch hay gươm giáo mà giết chết chúng tôi.”4 Vua Ai-cập nói với các ông: “Mô-sê và A-ha-ron, sao các ngươi lại muốn xúi dân bỏ việc? Đi lao động đi! “5 Pha-ra-ô nói: “Bây giờ dân trong nước thì đông, mà các ngươi lại muốn cho chúng nghỉ lao động! ”

Chỉ thị cho các ông cai

6 Ngày hôm đó, Pha-ra-ô ra lệnh cho các ông cai và ký lục:7 “Đừng cung cấp rơm cho dân để làm gạch như trước nữa. Chúng phải tự mình đi lượm rơm mà làm.8 Cứ bắt chúng phải nộp đủ số gạch như chúng vẫn làm trước đây, đừng giảm bớt chi cả. Chúng là quân lười biếng, vì thế mà chúng hô lên: Nào chúng ta đi tế lễ Thiên Chúa chúng ta!9 Phải giao cho bọn người ấy những công việc thật nặng nhọc để chúng lo làm, mà khỏi chú ý vào những lời dối trá.”

10 Các ông cai và ký lục ra ngoài nói với dân: “Pha-ra-ô phán thế này: Ta không cung cấp rơm cho các ngươi nữa.11 Các ngươi thấy rơm ở đâu thì phải tự mình đi kiếm lấy. Nhưng công việc thì không được giảm bớt chút nào.”12 Dân liền đi tản mác khắp nước Ai-cập, để lượm rạ thay rơm.13 Các ông cai thúc họ: “Làm cho xong việc đi! Mỗi ngày phải đủ số, y như khi có rơm! “14 Người ta đánh đập và hạch sách các ký lục của con cái Ít-ra-en, mà các ông cai của Pha-ra-ô đã đặt lên trông coi dân: “Tại sao hôm qua và hôm nay, các anh đã không làm đủ số gạch ấn định như trước kia? ”

Các ký lục của người Ít-ra-en than phiền

15 Các ký lục của con cái Ít-ra-en đến kêu với Pha-ra-ô: “Tại sao bệ hạ lại xử với các bề tôi như thế?16 Rơm thì người ta không cung cấp cho bề tôi nữa, mà lại bảo: Sản xuất gạch đi! Bệ hạ coi: người ta đánh bề tôi, như thể dân của bệ hạ đây có lỗi.”17 Vua đáp: “Các ngươi là quân lười biếng, quân lười biếng! Vì thế, các ngươi mới nói: chúng ta hãy đi tế lễ ĐỨC CHÚA.18 Bây giờ đi làm việc đi! Sẽ không cung cấp rơm cho các ngươi nữa, nhưng gạch thì các ngươi vẫn phải nộp cho đủ số.”

Dân than trách. Ông Mô-sê kêu cầu.

19 Các ký lục của con cái Ít-ra-en thấy mình ở trong hoàn cảnh khó xử, khi người ta bảo họ: “Không được bớt số gạch phải làm. Ngày nào phải đủ số ngày đó! “20 Ra khỏi đền Pha-ra-ô, họ gặp ngay ông Mô-sê và ông A-ha-ron đang đứng chờ họ.21 Họ nói với hai ông: “Xin ĐỨC CHÚA chứng giám và xét xử cho: các ông đã làm cho chúng tôi trở nên đáng ghét trước mắt Pha-ra-ô và bề tôi của vua; thật các ông đã trao gươm vào tay họ để giết chúng tôi.”22 Ông Mô-sê hướng về ĐỨC CHÚA và thưa: “Lạy Chúa, tại sao Ngài đã làm khổ dân này? Tại sao Ngài đã sai con đi?23 Từ khi con đến với Pha-ra-ô để nhân danh Ngài mà nói, thì vua ấy làm khổ dân này, và Ngài chẳng giải thoát dân Ngài gì cả! ”

6.     1 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê: “Giờ đây ngươi sắp thấy điều Ta làm cho Pha-ra-ô: Bị áp lực của một bàn tay mạnh mẽ, vua ấy sẽ phải thả cho họ đi; bị áp lực của một bàn tay mạnh mẽ, vua ấy sẽ đuổi họ ra khỏi nước.”

Trình thuật khác về việc Thiên Chúa gọi ông Mô-sê

2 Thiên Chúa phán với ông Mô-sê: “Ta là ĐỨC CHÚA.3 Ta đã hiện ra với Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp với tư cách là Thiên Chúa Toàn Năng, nhưng Ta đã không cho họ biết danh của Ta là ĐỨC CHÚA.4 Ta lại còn lập giao ước của Ta với họ để ban cho họ đất Ca-na-an, là đất khách quê người, nơi họ sống như những khách lạ.5 Chính Ta đã nghe thấy tiếng rên siết của con cái Ít-ra-en đang bị người Ai-cập bắt làm nô lệ, và Ta đã nhớ lại giao ước của Ta.6 Vì vậy, ngươi hãy nói với con cái Ít-ra-en: Ta là ĐỨC CHÚA. Ta sẽ cứu các ngươi khỏi phải làm việc khổ sai cho người Ai-cập, sẽ giải thoát các ngươi khỏi làm nô lệ chúng. Ta sẽ giơ cánh tay, dùng uy quyền mà chuộc các ngươi lại.7 Ta sẽ nhận các ngươi làm dân riêng của Ta, và đối với các ngươi, Ta sẽ là Thiên Chúa. Các ngươi sẽ biết rằng Ta, ĐỨC CHÚA, là Thiên Chúa các ngươi, Đấng cứu các ngươi khỏi phải làm việc khổ sai cho người Ai-cập.8 Ta sẽ đưa các ngươi vào miền đất mà Ta đã giơ tay thề sẽ ban cho Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp. Ta sẽ ban đất ấy cho các ngươi làm sở hữu. Ta là ĐỨC CHÚA.”9 Ông Mô-sê nói thế với con cái Ít-ra-en, nhưng họ không nghe ông Mô-sê, vì ách nô lệ quá nặng nề làm cho họ kiệt sức.

10 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê:11 “Hãy đi nói với Pha-ra-ô, vua Ai-cập, để vua ấy thả con cái Ít-ra-en ra khỏi nước.”12 Nhưng ông Mô-sê thưa trước nhan ĐỨC CHÚA: “Chúa coi: con cái Ít-ra-en đã không nghe con; làm sao Pha-ra-ô lại nghe con, một người ăn nói không được dễ dàng? “13 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê và ông A-ha-ron, truyền cho hai ông đến gặp con cái Ít-ra-en và gặp Pha-ra-ô, vua Ai-cập, để đưa con cái Ít-ra-en ra khỏi nước Ai-cập.

Gia phả ông Mô-sê và ông A-ha-ron

14 Đây là những người làm đầu các gia tộc của họ: con cái ông Rưu-vên, trưởng nam của Ít-ra-en: Kha-nốc, Pa-lu, Khét-rôn, Các-mi. Đó là các thị tộc của ông Rưu-vên.

15 Con cái ông Si-mê-ôn: Giơ-mu-ên, Gia-min, Ô-hát, Gia-khin, Xô-kha, Sa-un, con của người đàn bà Ca-na-an. Đó là các thị tộc của ông Si-mê-ôn.

16 Đây là tên con cái ông Lê-vi, theo thứ tự trước sau: Ghéc-sôn, Cơ-hát, Mơ-ra-ri. Ông Lê-vi sống được một trăm ba mươi bảy tuổi.17 Con cái của Ghéc-sôn: Líp-ni và Sim-y, với các thị tộc của họ.

18 Con cái ông Cơ-hát: Am-ram, Gít-ha, Khép-rôn và Út-di-ên. Ông Cơ-hát sống được một trăm ba mươi ba tuổi.

19 Con cái ông Mơ-ra-ri: Mác-li và Mu-si. Đó là các thị tộc của ông Lê-vi theo thứ tự trước sau.

20 Ông Am-ram lấy cô mình là bà Giô-khe-vét làm vợ. Bà đã sinh được cho ông hai người con là ông A-ha-ron và ông Mô-sê. Ông Am-ram sống được một trăm ba mươi bảy tuổi.

21 Con cái ông Gít-ha: Cô-rắc, Ne-phéc và Dích-ri.

22 Con cái ông Út-di-ên: Mi-sa-ên, En-xa-phan và Xít-ri.

23 Ông A-ha-ron lấy bà Ê-li-se-va làm vợ. Bà là con gái ông Am-mi-na-đáp và là em gái của ông Nác-sôn. Bà đã sinh được cho ông mấy người con: Na-đáp, A-vi-hu, E-la-da và I-tha-ma.

24 Con cái ông Cô-rắc: Át-xia, En-ca-na, A-vi-a-xáp. Đó là các thị tộc của dòng họ Cô-rắc.

25 Ông E-la-da, con ông A-ha-ron, lấy một trong những người con gái của ông Pu-ti-ên làm vợ. Bà đã sinh được cho ông một người con là Pin-khát.  Đó là những người làm đầu các gia tộc Lê-vi, với các thị tộc của họ.

26 Chính các ông A-ha-ron và Mô-sê đã được nghe ĐỨC CHÚA phán bảo: “Hãy đem con cái Ít-ra-en ra khỏi đất Ai-cập theo binh ngũ của chúng.”27 Chính các ông Mô-sê và A-ha-ron đã nói với Pha-ra-ô, vua Ai-cập, để đem con cái Ít-ra-en ra khỏi Ai-cập.

Trình thuật tiếp về việc Thiên Chúa gọi ông Mô-sê

28 Vào ngày ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê ở đất Ai-cập,29 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê: “Ta là ĐỨC CHÚA. Ngươi hãy nói lại với Pha-ra-ô, vua Ai-cập, tất cả những gì Ta nói với ngươi.”30 Ông Mô-sê thưa trước nhan ĐỨC CHÚA: “Chúa coi: con là người ăn nói không được dễ dàng, làm sao vua Pha-ra-ô nghe con? ”

7.     1 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê: “Coi này, Ta làm cho ngươi nên một vị thần đối với Pha-ra-ô, còn A-ha-ron, anh ngươi, sẽ là ngôn sứ của ngươi.2 Chính ngươi sẽ nói tất cả những gì Ta truyền cho ngươi, và A-ha-ron, anh ngươi, sẽ nói lại với Pha-ra-ô để vua ấy thả con cái Ít-ra-en ra khỏi nước của vua.3 Nhưng Ta, Ta sẽ làm cho Pha-ra-ô ra cứng lòng. Ta sẽ tăng thêm nhiều dấu lạ điềm thiêng tại nước Ai-cập.4 Pha-ra-ô sẽ không nghe các ngươi đâu. Ta sẽ ra tay giáng phạt Ai-cập và sẽ dùng uy quyền mà đưa các binh ngũ của Ta, là dân Ta, con cái Ít-ra-en, ra khỏi nước Ai-cập.5 Bấy giờ người Ai-cập sẽ biết rằng Ta là ĐỨC CHÚA, khi Ta giương cánh tay chống lại người Ai-cập và đưa con cái Ít-ra-en ra khỏi nước chúng.”

6 Ông Mô-sê và ông A-ha-ron làm như ĐỨC CHÚA đã truyền cho các ông; các ông đã làm như vậy.7 Ông Mô-sê được tám mươi tuổi, còn ông A-ha-ron tám mươi ba, khi các ông đến nói với Pha-ra-ô.

3. CÁC TAI ƯƠNG Ở AI-CẬP. LỄ VƯỢT QUA.

Cây gậy biến thành con rắn

8 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê và ông A-ha-ron:9 “Nếu Pha-ra-ô bảo các ngươi: Hãy làm một phép lạ xem, thì ngươi hãy nói với A-ha-ron: Anh cầm cây gậy của anh, ném xuống trước mặt Pha-ra-ô, và gậy sẽ hoá thành một con rắn to.”10 Ông Mô-sê và ông A-ha-ron liền đến với Pha-ra-ô và làm như ĐỨC CHÚA đã truyền. Ông A-ha-ron ném cây gậy của mình xuống trước mặt Pha-ra-ô và bề tôi của vua: gậy hoá thành một con rắn to.11 Pha-ra-ô cũng triệu các hiền sĩ và pháp sư đến; và các phù thủy Ai-cập cũng dùng phù phép của mình mà làm như vậy:12 mỗi người ném cây gậy của mình và gậy hoá thành một con rắn to. Nhưng gậy của ông A-ha-ron nuốt gậy của họ.13 Dù vậy, Pha-ra-ô vẫn cứng lòng, không nghe ông Mô-sê và ông A-ha-ron, như ĐỨC CHÚA đã nói trước.

I. Nước biến thành máu

14 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê: “Lòng Pha-ra-ô nặng nề cứng cỏi, vua không chịu thả cho dân đi.15 Ngươi hãy đến nói với Pha-ra-ô lúc sáng sớm, khi nhà vua ra mé nước. Hãy đứng chờ để đón vua ở bên bờ sông Nin. Hãy cầm trong tay cây gậy đã biến thành rắn.16 Ngươi sẽ nói với vua ấy: ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của người Híp-ri, đã sai tôi nói với bệ hạ: Hãy thả dân Ta ra, để chúng đi thờ phượng Ta trong sa mạc. Nhưng cho đến bây giờ bệ hạ đã không nghe.17 ĐỨC CHÚA phán thế này: Cứ dấu này các ngươi sẽ biết Ta là ĐỨC CHÚA. Tôi sẽ dùng cây gậy đang cầm trong tay mà đập nước sông, và nước sẽ hoá thành máu.18 Cá dưới sông sẽ chết, sông sẽ ra hôi thối, và người Ai-cập sẽ không thể uống nước sông được nữa.”

19 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê: “Hãy nói với A-ha-ron: Anh cầm lấy gậy của anh và giơ tay trên mặt nước của Ai-cập, trên các sông ngòi, kinh rạch, hồ ao của nó, trên tất cả những chỗ có nước, và nước sẽ hoá thành máu; trong cả nước Ai-cập chỗ nào cũng có máu, trong thùng gỗ cũng như vại đá.”20 Ông Mô-sê và ông A-ha-ron làm như ĐỨC CHÚA đã truyền. Ông A-ha-ron giơ gậy lên và đập nước sông, trước mặt Pha-ra-ô và bề tôi của nhà vua. Tất cả nước sông liền biến thành máu.21 Cá dưới sông bị chết, sông ra hôi thối, và người Ai-cập không thể uống nước sông được nữa; trong cả nước Ai-cập, chỗ nào cũng có máu.

22 Nhưng các phù thủy Ai-cập cũng dùng phù phép của mình mà làm như vậy. Lòng Pha-ra-ô vẫn chai đá, vua không nghe hai ông, như ĐỨC CHÚA đã nói trước.23 Pha-ra-ô trở về cung điện và cả đến chuyện đó vua cũng không thèm bận tâm.24 Tất cả người Ai-cập đào đất ở gần sông để tìm nước uống, vì không thể uống nước sông.25 Bảy ngày đã trôi qua sau khi ĐỨC CHÚA giáng hoạ trên sông Nin.

II. Ếch nhái

26 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê: “Hãy đến gặp Pha-ra-ô và nói với vua ấy: ĐỨC CHÚA phán thế này: Hãy thả dân Ta ra, để họ đi thờ phượng Ta.27 Nếu ngươi không chịu thả cho họ đi, thì này Ta sẽ dùng nạn ếch nhái mà đánh phạt toàn thể lãnh thổ ngươi.28 Sông Nin sẽ nhung nhúc ếch nhái; chúng sẽ ngoi lên, nhảy vào cung điện ngươi, vào phòng ngủ của ngươi, nhảy lên giường ngươi, vào nhà bề tôi của ngươi và nhà dân ngươi, nhảy vào lò, vào cối nhồi bột của ngươi.29 Ếch nhái sẽ leo lên thân thể ngươi, thân thể dân ngươi và mọi bề tôi của ngươi.”

8.     1 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê: “Hãy nói với A-ha-ron: Anh hãy cầm gậy giơ tay trên sông ngòi và hồ ao, làm cho ếch nhái ngoi lên trên đất Ai-cập.”2 Ông A-ha-ron giơ tay trên mặt nước của Ai-cập và ếch nhái ngoi lên, lan tràn khắp đất Ai-cập.3 Các phù thủy dùng phù phép của mình cũng làm được như thế: họ làm cho ếch nhái ngoi lên trên đất Ai-cập.

4 Pha-ra-ô mới triệu ông Mô-sê và ông A-ha-ron đến và bảo: “Hãy cầu xin ĐỨC CHÚA đuổi ếch nhái đi xa ta và dân ta, rồi ta sẽ thả dân ra để chúng đi tế lễ ĐỨC CHÚA.”5 Ông Mô-sê thưa với Pha-ra-ô: “Xin cho tôi được hân hạnh biết khi nào tôi phải cầu xin cho bệ hạ, cho bề tôi và dân của bệ hạ, để ếch nhái rời khỏi bệ hạ và cung điện, mà chỉ còn ở lại trong sông Nin.”6 Vua trả lời: “Ngày mai.” Ông Mô-sê nói: “Sẽ xảy ra như lời bệ hạ xin, để bệ hạ biết là chẳng có ai bằng ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của chúng tôi.7 Ếch nhái sẽ đi xa bệ hạ và cung điện, xa bề tôi và dân của bệ hạ, và sẽ chỉ còn ở lại trong sông Nin.”8 Ông Mô-sê và ông A-ha-ron ra khỏi cung điện vua Pha-ra-ô. Ông Mô-sê kêu lên ĐỨC CHÚA về nạn ếch nhái Người đã gây ra để hại Pha-ra-ô.9 ĐỨC CHÚA đã làm như lời ông Mô-sê xin, và ếch nhái chết trong nhà, ngoài sân và ngoài đồng.10 Người ta thu lại từng đống và cả xứ nặc mùi hôi thối.11 Thấy tạm yên, lòng Pha-ra-ô lại ra nặng nề cứng cỏi, vua không nghe lời các ông, như ĐỨC CHÚA đã nói trước.

III. Muỗi

12 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê: “Hãy nói với A-ha-ron: Anh hãy giơ gậy lên, rồi đập xuống bụi dưới đất cho nó biến thành muỗi trong khắp đất Ai-cập.”13 Hai ông đã làm như thế: ông A-ha-ron giơ tay cầm gậy lên, rồi đập xuống bụi dưới đất; liền có muỗi trên thân thể người ta và thú vật; tất cả bụi dưới đất biến thành muỗi trong khắp đất Ai-cập.14 Các phù thủy dùng phù phép của mình cũng làm như thế để bắt muỗi phải ra khỏi đất Ai-cập, nhưng không được. Muỗi cứ ở lại trên thân thể người ta và thú vật.15 Các phù thủy thưa với Pha-ra-ô: “Đó là ngón tay của Thiên Chúa! ” Nhưng lòng Pha-ra-ô vẫn chai đá và vua không nghe hai ông, như ĐỨC CHÚA đã nói trước.

IV. Ruồi nhặng

16 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê: “Sáng mai, hãy dậy sớm và đến đứng trước mặt Pha-ra-ô; này vua ấy sẽ ra mé nước. Ngươi sẽ nói với vua: ĐỨC CHÚA phán thế này: Hãy thả dân Ta ra, để chúng đi thờ phượng Ta.17 Nếu ngươi không thả cho dân Ta đi, thì này Ta sẽ thả ruồi nhặng xuống trên ngươi và bề tôi ngươi, trên dân và cung điện của ngươi. Nhà cửa Ai-cập sẽ đầy ruồi nhặng, ngay cả đất đai nơi chúng ở cũng thế.18 Nhưng trong ngày ấy, Ta sẽ chừa ra đất Gô-sen là nơi dân Ta đang ở, để nơi đó không có ruồi nhặng, và để ngươi biết rằng Ta là ĐỨC CHÚA, Ta ngự giữa đất này.19 Ta sẽ phân biệt dân của Ta với dân của ngươi, nội ngày mai sẽ có dấu lạ đó.”20 Và ĐỨC CHÚA đã làm như thế: một đám ruồi nhặng đen nghịt kéo vào cung điện Pha-ra-ô, vào nhà cửa bề tôi của vua và toàn cõi đất Ai-cập; cả đất ấy bị ruồi nhặng tàn phá.

21 Pha-ra-ô liền triệu ông Mô-sê và ông A-ha-ron đến và bảo: “Các ngươi cứ việc đi tế lễ Thiên Chúa của các ngươi ngay trong đất này! “22 Ông Mô-sê trả lời: “Không nên làm như thế: những gì chúng tôi tế dâng ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa chúng tôi, đều ghê tởm đối với người Ai-cập. Vậy nếu chúng tôi tế dâng trước mắt người Ai-cập những gì là ghê tởm trước mắt họ, thì làm sao họ lại không ném đá chúng tôi được?23 Chúng tôi sẽ đi ba ngày đường để vào sa mạc tế lễ ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa của chúng tôi, như Người phán với chúng tôi.”24 Pha-ra-ô nói: “Ta, ta sẽ thả các ngươi ra, để các ngươi đi tế lễ ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa của các ngươi, trong sa mạc; chỉ có điều là không được đi xa quá. Các ngươi hãy cầu cho ta.”25 Ông Mô-sê thưa: “Khi ra khỏi nơi đây, tôi sẽ cầu ĐỨC CHÚA. Ngày mai, ruồi nhặng sẽ rời khỏi bệ hạ, khỏi bề tôi và dân của bệ hạ. Có điều là xin bệ hạ đừng phỉnh gạt hoài, không chịu thả dân ra để họ đi tế lễ ĐỨC CHÚA.”26 Ông Mô-sê ra khỏi cung điện Pha-ra-ô và khẩn cầu ĐỨC CHÚA.27 ĐỨC CHÚA đã làm theo lời ông Mô-sê xin: Người khiến ruồi nhặng rời khỏi Pha-ra-ô, khỏi bề tôi và dân của vua, không sót lại con nào.28 Nhưng cả lần này nữa, lòng Pha-ra-ô vẫn nặng nề cứng cỏi; vua không thả cho dân đi.

V. Ôn dịch

9.     1 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê: “Hãy đến với Pha-ra-ô và nói với vua: ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của người Híp-ri, phán thế này: Hãy thả dân Ta ra, để chúng đi thờ phượng Ta.2 Nếu ngươi không chịu thả cho chúng đi, mà cứ cầm giữ lại,3 thì này tay của ĐỨC CHÚA sẽ giáng ôn dịch rất nặng xuống trên súc vật của ngươi ở ngoài đồng, trên ngựa, lừa, lạc đà, bò bê và chiên cừu.4 ĐỨC CHÚA sẽ đối xử với súc vật của Ít-ra-en khác súc vật của Ai-cập, và không có gì thuộc về con cái Ít-ra-en sẽ phải chết.”5 Và ĐỨC CHÚA ấn định thời gian, Người phán: “Ngày mai, ĐỨC CHÚA sẽ làm điều ấy trong xứ.”6 Ngay hôm sau, ĐỨC CHÚA làm điều ấy: tất cả súc vật của người Ai-cập đều chết, còn trong đàn súc vật của con cái Ít-ra-en, thì không con nào chết cả.7 Pha-ra-ô sai người đi xem, thì này trong đàn súc vật của Ít-ra-en, không con nào chết cả. Nhưng lòng Pha-ra-ô đã ra nặng nề cứng cỏi; vua không thả cho dân đi.

VI. Ung nhọt

8 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê và ông A-ha-ron: “Hãy bốc hai nắm mồ hóng trong lò, rồi Mô-sê hãy tung lên trời trước mắt Pha-ra-ô.9 Mồ hóng đó sẽ biến thành bụi trên khắp đất Ai-cập; trên khắp đất Ai-cập, nơi thân thể người ta và thú vật, sẽ có ung nhọt mọc lên và mưng mủ.”10 Các ông lấy mồ hóng trong lò, rồi đến đứng trước mặt Pha-ra-ô. Ông Mô-sê tung lên trời và mồ hóng biến thành ung nhọt rồi mưng mủ nơi thân thể người ta và thú vật.11 Các phù thủy không đứng nổi trước mặt ông Mô-sê được, vì ung nhọt mọc đầy mình các phù thủy cũng như mọi người Ai-cập.12 Nhưng ĐỨC CHÚA làm cho lòng Pha-ra-ô ra chai đá, nên vua ấy không nghe lời các ông như ĐỨC CHÚA đã nói trước với ông Mô-sê.

VII. Mưa đá

13 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê: “Sáng mai, ngươi hãy dậy sớm, và đến đứng trước mặt Pha-ra-ô. Ngươi sẽ nói với vua ấy: ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của người Híp-ri, phán thế này: Hãy thả dân Ta ra để chúng đi thờ phượng Ta.14 Vì lần này chính Ta sẽ giáng mọi tai ương xuống trên ngươi, trên bề tôi và dân ngươi, để ngươi biết rằng trên khắp mặt đất không có ai bằng Ta.15 Nếu bây giờ Ta ra tay, dùng dịch hạch mà đánh phạt ngươi và dân ngươi, thì dân ngươi sẽ biến khỏi mặt đất.16 Nhưng sở dĩ Ta còn cho ngươi sống, là để ngươi nhìn thấy sức mạnh của Ta, và để thiên hạ loan truyền danh Ta trên khắp mặt đất.17 Nếu ngươi cứ chống lại dân Ta, không thả cho chúng đi,18 thì đây, ngày mai, vào giờ này, Ta sẽ cho mưa đá rất nặng, như chưa từng có ở Ai-cập từ ngày dựng nước cho đến bây giờ.19 Vậy ngay bây giờ, ngươi hãy sai người dẫn vào nơi trú ẩn: súc vật của ngươi và tất cả những gì thuộc về ngươi đang ở ngoài đồng. Bất cứ người hay thú vật nào ở ngoài đồng mà không đem vào nhà, thì mưa đá rơi xuống, người ấy, vật ấy sẽ chết.”20 Trong số các bề tôi của Pha-ra-ô, ai kính sợ lời ĐỨC CHÚA thì đưa tôi tớ và súc vật vào nhà để trú ẩn;21 còn kẻ không quan tâm đến lời ĐỨC CHÚA, thì để tôi tớ và súc vật ở lại ngoài đồng.

22 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê: “Hãy giơ tay lên trời và làm cho mưa đá rơi xuống trên khắp đất Ai-cập, trên người ta, trên thú vật và mọi cỏ cây ngoài đồng tại đất Ai-cập.”23 Ông Mô-sê giơ gậy lên trời, và ĐỨC CHÚA làm cho sấm vang lên và mưa đá rơi xuống; sét đánh xuống mặt đất, và ĐỨC CHÚA làm cho mưa đá rơi xuống trên đất Ai-cập.24 Đã có mưa đá và lửa loé ra giữa mưa đá; mưa đá rất nặng, như chưa từng có trên khắp đất Ai-cập, kể từ khi chúng thành một dân.25 Trên khắp đất Ai-cập, mưa đá đã tàn phá tất cả những gì đang ở ngoài đồng, từ người cho đến thú vật; mưa đá cũng tàn phá mọi cỏ cây ngoài đồng và bẻ gãy mọi cây cối ngoài đồng.26 Chỉ có đất Gô-sen, nơi con cái Ít-ra-en ở, là không có mưa đá.

27 Pha-ra-ô sai người triệu ông Mô-sê và ông A-ha-ron đến và nói với các ông: “Lần này, chính ta có tội. ĐỨC CHÚA là Đấng công chính, còn ta và dân ta đều lầm lỗi.28 Hãy khẩn cầu ĐỨC CHÚA đi! Sấm sét và mưa đá như thế đủ rồi! Ta sẽ thả các ngươi ra và các ngươi sẽ không còn phải ở lại lâu hơn nữa.”29 Ông Mô-sê nói với vua: “Khi ra khỏi thành, tôi sẽ giơ tay lên khẩn cầu ĐỨC CHÚA. Sấm sẽ ngưng và mưa đá sẽ tạnh, để bệ hạ biết là cõi đất thuộc về ĐỨC CHÚA.30 Nhưng tôi biết rằng cả bệ hạ lẫn bề tôi của bệ hạ vẫn chưa kính sợ ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa.”31 Cây gai, lúa mạch bị tàn phá, vì lúa mạch đã lên gié, cây gai đã trổ bông.32 Còn lúa mì, lúa miến không bị tàn phá vì mọc muộn hơn.

33 Ông Mô-sê ra khỏi cung điện Pha-ra-ô và rời bỏ thành. Ông giơ tay lên khẩn cầu ĐỨC CHÚA; sấm và mưa đá ngưng, còn mưa cũng đã tạnh trên mặt đất.34 Pha-ra-ô thấy mưa đã tạnh và mưa đá cũng như sấm đã ngưng, thì lại phạm tội: lòng vua và lòng bề tôi của vua lại ra nặng nề cứng cỏi.35 Lòng Pha-ra-ô vẫn chai đá và vua không thả cho con cái Ít-ra-en đi, như ĐỨC CHÚA đã dùng ông Mô-sê mà nói trước.

VIII. Châu chấu

10.     1 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê: “Hãy đến với Pha-ra-ô, vì chính Ta đã làm cho lòng vua ấy và lòng bề tôi của vua ấy ra nặng nề cứng cỏi, để Ta thực hiện các dấu lạ này giữa dân,2 và để ngươi thuật lại cho con cháu ngươi nghe Ta đã giáng hoạ xuống Ai-cập làm sao, và Ta đã thực hiện những dấu lạ nào giữa họ, khiến các ngươi biết Ta đây là ĐỨC CHÚA.”3 Ông Mô-sê và ông A-ha-ron đến với Pha-ra-ô và nói với vua: “ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của người Híp-ri, phán thế này: cho đến bao giờ ngươi vẫn không chịu hạ mình xuống trước nhan Ta? Hãy thả dân Ta ra, để chúng đi thờ phượng Ta.4 Nếu ngươi không chịu thả cho dân Ta đi, thì đây ngày mai Ta sẽ cho châu chấu vào lãnh thổ ngươi.5 Chúng sẽ che kín cả mặt đất, khiến người ta không thể thấy mặt đất nữa. Chúng sẽ ăn sạch những gì còn lại sau khi thoát tai ương, những gì trận mưa đá còn để sót lại cho các ngươi: chúng sẽ ăn sạch mọi cây cối của các ngươi mọc ngoài đồng.6 Cung điện của ngươi, nhà của mọi bề tôi ngươi, nhà của mọi người Ai-cập sẽ tràn ngập châu chấu; đó là điều mà cha ông ngươi, cũng như cha ông của cha ông ngươi chưa từng thấy từ ngày có họ trên mặt đất cho đến ngày hôm nay.” Rồi ông Mô-sê quay gót, ra khỏi cung điện Pha-ra-ô.7 Bề tôi Pha-ra-ô thưa với vua: “Tên ấy còn gieo hoạ cho chúng ta đến bao giờ nữa đây? Xin bệ hạ thả bọn người ấy ra, để họ đi thờ phượng ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của họ. Bệ hạ chưa biết Ai-cập đang đi tới chỗ diệt vong hay sao? ”

8 Người ta bảo ông Mô-sê và ông A-ha-ron trở lại với Pha-ra-ô, và vua nói với các ông: “Các ngươi hãy đi thờ phượng ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của các ngươi. Nhưng ai sẽ đi? “9 Ông Mô-sê trả lời: “Chúng tôi sẽ cùng đi với người trẻ, người già, chúng tôi sẽ cùng đi với con trai, con gái chúng tôi, với chiên cừu, bò bê của chúng tôi, bởi vì đối với chúng tôi, đây là một lễ kính ĐỨC CHÚA.”10 Vua nói với các ông: “Thì ĐỨC CHÚA cứ việc ở với các ngươi, xem ta có thả các ngươi và con cái các ngươi đi không! Các ngươi coi: các ngươi có những ý định xấu xa!11 Không như thế được đâu! Bọn đàn ông các ngươi hãy đi mà thờ phượng ĐỨC CHÚA, vì đó chính là điều các ngươi yêu cầu.” Rồi người ta đuổi các ông đi cho khuất mắt Pha-ra-ô.

12 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê: “Hãy giơ tay lên trên đất Ai-cập cho châu chấu kéo đến: chúng sẽ bay lên trên đất Ai-cập mà ăn sạch cỏ cây trong xứ, tất cả những gì trận mưa đá còn để sót lại.”13 Ông Mô-sê giơ gậy lên trên đất Ai-cập, và ĐỨC CHÚA cho một luồng gió đông thổi vào đất này suốt ngày hôm đó và suốt đêm; đến sáng, thì gió đông đã đưa châu chấu vào rồi.

14 Châu chấu bay lên trên khắp đất Ai-cập; chúng đậu trên khắp cả lãnh thổ Ai-cập, đông vô kể. Trước kia chưa bao giờ có nhiều châu chấu như thế, và sau này cũng chẳng có như vậy.15 Chúng che kín cả mặt đất, làm đen nghịt cả mặt đất. Châu chấu ăn sạch cỏ cây trong xứ và mọi trái cây mà mưa đá còn để sót lại; không còn một chút xanh tươi nào trên cây, trên cỏ ngoài đồng, trong khắp đất Ai-cập.

16 Pha-ra-ô vội triệu ông Mô-sê và ông A-ha-ron đến và nói: “Ta đắc tội với ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của các ngươi, và với các ngươi.17 Vậy giờ đây, xin xá tội cho ta lần này nữa thôi, và hãy khẩn nài ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của các ngươi, ít ra là đẩy xa ta cái tai hoạ chết người này.”18 Ông Mô-sê ra khỏi cung điện Pha-ra-ô và khẩn nài ĐỨC CHÚA.19 ĐỨC CHÚA cho gió biển nổi lên rất mạnh, cuốn châu chấu đi và đẩy xuống Biển Sậy; không còn sót một con châu chấu nào trên toàn lãnh thổ Ai-cập nữa.20 Nhưng ĐỨC CHÚA làm cho lòng Pha-ra-ô ra chai đá, và vua không thả cho con cái Ít-ra-en đi.

IX. Cảnh tối tăm

21 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê: “Hãy giơ tay lên trời, cho bóng tối bao trùm đất Ai-cập, bóng tối như sờ thấy được.”22 Ông Mô-sê giơ tay lên trời, và bóng tối dày đặc bao trùm cả đất Ai-cập trong ba ngày.23 Trong ba ngày, người ta không nhìn thấy nhau và không ai rời chỗ mình được. Nhưng tất cả con cái Ít-ra-en đều có ánh sáng tại nơi họ ở.

24 Pha-ra-ô triệu ông Mô-sê đến và bảo: “Các ngươi hãy đi thờ phượng ĐỨC CHÚA; chỉ có chiên cừu, bò dê của các ngươi phải ở lại, còn trẻ con có thể cùng đi với các ngươi.”25 Ông Mô-sê nói: “Vậy xin bệ hạ cấp cho chúng tôi những tế phẩm và của lễ toàn thiêu để chúng tôi dâng lên ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa chúng tôi.26 Cả những đàn súc vật của chúng tôi cũng sẽ đi với chúng tôi, không để sót lại một móng chân nào, vì chúng tôi phải lấy một số trong những con vật đó mà dùng vào việc thờ phượng ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa chúng tôi. Chính chúng tôi cũng không biết phải dâng gì cho ĐỨC CHÚA, bao lâu chưa đến đó.”

27 Nhưng ĐỨC CHÚA làm cho lòng Pha-ra-ô ra chai đá và vua không chịu thả cho họ đi.28 Pha-ra-ô nói với ông Mô-sê: “Ra khỏi đây! Liệu hồn, đừng có đến trước mặt ta nữa, vì ngày nào ngươi đến trước mặt ta thì ngươi sẽ phải chết! “29 Ông Mô-sê đáp: “Đúng như bệ hạ nói! Tôi sẽ không bao giờ đến trước mặt bệ hạ nữa!”

Báo tin các con đầu lòng sẽ phải chết

11.     1 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê: “Ta sẽ giáng một tai ương nữa xuống Pha-ra-ô và Ai-cập. Sau đó, vua ấy sẽ thả các ngươi ra khỏi đây. Hơn nữa, thay vì thả các ngươi, vua ấy lại còn đuổi hẳn các ngươi đi là đàng khác.2 Vậy ngươi hãy nói cho dân nghe: Đàn ông thì hỏi anh hàng xóm, đàn bà thì hỏi chị láng giềng, lấy những đồ bạc và đồ vàng.”3 ĐỨC CHÚA cho dân được cảm tình của người Ai-cập. Hơn nữa, trong đất Ai-cập, chính ông Mô-sê là một nhân vật rất quan trọng đối với các bề tôi của Pha-ra-ô và đối với dân.4 Ông Mô-sê nói: “ĐỨC CHÚA phán thế này: vào quãng nửa đêm, Ta sẽ rảo khắp Ai-cập.5 Mọi con đầu lòng trong đất Ai-cập sẽ phải chết, từ con đầu lòng của vị Pha-ra-ô đang ngồi trên ngai báu, đến con đầu lòng của đứa đầy tớ gái ngồi sau cối xay, đến mọi con đầu lòng của loài vật.6 Trong khắp đất Ai-cập, sẽ vang lên tiếng kêu la như chưa từng có và không bao giờ có nữa.7 Còn nơi mọi con cái Ít-ra-en, sẽ không có một con chó nào sủa, dù sủa người hay sủa thú vật; như thế, các ngươi sẽ biết rằng ĐỨC CHÚA phân biệt Ít-ra-en với Ai-cập.8 Bấy giờ tất cả các bề tôi của bệ hạ sẽ xuống tìm tôi, phục xuống lạy tôi và thưa: xin ông và toàn dân theo ông ra khỏi nước cho. Sau đó tôi sẽ đi ra.” Ông Mô-sê nổi giận bừng bừng, ra khỏi cung điện Pha-ra-ô.9 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê: “Pha-ra-ô sẽ không nghe các ngươi, là để Ta làm thêm nhiều phép lạ trong đất Ai-cập.”10 Ông Mô-sê và ông A-ha-ron làm mọi phép lạ đó trước mặt Pha-ra-ô; nhưng ĐỨC CHÚA làm cho lòng Pha-ra-ô ra chai đá, và vua không thả con cái Ít-ra-en ra khỏi đất ấy.

Lễ Vượt Qua

12.     1 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê và ông A-ha-ron trên đất Ai-cập:2 “Tháng này, các ngươi phải kể là tháng đứng đầu các tháng, tháng thứ nhất trong năm.3 Hãy nói với toàn thể cộng đồng Ít-ra-en: Mồng mười tháng này, ai nấy phải bắt một con chiên cho gia đình mình, mỗi nhà một con.4 Nếu nhà ít người, không ăn hết một con, thì chung với người hàng xóm gần nhà mình nhất, tuỳ theo số người. Các ngươi sẽ tuỳ theo sức mỗi người ăn được bao nhiêu mà chọn con chiên.5 Con chiên đó phải toàn vẹn, phải là con đực, không quá một tuổi. Các ngươi bắt chiên hay dê cũng được.6 Phải nhốt nó cho tới ngày mười bốn tháng này, rồi toàn thể đại hội cộng đồng Ít-ra-en đem sát tế vào lúc xế chiều,7 lấy máu bôi lên khung cửa những nhà có ăn thịt chiên.8 Còn thịt, sẽ ăn ngay đêm ấy, nướng lên, ăn với bánh không men và rau đắng.9 Các ngươi không được ăn sống hay luộc, nhưng chỉ được ăn nướng, với cả đầu, chân và lòng.10 Không được để lại gì đến sáng; cái gì còn lại đến sáng, phải đốt đi.11 Các ngươi phải ăn thế này: lưng thắt gọn, chân đi dép, tay cầm gậy. Các ngươi phải ăn vội vã: đó là lễ Vượt Qua mừng ĐỨC CHÚA.12 Đêm ấy Ta sẽ rảo khắp đất Ai-cập, sẽ sát hại các con đầu lòng trong đất Ai-cập, từ loài người cho đến loài thú vật, và sẽ trị tội chư thần Ai-cập: vì Ta là ĐỨC CHÚA.13 Còn vết máu trên nhà các ngươi sẽ là dấu hiệu cho biết có các ngươi ở đó. Thấy máu, Ta sẽ vượt qua, và các ngươi sẽ không bị tai ương tiêu diệt khi Ta giáng hoạ trên đất Ai-cập.14 Các ngươi phải lấy ngày đó làm ngày tưởng niệm, ngày đại lễ mừng ĐỨC CHÚA. Qua mọi thế hệ, các ngươi phải mừng ngày lễ này: đó là luật quy định cho đến muôn đời.

Lễ Bánh Không Men

15 “Trong bảy ngày, các ngươi phải ăn Bánh Không Men. Ngay từ ngày thứ nhất, các ngươi phải loại men ra khỏi nhà, vì phàm ai ăn bánh có men, từ ngày thứ nhất đến ngày thứ bảy, người đó sẽ bị khai trừ khỏi Ít-ra-en.16 Ngày thứ nhất, các ngươi phải họp nhau thờ phượng Ta, ngày thứ bảy cũng họp nhau thờ phượng Ta. Những ngày đó không được làm công việc nào cả, chỉ được dọn bữa cho ai nấy ăn mà thôi.17 Các ngươi sẽ giữ tục lệ mừng lễ Bánh Không Men, vì vào chính ngày đó, Ta đã đưa các đạo binh của các ngươi ra khỏi đất Ai-cập. Qua mọi thế hệ, các ngươi phải giữ tục lệ mừng ngày lễ ấy: đó là điều luật vĩnh viễn.18 Tháng Giêng, ngày mười bốn trong tháng, từ buổi chiều, các ngươi sẽ ăn bánh không men, cho đến buổi chiều ngày hai mươi mốt.19 Trong bảy ngày, không được giữ men trong nhà các ngươi, vì phàm ai ăn bánh có men, người đó sẽ bị khai trừ khỏi cộng đoàn Ít-ra-en, bất luận là ngoại kiều hay người bản xứ.20 Các ngươi không được ăn các thứ bánh có men; dù ở đâu, các ngươi cũng phải ăn bánh không men.”

Chỉ thị về lễ Vượt Qua

21 Ông Mô-sê triệu tập tất cả các kỳ mục Ít-ra-en và nói với họ: “Hãy đi bắt chiên cừu về cho gia đình anh em, và sát tế làm lễ Vượt Qua.22 Anh em sẽ lấy một bó hương thảo, nhúng vào máu trong chậu và lấy máu từ trong chậu bôi lên khung cửa; và không ai trong anh em sẽ ra khỏi cửa nhà mình cho đến sáng.23 ĐỨC CHÚA sẽ rảo khắp Ai-cập để đánh phạt, và khi thấy máu trên khung cửa, ĐỨC CHÚA sẽ vượt qua trước cửa và không để cho Thần Tru Diệt vào nhà anh em mà đánh phạt.24 Anh em phải giữ điều đó như điều luật vĩnh viễn cho mình và cho con cháu.25 Khi được vào đất mà ĐỨC CHÚA ban cho anh em như Người đã phán, anh em sẽ giữ nghi lễ đó.26 Khi con cháu anh em hỏi anh em: “Nghi lễ này có ý nghĩa gì đối với quý vị? ,27 anh em sẽ trả lời: Đó là lễ tế Vượt Qua mừng ĐỨC CHÚA, Đấng đã vượt qua các nhà của con cái Ít-ra-en tại Ai-cập, khi Người đánh phạt Ai-cập và cho các nhà chúng ta thoát nạn.” Dân quỳ xuống và phủ phục.28 Con cái Ít-ra-en ra đi và làm y như ĐỨC CHÚA đã truyền cho ông Mô-sê và ông A-ha-ron.

Tai ương thứ mười: các con đầu lòng bị giết

29 Vào nửa đêm, ĐỨC CHÚA sát hại mọi con đầu lòng trong đất Ai-cập, từ con đầu lòng của vị Pha-ra-ô đang ngồi trên ngai báu, đến con đầu lòng của người tù đang ở trong ngục và mọi con đầu lòng của loài vật.30 Đêm ấy, Pha-ra-ô thức dậy, cùng với tất cả bề tôi và mọi người Ai-cập, và tại Ai-cập vang lên tiếng kêu la, vì không có nhà nào mà không có người chết.31 Đang đêm nhà vua triệu ông Mô-sê và ông A-ha-ron đến và bảo: “Cả các ngươi lẫn con cái Ít-ra-en, đứng lên, đi ra, không được ở giữa dân ta nữa! Đi mà thờ phượng ĐỨC CHÚA như các ngươi đã nói!32 Cả chiên cừu, bò bê của các ngươi, cũng hãy đem đi như các ngươi đã nói. Đi đi và cầu phúc cho cả ta nữa.”33 Người Ai-cập hối thúc con cái Ít-ra-en và vội vàng thả cho họ ra khỏi nước, vì chúng nói: “Chúng ta chết cả lũ đến nơi rồi! “34 Dân phải mang theo bột đã nhào chưa kịp dậy men; họ cuộn bột đã nhào trong thùng vào áo choàng, rồi vác lên vai.

Tước đoạt của cải người Ai-cập

35 Con cái Ít-ra-en đã làm theo lời ông Mô-sê; họ đã xin người Ai-cập những đồ bạc, đồ vàng và áo xống.36 ĐỨC CHÚA cho dân được cảm tình của người Ai-cập, chúng làm như lời họ xin, và họ đã tước đoạt của cải người Ai-cập.

Dân Ít-ra-en ra đi

37 Con cái Ít-ra-en nhổ trại rời Ram-xết đi Xúc-cốt, có khoảng sáu trăm ngàn bộ hành, chỉ kể đàn ông không kể trẻ con.38 Cả một đám đông hỗn tạp cùng lên với họ, mang theo chiên cừu, bò dê, họp thành một đàn súc vật đông đảo.39 Họ lấy bột đã nhào đưa từ Ai-cập ra mà nướng thành bánh không men, vì bột chưa dậy men; họ bị trục xuất khỏi Ai-cập, không được chậm trễ, nên ngay cả lương thực cũng không kịp chuẩn bị.40 Thời gian con cái Ít-ra-en ở Ai-cập là bốn trăm ba mươi năm.41 Vào đúng ngày chấm dứt bốn trăm ba mươi năm đó, toàn thể các đạo binh của ĐỨC CHÚA đã ra khỏi đất Ai-cập.42 Đó là đêm ĐỨC CHÚA canh thức để đưa họ ra khỏi đất Ai-cập; đêm đó thuộc về ĐỨC CHÚA, đêm canh thức của toàn thể con cái Ít-ra-en, qua mọi thế hệ.

Chỉ thị về lễ Vượt Qua

43 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê và ông A-ha-ron: “Đây là quy định về chiên lễ Vượt Qua: không người dân ngoại nào được ăn.44 Mọi nô lệ mua bằng tiền đã được ngươi cắt bì, thì được ăn.45 Khách vãng lai và người làm thuê không được ăn.46 Chỉ được ăn chiên trong nhà mà thôi; không được mang thịt ra khỏi nhà. Các ngươi không được làm gãy một chiếc xương nào của nó.47 Toàn thể cộng đồng Ít-ra-en sẽ mừng lễ Vượt Qua.48 Nếu có ngoại kiều ở với ngươi mà muốn cử hành lễ Vượt Qua kính ĐỨC CHÚA, thì mọi đàn ông con trai nhà ấy phải chịu cắt bì. Bấy giờ nó mới được đến gần để mừng lễ, nó sẽ như người bản xứ; nhưng ai không cắt bì thì không được ăn.49 Luật đó là luật chung cho người bản xứ và ngoại kiều sống giữa ngươi.”50 Mọi con cái Ít-ra-en đã làm y như ĐỨC CHÚA đã truyền cho ông Mô-sê và ông A-ha-ron.51 Chính ngày ấy ĐỨC CHÚA đã đưa con cái Ít-ra-en ra khỏi Ai-cập, theo binh ngũ của chúng.

Các con đầu lòng

13.     1 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê:2 “Hãy thánh hiến cho Ta mọi con so, mọi con đầu lòng trong số con cái Ít-ra-en, dù là người hay là thú vật: nó thuộc về Ta.”

Bánh không men

3 Ông Mô-sê nói với dân: “Hãy ghi nhớ ngày hôm nay là ngày anh em ra khỏi Ai-cập, khỏi cảnh nô lệ, vì ĐỨC CHÚA đã dùng cánh tay mạnh mẽ của Người mà đưa anh em ra khỏi đó. Anh em không được ăn bánh có men.4 Ngày anh em ra đi là một ngày trong tháng A-víp.5 Khi nào ĐỨC CHÚA đưa ngươi vào đất của người Ca-na-an, Khết, E-mô-ri, Khi-vi và Giơ-vút, đất tràn trề sữa và mật, mà Người đã thề với cha ông ngươi là sẽ ban cho ngươi, ngươi sẽ cử hành nghi thức đó vào tháng này.6 Trong vòng bảy ngày, ngươi sẽ ăn bánh không men, và ngày thứ bảy là lễ kính ĐỨC CHÚA.7 Phải ăn bánh không men trong vòng bảy ngày; không được thấy bánh có men trong nhà ngươi và cũng không được thấy men trong nhà ngươi, trên toàn lãnh thổ ngươi.8 Trong ngày ấy, ngươi sẽ kể lại cho con của ngươi rằng: Sở dĩ như vậy là vì những gì ĐỨC CHÚA đã làm cho cha khi cha ra khỏi Ai-cập.9 Ngươi sẽ coi đó như là dấu ở tay ngươi, là kỷ vật đeo trên trán, để cho Luật của ĐỨC CHÚA ở trên môi miệng ngươi, bởi vì ĐỨC CHÚA đã dùng cánh tay mạnh mẽ mà đưa ngươi ra khỏi Ai-cập.10 Từ năm này qua năm khác, ngươi phải giữ thánh chỉ này vào đúng thời kỳ của nó.

Các con đầu lòng

11 “Vậy khi ĐỨC CHÚA đã đưa ngươi vào đất Ca-na-an như Người đã thề với ngươi và cha ông của ngươi, và khi Người đã ban đất ấy cho ngươi,12 thì ngươi phải nhượng lại cho ĐỨC CHÚA mọi con đầu lòng của loài người và mọi con đầu lòng của loài vật trong đàn vật của ngươi: các con đực thuộc về ĐỨC CHÚA.13 Mọi con đầu lòng của giống lừa, ngươi sẽ lấy một con chiên mà chuộc lại; nếu ngươi không chuộc lại, thì đánh gãy ót nó đi. Còn mọi con đầu lòng của loài người trong số con cái ngươi, thì ngươi sẽ chuộc lại.14 Vậy mai ngày con của ngươi có hỏi: “Điều đó nghĩa là gì? Thì ngươi sẽ nói với nó: “ĐỨC CHÚA đã dùng cánh tay mạnh mẽ của Người mà đưa chúng ta ra khỏi Ai-cập, khỏi cảnh nô lệ.15 Bởi vì Pha-ra-ô làm khó dễ khi phải thả chúng ta ra, nên ĐỨC CHÚA đã sát hại mọi con đầu lòng trong đất Ai-cập, từ con đầu lòng của loài người cho đến con đầu lòng của loài vật, vì thế mà cha tế dâng ĐỨC CHÚA mọi con so giống đực; còn con đầu lòng trong số con cái cha, thì cha chuộc lại.16 Đó sẽ là dấu ở tay ngươi, và là phù hiệu trên trán ngươi, vì ĐỨC CHÚA đã dùng cánh tay mạnh mẽ mà đưa chúng ta ra khỏi Ai-cập.”

4. RA KHỎI AI-CẬP

Dân Ít-ra-en ra đi

17 Khi Pha-ra-ô thả cho dân đi, Thiên Chúa không dẫn họ theo ngả đường xuyên qua xứ Phi-li-tinh, dù đường đó gần hơn, vì Thiên Chúa nói: “Khi thấy phải chiến đấu, dân có thể hối hận mà quay về Ai-cập.”18 Vậy Thiên Chúa đưa dân đi vòng, qua ngả đường sa mạc Biển Sậy. Con cái Ít-ra-en võ trang đầy đủ từ đất Ai-cập đi lên.19 Ông Mô-sê đem theo hài cốt ông Giu-se, vì ông Giu-se đã bắt con cái Ít-ra-en thề khi ông nói: “Thế nào Thiên Chúa cũng sẽ thăm viếng anh em; bấy giờ anh em sẽ đưa hài cốt tôi từ đây lên với anh em.”

20 Họ nhổ trại rời Xúc-cốt tới đóng trại ở Ê-tham, ven sa mạc.

21 ĐỨC CHÚA đi đằng trước họ: ban ngày thì ở trong cột mây để dẫn đường, ban đêm thì ở trong cột lửa để soi sáng, nên họ có thể đi cả ban ngày lẫn ban đêm.22 Ban ngày cột mây đi trước dân không rời, ban đêm cột lửa cũng vậy.

Từ Ê-tham đến Biển Đỏ

14.     1 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê:2 “Ngươi hãy bảo con cái Ít-ra-en quay lại đóng trại đối diện với Pi Ha-khi-rốt, giữa Mích-đôn và biển, đối diện với Ba-an Xơ-phôn; các ngươi sẽ đóng trại ngay đằng trước đó, bên bờ biển.3 Bấy giờ Pha-ra-ô sẽ nói về con cái Ít-ra-en: “Chúng đi luẩn quẩn trong vùng, sa mạc nhốt chúng lại rồi.4 Ta sẽ làm cho lòng Pha-ra-ô ra chai đá và vua ấy sẽ đuổi theo dân. Nhưng Ta sẽ được vẻ vang hiển hách vì đã đánh bại Pha-ra-ô cùng toàn thể quân lực của vua ấy, và người Ai-cập sẽ biết Ta là ĐỨC CHÚA.” Con cái Ít-ra-en đã làm như vậy.

Người Ai-cập đuổi theo dân Ít-ra-en

5 Có tin báo cho vua Ai-cập là dân đã chạy trốn rồi. Pha-ra-ô và bề tôi liền thay lòng đổi dạ với dân. Chúng nói: “Ta đã làm gì vậy? Ta đã thả cho Ít-ra-en đi, thành ra bọn chúng hết làm nô lệ cho ta! “6 Nhà vua cho thắng chiến xa và đem quân đi theo.7 Vua lấy sáu trăm chiến xa tốt nhất, và tất cả các chiến xa của Ai-cập, chiếc nào cũng có chiến binh.8 ĐỨC CHÚA làm cho lòng Pha-ra-ô vua Ai-cập ra chai đá, và vua ấy đuổi theo con cái Ít-ra-en, trong khi con cái Ít-ra-en đi ra, giơ tay đắc thắng.9 Quân Ai-cập, gồm toàn thể chiến mã, chiến xa của Pha-ra-ô, kỵ binh và quân lực của vua ấy, đuổi theo và bắt kịp họ, khi họ đóng trại bên bờ biển, gần Pi Ha-khi-rốt, đối diện với Ba-an Xơ-phôn.10 Khi Pha-ra-ô tới gần, con cái Ít-ra-en ngước mắt lên thì thấy người Ai-cập tiến đến sau lưng họ. Con cái Ít-ra-en kinh hãi, liền lớn tiếng kêu cầu ĐỨC CHÚA.11 Họ nói với ông Mô-sê: “Bên Ai-cập không có đủ mồ chôn hay sao, mà ông lại đưa chúng tôi vào chết trong sa mạc? Ông làm gì chúng tôi vậy, khi ông đưa chúng tôi ra khỏi Ai-cập?12 Đó chẳng phải là điều chúng tôi từng nói với ông bên Ai-cập sao? Chúng tôi đã bảo: Cứ để mặc chúng tôi làm nô lệ Ai-cập! Thà làm nô lệ Ai-cập còn hơn chết trong sa mạc! “13 Ông Mô-sê nói với dân: “Đừng sợ! Cứ đứng vững, rồi anh em sẽ thấy việc ĐỨC CHÚA làm hôm nay để cứu thoát anh em: những người Ai-cập anh em thấy hôm nay, không bao giờ anh em thấy lại nữa.14 ĐỨC CHÚA sẽ chiến đấu cho anh em. Anh em chỉ có việc ngồi yên.”

Phép lạ tại Biển Đỏ

15 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê: “Có gì mà phải kêu cứu Ta? Hãy bảo con cái Ít-ra-en cứ nhổ trại.16 Phần ngươi, cầm gậy lên, giơ tay trên mặt biển, rẽ nước ra cho có lối đi khô ráo ngay giữa lòng biển, để con cái Ít-ra-en đi vào.17 Còn Ta, Ta sẽ làm cho lòng người Ai-cập ra chai đá. Chúng sẽ tiến vào theo sau các ngươi. Bấy giờ Ta sẽ được vẻ vang hiển hách khi đánh bại Pha-ra-ô cùng toàn thể quân lực, chiến xa và kỵ binh của vua ấy.18 Người Ai-cập sẽ biết rằng chính Ta là ĐỨC CHÚA, khi Ta được vẻ vang hiển hách vì đã đánh bại Pha-ra-ô cùng chiến xa và kỵ binh của vua ấy.”

19 Thiên sứ của Thiên Chúa đang đi trước hàng ngũ Ít-ra-en, lại rời chỗ mà xuống đi đàng sau họ. Cột mây bỏ phía trước mà đứng về phía sau,20 chen vào giữa hàng ngũ Ai-cập và hàng ngũ Ít-ra-en. Bên kia, mây toả mịt mù, bên này, mây lại sáng soi đêm tối, khiến cho hai bên suốt đêm không xáp lại gần nhau được.21 Ông Mô-sê giơ tay trên mặt biển, ĐỨC CHÚA cho một cơn gió đông thổi mạnh suốt đêm, dồn biển lại, khiến biển hoá thành đất khô cạn. Nước rẽ ra,22 và con cái Ít-ra-en đi vào giữa lòng biển khô cạn, nước sừng sững như tường thành hai bên tả hữu.23 Quân Ai-cập đuổi theo; toàn thể chiến mã, chiến xa và kỵ binh của Pha-ra-ô tiến vào giữa lòng biển, đằng sau dân Ít-ra-en.24 Vào lúc gần sáng, từ cột lửa và mây, ĐỨC CHÚA nhìn xuống hàng ngũ Ai-cập, Người gây rối loạn trong hàng ngũ chúng.25 Người làm cho chiến xa kẹt bánh, khiến chúng phải vất vả mới di chuyển nổi. Quân Ai-cập bảo nhau: “Ta phải trốn bọn Ít-ra-en, vì ĐỨC CHÚA chiến đấu chống lại người Ai-cập để giúp họ.”26 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê: “Hãy giơ tay trên mặt biển, nước sẽ ập xuống trên quân Ai-cập cùng với chiến xa và kỵ binh của chúng.”27 Ông Mô-sê giơ tay trên mặt biển, và biển ập lại như cũ, vào lúc tảng sáng. Quân Ai-cập đang chạy trốn thì gặp nước biển, ĐỨC CHÚA xô ngã quân Ai-cập giữa lòng biển.28 Nước ập xuống, vùi lấp chiến xa và kỵ binh, vùi lấp toàn thể quân lực của Pha-ra-ô đã theo dân Ít-ra-en đi vào lòng biển. Không một tên nào sống sót.29 Còn con cái Ít-ra-en đã đi giữa lòng biển khô cạn, nước sừng sững như tường thành hai bên tả hữu.30 Ngày đó, ĐỨC CHÚA đã cứu Ít-ra-en khỏi tay quân Ai-cập. Ít-ra-en thấy quân Ai-cập phơi thây trên bờ biển.31 Ít-ra-en thấy ĐỨC CHÚA đã ra tay hùng mạnh đánh quân Ai-cập. Toàn dân kính sợ ĐỨC CHÚA, tin vào ĐỨC CHÚA, tin vào ông Mô-sê, tôi trung của Người.

Bài ca chiến thắng

15.     1 Bấy giờ ông Mô-sê cùng với con cái Ít-ra-en hát mừng ĐỨC CHÚA bài ca sau đây. Họ ca rằng:
“Tôi xin hát mừng CHÚA, Đấng cao cả uy hùng:
Kỵ binh cùng chiến mã, Người xô xuống đại dương.

2 CHÚA là sức mạnh tôi, là Đấng tôi ca ngợi,
chính Người cứu độ tôi.
Người là Chúa tôi thờ, xin dâng lời vinh chúc,
Người là Chúa tổ tiên, xin mừng câu tán tụng.

3 Người là trang chiến binh, danh Người là “ĐỨC CHÚA! ”

4 Xa mã Pha-ra-ô, Người xô xuống lòng biển,
tướng dũng với binh hùng chết chìm trong Biển Sậy.

5 Vực thẳm vùi lấp chúng, chúng chìm xuống nước sâu
chẳng khác nào hòn đá.

6 Lạy CHÚA, tay hữu Ngài đã biểu dương sức mạnh.
Tay hữu Ngài, lạy CHÚA, đã nghiền nát địch quân.

7 Lấy dũng lực oai hùng, Chúa quật ngã đối phương;
Ngài nổi cơn thịnh nộ, thiêu chúng cháy như rơm.

8 Nộ khí Ngài, lạy Chúa, đã khiến nước dâng lên,
sóng trùng dương dồn lại dựng đứng như tường thành;
giữa lòng biển thẳm sâu, nước bỗng đâu ngừng chảy.

9 Địch quân tự nhủ rằng: “Ta đuổi theo bắt lấy,
chiến lợi phẩm đem chia, mới no lòng thoả dạ;
ta tuốt lưỡi gươm trần, cứ thẳng tay tiêu diệt.”

10 Ngài hà hơi nổi gió, biển vùi lấp chúng đi,
chìm lỉm tựa như chì giữa nước sâu cuồn cuộn.

11 Ai trong bậc thần minh được như Ngài, lạy CHÚA?
Ai sánh được như Ngài, Đấng rạng ngời thánh thiện,
lập chiến công khủng khiếp, làm nên việc diệu kỳ?

12 Tay hữu Ngài giơ lên, đất rẽ ra nuốt chúng.

13 Còn dân đã chuộc về, Ngài yêu thương dìu dắt,
lấy quyền lực dẫn đưa tới đất thiêng Ngài ngự.

14 Khi vừa nghe tin đó, chư dân run lẩy bẩy;
người xứ Phi-li-tinh phải đớn đau quằn quại.

15 Bấy giờ tại Ê-đôm, các thủ lãnh kinh hoàng,
và quan quyền Mô-áp đều sợ hãi khiếp run,
người xứ Ca-na-an phải rụng rời hốt hoảng.

16 Kinh hoàng và sợ hãi ập xuống trên đầu họ.
Cánh tay hùng mạnh Ngài làm chúng đờ như đá,
bao lâu dân của Ngài vẫn còn đang qua biển,
lạy CHÚA chúng con thờ, bao lâu dân Ngài tậu
vẫn còn đang qua biển.

17 Ngài cho dân tiến vào, định cư họ trên núi,
núi gia nghiệp của Ngài.
Lạy CHÚA, chính nơi đây Ngài chọn làm chỗ ở,
đây cũng là đền thánh tự tay Ngài lập nên.

18 CHÚA là vua hiển trị đến muôn thuở muôn đời.”

19 Khi chiến mã của Pha-ra-ô cùng với chiến xa và kỵ binh tiến vào biển, ĐỨC CHÚA cho nước biển ập xuống trên họ, còn con cái Ít-ra-en thì đi giữa lòng biển khô cạn.

20 Nữ ngôn sứ Mi-ri-am, em ông A-ha-ron, cầm lấy trống; mọi phụ nữ theo bà đi ra, đánh trống và nhảy múa.  21 Bà Mi-ri-am xướng lên rằng:
“Hãy hát mừng ĐỨC CHÚA, Đấng cao cả uy hùng,
kỵ binh cùng chiến mã, Người xô xuống đại dương.”

II. CUỘC HÀNH TRÌNH TRONG SA MẠC

“Ma-ra”

22 Ông Mô-sê cho dân Ít-ra-en nhổ trại rời Biển Sậy. Họ ra khỏi đó, tiến vào sa mạc Sua. Họ đi ba ngày trong sa mạc mà không tìm ra nước.23 Nhưng khi tới Ma-ra, họ không thể uống được nước ở Ma-ra, vì nước đó đắng. Bởi thế, người ta gọi nơi ấy là Ma-ra.24 Dân kêu trách ông Mô-sê, họ nói: “Chúng tôi sẽ lấy gì mà uống? “25 Ông kêu lên ĐỨC CHÚA, và ĐỨC CHÚA chỉ cho ông một khúc gỗ. Ông thả xuống nước và nước hoá ra ngọt.

Chính tại đó ĐỨC CHÚA đã ra thánh chỉ và quyết định cho dân; chính tại đó Người đã thử lòng họ.

26 Người phán: “Nếu ngươi thực sự nghe tiếng ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ngươi, nếu ngươi làm điều ngay chính trước mắt Người, nếu ngươi lắng tai nghe các mệnh lệnh của Người, và giữ mọi thánh chỉ của Người, thì Ta sẽ không giáng xuống ngươi bệnh hoạn nào như Ta đã giáng xuống Ai-cập. Vì Ta là ĐỨC CHÚA, Đấng chữa lành ngươi.”

27 Họ đã đến Ê-lim, nơi có mười hai suối nước và bảy mươi cây chà là. Và họ đóng trại ở đó, bên bờ nước.

Man-na và chim cút

16.     1 Họ nhổ trại rời Ê-lim lên đường, và toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en tới sa mạc Xin, giữa Ê-lim và Xi-nai, vào ngày mười lăm tháng thứ hai kể từ khi họ ra khỏi đất Ai-cập.2 Trong sa mạc, toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en kêu trách ông Mô-sê và ông A-ha-ron.3 Con cái Ít-ra-en nói với các ông: “Phải chi chúng tôi chết bởi tay ĐỨC CHÚA trên đất Ai-cập, khi còn ngồi bên nồi thịt và ăn bánh thoả thuê. Nhưng không, các ông lại đưa chúng tôi ra khỏi đó mà vào sa mạc này, để bắt chúng tôi phải chết đói cả lũ ở đây! ”

4 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê: “Này, Ta sẽ làm cho bánh từ trời mưa xuống cho các ngươi ăn. Dân sẽ ra lượm lấy khẩu phần cho mình, ngày nào cho ngày đó; Ta muốn thử lòng chúng như vậy xem chúng có tuân theo Luật của Ta hay không.5 Ngày thứ sáu, khi chúng dọn phần ăn đã đưa về, sẽ có gấp đôi phần chúng lượm mỗi ngày.”

6 Ông Mô-sê và ông A-ha-ron nói với toàn thể con cái Ít-ra-en: “Chiều nay, anh em sẽ biết là chính ĐỨC CHÚA đã đưa anh em ra khỏi đất Ai-cập;7 vào buổi sáng, anh em sẽ thấy vinh quang của ĐỨC CHÚA, vì ĐỨC CHÚA đã nghe thấy những lời anh em kêu trách Người. Còn chúng tôi, chúng tôi là gì mà anh em kêu trách chúng tôi? “8 Ông Mô-sê nói: “ĐỨC CHÚA cho anh em chiều có thịt để ăn, và sáng có bánh để được thoả thuê, vì ĐỨC CHÚA đã nghe thấy những lời anh em kêu trách Người. Còn chúng tôi, chúng tôi là gì? Không phải anh em đã kêu trách chúng tôi, mà là kêu trách ĐỨC CHÚA.”

9 Ông Mô-sê nói với ông A-ha-ron: “Xin anh nói với toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en thế này: Anh em hãy lại gần thánh nhan ĐỨC CHÚA, vì Người đã nghe thấy những lời anh em kêu trách.”10 Trong khi ông A-ha-ron nói với toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en, họ quay mặt về phía sa mạc, và kìa, vinh quang ĐỨC CHÚA xuất hiện trong đám mây.11 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê:12 “Ta đã nghe tiếng con cái Ít-ra-en kêu trách. Vậy, ngươi hãy bảo chúng rằng: Vào buổi chiều, các ngươi sẽ được ăn thịt, và ban sáng, các ngươi sẽ được ăn bánh thoả thuê, và các ngươi sẽ biết rằng Ta là ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của các ngươi.”13 Thật vậy, buổi chiều, chim cút bay đến rợp cả trại. Và buổi sáng thì có lớp sương phủ quanh trại.14 Rồi khi sương tan đi thì trên mặt hoang địa, có một thứ gì nho nhỏ mịn màng, nho nhỏ như sương muối phủ mặt đất.15 Khi con cái Ít-ra-en thấy thế, họ liền hỏi nhau: “Man hu? ” Nghĩa là: “Cái gì đây? ” Vì họ không biết đó là cái gì. Ông Mô-sê bảo họ: “Đó là bánh ĐỨC CHÚA ban cho anh em làm của ăn!16 Đây là điều ĐỨC CHÚA đã truyền: Mỗi người hãy tuỳ theo sức mình ăn được bao nhiêu mà lượm, mỗi người một đấu, tuỳ theo số người; mỗi người hãy lấy luôn cho những người ở cùng lều với mình.”

17 Con cái Ít-ra-en đã làm như thế; họ lượm kẻ nhiều người ít.18 Rồi họ lấy đấu đong: kẻ có nhiều thì không dư, người có ít thì không thiếu. Mỗi người đã lượm tuỳ theo sức mình ăn được bao nhiêu.

19 Ông Mô-sê nói với họ: “Đừng có ai để dành cho đến sáng.”20 Một số người đã không nghe lời ông Mô-sê: họ để dành cho đến sáng, nhưng trong đó có giòi bọ và xông ra mùi hôi thối. Bấy giờ ông Mô-sê nổi giận với họ.21 Sáng nào cũng vậy, mỗi người lượm tuỳ theo sức mình ăn được bao nhiêu. Và khi mặt trời toả sức nóng, thì nó tan ra.

22 Ngày thứ sáu, họ lượm bánh gấp đôi, mỗi người hai đấu. Tất cả những người lãnh đạo cộng đồng đến báo tin cho ông Mô-sê.23 Ông nói với họ: “Đây là điều ĐỨC CHÚA phán: mai là ngày nghỉ, ngày sa-bát thánh để kính ĐỨC CHÚA. Cái gì phải nấu, thì nấu; cái gì phải luộc, thì luộc; tất cả những gì còn dư, thì hãy cất đi, để dành cho đến sáng hôm sau.”24 Họ cất đi cho đến sáng hôm sau như ông Mô-sê đã truyền, mà không thấy hôi và cũng không thấy có giòi bọ.25 Ông Mô-sê nói: “Hôm nay anh em ăn phần đó đi, vì hôm nay là ngày sa-bát kính ĐỨC CHÚA; hôm nay, anh em sẽ không tìm thấy gì ở ngoài đồng.26 Trong sáu ngày, anh em hãy lượm man-na; còn ngày thứ bảy là ngày sa-bát, thì sẽ không có.”27 Dầu vậy, ngày thứ bảy cũng có người trong dân đi ra lượm mà không tìm thấy.28 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê: “Cho đến bao giờ nữa các ngươi từ chối không tuân giữ các mệnh lệnh và luật lệ của Ta?29 Các ngươi xem: ĐỨC CHÚA đã ban ngày sa-bát cho các ngươi; vì thế, ngày thứ sáu, Người ban cho các ngươi bánh đủ ăn hai ngày. Ai nấy hãy ở yên một chỗ; ngày thứ bảy, đừng có ai ra khỏi chỗ ở của mình.”30 Vậy dân nghỉ việc ngày thứ bảy.

31 Nhà Ít-ra-en đặt tên cho vật ấy là man-na. Nó giống như hạt ngò, màu trắng và mùi vị tựa bánh tráng tẩm mật ong.

32 Ông Mô-sê nói: “Đây là điều ĐỨC CHÚA đã truyền: Hãy đong cho đầy một đấu để giữ lại cho con cháu các ngươi; như thế, chúng sẽ thấy bánh Ta đã cho các ngươi ăn trong sa mạc, lúc Ta đem các ngươi ra khỏi đất Ai-cập.”33 Ông Mô-sê nói với ông A-ha-ron: “Hãy lấy một cái bình và đổ vào đó một đấu đầy man-na, rồi đặt trước nhan ĐỨC CHÚA để giữ lại cho con cháu anh em.”34 Theo như ĐỨC CHÚA đã truyền cho ông Mô-sê, ông A-ha-ron đã đặt cái bình ấy đằng trước Chứng Ước, để giữ lại.

35 Con cái Ít-ra-en đã ăn man-na suốt bốn mươi năm, cho đến khi họ tới đất định cư; họ đã ăn man-na cho đến khi tới ranh giới đất Ca-na-an.36 Một đấu tương đương bốn lít rưỡi.

Nước phun ra từ tảng đá (Ds 2: 1-13 )

17.     1 Toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en nhổ trại rời sa mạc Xin, đi từ chặng này đến chặng khác, theo lệnh của ĐỨC CHÚA. Họ đã đóng trại ở Rơ-phi-đim, nhưng tại đấy không có nước cho dân uống.2 Dân gây sự với ông Mô-sê. Họ nói: “Cho chúng tôi nước uống đi! ” Ông Mô-sê nói: “Tại sao anh em lại gây sự với tôi? Tại sao lại thử thách ĐỨC CHÚA? “3 Ở đó, dân khát nước nên đã kêu trách ông Mô-sê rằng: “Ông đưa chúng tôi ra khỏi Ai-cập để làm gì? Có phải là để cho (chúng) tôi, con cái (chúng) tôi, và súc vật của (chúng) tôi bị chết khát hay không? “4 Ông Mô-sê kêu lên cùng ĐỨC CHÚA: “Con phải làm gì cho dân này bây giờ? Chỉ một chút nữa là họ ném đá con! “5 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê: “Ngươi hãy đi lên phía trước dân, đem theo một số kỳ mục Ít-ra-en; cầm lấy cây gậy ngươi đã dùng để đập xuống sông Nin, và đi đi.6 Còn Ta, Ta sẽ đứng ở đằng kia trước mặt ngươi, trên tảng đá ở núi Khô-rếp. Ngươi sẽ đập vào tảng đá. Từ tảng đá, nước sẽ chảy ra cho dân uống.” Ông Mô-sê đã làm như vậy trước mắt các kỳ mục Ít-ra-en.7 Ông đặt tên cho nơi ấy là Ma-xa và Mơ-ri-va, nghĩa là thử thách và gây sự, vì con cái Ít-ra-en đã gây sự và thử thách ĐỨC CHÚA mà rằng: “Có ĐỨC CHÚA ở giữa chúng ta hay không? ”

Giao chiến với người A-ma-lếch

8 A-ma-lếch đến đánh Ít-ra-en tại Rơ-phi-đim.9 Ông Mô-sê bảo ông Giô-suê: “Anh hãy chọn một số người, và ngày mai ra đánh A-ma-lếch. Còn tôi, tôi sẽ đứng trên đỉnh đồi, tay cầm cây gậy của Thiên Chúa.”10 Ông Giô-suê làm như ông Mô-sê đã bảo: ông đã giao chiến với A-ma-lếch, còn các ông Mô-sê, A-ha-ron và Khua thì lên đỉnh đồi.11 Khi nào ông Mô-sê giơ tay lên, thì dân Ít-ra-en thắng thế; còn khi ông hạ tay xuống, thì A-ma-lếch thắng thế.12 Nhưng ông Mô-sê mỏi tay, nên người ta lấy một hòn đá kê cho ông ngồi, còn ông A-ha-ron và ông Khua thì đỡ tay ông, mỗi người một bên.

Nhờ vậy, tay ông Mô-sê cứ giơ lên được mãi, cho đến khi mặt trời lặn.  13 Ông Giô-suê đã dùng lưỡi gươm đánh bại A-ma-lếch và dân của ông ta.14 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê: “Hãy chép lại việc này vào sách để lưu niệm và hãy nói vào tai Giô-suê rằng: Ta sẽ xoá hẳn tên tuổi A-ma-lếch, khiến cho thiên hạ không còn nhớ đến nó nữa.”15 Ông Mô-sê dựng một bàn thờ và đặt tên là: “ĐỨC CHÚA, cờ trận của tôi.”16 Ông nói: “Bởi vì một bàn tay đã giơ lên chống lại ngai của ĐỨC CHÚA, nên có chiến tranh giữa ĐỨC CHÚA và A-ma-lếch từ đời nọ đến đời kia.”

Ông Mô-sê gặp ông Gít-rô

18.     1 Ông Gít-rô là tư tế Ma-đi-an và là nhạc phụ ông Mô-sê, nghe biết mọi điều Thiên Chúa đã làm cho ông Mô-sê và Ít-ra-en, dân của Người, khi ĐỨC CHÚA đem Ít-ra-en ra khỏi Ai-cập.2 Ông Gít-rô, nhạc phụ ông Mô-sê, trước kia đã đón nhận bà Xíp-pô-ra, người vợ mà ông Mô-sê đã gửi về,3 cùng với hai người con trai của bà. Một người tên là Ghéc-sôm, vì ông nói: “Tôi là ngoại kiều nơi đất khách quê người”;4 người kia tên là Ê-li-e-de, vì “Thiên Chúa của cha tôi đã cứu giúp tôi và đã giải thoát tôi khỏi gươm Pha-ra-ô.”5 Ông Gít-rô, nhạc phụ ông Mô-sê, cùng với vợ con ông Mô-sê đến gặp ông Mô-sê ở sa mạc, nơi ông này dựng lều, gần núi của Thiên Chúa.6 Ông cho người đến nói với ông Mô-sê: “Tôi là Gít-rô, nhạc phụ của anh, cùng với vợ con anh đến gặp anh.”7 Ông Mô-sê ra đón tiếp nhạc phụ, phủ phục và ôm hôn ông. Rồi các ông vấn an nhau và bước vào lều.8 Ông Mô-sê kể cho nhạc phụ nghe tất cả những gì ĐỨC CHÚA đã giáng xuống Pha-ra-ô và Ai-cập vì Ít-ra-en, mọi nỗi gian truân Ít-ra-en gặp phải trên đường và cách ĐỨC CHÚA đã giải thoát họ.9 Ông Gít-rô lấy làm vui sướng vì mọi sự lành ĐỨC CHÚA đã làm cho Ít-ra-en, khi Người giải thoát họ khỏi tay người Ai-cập.10 Ông Gít-rô nói: “Chúc tụng ĐỨC CHÚA đã giải thoát các ông khỏi tay người Ai-cập và tay Pha-ra-ô, đã giải thoát dân khỏi tay người Ai-cập!11 Giờ đây, tôi nhận biết rằng ĐỨC CHÚA cao cả hơn hết mọi thần minh, vì Người đã chứng tỏ điều đó khi người ta đối xử ngạo mạn với dân.”

12 Ông Gít-rô, nhạc phụ ông Mô-sê, dâng lên Thiên Chúa lễ toàn thiêu và các hy lễ. Ông A-ha-ron và mọi kỳ mục của Ít-ra-en đã đến ăn bánh với nhạc phụ ông Mô-sê trước nhan Thiên Chúa.

Đặt các thẩm phán (Đnl 1:9-18 )

13 Hôm sau, ông Mô-sê ngồi xử kiện cho dân. Dân đứng bên ông Mô-sê từ sáng đến chiều.14 Nhạc phụ của ông Mô-sê thấy tất cả những gì ông đã làm cho dân thì nói: “Anh đang làm gì cho dân vậy? Tại sao chỉ có một mình anh ngồi xử, trong khi cả dân đứng chầu chực anh từ sáng đến chiều? “15 Ông Mô-sê nói với nhạc phụ: “Ấy là vì dân đến với con để thỉnh ý Thiên Chúa.16 Khi họ có việc gì, họ đến với con; con phân xử cho đôi bên và cho biết những thánh chỉ và lề luật của Thiên Chúa.”17 Nhạc phụ ông Mô-sê nói với ông: “Anh làm như thế không tốt đâu!18 Chắc chắn anh sẽ kiệt sức, và cả dân đang ở đây với anh cũng vậy; vì công việc quá nặng đối với anh, anh không thể làm nổi một mình.19 Bây giờ anh hãy nghe lời tôi khuyên; cầu chúc Thiên Chúa ở với anh! Còn anh, anh hãy đứng ra thay mặt dân trước nhan Thiên Chúa: chính anh sẽ trình các việc lên Thiên Chúa,20 sẽ dạy cho họ các thánh chỉ, các lề luật, và cho họ biết đường lối phải đi và cách phải xử sự.21 Rồi anh hãy xem trong toàn dân những ai là người có tài, biết kính sợ Thiên Chúa, đáng tin cậy, không ham của bất chính, thì đặt họ làm người chỉ huy: điều khiển một ngàn hay một trăm, năm mươi hay mười người.22 Họ sẽ thường trực xử kiện cho dân; việc nào lớn thì họ trình lên anh, còn việc nào nhỏ thì chính họ xử lấy: hãy làm như vậy để nhẹ gánh cho anh. Họ phải gánh việc đỡ anh.23 Nếu anh làm điều đó, thì Thiên Chúa sẽ chỉ bảo cho anh, anh sẽ có thể đứng vững, và hơn nữa cả đám dân này có thể về nhà bình an.”

24 Ông Mô-sê nghe lời nhạc phụ và đã làm tất cả những điều ông ấy nói.25 Ông Mô-sê chọn trong toàn dân Ít-ra-en những người có tài và đặt họ làm đầu dân, điều khiển một ngàn hay một trăm, năm mươi hay mười người.26 Họ thường trực xử kiện cho dân: việc khó thì họ trình lên ông Mô-sê, mọi việc nhỏ thì chính họ xử lấy.27 Rồi ông Mô-sê tiễn chân nhạc phụ, và ông này trở về xứ mình.

III. GIAO ƯỚC XI-NAI

1. GIAO ƯỚC VÀ MƯỜI ĐIỀU RĂN

Tới núi Xi-nai

19.     1 Tháng thứ ba kể từ khi ra khỏi đất Ai-cập, chính ngày đó con cái Ít-ra-en tới sa mạc Xi-nai.2 Họ đã nhổ trại rời Rơ-phi-đim tới sa mạc Xi-nai, và dựng trại trong sa mạc. Ít-ra-en đóng trại ở đó, đối diện với núi.

Thiên Chúa hứa ban giao ước

3 Ông Mô-sê lên gặp Thiên Chúa. Từ trên núi, ĐỨC CHÚA gọi ông và phán: “Ngươi sẽ nói với nhà Gia-cóp, sẽ thông báo cho con cái Ít-ra-en thế này:4 Các ngươi thấy Ta đã xử với Ai-cập thế nào, và đã mang các ngươi như trên cánh chim bằng, mà đem đến với Ta.5 Vậy giờ đây, nếu các ngươi thực sự nghe tiếng Ta và giữ giao ước của Ta, thì giữa hết mọi dân, các ngươi sẽ là sở hữu riêng của Ta. Vì toàn cõi đất đều là của Ta.6 Ta sẽ coi các ngươi là một vương quốc tư tế, một dân thánh. Đó là những lời ngươi sẽ nói với con cái Ít-ra-en.”7 Ông Mô-sê về triệu tập các kỳ mục trong dân, trình bày cho họ biết tất cả những lời ĐỨC CHÚA đã truyền cho ông.8 Toàn dân nhất trí đáp lại: “Mọi điều ĐỨC CHÚA phán bảo, chúng tôi xin làm theo.” Ông Mô-sê thưa lại với ĐỨC CHÚA những lời dân nói.

Chuẩn bị giao ước

9 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê: “Này Ta sẽ đến với ngươi trong đám mây dày đặc, để khi Ta nói với ngươi thì dân nghe thấy và cũng tin vào ngươi luôn mãi.” Ông Mô-sê thưa lại với ĐỨC CHÚA những lời dân nói.

10 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê: “Hãy đến với dân và bảo họ: hôm nay và ngày mai phải giữ mình cho khỏi nhiễm uế, phải giặt quần áo,11 và đến ngày kia phải sẵn sàng, vì ngày kia ĐỨC CHÚA sẽ ngự xuống trên núi Xi-nai trước mắt toàn dân.12 Ngươi sẽ định rõ cho dân một giới hạn chung quanh núi và bảo họ: Anh em phải coi chừng không được lên núi và chạm đến chân núi. Ai chạm đến núi thì sẽ bị giết.13 Không bàn tay nào được chạm đến người đó; nó sẽ bị ném đá cho chết hoặc bị bắn bằng cung tên, dù là thú vật hay là người, nó sẽ không được sống. Khi tù và rúc, dân sẽ lên núi.”

14 Ông Mô-sê từ trên núi xuống với dân và bảo họ giữ mình cho khỏi nhiễm uế; họ giặt quần áo.15 Ông Mô-sê bảo dân: “Trong ba ngày, anh em phải chuẩn bị sẵn sàng. Đừng gần gũi đàn bà.”

Cuộc thần hiện

16 Đến ngày thứ ba, ngay từ sáng, có sấm chớp, mây mù dày đặc trên núi, và có tiếng tù và thổi rất mạnh. Toàn dân trong trại đều run sợ.17 Ông Mô-sê đưa dân ra khỏi trại để nghênh đón Thiên Chúa; họ đứng dưới chân núi.18 Cả núi Xi-nai nghi ngút khói, vì ĐỨC CHÚA ngự trong đám lửa mà xuống; khói bốc lên như khói lò lửa và cả núi rung chuyển mạnh.19 Tiếng tù và mỗi lúc một tăng lên rất mạnh. Ông Mô-sê nói, và Thiên Chúa trả lời trong tiếng sấm.20 ĐỨC CHÚA ngự xuống trên núi Xi-nai, trên đỉnh núi. Người gọi ông Mô-sê lên đỉnh núi, và ông đi lên.21 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê: “Hãy xuống cảnh cáo dân đừng kéo nhau lên để xem ĐỨC CHÚA, kẻo nhiều người phải lăn ra chết.22 Ngay các tư tế đến gần ĐỨC CHÚA cũng phải giữ mình cho khỏi nhiễm uế, kẻo bị ĐỨC CHÚA đánh phạt.”23 Ông Mô-sê thưa với ĐỨC CHÚA: “Dân không thể lên núi Xi-nai được, vì chính Ngài đã cảnh cáo chúng con rằng: Hãy vạch rõ ranh giới của núi và tuyên bố đó là núi thánh.”24 ĐỨC CHÚA phán với ông: “Hãy đi xuống, rồi lại trở lên, đem theo A-ha-ron với ngươi. Còn tư tế và dân thì đừng có kéo nhau lên ĐỨC CHÚA, kẻo bị ĐỨC CHÚA đánh phạt.”25 Ông Mô-sê xuống với dân và nói với họ. ..

Mười điều răn (Đnl 5:1-33)

20.     1 Thiên Chúa phán tất cả những lời sau đây:

2 “Ta là ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ngươi, đã đưa ngươi ra khỏi đất Ai-cập, khỏi cảnh nô lệ.

3 Ngươi không được có thần nào khác đối nghịch với Ta.

4 Ngươi không được tạc tượng, vẽ hình bất cứ vật gì ở trên trời cao, cũng như dưới đất thấp, hoặc ở trong nước phía dưới mặt đất, để mà thờ.

5 Ngươi không được phủ phục trước những thứ đó mà phụng thờ: vì Ta, ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ngươi, là một vị thần ghen tương. Đối với những kẻ ghét Ta, Ta phạt con cháu đến ba bốn đời vì tội lỗi của cha ông.6 Còn với những ai yêu mến Ta và giữ các mệnh lệnh của Ta, thì Ta trọn niềm nhân nghĩa đến ngàn đời.

7 Ngươi không được dùng danh ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ngươi, một cách bất xứng, vì ĐỨC CHÚA không dung tha kẻ dùng danh Người một cách bất xứng.

8 Ngươi hãy nhớ ngày sa-bát, mà coi đó là ngày thánh.9 Trong sáu ngày, ngươi sẽ lao động và làm mọi công việc của ngươi.10 Còn ngày thứ bảy là ngày sa-bát kính ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ngươi. Ngày đó, ngươi không được làm công việc nào, cả ngươi cũng như con trai con gái, tôi tớ nam nữ, gia súc và ngoại kiều ở trong thành của ngươi.11 Vì trong sáu ngày, ĐỨC CHÚA đã dựng nên trời đất, biển khơi, và muôn loài trong đó, nhưng Người đã nghỉ ngày thứ bảy. Bởi vậy, ĐỨC CHÚA đã chúc phúc cho ngày sa-bát và coi đó là ngày thánh.

12 Ngươi hãy thờ cha kính mẹ, để được sống lâu trên đất mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ngươi, ban cho ngươi.

13 Ngươi không được giết người.

14 Ngươi không được ngoại tình.

15 Ngươi không được trộm cắp.

16 Ngươi không được làm chứng gian hại người.

17 Ngươi không được ham muốn nhà người ta, ngươi không được ham muốn vợ người ta, tôi tớ nam nữ, con bò con lừa, hay bất cứ vật gì của người ta.”

18 Khi nghe tiếng sấm sét, tiếng tù và, khi thấy ánh lửa và núi bốc khói, toàn dân sợ hãi run rẩy và đứng xa xa.19 Họ nói với ông Mô-sê: “Xin chính ông nói với chúng tôi, chúng tôi mới dám nghe; nhưng xin Thiên Chúa đừng nói với chúng tôi, kẻo chúng tôi chết mất! “20 Ông Mô-sê bảo dân: “Đừng sợ hãi, vì Thiên Chúa đến là để thử thách anh em và làm cho anh em luôn luôn kính sợ Người, ngõ hầu anh em đừng phạm tội.”21 Dân đứng xa xa, còn ông Mô-sê thì tiến lại gần đám mây đen, nơi Thiên Chúa đang ngự.

2. BỘ LUẬT GIAO ƯỚC

Luật về bàn thờ

22 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê: “Ngươi sẽ bảo con cái Ít-ra-en như thế này: Chính các ngươi đã thấy là tự trời Ta đã nói với các ngươi.23 Các ngươi đừng tạc tượng thần bằng bạc mà đặt bên cạnh Ta, và cũng đừng tạc tượng thần bằng vàng để thờ.

24 Ngươi sẽ dựng cho Ta một bàn thờ bằng đất, trên đó ngươi sẽ dâng lễ toàn thiêu, lễ kỳ an, dâng chiên cừu bò bê. Ở bất cứ nơi nào Ta tỏ danh Ta cho ngươi ghi nhớ, Ta sẽ đến với ngươi và chúc phúc cho ngươi.25 Nếu ngươi dựng cho Ta một bàn thờ bằng đá, thì đừng lấy đá đẽo mà dựng, bởi vì lấy đục mà đẽo, thì làm cho đá ra bất xứng.26 Ngươi sẽ không dùng bậc để bước lên bàn thờ của Ta, kẻo ngươi hở hang trước bàn thờ.

Luật về người nô lệ (Đnl 15: 12 -18)

21.     1 Đây là những luật lệ ngươi sẽ trình bày cho họ.2 Nếu ngươi mua một người nô lệ Híp-ri, người đó sẽ hầu hạ sáu năm; đến năm thứ bảy, người đó sẽ được tự do ra đi, mà không phải trả tiền.3 Nếu người đó đến một mình, thì sẽ ra đi một mình; nếu người đó đã lấy vợ, thì vợ sẽ ra đi với người đó.4 Nếu chủ cưới vợ cho người đó và nếu vợ sinh được con trai hoặc con gái, thì vợ con đều thuộc về chủ, còn người đó sẽ ra đi một mình.5 Nhưng nếu người nô lệ nói: Tôi mến chủ tôi và thương vợ thương con, tôi không muốn được tự do ra đi,6 thì chủ sẽ dẫn người đó đến trước mặt Thiên Chúa, dẫn đến sát cánh cửa hoặc khung cửa, và lấy dùi xỏ tai người đó. Như thế, người đó sẽ hầu hạ chủ suốt đời.7 Nếu có ai bán con gái làm nàng hầu, người con gái đó sẽ không được ra đi như các nô lệ nam.8 Nếu người con gái đó không vừa ý chủ, và chủ không muốn giữ lại cho mình, thì chủ phải cho chuộc, chứ không có quyền bán cho dân nước ngoài, vì như vậy là phản bội người con gái đó.9 Nếu muốn dành người con gái đó cho con trai mình, thì chủ sẽ xử sự theo luật áp dụng cho con gái của mình.10 Nếu chủ lấy một người khác, thì không được giảm bớt lương thực, quần áo và quyền làm vợ của người trước.11 Nếu chủ không thi hành ba khoản đó, thì nàng được ra đi, khỏi cần trả tiền trả bạc.

Giết người

12 Ai đánh chết người, thì phải bị giết chết.13 Nhưng nếu không có mưu tính trước, mà chỉ vì Thiên Chúa đã để lỡ tay, thì Ta sẽ chỉ cho ngươi một nơi mà kẻ giết người có thể vào trú ẩn.14 Nếu có ai cố tình hại người thân cận tới mức dùng mưu mà giết nó, thì ngươi sẽ lôi kẻ ấy ra khỏi bàn thờ của Ta mà giết chết.

15 Ai đánh cha hoặc mẹ, thì phải bị giết chết.16 Ai bắt cóc người -dù đã bán đi hay còn giữ trong tay-, thì phải bị giết chết.17 Kẻ nào nguyền rủa cha hoặc mẹ, thì phải bị giết chết.

Đánh đập và gây thương tích

18 Trong một cuộc cãi lộn, nếu người này ném đá hoặc đấm người kia mà không làm người kia chết, nhưng phải liệt giường,19 và nếu người kia trỗi dậy, còn chống gậy ra ngoài đi lại được, thì kẻ đã đánh được tha; chỉ phải bồi thường cho người kia trong thời gian người ấy phải nghỉ việc, và lo chữa người ấy cho lành.

20 Nếu có ai lấy gậy đánh tôi tớ nam nữ của mình, làm cho nó chết ngay dưới tay mình, thì nó phải được báo oán.21 Nhưng nếu nạn nhân còn sống được một hai ngày, thì sẽ không được báo oán, vì chủ đã bỏ tiền ra mua nó.

22 Nếu đàn ông đánh nhau mà xô phải một người đàn bà có thai, làm sẩy thai nhưng không gây tổn thương nào khác, thì phải bồi thường theo đòi hỏi của người chồng, và phải trả trước mặt trọng tài.23 Nếu có gây tổn thương, thì ngươi phải lấy mạng đền mạng,24 mắt đền mắt, răng đền răng, tay đền tay, chân đền chân,25 vết bỏng đền vết bỏng, vết thương đền vết thương, vết bầm đền vết bầm.

26 Nếu có ai đánh vào mắt tôi tớ nam nữ của mình, và làm hư mắt đó, thì phải phóng thích nó để đền mắt.27 Nếu có ai làm gãy răng tôi tớ nam nữ của mình, thì phải phóng thích nó để đền răng.

28 Nếu bò húc chết một người đàn ông hay đàn bà, thì phải ném đá con bò ấy cho chết, và không được ăn thịt nó; còn người chủ sẽ được tha bổng.29 Nếu trước đó con bò đã quen húc người, và chủ nó đã được cảnh cáo mà không canh giữ, để nó húc chết người, thì con bò sẽ bị ném đá cho chết và chủ nó cũng sẽ phải chết.30 Nếu người ta đòi tiền chuộc, thì chủ phải trả để chuộc mạng sống mình, thể theo tất cả những đòi hỏi của người ta.31 Nếu bò húc con trai hay con gái, thì người ta cũng sẽ xử trí theo luật đó.32 Nếu bò húc tôi tớ nam nữ, thì người ta sẽ đưa cho chủ của nạn nhân ba mươi đồng bạc, còn bò thì sẽ bị ném đá cho chết.

33 Khi có ai mở nắp hoặc đào một bể nước mà không đậy nắp lại, và nếu bò lừa sa vào đó,34 thì chủ bể nước phải thường tiền cho chủ con vật, nhưng con vật chết được thuộc về chủ bể nước.35 Nếu bò người này húc chết bò người kia, thì hai người chủ sẽ bán con bò sống và chia nhau tiền; họ cũng sẽ chia nhau con bò chết nữa.36 Nếu đã rõ là bò quen húc, mà chủ nó không canh giữ, thì phải lấy bò đền bò; nhưng con vật chết thuộc về người ấy.

Lấy trộm thú vật

37 Nếu có ai lấy trộm chiên bò, rồi làm thịt hoặc đem bán, thì sẽ lấy năm con bò đền một, và bốn con chiên đền một.

22.     1 Nếu kẻ trộm bị bắt quả tang đang lúc đào ngạch và bị đánh chết, thì không có chuyện đòi nợ máu.2 Nhưng nếu mặt trời đã mọc, thì phải đòi nợ máu. Ăn trộm phải bồi thường; nếu không có gì bồi thường, thì bán nó đi mà đền những gì nó đã lấy trộm.3 Nếu tìm thấy trong tay nó của đã lấy trộm, dù là bò, lừa hay chiên cừu còn sống, thì nó phải bồi thường gấp đôi.

Những tội phải bồi thường

4 Khi có ai làm hại ruộng đồng hay vườn nho và thả súc vật cho nó ăn hại ruộng người khác, thì phải lấy phần tốt nhất trong ruộng, trong vườn nho của mình mà bồi thường.

5 Khi có đám cháy lan đến bụi gai và thiêu huỷ đồng lúa đã gặt, lúa chưa gặt, hoặc ruộng nương, thì kẻ gây hoả hoạn phải bồi thường.

6 Khi có ai gửi người thân cận giữ hộ tiền bạc hay đồ vật mà bị mất trộm tại nhà người này, và nếu tìm thấy kẻ trộm, thì kẻ trộm phải bồi thường gấp đôi.7 Nếu không tìm thấy kẻ trộm, thì chủ nhà phải tiến lại gần Thiên Chúa mà thề không có đụng tới của cải người thân cận.

8 Về mọi nố tội phạm liên quan đến bò lừa, chiên và quần áo, đến mọi vật bị mất, mà nếu có người nói: của tôi đó! Thì đôi bên phải đưa sự việc ra trước mặt Thiên Chúa. Kẻ bị Thiên Chúa tuyên bố là có tội, phải bồi thường gấp đôi cho người thân cận.

9 Khi có ai gửi người thân cận giữ hộ mình lừa, bò, chiên hay thú vật nào, nếu con vật ấy chết, bị thương hoặc bị lấy trộm mà không có ai chứng kiến,10 thì đôi bên phải đến trước mặt ĐỨC CHÚA: người giữ con vật phải thề không có đụng tới của cải người thân cận. Chủ con vật phải chấp nhận lời thề và người kia không phải bồi thường.11 Nếu con vật bị lấy trộm trong nhà người giữ hộ, thì người này phải bồi thường cho chủ con vật.12 Nếu con vật hoàn toàn bị thú dữ xé xác, và nếu người giữ hộ đưa ra bằng chứng, thì không phải bồi thường.

13 Khi có ai mượn người thân cận một con vật và để con vật bị thương hoặc chết trong khi chủ vắng mặt, thì người mượn phải bồi thường.14 Nếu chủ có mặt, thì người ấy không phải bồi thường. Nếu là con vật cho thuê, chủ sẽ lấy tiền thuê.

Xâm phạm tiết hạnh gái trinh

15 Khi có ai dụ dỗ một thiếu nữ chưa đính hôn và ăn nằm với nàng, thì phải trả tiền cưới cho gia đình nàng. Nàng sẽ thành vợ người đó.16 Nếu cha nàng nhất định không chịu gả, người ấy sẽ phải nộp một số tiền tương đương với tiền cưới một người con gái.

Luật đạo đức và luật tôn giáo

17 Đàn bà phù thuỷ, ngươi không được để cho sống.

18 Kẻ giao hợp với thú vật phải bị tử hình.

19 Kẻ tế thần khác ngoài ĐỨC CHÚA, sẽ bị ĐỨC CHÚA loại trừ.

20 Người ngoại kiều, ngươi không được ngược đãi và áp bức, vì chính các ngươi đã là ngoại kiều ở đất Ai-cập.21 Mẹ goá con côi, các ngươi không được ức hiếp.22 Nếu ngươi ức hiếp mà nó kêu cứu Ta, ắt Ta sẽ nghe tiếng nó kêu cứu.23 Cơn giận Ta sẽ bốc lên, Ta sẽ cho gươm chém giết các ngươi: thế là vợ các ngươi sẽ thành goá bụa, và con các ngươi sẽ thành côi cút.

24 Nếu ngươi cho một người trong dân Ta, một người nghèo ở với ngươi vay tiền, thì ngươi không được xử với nó như chủ nợ, không được bắt nó trả lãi.

25 Nếu ngươi giữ áo choàng của người khác làm đồ cầm, thì ngươi phải trả lại cho nó trước khi mặt trời lặn.26 Nó chỉ có cái đó để đắp, để làm áo che thân; nó sẽ lấy gì mà ngủ? Nó mà kêu cứu Ta, Ta sẽ nghe nó, vì Ta vốn nhân từ.

27 Ngươi không được nói phạm đến Thiên Chúa, không được nguyền rủa người đầu mục trong dân.

Của đầu mùa và con đầu lòng

28 Ngươi không được chậm trễ dâng phần hoa màu và rượu nho của ngươi. Con đầu lòng trong số con cái ngươi, ngươi sẽ dâng cho Ta.29 Bò và chiên cừu của ngươi, ngươi cũng phải làm thế: con đầu lòng sẽ ở với mẹ nó bảy ngày, ngày thứ tám ngươi sẽ dâng nó cho Ta.

30 Các ngươi sẽ là những người được thánh hiến cho Ta: thịt con vật bị thú dữ xé ngoài đồng, các ngươi đừng ăn, nhưng phải ném cho chó.

Công lý. Bổn phận đối với kẻ thù.

23.     1 Ngươi không được phao tin đồn nhảm. Đừng làm chứng gian mà tiếp tay với kẻ xấu.2 Ngươi không được hùa theo số đông để làm điều trái; trong một vụ kiện, ngươi không được ngả theo số đông mà làm chứng, khiến công lý bị sai lệch.3 Ngươi không được thiên vị người yếu thế khi họ có việc kiện tụng.

4 Nếu gặp bò hay lừa của kẻ thù đi lạc, ngươi phải dẫn nó về cho người ấy.5 Nếu thấy lừa của kẻ ghét ngươi quỵ ngã vì chở nặng, ngươi không được để mặc người ấy; ngươi phải giúp người ấy đỡ lừa dậy.

6 Ngươi không được làm thiệt hại đến quyền lợi của người nghèo cậy nhờ ngươi, khi họ có việc kiện tụng.7 Ngươi phải lánh xa điều gian dối. Ngươi không được giết kẻ vô tội và công chính, vì Ta không cho kẻ có tội được trắng án.8 Ngươi không được nhận quà hối lộ, vì quà hối lộ làm cho những kẻ sáng mắt hoá ra đui mù và làm hỏng việc của những người công chính.

9 Người ngoại kiều, các ngươi không được áp bức; chính các ngươi đã biết thân phận của người ngoại kiều, vì các ngươi đã là ngoại kiều ở đất Ai-cập.

Năm sa-bát và ngày sa-bát

10 Trong vòng sáu năm, ngươi sẽ cày cấy ruộng đất ngươi, gieo trồng và thu hoa lợi.11 Nhưng năm thứ bảy, ngươi sẽ để đất ngưng sinh hoa màu, để đất hưu canh; những người nghèo trong dân ngươi sẽ được hưởng hoa màu đó, những gì còn lại thì bỏ cho dã thú ăn. Vườn nho và vườn ô-liu, ngươi cũng sẽ làm như thế.

12 Trong sáu ngày, ngươi sẽ làm công việc của ngươi; nhưng ngày thứ bảy, ngươi sẽ nghỉ, để bò lừa của ngươi được nghỉ ngơi, và để đứa con của nữ tỳ ngươi và người ngoại kiều lấy lại sức.

13 Các ngươi sẽ lưu tâm đến mọi điều Ta đã nói với các ngươi. Các ngươi đừng nhắc tên những thần khác: chớ để người ta nghe miệng ngươi thốt ra những tên ấy.

Các ngày lễ của Ít-ra-en (Xh 34: 18 -26; Đnl 16: 1-7)

14 Ngươi sẽ mừng lễ kính Ta mỗi năm ba lần.15 Ngươi sẽ giữ tục lệ mừng lễ Bánh Không Men: trong bảy ngày, ngươi sẽ ăn bánh không men vào thời chỉ định trong tháng A-víp, như Ta đã truyền cho ngươi, vì trong tháng đó ngươi đã ra khỏi Ai-cập. Người ta không được đi tay không đến trước nhan Ta.16 Ngươi cũng sẽ giữ tục lệ mừng lễ Mùa gặt, lễ dâng của đầu mùa, do sức lao động ngươi làm ra, do công ngươi gieo cấy ngoài đồng; rồi ngươi sẽ giữ tục lệ mừng lễ Thu hoạch vào cuối năm, khi ngươi thu hoạch hoa màu ngoài đồng ngươi đã làm ra.17 Mỗi năm ba lần, tất cả đàn ông con trai phải đến trước nhan Chúa Tể là ĐỨC CHÚA.

18 Khi dâng lễ vật hy sinh, ngươi đừng dâng máu của nó cùng với bánh có men, và chớ giữ lại mỡ của ngày lễ kính Ta suốt đêm cho đến sáng hôm sau.

19 Của đầu mùa tốt nhất của đất đai ngươi, ngươi phải đem đến nhà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ngươi.

Ngươi không được lấy sữa dê mẹ mà nấu thịt dê con.

Lời hứa và chỉ thị liên quan đến biến cố vào xứ Ca-na-an

20. Này Ta sai thiên sứ đi trước ngươi, để giữ gìn ngươi khi đi đường, và đưa ngươi vào nơi Ta đã dọn sẵn.21 Trước mặt người, hãy ý tứ và nghe lời người. Đừng làm cho người phải chịu cay đắng; người sẽ không tha lỗi cho các ngươi, vì danh Ta ngự trong người.22 Nếu thực sự ngươi nghe lời người, nếu ngươi làm mọi điều Ta nói, Ta sẽ trở thành kẻ thù của kẻ thù ngươi, đối phương của đối phương ngươi.23 Thiên sứ của Ta sẽ đi trước mặt ngươi và dẫn ngươi vào xứ người E-mô-ri, Khết, Pơ-rít-di, Ca-na-an, Khi-vi, Giơ-vút; và Ta sẽ tiêu diệt chúng.24 Ngươi không được phủ phục trước các thần của chúng, cũng đừng phụng thờ các thần ấy; ngươi không được làm theo các việc chúng làm, nhưng phải phá huỷ thần của chúng và đập vỡ các trụ đá của chúng.25 Các ngươi phải thờ phượng ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa các ngươi; Người sẽ chúc phúc cho bánh ngươi ăn, cho nước ngươi uống. Ta sẽ đẩy bệnh tật xa ngươi.26 Trong xứ của ngươi, sẽ không có phụ nữ sẩy thai hay son sẻ. Ta sẽ cho ngươi sống đầy đủ số năm tháng ngày giờ dành cho ngươi.

27 Ta sẽ gieo kinh hoàng xuống nơi ngươi sẽ đến, sẽ gây rối loạn nơi hết mọi dân tộc ngươi sẽ tới, và Ta sẽ làm cho tất cả thù địch của ngươi phải quay lưng chạy trốn ngươi.28 Ta sẽ thả ong bầu bay đi trước ngươi; chúng sẽ đuổi người Khi-vi, người Ca-na-an và người Khết đi khuất mắt ngươi.29 Ta sẽ không đuổi các dân này đi khuất mắt ngươi ngay trong một năm, kẻo xứ ấy trở thành hoang vu, và dã thú sinh sôi nẩy nở làm hại ngươi.30 Dần dần Ta sẽ đuổi chúng đi khuất mắt ngươi, cho đến khi ngươi sinh sản ra nhiều, mà thừa hưởng xứ này.31 Ta sẽ ấn định ranh giới lãnh thổ ngươi từ Biển Sậy cho đến Biển của người Phi-li-tinh, từ sa mạc cho đến Sông Cả, vì Ta sẽ nộp dân bản xứ vào tay ngươi và sẽ đuổi chúng đi cho khuất mắt ngươi.32 Ngươi sẽ không ký giao ước với chúng và các thần của chúng.33 Chúng sẽ không ở trong xứ của ngươi, kẻo chúng làm cho ngươi lỗi phạm đến Ta, vì ngươi có thể phụng thờ các thần của chúng, và điều đó trở thành cạm bẫy cho ngươi.”

3. KÝ GIAO ƯỚC

24.     1 Thiên Chúa phán với ông Mô-sê: “Hãy lên với ĐỨC CHÚA, ngươi cùng với A-ha-ron, Na-đáp, A-vi-hu và bảy mươi người trong hàng kỳ mục Ít-ra-en. Các ngươi sẽ phủ phục ở đằng xa.2 Một mình Mô-sê sẽ lại gần ĐỨC CHÚA, còn những người khác sẽ không được lại gần. Dân cũng sẽ không được lên với Mô-sê.”3 Ông Mô-sê xuống thuật lại cho dân mọi lời của ĐỨC CHÚA và mọi điều luật. Toàn dân đồng thanh đáp: “Mọi lời ĐỨC CHÚA đã phán, chúng tôi sẽ thi hành.”4 Ông Mô-sê chép lại mọi lời của ĐỨC CHÚA. Sáng hôm sau, ông dậy sớm, lập một bàn thờ dưới chân núi và dựng mười hai trụ đá cho mười hai chi tộc Ít-ra-en.5 Rồi ông sai các thanh niên trong dân Ít-ra-en dâng những lễ toàn thiêu, và ngả bò làm hy lễ kỳ an tế ĐỨC CHÚA.6 Ông Mô-sê lấy một nửa phần máu, đổ vào những cái chậu, còn nửa kia thì rảy lên bàn thờ.7 Ông lấy cuốn sách giao ước đọc cho dân nghe. Họ thưa: “Tất cả những gì ĐỨC CHÚA đã phán, chúng tôi sẽ thi hành và tuân theo.”8 Bấy giờ, ông Mô-sê lấy máu rảy lên dân và nói: “Đây là máu giao ước ĐỨC CHÚA đã lập với anh em, dựa trên những lời này.”

9 Ông Mô-sê đi lên cùng với ông A-ha-ron, Na-đáp, A-vi-hu và bảy mươi người trong hàng kỳ mục Ít-ra-en.10 Họ nhìn thấy Thiên Chúa của Ít-ra-en; dưới chân Người như có nền lát bằng lam ngọc, trong vắt như chính bầu trời.11 Người không ra tay hại những bậc vị vọng của Ít-ra-en; họ được chiêm ngưỡng Thiên Chúa, và sau đó họ ăn uống.

Ông Mô-sê ở trên núi

12 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê: “Hãy lên núi với Ta và ở lại đó; Ta sẽ ban cho ngươi những bia đá: luật và mệnh lệnh Ta đã viết ra để dạy dỗ chúng.”13 Ông Mô-sê đứng lên cùng với người phụ tá là ông Giô-suê, rồi ông Mô-sê lên núi của Thiên Chúa.14 Ông nói với các kỳ mục: “Các ông đợi chúng tôi ở đây cho đến khi chúng tôi trở lại với các ông. Đây có ông A-ha-ron và ông Khua ở với các ông. Ai có việc gì, cứ đến với hai ông ấy.”15 Ông Mô-sê lên núi.

Bấy giờ mây bao phủ núi.  16 Vinh quang ĐỨC CHÚA ngự trên núi Xi-nai và mây bao phủ núi sáu ngày. Đến ngày thứ bảy, từ giữa đám mây, Người gọi ông Mô-sê.17 Vinh quang ĐỨC CHÚA xuất hiện trên đỉnh núi trông giống như ngọn lửa thiêu, trước mắt con cái Ít-ra-en.18 Ông Mô-sê vào giữa đám mây và đi lên núi. Ông Mô-sê ở trên núi bốn mươi ngày bốn mươi đêm.

4. CHỈ THỊ VỀ VIỆC DỰNG NƠI THÁNH VÀ VỀ CÁC TƯ TẾ

Đóng góp để dựng nơi thánh (Xh 35: 4-9)

25.     1 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê rằng:2 “Hãy bảo con cái Ít-ra-en là phải đóng góp vào việc thờ phượng Ta. Các ngươi hãy nhận phần đóng góp nơi những người nhiệt tâm.3 Đây là phần đóng góp các ngươi sẽ nhận của họ: vàng, bạc và đồng,4 vải đỏ tía, vải điều, vải đỏ thẫm, vải gai mịn và lông dê,5 da cừu nhuộm đỏ, da cá heo và gỗ keo,6 dầu thắp đèn, hương liệu để chế dầu tấn phong và làm hương thơm,7 hồng mã não và ngọc quý để nhận vào áo ê-phốt và túi đeo trước ngực.8 Chúng sẽ dựng cho Ta một nơi thánh để Ta ngự ở giữa chúng.9 Theo như các mẫu chính Ta sẽ chỉ cho ngươi: Nhà Tạm và mọi đồ dùng, các ngươi sẽ làm như vậy.

Nhà Tạm và Hòm Bia (Xh 37: 1-9)

10 “Chúng phải làm một Hòm Bia bằng gỗ keo, dài một thước hai, rộng bảy tấc rưỡi và cao bảy tấc rưỡi.11 Ngươi sẽ lấy vàng ròng mà bọc, ngươi sẽ lấy vàng mà bọc cả trong lẫn ngoài. Ngươi sẽ làm trên đó một đường viền chung quanh bằng vàng.12 Ngươi sẽ đúc cho Hòm Bia bốn chiếc vòng bằng vàng và gắn vào bốn chân Hòm Bia: bên này hai vòng, bên kia hai vòng.13 Ngươi sẽ làm những cây đòn bằng gỗ keo bọc vàng.14 Ngươi sẽ xỏ đòn vào những vòng bên sườn Hòm Bia để khiêng.15 Đòn để xỏ vào vòng của Hòm Bia thì không được rút ra nữa.16 Ngươi sẽ đặt vào Hòm Bia Chứng Ước mà Ta sẽ ban cho ngươi.

17 Ngươi sẽ làm một cái nắp xá tội bằng vàng ròng, dài một thước hai, rộng bảy tấc rưỡi.18 Ngươi sẽ làm hai tượng thần hộ giá bằng vàng gò, ngươi sẽ làm các tượng ấy ở hai đầu nắp.19 Ngươi sẽ làm một tượng ở đầu này, một tượng ở đầu kia; ngươi sẽ làm các tượng thần hộ giá gắn liền với nắp, ở hai đầu.20 Các tượng thần hộ giá có cánh giương lên và phủ trên nắp. Hai tượng đối diện với nhau, cùng cúi mặt xuống nắp.21 Ngươi sẽ đậy nắp xá tội trên Hòm Bia, và ngươi sẽ đặt vào đó Chứng Ước mà Ta sẽ ban cho ngươi.22 Ở đó Ta sẽ gặp gỡ ngươi. Từ trên nắp, giữa hai tượng thần hộ giá đặt trên Hòm Bia Chứng Ước, Ta sẽ nói với ngươi tất cả những gì Ta truyền cho ngươi để ngươi nói lại cho con cái Ít-ra-en.

Bàn để bánh tiến (Xh 37: 10 -16 )

23 “Ngươi sẽ làm một cái bàn bằng gỗ keo, dài một thước, rộng nửa thước và cao bảy tấc rưỡi.24 Ngươi sẽ lấy vàng ròng mà bọc, và ngươi sẽ làm một đường viền chung quanh bằng vàng.25 Chung quanh bàn, ngươi sẽ đóng nẹp rộng một tấc và viền nẹp bằng vàng.26 Ngươi sẽ làm bốn vòng bằng vàng và đặt các vòng đó vào bốn góc, ở bốn chân bàn.27 Các vòng đó ở gần nẹp, dùng để xỏ đòn khiêng bàn.28 Ngươi sẽ làm những cây đòn bằng gỗ keo bọc vàng để khiêng bàn.29 Ngươi sẽ làm khay, ly, bình và chén để tế lễ; ngươi sẽ làm những đồ ấy bằng vàng ròng.30 Ngươi phải luôn luôn đặt bánh tiến trên bàn, trước nhan Ta.

Trụ đèn (Xh 37: 17 -24)

31 “Ngươi sẽ làm một trụ đèn bằng vàng ròng. Ngươi sẽ làm trụ đèn, chân đèn và nhánh đèn bằng vàng gò; đài hoa, nụ hoa và cánh hoa gắn liền với trụ đèn.32 Sáu nhánh đâm ra hai bên: ba nhánh bên này, ba nhánh bên kia.33 Trên nhánh bên này, có ba đài hoa hình hoa hạnh đào, với nụ và cánh hoa; trên nhánh bên kia, có ba đài hoa hình hoa hạnh đào, với nụ hoa và cánh hoa. Sáu nhánh từ trụ đèn đâm ra sẽ đều như thế.34 Ở thân trụ đèn, có bốn đài hoa hình hoa hạnh đào, với nụ hoa và cánh hoa.35 Một nụ hoa nằm dưới hai nhánh đầu gắn liền với trụ đèn, một nụ hoa nằm dưới hai nhánh giữa gắn liền với trụ đèn, và một nụ hoa nằm dưới hai nhánh cuối gắn liền với trụ đèn. Sáu nhánh từ trụ đèn đâm ra sẽ đều như thế.36 Các nụ hoa và nhánh đều gắn liền với trụ đèn; tất cả thành một khối bằng vàng gò, bằng vàng ròng.37 Rồi ngươi sẽ làm bảy cái đèn, đặt lên đó thế nào cho chúng toả ánh sáng ra phía trước trụ đèn.38 Kéo cắt bấc và đĩa đựng tàn sẽ bằng vàng ròng.39 Ngươi phải dùng đến ba mươi ký vàng ròng để làm trụ đèn và mọi đồ phụ tùng đó.40 Hãy nhìn xem và làm theo mẫu đã chỉ cho ngươi trên núi.

Nhà Tạm. Vải và bạt. (Xh 36: 8-19)

26.     1 “Ngươi sẽ dựng Nhà Tạm với mười tấm thảm bằng sợi gai mịn xe, vải đỏ tía, vải điều và vải đỏ thẫm. Ngươi sẽ cho thêu trên đó những thần hộ giá rất mỹ thuật.2 Mỗi tấm thảm dài mười bốn thước, rộng hai thước; tấm nào cũng có kích thước như vậy.3 Năm tấm khâu liền với nhau, còn năm tấm kia cũng khâu liền với nhau.4 Ngươi sẽ lấy vải đỏ tía làm dải đính vào mép tấm thứ nhất của những tấm thảm ráp lại; ngươi cũng đính như thế vào mép tấm cuối cùng của những tấm thảm ráp lại bên kia.5 Ngươi sẽ đính năm mươi dải vào tấm thứ nhất, và cũng sẽ đính năm mươi dải vào mép tấm cuối cùng của những tấm thảm ráp lại bên kia; các dải ấy phải thật cân đối với nhau.6 Ngươi sẽ làm năm mươi cái móc bằng vàng, và dùng những móc ấy để nối các tấm thảm lại với nhau. Như thế, Nhà Tạm sẽ thành một khối duy nhất.

7 Ngươi sẽ làm những tấm thảm lông dê để làm một cái lều ở bên trên Nhà Tạm; ngươi sẽ làm mười một tấm.8 Mỗi tấm dài mười lăm thước, rộng hai thước. Mười một tấm đều có cùng một kích thước.9 Ngươi sẽ khâu liền năm tấm thành một mái, và sáu tấm kia thành một mái khác; ngươi sẽ gấp tấm thứ sáu về phía trước lều.10 Ngươi sẽ đính năm mươi dải vào mép tấm thứ nhất của những tấm thảm ráp lại, và năm mươi dải vào mép tấm cuối cùng của những tấm thảm ráp lại bên kia.11 Ngươi sẽ làm năm mươi móc đồng, và sẽ xỏ móc vào dải; ngươi sẽ ghép lại thành một cái lều, và như vậy sẽ chỉ có một lều duy nhất.

12 Phần tấm thảm còn dư nhô ra, thì một nửa cho rủ xuống phía sau Nhà Tạm.13 Mỗi bên để dư ra nửa thước theo chiều dài các tấm thảm của lều, cho rủ xuống hai bên để che Nhà Tạm.

14 Ngươi sẽ làm một tấm bạt che lều bằng da cừu nhuộm đỏ, và một tấm bạt bằng da cá heo phủ ở bên trên.

Khung lều (Xh 36: 20 -34)

15 “Ngươi sẽ lấy những tấm ván gỗ keo dựng thẳng lên để căng Nhà Tạm.16 Mỗi tấm dài năm thước, rộng bảy tấc rưỡi.17 Mỗi tấm có hai mộng song song. Ngươi sẽ làm mọi tấm ván của Nhà Tạm theo kiểu đó.18 Ngươi sẽ đặt ván để dựng Nhà Tạm như sau: hai mươi tấm hướng về Ne-ghép, về phía nam.19 Ngươi sẽ làm bốn mươi đế bạc đặt dưới hai mươi tấm ván đó: hai đế dưới một tấm ván ăn khớp với hai mộng của ván, và hai đế dưới một tấm ván khác ăn khớp với hai mộng của ván.20 Phía bên kia của Nhà Tạm, hướng bắc, ngươi cũng sẽ đặt hai mươi tấm ván,21 và cũng làm bốn mươi đế bạc, cứ hai đế dưới một tấm, hai đế dưới một tấm.22 Phía trong cùng Nhà Tạm, hướng tây, ngươi sẽ đặt sáu tấm ván.23 Ngươi sẽ đặt hai tấm ván ở các góc Nhà Tạm, ở phía trong cùng.24 Các tấm ván sẽ được ghép đôi lại với nhau từ dưới lên trên, cho tới cái vòng thứ nhất. Hai tấm ván ở hai bên góc đều như thế.25 Vậy sẽ có tám tấm ván với các đế bạc, tất cả là mười sáu đế: cứ hai đế dưới một tấm, hai đế dưới một tấm.

26 Ngươi sẽ làm các thanh ngang bằng gỗ keo: năm cái cho các tấm ván ở mặt thứ nhất của Nhà Tạm,27 năm cái cho các tấm ván ở mặt bên kia của Nhà Tạm, cũng như năm cái cho các tấm ván phía trong cùng Nhà Tạm, hướng tây.28 Thanh ngang giữa, ở nửa độ cao các tấm ván, sẽ chạy suốt từ đầu này đến đầu kia.29 Ngươi sẽ thiếp vàng các tấm ván; ngươi sẽ đúc những vòng bằng vàng để xỏ các thanh ngang; ngươi cũng sẽ thiếp vàng các thanh ngang ấy.30 Ngươi sẽ dựng Nhà Tạm theo kiểu đã chỉ cho ngươi trên núi.

Bức trướng (Xh 36: 35 -38)

31 “Ngươi sẽ làm một bức trướng bằng vải đỏ tía, vải điều, vải đỏ thẫm và sợi gai mịn xe. Ngươi sẽ cho thêu trên đó những thần hộ giá rất mỹ thuật.32 Ngươi sẽ căng bức màn trướng đó lên bốn cột gỗ keo thiếp vàng có những móc bằng vàng, đặt trên đế bằng bạc.33 Ngươi sẽ mắc bức trướng vào những cái móc. Ngươi sẽ đưa Hòm Bia Chứng Ước vào đó, sau bức trướng; đối với các ngươi, bức trướng sẽ phân chia Nơi Thánh với Nơi Cực Thánh.34 Ngươi sẽ đặt nắp xá tội lên trên Hòm Bia Chứng Ước ở Nơi Cực Thánh.35 Ngươi sẽ đặt cái bàn đằng trước bức trướng, và đặt trụ đèn đối diện với bàn đó, ở phía nam Nhà Tạm; còn cái bàn, thì ngươi đặt ở phía bắc.36 Ngươi sẽ làm một bức màn che cửa lều bằng vải đỏ tía, vải điều, vải đỏ thẫm và sợi gai mịn xe: đó là công việc của thợ thêu.37 Ngươi sẽ làm năm cột gỗ keo thiếp vàng để treo bức màn đó; những cột ấy có móc bằng vàng; ngươi sẽ đúc năm đế bằng đồng để dựng những cột ấy.

Bàn thờ dâng lễ toàn thiêu (Xh 38: 1-7)

27.     1 “Ngươi sẽ làm bàn thờ bằng gỗ keo: dài hai thước rưỡi, rộng hai thước rưỡi -nghĩa là hình vuông- cao một thước rưỡi.2 Ngươi sẽ làm bốn cái sừng ở bốn góc, các sừng ấy sẽ làm thành một khối với bàn thờ. Ngươi sẽ lấy đồng mà bọc bàn thờ.3 Ngươi sẽ làm những cái nồi để đựng tro lễ vật, làm xẻng, bình rảy, xiên và lư hương; các đồ vật ấy, ngươi sẽ làm bằng đồng.4 Ngươi sẽ làm một cái vỉ bằng đồng, hình lưới. Ngươi sẽ làm bốn chiếc vòng bằng đồng, ở bốn góc lưới.5 Ngươi sẽ bọc lưới đó quanh chân bàn thờ, dưới chỗ mặt bàn nhô ra, từ đất lên; lưới ấy chỉ cao bằng nửa chiều cao của bàn thờ.6 Ngươi sẽ làm những cây đòn để khiêng bàn thờ, những cây đòn ấy làm bằng gỗ keo. Ngươi sẽ bọc đồng những cây đòn ấy.7 Người ta sẽ xỏ đòn vào vòng; khi khiêng bàn thờ thì những cây đòn đó sẽ ở hai bên bàn thờ.8 Ngươi sẽ làm bàn thờ rỗng, bằng ván ghép lại; như đã chỉ cho ngươi trên núi thế nào, thì người ta sẽ phải làm như vậy.

Khuôn viên (Xh 38:9-20)

9 “Ngươi sẽ làm khuôn viên của Nhà Tạm. Phía nam, hướng Ne-ghép, khuôn viên sẽ có những tấm rèm bằng sợi gai mịn xe, phía này dài năm mươi thước.10 Hai mươi cột treo rèm dựng trên hai mươi đế bằng đồng; móc ở các cột và thanh treo rèm thì bằng bạc.11 Phía bắc cũng vậy, sẽ có những tấm rèm dài năm mươi thước. Hai mươi cột treo rèm dựng trên hai mươi đế bằng đồng; móc ở các cột và thanh treo rèm thì bằng bạc.12 Chiều rộng của khuôn viên, về phía biển, sẽ có những tấm rèm hai mươi lăm thước, với mười cột và mười đế.13 Về hướng đông, phía mặt trời mọc, khuôn viên sẽ rộng hai mươi lăm thước;14 một bên che tấm rèm bảy thước rưỡi, có ba cột với ba đế;15 bên kia cũng che tấm rèm bảy thước rưỡi, có ba cột với ba đế.16 Ở cửa khuôn viên, sẽ có một bức màn mười thước bằng vải đỏ tía, vải điều, vải đỏ thẫm và sợi gai mịn xe: đó là công việc của thợ thêu; bức màn này treo lên bốn cột đặt trên bốn đế.17 Mọi cột chung quanh khuôn viên nối liền với nhau nhờ những thanh treo màn bằng bạc; móc sẽ bằng bạc và đế bằng đồng.18 Khuôn viên sẽ dài năm mươi thước, rộng hai mươi lăm thước, cao hai thước rưỡi; bức màn sẽ bằng sợi gai mịn xe, còn các đế sẽ bằng đồng.19 Tất cả các đồ vật trong Nhà Tạm dùng vào mọi việc phụng sự tại đó, cũng như mọi cái cọc của Nhà Tạm và của khuôn viên sẽ đều bằng đồng.

Dầu thắp đèn (Lv 24: 1-4)

20 “Phần ngươi, ngươi sẽ truyền cho con cái Ít-ra-en phải giã ô-liu lấy dầu nguyên chất, để thắp đèn, hầu cho luôn luôn có ngọn lửa cháy.21 Ông A-ha-ron và con cái sẽ đặt chiếc đèn đó trong Lều Hội Ngộ, bên ngoài bức trướng treo đằng trước Chứng Ước, sao cho nó cháy từ chiều đến sáng trước nhan ĐỨC CHÚA. Đó là điều luật vĩnh viễn cho các thế hệ con cái Ít-ra-en.

Phẩm phục của các tư tế

28.     1 “Phần ngươi, hãy tách A-ha-ron, anh ngươi, và các con ông ra khỏi hàng ngũ con cái Ít-ra-en, để ông ở bên cạnh ngươi mà thi hành chức tư tế phục vụ Ta: A-ha-ron và các con của A-ha-ron là Na-đáp, A-vi-hu, E-la-da và I-tha-ma.2 Ngươi sẽ may cho A-ha-ron, anh ngươi, những lễ phục để ông được vẻ uy nghi rực rỡ.3 Chính ngươi sẽ bảo tất cả những thợ giỏi, đã được Ta ban tràn đầy tài năng khôn khéo, may áo tế cho A-ha-ron, để ông được thánh hiến mà thi hành chức tư tế phục vụ Ta.4 Đây là các phẩm phục họ sẽ may: túi đeo trước ngực, áo ê-phốt, áo khoác, áo dài thêu, mũ tế và đai lưng. Họ sẽ may lễ phục cho A-ha-ron, anh ngươi, và cho con cái ông, để ông thi hành chức tư tế phục vụ Ta.5 Còn họ, họ sẽ lấy vàng, vải tía, vải điều, vải đỏ thẫm và vải gai mịn, mà làm.

Áo ê-phốt (Xh 39: 1-7)

6 “Họ sẽ làm áo ê-phốt bằng chỉ vàng, chỉ đỏ tía, chỉ điều, chỉ đỏ thẫm và sợi gai mịn xe.7 Sẽ có hai cầu vai nối liền với hai đầu áo ê-phốt, và như vậy hai thân áo sẽ nối liền với nhau.8 Băng chéo đeo trên áo ê-phốt để giữ áo thì sẽ làm cùng một kiểu và đính liền vào đó; băng chéo ấy sẽ bằng chỉ vàng, chỉ đỏ tía, chỉ điều, chỉ đỏ thẫm, và sợi gai mịn xe.9 Ngươi sẽ lấy hai viên mã não và sẽ khắc trên đó tên con cái Ít-ra-en:10 trên viên thứ nhất có ghi sáu tên, và trên viên thứ hai, sáu tên còn lại, theo thứ tự trước sau.11 Ngươi sẽ khắc tên con cái Ít-ra-en vào hai viên ngọc đó theo kiểu thợ chạm khắc dấu ấn; ngươi sẽ nhận những viên ngọc đó vào những ổ bằng vàng.12 Ngươi sẽ đặt hai viên ngọc đó trên cầu vai của áo ê-phốt để làm kỷ vật tưởng nhớ con cái Ít-ra-en; A-ha-ron sẽ mang tên của chúng trên hai vai, trước nhan ĐỨC CHÚA, để làm kỷ vật.13 Ngươi sẽ làm những ổ bằng vàng14 và hai dây chuyền bằng vàng ròng; ngươi sẽ làm hai dây chuyền đó theo kiểu khoen lật để làm như dải buộc; ngươi sẽ đặt hai dây chuyền khoen lật đó vào ổ hột.

Túi đeo trước ngực (Xh 39: 8-21)

15 “Ngươi sẽ làm một túi đeo trước ngực rất mỹ thuật đựng thẻ xăm cho biết phán quyết của Thiên Chúa. Ngươi sẽ làm túi đó theo kiểu áo ê-phốt: bằng chỉ vàng, chỉ đỏ tía, chỉ điều, chỉ đỏ thẫm và sợi gai mịn xe.16 Túi đó hình vuông, may kép, dài một gang, rộng một gang.17 Ngươi sẽ nhận vào đó bốn hàng ngọc: ở hàng thứ nhất có nhận xích não, hoàng ngọc và bích ngọc;18 ở hàng thứ hai có nhận hồng ngọc, lam ngọc và kim cương;19 ở hàng thứ ba có nhận miêu nhãn thạch, mã não và tử ngọc;20 ở hàng thứ tư có nhận kim lục thạch, mã não có vân và vân thạch. Những viên ngọc đó sẽ được nhận vào những ổ bằng vàng.21 Các viên ngọc sẽ mang tên con cái Ít-ra-en: mười hai viên ngọc mang mười hai tên của chúng khắc theo kiểu dấu ấn, mỗi viên ngọc mang tên của một trong mười hai chi tộc.22 Ngươi sẽ làm cho túi đeo trước ngực những dây chuyền khoen lật bằng vàng ròng để làm dải buộc.23 Ngươi sẽ làm cho túi đó hai vòng bằng vàng, và ngươi sẽ đính hai vòng đó vào hai góc túi.24 Ngươi sẽ xâu hai dây chuyền khoen lật bằng vàng đó vào hai vòng đặt ở góc túi.25 Ngươi sẽ đặt hai đầu dây chuyền khoen lật vào hai ổ, rồi đặt lên cầu vai của áo ê-phốt, mặt phải.26 Ngươi sẽ làm hai vòng bằng vàng, rồi gắn vào hai đầu túi ở mép trong, mặt trái áp áo ê-phốt.27 Ngươi sẽ làm hai vòng bằng vàng, rồi đính vào hai cầu vai của áo ê-phốt bên dưới, mặt phải, gần chỗ buộc, bên trên băng chéo của áo ê-phốt.28 Người ta sẽ lấy một dải vải đỏ tía mà buộc các vòng của túi đeo trước ngực vào các vòng của áo ê-phốt, để túi đó nằm trên băng chéo của áo ê-phốt: như thế, túi sẽ không xê dịch được trên áo ê-phốt.29 Khi vào nơi thánh, A-ha-ron sẽ mang trên ngực tên con cái Ít-ra-en, làm kỷ vật vĩnh viễn trước nhan ĐỨC CHÚA, được ghi vào túi đeo trước ngực, chỗ đựng thẻ xăm phán quyết.30 Ngươi sẽ đặt các thẻ xăm phán quyết u-rim và tum-mim vào túi đeo trước ngực; những vật này sẽ nằm trên ngực A-ha-ron, khi ông đến trước nhan ĐỨC CHÚA. Như thế, trước nhan ĐỨC CHÚA, A-ha-ron sẽ luôn mang trên ngực phương tiện cho biết phán quyết của Thiên Chúa về con cái Ít-ra-en.

Áo khoác (Xh 39: 22 -26)

31 “Ngươi sẽ làm áo khoác toàn bằng sợi đỏ tía, để mặc dưới áo ê-phốt.32 Ở giữa, sẽ khoét cổ để chui đầu vào; chung quanh cổ áo, sẽ có một đường viền: đó là công trình của thợ dệt; cổ đó sẽ giống như cổ áo giáp, không sao rách được.33 Ngươi sẽ làm ở vòng quanh gấu dưới những quả lựu bằng chỉ đỏ tía, chỉ điều, chỉ đỏ thẫm; những lục lạc bằng vàng xen kẽ với những quả lựu, và ngươi sẽ làm như thế cho hết vòng:34 một lục lạc bằng vàng rồi một quả lựu, một lục lạc bằng vàng rồi một quả lựu, vòng quanh gấu dưới áo khoác.35 A-ha-ron sẽ mặc áo đó khi hành lễ. Người ta sẽ nghe tiếng lục lạc, khi ông đến nơi thánh, trước nhan ĐỨC CHÚA, và khi ông bước ra: như vậy, ông sẽ khỏi phải chết.

Dấu thánh hiến (Xh 39: 30 -31)

36 “Ngươi sẽ làm một huy hiệu bằng vàng ròng. Ngươi sẽ khắc trên đó những chữ sau đây, theo kiểu khắc dấu ấn: “Thánh hiến cho ĐỨC CHÚA.”37 Ngươi sẽ đính huy hiệu đó trên một dây bằng chỉ đỏ tía buộc vào mũ tế; huy hiệu đó sẽ ở mặt trước mũ tế.38 Huy hiệu đó sẽ ở trên trán A-ha-ron. Như vậy, A-ha-ron sẽ mang lấy những lỗi lầm con cái Ít-ra-en đã phạm liên quan đến những của thánh, khi chúng thánh hiến những lễ vật thánh. Huy hiệu đó sẽ luôn luôn ở trên trán ông, để ĐỨC CHÚA đoái nhận những của lễ ấy.39 Ngươi sẽ dệt một áo dài bằng sợi gai mịn, và làm một mũ tế cũng bằng sợi gai mịn. Ngươi sẽ làm một đai lưng: đó là công trình của thợ thêu.

Y phục của tư tế (Xh 39: 27 -29)

40 “Ngươi sẽ may áo dài cho các con ông A-ha-ron và làm đai lưng cho họ. Ngươi cũng sẽ làm cho họ những chiếc mũ để họ được vẻ uy nghi rực rỡ.41 Ngươi sẽ cho A-ha-ron anh ngươi, và các con ông mặc các phẩm phục ấy. Ngươi sẽ xức dầu cho họ, tấn phong và thánh hiến họ làm tư tế phục vụ Ta.42 Ngươi cũng sẽ may quần đùi bằng vải gai cho họ, để họ khỏi bị hở hang; quần đó sẽ che thân từ ngang lưng đến vế.43 A-ha-ron và các con ông sẽ mặc quần ấy lúc vào Lều Hội Ngộ, hoặc khi tiến đến gần bàn thờ để hành lễ trong nơi thánh; như thế, họ sẽ không mang tội và khỏi phải chết. Đó là một điều luật vĩnh viễn cho A-ha-ron và dòng dõi đến sau ông.

Ông A-ha-ron và các con ông được thánh hiến. Công việc chuẩn bị.

29.     1 “Đây là những việc ngươi sẽ thực hiện để thánh hiến họ làm tư tế phục vụ Ta. Ngươi hãy lấy một con bò tơ và hai con cừu đực toàn vẹn,2 lấy bánh không men, bánh ngọt không men nhào dầu và bánh tráng không men tẩm dầu; ngươi sẽ lấy tinh bột lúa miến để làm các thứ bánh đó.3 Ngươi sẽ đặt các thứ bánh đó trong cùng một giỏ và cứ để trong giỏ đó mà dâng lên Ta, cùng với con bò tơ và hai con cừu đực.

Thanh tẩy, mặc phẩm phục và xức dầu (Lv 8:1-13)

4 “Ngươi sẽ dẫn A-ha-ron và các con ông đến gần cửa Lều Hội Ngộ và lấy nước mà thanh tẩy họ.5 Rồi ngươi sẽ lấy các phẩm phục mặc cho A-ha-ron: áo dài, áo khoác mặc dưới áo ê-phốt, áo ê-phốt và túi đeo trước ngực; sau đó, ngươi sẽ cho ông đeo băng chéo của áo ê-phốt.6 Ngươi sẽ lấy mũ tế đội lên đầu ông, rồi ngươi sẽ đính huy hiệu, là dấu thánh hiến, vào mũ tế.7 Ngươi sẽ lấy dầu tấn phong mà đổ trên đầu A-ha-ron và xức dầu cho ông.

8 Ngươi sẽ cho các con ông A-ha-ron đến gần và mặc áo dài cho họ.9 Ngươi sẽ lấy đai lưng thắt cho A-ha-ron và các con ông. Ngươi sẽ lấy mũ đặt trên đầu họ. Chức tư tế sẽ thuộc về họ, đó là điều luật vĩnh viễn. Và ngươi sẽ làm lễ tấn phong A-ha-ron và các con ông.

Lễ vật (Lv 8:14 -24, 30)

10 “Ngươi sẽ dắt con bò đến trước Lều Hội Ngộ. A-ha-ron và các con ông sẽ đặt tay lên đầu con bò.11 Ngươi sẽ sát tế con bò đó trước nhan ĐỨC CHÚA, ở cửa Lều Hội Ngộ.12 Ngươi sẽ lấy máu con bò, dùng ngón tay mà bôi vào các góc bàn thờ, và đổ tất cả máu còn lại xuống trên bàn thờ.13 Ngươi sẽ lấy tất cả lớp mỡ bọc ngoài bộ lòng, cả khối mỡ trên gan, hai trái cật với lớp mỡ dính ngoài, mà đốt cho cháy nghi ngút trên bàn thờ.14 Nhưng thịt, da và phân bò, thì ngươi sẽ bỏ vào lửa mà thiêu ở ngoài trại: đó là lễ tạ tội.

15 Ngươi sẽ bắt một trong hai con cừu đực. A-ha-ron và các con ông sẽ đặt tay lên đầu nó.16 Ngươi sẽ sát tế con cừu đó, lấy máu rảy chung quanh bàn thờ.17 Ngươi sẽ chặt nó ra làm tư, rửa bộ lòng và cẳng, rồi đặt lên bốn phần thịt và đầu con vật.18 Sau đó, ngươi sẽ đốt trên bàn thờ tất cả con cừu cho cháy nghi ngút. Đó là lễ toàn thiêu dâng lên ĐỨC CHÚA, hương thơm làm đẹp lòng Người, đó là lễ hoả tế dâng ĐỨC CHÚA.

19 Ngươi sẽ bắt con cừu đực thứ hai. A-ha-ron và các con ông sẽ đặt tay lên đầu nó.20 Ngươi sẽ sát tế con cừu đó, rồi lấy máu bôi vào trái tai phải của A-ha-ron, vào trái tai phải của các con ông, vào ngón cái tay phải và ngón cái chân phải; rồi ngươi lấy máu còn lại rưới chung quanh bàn thờ.21 Ngươi sẽ lấy máu trên bàn thờ và dầu tấn phong rảy trên A-ha-ron và phẩm phục của ông, trên các con ông và phẩm phục của họ; như thế, A-ha-ron và phẩm phục của ông, các con ông và phẩm phục của họ, sẽ được thánh hiến.

Lễ tấn phong các tư tế (Lv 8:25 -29)

22 “Ngươi sẽ lấy mỡ con cừu, lấy đuôi, lớp mỡ bọc ngoài bộ lòng, khối mỡ của gan, hai trái cật với lớp mỡ dính ngoài, cũng như đùi bên phải; vì đó là con cừu dùng cho lễ tấn phong;23 ngươi cũng sẽ lấy một ổ bánh mì, một tấm bánh ngọt chiên với dầu và một tấm bánh tráng trong giỏ bánh không men ở trước nhan ĐỨC CHÚA;24 tất cả những thứ đó, ngươi sẽ đặt trên bàn tay A-ha-ron và trên bàn tay các con ông, rồi ngươi sẽ cử hành nghi thức tiến dâng trước nhan ĐỨC CHÚA.25 Sau đó, ngươi sẽ lấy lại các vật ấy từ tay họ và đem đốt cho cháy nghi ngút ở bàn thờ, bên trên của lễ toàn thiêu, khiến các vật ấy trở thành hương thơm trước nhan ĐỨC CHÚA, làm đẹp lòng Người: đó là lễ hoả tế dâng ĐỨC CHÚA.

26 Ngươi sẽ lấy cái ức con cừu dùng cho lễ tấn phong A-ha-ron, rồi ngươi sẽ cử hành nghi thức dâng tiến trước nhan ĐỨC CHÚA: đó sẽ là phần của ngươi.27 Ngươi sẽ thánh hiến cái ức đã được tiến dâng và cái đùi đã được tách ra: đó là phần đã được tiến dâng và tách ra từ con cừu dùng cho lễ tấn phong A-ha-ron và các con ông.28 Đó là những gì mà A-ha-ron và các con ông sẽ luôn luôn nhận được từ con cái Ít-ra-en, bởi vì đó là phần dâng cúng; con cái Ít-ra-en phải lấy một phần lễ vật để dâng cúng mỗi khi dâng hy lễ kỳ an; đó là phần dâng cúng ĐỨC CHÚA.

29 Lễ phục A-ha-ron mặc sẽ truyền lại cho các con đến sau ông; các con ông sẽ mặc lễ phục đó khi họ được xức dầu tấn phong.30 Trong vòng bảy ngày, người nào trong số các con ông thay thế ông làm tư tế và vào Lều Hội Ngộ để hành lễ trong nơi thánh, thì sẽ mặc lễ phục đó.

Tiệc thánh (Lv 8:31 -36)

31 “Ngươi sẽ lấy thịt con cừu đực dùng cho lễ tấn phong đem nấu trong nơi thánh.32 A-ha-ron và các con ông sẽ ăn thịt cừu và bánh trong giỏ, ở cửa Lều Hội Ngộ.33 Họ sẽ ăn các của lễ xá tội đã được dâng tiến để cử hành lễ tấn phong và thánh hiến họ; nhưng không người phàm nào được ăn những của ấy, vì đó là của thánh.34 Nếu đến sáng hôm sau còn thừa lại thịt ngày lễ tấn phong và bánh, thì ngươi sẽ đem đốt đi; không được ăn các thứ ấy, vì đó là của thánh.35 Ngươi sẽ làm như thế cho A-ha-ron và các con ông đúng như Ta đã truyền cho ngươi. Ngươi sẽ dành bảy ngày để làm lễ tấn phong cho họ.

Thánh hiến bàn thờ dâng lễ toàn thiêu

36 “Mỗi ngày ngươi sẽ lấy một con bò mà dâng lễ tạ tội, làm lễ vật xá tội; ngươi sẽ dâng lễ tạ tội để thanh tẩy bàn thờ khi cử hành lễ xá tội trên đó, rồi xức dầu bàn thờ để thánh hiến.37 Trong bảy ngày, ngươi sẽ cử hành lễ xá tội trên bàn thờ và sẽ thánh hiến bàn thờ. Như thế, bàn thờ sẽ là vật rất thánh; tất cả những gì chạm đến bàn thờ cũng sẽ là vật thánh.

Lễ toàn thiêu thường nhật (Đn 28: 3-8)

38 “Đây là những gì ngươi sẽ dâng trên bàn thờ: hai con chiên một tuổi, ngày nào cũng vậy, phải giữ như thế mãi mãi.39 Ngươi sẽ dâng một con lúc sáng, còn con thứ hai thì dâng vào lúc chập tối.40 Cùng với con chiên thứ nhất, ngươi sẽ dâng bốn lít rưỡi tinh bột lúa miến nhào với hai lít dầu ô-liu giã trong cối, và lấy hai lít rượu nho làm rượu tế.41 Còn con chiên thứ hai, ngươi sẽ dâng vào lúc chập tối, và dâng cùng với lễ phẩm và lễ tưới rượu như ban sáng. Đó là hương thơm làm đẹp lòng ĐỨC CHÚA, là lễ hoả tế dâng ĐỨC CHÚA.42 Đó là lễ toàn thiêu phải dâng luôn mãi qua mọi thế hệ, ở cửa Lều Hội Ngộ, trước nhan ĐỨC CHÚA, nơi Ta sẽ gặp gỡ các ngươi, để nói chuyện với ngươi.

43 Chính đó là nơi Ta gặp gỡ con cái Ít-ra-en, Ta sẽ lấy vinh quang của Ta mà thánh hiến nơi đó.44 Ta sẽ thánh hiến Lều Hội Ngộ và bàn thờ, Ta cũng sẽ thánh hiến A-ha-ron và các con ông làm tư tế phục vụ Ta.45 Ta sẽ ngự giữa con cái Ít-ra-en và sẽ là Thiên Chúa của chúng.46 Và chúng sẽ biết rằng chính Ta là ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của chúng, Đấng đã đưa chúng ra khỏi đất Ai-cập để ngự giữa chúng, chính Ta là ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của chúng.

Hương án (Xh 37: 25 -28)

30.     1 “Ngươi sẽ làm một bàn thờ để đốt hương; ngươi sẽ làm bằng gỗ keo.2 Hương án đó sẽ dài nửa thước, rộng nửa thước -nghĩa là hình vuông- và cao một thước; các góc hình sừng làm thành một khối với hương án.3 Ngươi sẽ lấy vàng ròng mà bọc hương án: mặt trên, bốn mặt chung quanh và các góc hình sừng. Chung quanh hương án, ngươi sẽ làm một đường viền bằng vàng.4 Ngươi sẽ làm hai vòng bằng vàng, phía dưới đường viền, ở hai bên sườn; ngươi sẽ làm hai vòng đó ở hai bên, để xỏ đòn khiêng hương án.5 Ngươi sẽ làm những cây đòn bằng gỗ keo bọc vàng.6 Ngươi sẽ đặt hương án đó trước bức trướng che Hòm Bia Chứng Ước, trước nắp xá tội nằm ở trên Chứng Ước là nơi Ta sẽ gặp gỡ ngươi.7 Trên đó, A-ha-ron sẽ đốt hương thơm: sáng nào, ông ấy cũng đốt hương thơm khi chuẩn bị dầu đèn,8 và lúc A-ha-ron thắp đèn lên vào chập tối, ông ấy cũng sẽ đốt hương thơm: đó là hương vĩnh viễn dâng trước nhan ĐỨC CHÚA qua mọi thế hệ của các ngươi.9 Trên hương án đó, các ngươi sẽ không dâng các thứ hương thường, hay lễ toàn thiêu, hoặc lễ phẩm; các ngươi cũng không tưới rượu tế trên đó.10 Mỗi năm một lần, A-ha-ron sẽ cử hành lễ xá tội trên các góc hương án đó. Qua mọi thế hệ, các ngươi sẽ lấy máu con vật dùng trong lễ tạ tội, dâng vào ngày xá tội mỗi năm một lần, mà cử hành lễ xá tội, trên các góc hương án. Đó sẽ là vật rất thánh dâng ĐỨC CHÚA.”

Thuế thân

11 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê:12 “Khi nào ngươi kiểm tra dân số để biết số con cái Ít-ra-en, thì mỗi người dân phải dâng lên ĐỨC CHÚA tiền chuộc mạng trong lúc kiểm tra dân số; và như thế sẽ không có tai ương nào xảy ra trong lúc kiểm tra dân số.13 Đây là những gì mà bất cứ ai thuộc diện kiểm tra dân số phải nộp: hai chỉ bạc, tính theo đơn vị đo lường của thánh điện; hai chỉ bạc đó sẽ là phần dâng cúng ĐỨC CHÚA.14 Bất cứ ai thuộc diện kiểm tra dân số, từ hai mươi tuổi trở lên, sẽ phải nộp phần dâng cúng ĐỨC CHÚA.15 Người giàu sẽ không nộp hơn hai chỉ bạc, và người nghèo sẽ không nộp ít hơn, để dâng cúng ĐỨC CHÚA mà chuộc mạng mình.16 Ngươi sẽ lấy tiền con cái Ít-ra-en chuộc mạng mà dùng vào việc phục vụ Lều Hội Ngộ: đối với con cái Ít-ra-en, đó sẽ là kỷ vật trước nhan ĐỨC CHÚA nhắc nhở rằng các ngươi đã chuộc mạng.”

Vạc đồng

17 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê:18 “Ngươi sẽ làm một cái vạc đồng có đế cũng bằng đồng dùng vào việc tẩy rửa; ngươi sẽ đặt cái vạc đó giữa Lều Hội Ngộ và bàn thờ. Ngươi sẽ đổ nước vào đó;19 A-ha-ron và các con ông sẽ dùng nước đó mà tẩy rửa tay chân.20 Khi vào Lều Hội Ngộ, họ sẽ lấy nước đó mà tẩy rửa để khỏi phải chết; hoặc khi tiến đến bàn thờ để hành lễ, để đốt của lễ hoả tế mà dâng ĐỨC CHÚA, thì cũng vậy.21 Họ sẽ tẩy rửa tay chân để khỏi phải chết. Đó sẽ là điều luật vĩnh viễn cho họ, cho A-ha-ron và dòng dõi ông qua mọi thế hệ.”

Dầu tấn phong

22 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê:23 “Phần ngươi, hãy lo cho có hương liệu hảo hạng: năm ký mộc dược nguyên chất; một nửa nghĩa là hai ký rưỡi hương nhục quế; hai ký rưỡi hương quế thanh;24 năm ký quế bì, tính theo đơn vị đo lường của thánh điện, và bảy lít dầu ô-liu.25 Ngươi sẽ lấy những thứ đó pha chế thành dầu thánh để tấn phong, hợp chất các hương dược này là sản phẩm của thợ chế nước hoa: đó sẽ là dầu thánh để tấn phong.26 Ngươi sẽ xức dầu Lều Hội Ngộ và Hòm Bia Chứng Ước,27 bàn và mọi đồ phụ tùng, trụ đèn và các đồ phụ tùng, hương án,28 bàn thờ dâng lễ toàn thiêu và mọi đồ phụ tùng, vạc và đế vạc.29 Ngươi sẽ thánh hiến các đồ vật ấy; và các đồ vật ấy sẽ là một cái gì rất thánh: tất cả những gì chạm đến các đồ vật ấy sẽ là đồ vật thánh.30 Ngươi cũng xức dầu cho A-ha-ron và các con ông; ngươi sẽ thánh hiến họ làm tư tế phục vụ Ta.31 Ngươi sẽ nói lại với con cái Ít-ra-en: “Đó sẽ là dầu thánh của Ta, dùng để tấn phong qua mọi thế hệ.”32 Sẽ không được đổ dầu xuống trên da thịt người thường, và các ngươi cũng không được chế một thứ dầu nào khác giống thứ dầu này: đó là một vật thánh, các ngươi sẽ coi như một vật thánh.33 Kẻ nào chế một hương thơm giống như thế mà xức cho người phàm, thì sẽ bị khai trừ khỏi dân nó.”

Hương thơm

34 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê: “Ngươi hãy lấy các thứ hương chất: tô hợp hương, hương loa, phong tử hương, các hương chất và nhũ hương nguyên chất; số lượng mỗi thứ sẽ đồng đều.35 Ngươi sẽ lấy các thứ hương chất đó chế thành hương để đốt: hợp chất các hương này sẽ là sản phẩm của thợ làm hương; hương đó sẽ là hương pha muối, nguyên chất, và là hương thánh.36 Ngươi sẽ lấy một phần tán thành bột, và sẽ đặt trước Chứng Ước, trong Lều Hội Ngộ, nơi Ta sẽ gặp gỡ ngươi. Đối với các ngươi, đó sẽ là một vật rất thánh.37 Các ngươi sẽ không được chế hương theo kiểu ấy mà dùng: đối với ngươi, đó sẽ là một vật thánh, dành riêng cho ĐỨC CHÚA.38 Kẻ nào chế hương như thế để ngửi mùi thơm, thì sẽ bị khai trừ khỏi dân nó.”

Thợ dựng nơi thánh (Xh 35: 30 -36, 1)

31.     1 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê:2 “Ngươi hãy coi: Ta đã gọi đích danh Bơ-xan-ên con của U-ri, con của Khua, thuộc chi tộc Giu-đa.3 Ta sẽ ban cho nó dồi dào thần khí của Thiên Chúa, để nó thành người khéo tay, giỏi giang và lành nghề mà làm mọi công việc,4 để nó nghĩ ra những tác phẩm nghệ thuật, làm bằng vàng, bạc, hay đồng,5 mài ngọc đính áo, chạm gỗ và thực hiện mọi công việc.6 Này Ta đã cho nó một người phụ tá là O-ho-li-áp, con của A-khi-xa-mác, thuộc chi tộc Đan. Và Ta ban cho mọi người thợ khéo tay được lòng trí khôn ngoan, để họ làm tất cả những gì Ta đã truyền cho ngươi:7 Lều Hội Ngộ, Hòm Bia Chứng Ước, nắp xá tội trên Hòm Bia, và tất cả đồ đạc trong lều;8 bàn và các đồ phụ tùng; trụ đèn bằng vàng ròng và mọi đồ phụ tùng; hương án;9 bàn dâng lễ toàn thiêu và mọi đồ phụ tùng; vạc và đế vạc;10 phẩm phục và lễ phục dành cho tư tế A-ha-ron và y phục các con ông mặc để thi hành chức tư tế;11 dầu tấn phong và hương thơm dùng trong nơi thánh. Họ sẽ làm đúng theo mọi điều Ta đã truyền cho ngươi.”

Nghỉ ngày sa-bát

12 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê:13 “Phần ngươi, hãy nói với con cái Ít-ra-en: cách riêng, các ngươi sẽ giữ các ngày sa-bát của Ta, bởi vì đó là một dấu hiệu giữa Ta và con cái các ngươi qua mọi thế hệ, để người ta biết rằng chính Ta là ĐỨC CHÚA, Đấng thánh hiến các ngươi.14 Các ngươi sẽ giữ ngày sa-bát, vì đó là ngày thánh đối với các ngươi. Kẻ nào vi phạm điều ấy, thì sẽ bị xử tử; phải, kẻ nào làm việc trong ngày ấy, sẽ bị khai trừ khỏi dân nó.15 Trong sáu ngày, người ta sẽ làm việc, nhưng ngày thứ bảy là một ngày sa-bát, một ngày nghỉ hoàn toàn, dâng ĐỨC CHÚA: kẻ nào làm việc trong ngày sa-bát sẽ bị xử tử.16 Con cái Ít-ra-en sẽ giữ ngày sa-bát, nghĩa là nghỉ ngơi trong ngày đó, qua mọi thế hệ: đó là một giao ước vĩnh viễn.17 Đó là một dấu hiệu vĩnh viễn giữa Ta và con cái Ít-ra-en; vì trong sáu ngày ĐỨC CHÚA đã dựng nên trời đất, nhưng ngày thứ bảy Người đã ngưng các việc và nghỉ xả hơi.”

Thiên Chúa trao cho ông Mô-sê các tấm bia ghi Lề Luật

18 Sau khi phán với ông Mô-sê trên núi Xi-nai, ĐỨC CHÚA ban cho ông hai tấm bia Chứng Ước, hai tấm bia đá do chính tay Thiên Chúa viết.

5. CON BÊ BẰNG VÀNG. TÁI LẬP GIAO ƯỚC.

Con bê bằng vàng

32.     1 Dân thấy ông Mô-sê lâu quá không xuống núi, bèn tụ họp bên ông A-ha-ron và nói với ông: “Xin ông đứng lên, làm cho chúng tôi một vị thần để dẫn đầu chúng tôi, vì chúng tôi không biết chuyện gì đã xảy ra cho cái ông Mô-sê này, là người đã đưa chúng tôi lên từ đất Ai-cập.”2 Ông A-ha-ron nói với họ: “Hãy gỡ các khuyên vàng mà vợ và con trai con gái anh em đeo ở tai, rồi đem đến cho tôi.”3 Toàn dân gỡ các khuyên vàng đeo tai và đem đến cho ông A-ha-ron.4 Ông lấy vàng từ tay họ trao cho, đem đúc và dùng dao mà gọt đẽo thành một con bê. Bấy giờ họ nói: “Hỡi Ít-ra-en, đây là thần của ngươi đã đưa ngươi lên từ đất Ai-cập.”5 Thấy vậy, ông A-ha-ron dựng một bàn thờ trước tượng con bê, rồi hô to: “Mai có lễ kính ĐỨC CHÚA! ”

6 Ngay hôm sau, họ dậy sớm, dâng tiến những của lễ toàn thiêu và những lễ vật kỳ an. Dân ngồi xuống ăn uống, rồi đứng lên bày trò vui chơi.

ĐỨC CHÚA báo tin cho Mô-sê (Đnl 9: 12 -14)

7 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê: “Hãy đi xuống, vì dân ngươi đã hư hỏng rồi, dân mà ngươi đã đưa lên từ đất Ai-cập.8 Chúng đã vội đi ra ngoài con đường Ta truyền cho chúng đi. Chúng đã đúc một con bê, rồi sụp xuống lạy nó, tế nó và nói: “Hỡi Ít-ra-en, đây là thần của ngươi đã đưa ngươi lên từ đất Ai-cập.”9 ĐỨC CHÚA lại phán với ông Mô-sê: “Ta đã thấy dân này rồi, đó là một dân cứng đầu cứng cổ.10 Bây giờ cứ để mặc Ta, cứ để cơn thịnh nộ của Ta bừng lên phạt chúng, và Ta sẽ tiêu diệt chúng. Nhưng Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn.”

Ông Mô-sê chuyển cầu cho dân (Đnl 9:26 -29)

11 Ông Mô-sê cố làm cho nét mặt ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ông, dịu lại. Ông thưa: “Lạy ĐỨC CHÚA, tại sao Ngài lại bừng bừng nổi giận với dân Ngài, dân mà Ngài đã giơ cánh tay mạnh mẽ uy quyền đưa ra khỏi đất Ai-cập?12 Tại sao người Ai-cập lại có thể rêu rao: Chính vì ác tâm mà Người đã đưa chúng ra, để giết chúng trong miền núi và tiêu diệt chúng khỏi mặt đất? Xin Ngài nguôi cơn thịnh nộ và xin Ngài thương đừng hại dân Ngài.13 Xin Ngài nhớ đến các tôi tớ Ngài là Áp-ra-ham, I-xa-ác và Ít-ra-en; Ngài đã lấy chính danh Ngài mà thề với các vị ấy rằng: Ta sẽ làm cho dòng dõi các ngươi đông đúc như sao trên trời, và sẽ ban cho dòng dõi các ngươi tất cả miền đất ấy, là miền đất Ta đã hứa; chúng sẽ được thừa hưởng miền đất ấy đến muôn đời.”14 ĐỨC CHÚA đã thương, không giáng phạt dân Người như Người đã đe.

Ông Mô-sê đập vỡ các tấm bia Lề Luật

15 Ông Mô-sê từ núi trở xuống, tay cầm hai tấm bia Chứng Ước; những bia ấy có viết cả hai mặt, mặt trước cũng như mặt sau.16 Những bia ấy là do Thiên Chúa làm ra, chữ là chữ của Thiên Chúa, khắc trên các bia.

17 Ông Giô-suê nghe tiếng dân reo hò, thì nói với ông Mô-sê: “Có tiếng giao tranh trong trại! “18 Nhưng ông Mô-sê nói:
“Tôi nghe không phải tiếng ca chiến thắng,
không phải lời than bại trận mà là tiếng ca đối đáp! ”

19 Vậy khi đến gần trại, ông thấy con bê và những bọn người đang nhảy múa. Ông Mô-sê nổi cơn thịnh nộ: Ông ném các tấm bia đang cầm trong tay và đập vỡ dưới chân núi.20 Ông lấy con bê họ đã làm, đốt đi, tán nhuyễn ra, rắc lên mặt nước, rồi bắt con cái Ít-ra-en uống.

Vai trò của ông A-ha-ron trong lỗi lầm của dân

21 Ông Mô-sê bảo ông A-ha-ron: “Dân này đã làm gì ông mà ông đưa họ tới chỗ phạm một tội lớn như thế? “22 Ông A-ha-ron nói: “Xin ngài chớ bừng bừng nổi giận; chính ngài biết: dân này có khuynh hướng xấu.23 Họ nói với tôi: Xin ông làm cho chúng tôi một vị thần để dẫn đầu chúng tôi, vì chúng tôi không biết chuyện gì đã xảy ra cho cái ông Mô-sê này, là người đã đưa chúng tôi lên từ đất Ai-cập.24 Tôi nói với họ: Ai có vàng? Họ đã gỡ đồ vàng đeo tai và đưa cho tôi; tôi ném vào lửa, và đã ra con bê này.”

Lòng nhiệt thành của các thầy Lê-vi

25 Ông Mô-sê thấy dân sống buông thả, vì ông A-ha-ron đã để họ sống buông thả, khiến họ nên trò cười cho địch thủ của họ.26 Ông Mô-sê đứng ở cổng trại và hô: “Ai thờ ĐỨC CHÚA thì theo tôi! ” Tất cả con cái ông Lê-vi đều tập họp bên ông Mô-sê.27 Ông bảo họ: “ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của Ít-ra-en, phán thế này: Mỗi người hãy đeo gươm vào. Hãy đi đi lại lại trong khắp trại, từ cửa này sang cửa khác mà giết: kẻ thì giết anh em, người thì giết bạn hữu, kẻ thì giết người thân cận của mình.”28 Con cái ông Lê-vi đã làm theo lời ông Mô-sê; trong ngày ấy, có ba ngàn người trong dân đã ngã gục.29 Ông Mô-sê nói: “Hôm nay, anh em được phong chức để phục vụ ĐỨC CHÚA, vì kẻ thì đã hy sinh con mình, kẻ thì đã hy sinh anh em mình, khiến Người chúc phúc cho anh em hôm nay.”

Ông Mô-sê lại chuyển cầu cho dân

30 Ngày hôm sau, ông Mô-sê nói với dân: “Anh em đã phạm một tội lớn, nhưng giờ đây tôi sắp lên gặp ĐỨC CHÚA; may ra tôi sẽ xin được Người xá tội cho anh em.”31 Ông Mô-sê trở lại với ĐỨC CHÚA và thưa: “Than ôi, dân này đã phạm một tội lớn! Họ đã làm cho mình một tượng thần bằng vàng!32 Nhưng giờ đây, ước gì Ngài miễn chấp tội họ! Bằng không, thì xin Ngài xoá tên con khỏi cuốn sách Ngài đã viết.”33 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê: “Kẻ nào phạm tội làm mất lòng Ta, Ta sẽ xoá tên nó khỏi cuốn sách của Ta.34 Bây giờ, ngươi hãy đi, đưa dân tới nơi Ta đã chỉ cho ngươi. Này thiên sứ của Ta sẽ đi trước mặt ngươi; nhưng đến ngày Ta trừng phạt, Ta sẽ trừng phạt chúng vì tội đã phạm.”35 ĐỨC CHÚA đánh phạt dân vì họ đã đúc con bê, chính con bê mà ông A-ha-ron đã đúc.

Lệnh lên đường

33.     1 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê: “Ngươi hãy đi, từ nơi đây ngươi hãy đi lên cùng với dân mà ngươi đã đưa lên từ đất Ai-cập, tới đất Ta đã hứa ban cho Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp, khi phán: Ta sẽ ban đất này cho dòng dõi ngươi.2 Ta sẽ sai một thiên sứ đi trước mặt (các) ngươi và Ta sẽ đuổi người Ca-na-an, người E-mô-ri, người Khết và người Pơ-rít-di, người Khi-vi và người Giơ-vút.3 Ta sẽ cho (các) ngươi vào một miền đất tràn trề sữa và mật; nhưng Ta sẽ không đi lên đó cùng với (các) ngươi, vì (các) ngươi là một dân cứng đầu cứng cổ; vì nếu cùng đi, thì e rằng Ta sẽ tiêu diệt các ngươi dọc đường! “4 Dân nghe lời chẳng lành ấy thì mặc áo tang; không ai mang đồ trang sức trên mình.5 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê: “Ngươi hãy nói với con cái Ít-ra-en: các ngươi là một dân cứng đầu cứng cổ! Ta mà cùng đi lên với các ngươi dù chỉ một chốc lát thôi, thì Ta sẽ tiêu diệt (các) ngươi! Vậy, bây giờ (các) ngươi hãy bỏ các đồ trang sức đi, rồi Ta xem sẽ phải đối xử với (các) ngươi thế nào! “6 Con cái Ít-ra-en đã bỏ đồ trang sức từ khi ở núi Khô-rếp.

Lều Hội Ngộ

7 Ông Mô-sê lấy một chiếc lều và đem dựng cho mình bên ngoài trại, cách một quãng xa. Ông gọi lều ấy là Lều Hội Ngộ. Ai thỉnh ý ĐỨC CHÚA thì ra Lều Hội Ngộ, ở ngoài trại.8 Mỗi khi ông Mô-sê ra Lều, toàn dân đứng lên, ai nấy đứng ở cửa lều mình và nhìn theo ông Mô-sê cho đến khi ông vào trong Lều.9 Mỗi khi ông Mô-sê vào trong Lều, thì cột mây đáp xuống, đứng ở cửa Lều, và ĐỨC CHÚA đàm đạo với ông Mô-sê.10 Khi thấy cột mây đứng ở cửa Lều, toàn dân đứng dậy; và ai nấy phủ phục ở cửa lều mình.11 ĐỨC CHÚA đàm đạo với ông Mô-sê, mặt giáp mặt, như hai người bạn với nhau. Rồi ông Mô-sê trở về trại; nhưng phụ tá của ông là chàng thanh niên Giô-suê, con ông Nun, thì cứ ở trong Lều, không rời khỏi đó.

Ông Mô-sê chuyển cầu cho dân

12 Ông Mô-sê thưa với ĐỨC CHÚA: “Xin Ngài coi, chính Ngài đã phán với con: “Hãy đưa dân ấy lên, vậy mà Ngài lại không cho con biết Ngài sẽ cử ai đi với con. Tuy nhiên chính Ngài đã phán: Ta biết đích danh ngươi, và hơn nữa ngươi đã được nghĩa với Ta.13 Vậy bây giờ, nếu quả thật con đã được nghĩa với Ngài, xin khấng tỏ cho con biết đường lối của Ngài, để con biết Ngài, và được nghĩa với Ngài. Xin cũng coi dân tộc này là dân của Ngài.”14 ĐỨC CHÚA phán: “Đích thân Ta sẽ đi, và Ta sẽ cho ngươi được nghỉ ngơi.”15 Ông Mô-sê thưa với Người: “Nếu Ngài không đích thân đi, xin Ngài đừng đưa chúng con lên khỏi đây.16 Nhưng làm thế nào biết được là con và dân của Ngài được nghĩa với Ngài? Há chẳng phải vì có Ngài đi với chúng con sao? Như thế, con và dân của Ngài mới khác với mọi dân trên mặt đất.”17 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê: “Ngay cả điều ngươi vừa nói đó, Ta cũng sẽ làm, vì ngươi đã được nghĩa với Ta, và Ta biết đích danh ngươi.”

Ông Mô-sê ở trên núi

18 Ông Mô-sê nói: “Xin Ngài thương cho con được thấy vinh quang của Ngài.”19 Người phán: “Ta sẽ cho tất cả vẻ đẹp của Ta đi qua trước mặt ngươi, và sẽ xưng danh Ta là ĐỨC CHÚA trước mặt ngươi. Ta thương ai thì thương, xót ai thì xót.”20 Người phán: “Ngươi không thể xem thấy tôn nhan Ta, vì con người không thể thấy Ta mà vẫn sống.”21 ĐỨC CHÚA còn phán: “Đây là chỗ gần Ta; ngươi sẽ đứng trên tảng đá.22 Khi vinh quang của Ta đi qua, Ta sẽ đặt ngươi vào trong hốc đá, và lấy bàn tay che ngươi cho đến khi Ta đã đi qua.23 Rồi Ta sẽ rút tay lại, và ngươi sẽ xem thấy lưng Ta, còn tôn nhan Ta thì không được thấy.”

Tái lập giao ước. Các bia ghi Lề Luật. (Đnl 10: 1-5)

34.     1 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê: “Ngươi hãy đẽo hai bia đá giống như hai bia trước. Và Ta sẽ ghi lại trên đó những lời đã ghi trên các bia trước mà ngươi đã đập vỡ.2 Ngươi hãy chuẩn bị sẵn sàng cho sáng ngày mai. Ngay từ sáng, ngươi hãy lên núi Xi-nai và đứng chờ Ta ở đó, trên đỉnh núi.3 Không ai được lên với ngươi; cũng không ai được xuất hiện trên khắp vùng núi; ngay cả bò bê hay dê cừu cũng không được ăn cỏ trên sườn núi đó.”4 Vậy ông Mô-sê đẽo hai bia đá giống như những bia trước; rồi sáng sớm ông thức dậy và lên núi Xi-nai theo lệnh của ĐỨC CHÚA, tay mang hai bia đá.

ĐỨC CHÚA hiện ra

5 ĐỨC CHÚA ngự xuống trong đám mây và đứng đó với ông. Người xưng danh Người là ĐỨC CHÚA.6 ĐỨC CHÚA đi qua trước mặt ông và xướng: “ĐỨC CHÚA! ĐỨC CHÚA! Thiên Chúa nhân hậu và từ bi, hay nén giận, giàu nhân nghĩa và thành tín,7 giữ lòng nhân nghĩa với muôn ngàn thế hệ, chịu đựng lỗi lầm, tội ác và tội lỗi, nhưng không bỏ qua điều gì, và trừng phạt con cháu đến ba bốn đời vì lỗi lầm của cha ông.”8 Ông Mô-sê vội vàng phục xuống đất thờ lạy9 và thưa: “Lạy Chúa, nếu quả thật con được nghĩa với Chúa, thì xin Chúa cùng đi với chúng con. Dân này là một dân cứng đầu cứng cổ, nhưng xin Ngài tha thứ những lỗi lầm và tội lỗi của chúng con, và nhận chúng con làm cơ nghiệp của Ngài.”

Giao Ước (Xh 23: 14 -19; Đnl 7:1-5; 16: 1-17)

10 ĐỨC CHÚA phán: “Này Ta sắp lập một giao ước. Trước mặt toàn dân của ngươi, Ta sẽ làm những việc lạ lùng chưa hề được thực hiện trong một nước hay một dân nào. Toàn dân ở chung quanh ngươi sẽ thấy việc ĐỨC CHÚA làm, vì điều Ta sắp dùng ngươi mà làm thì thật đáng sợ.11 Hãy giữ kỹ điều Ta truyền cho ngươi hôm nay. Này Ta sắp đuổi cho khuất mắt ngươi những người E-mô-ri, Ca-na-an, Khết, Pơ-rít-di, Khi-vi, Giơ-vút.12 Hãy ý tứ, đừng lập giao ước với dân cư trong xứ nơi ngươi sắp vào, kẻo chúng trở thành một cạm bẫy ở giữa ngươi.13 Trái lại, bàn thờ của chúng, phải phá huỷ, trụ đá của chúng, phải đập tan, cột thờ của chúng, phải chặt đi.14 Vậy ngươi không được phủ phục trước một thần nào khác, vì ĐỨC CHÚA mang danh là Đấng ghen tương, Người là một Vị Thần ghen tương.

15 Ngươi không được lập giao ước với dân cư trong xứ, kẻo khi chúng đàng điếm với các thần của chúng và tế họ, chúng sẽ mời ngươi và ngươi sẽ ăn đồ cúng của chúng,16 ngươi sẽ kén vợ cho con trai ngươi trong số con gái chúng, con gái chúng sẽ đàng điếm với các thần của chúng và làm cho con trai ngươi đàng điếm với các thần đó.

17 Ngươi không được đúc tượng thần.

18 Ngươi sẽ giữ tục lệ mừng lễ Bánh Không Men: trong bảy ngày, ngươi sẽ ăn bánh không men vào thời chỉ định trong tháng A-víp, như Ta đã truyền cho ngươi, vì trong tháng A-víp ngươi đã ra khỏi Ai-cập.

19 Mọi con đầu lòng đều thuộc về Ta: mọi con đực trong súc vật ngươi, con đầu lòng của bò cũng như của chiên.20 Mọi con đầu lòng của giống lừa, ngươi sẽ lấy một con chiên mà chuộc lại, nếu ngươi không chuộc lại thì đánh gãy ót nó đi; còn mọi con đầu lòng trong số con cái ngươi, thì ngươi sẽ chuộc lại. Người ta không được đến tay không trước nhan Ta.

21 Trong sáu ngày, ngươi sẽ lao động, nhưng ngày thứ bảy ngươi sẽ nghỉ; dù đang vụ cày hay vụ gặt, ngươi cũng sẽ nghỉ.

22 Ngươi sẽ mừng lễ các Tuần, dâng lúa mì đầu mùa, rồi mừng lễ Thu hoạch cuối năm.

23 Mỗi năm ba lần, tất cả đàn ông con trai của ngươi phải đến trước nhan Chúa Tể là ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của Ít-ra-en.

24 Ta sẽ truất hữu các dân cho chúng đi khuất mắt ngươi, và mở rộng bờ cõi ngươi; sẽ không có ai ham chiếm đất của ngươi khi ngươi đi lên để đến trước nhan ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa của ngươi, mỗi năm ba lần.

25 Ngươi không được lấy máu của một tế vật nào mà dâng lên Ta cùng với bánh có men; tế vật lễ Vượt Qua, ngươi không được giữ lại qua đêm cho đến sáng.

26 Của đầu mùa tốt nhất của đất đai ngươi, ngươi phải đem đến nhà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ngươi. Ngươi không được lấy sữa dê mẹ mà nấu thịt dê con.”

27 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê: “Hãy ghi chép những lời này, vì dựa trên chính những lời này mà Ta đã lập giao ước với ngươi và với Ít-ra-en.”

28 Ông ở đó với ĐỨC CHÚA bốn mươi ngày bốn mươi đêm, không ăn không uống, và ông viết trên những bia các điều khoản của giao ước, tức là Thập Điều.

Ông Mô-sê lại xuống núi

29 Ông Mô-sê từ trên núi Xi-nai xuống, tay cầm hai tấm bia Chứng Ước, khi xuống núi, ông Mô-sê không biết rằng da mặt ông sáng chói bởi đã đàm đạo với Thiên Chúa.30 Khi ông A-ha-ron và toàn thể con cái con Ít-ra-en thấy ông Mô-sê, thì này đây da mặt ông sáng chói, nên họ sợ không dám lại gần ông.31 Ông Mô-sê gọi họ: ông A-ha-ron và các đầu mục của cộng đồng trở lại với ông, và ông nói chuyện với họ.32 Sau đó, toàn thể con cái Ít-ra-en lại gần ông, và ông truyền cho họ tất cả những điều ĐỨC CHÚA đã phán với ông trên núi Xi-nai.33 Nói với họ xong, ông lấy khăn che mặt đi.34 Khi vào trước nhan ĐỨC CHÚA để đàm đạo với Người, thì ông bỏ khăn cho đến lúc trở ra; ông trở ra và nói lại với con cái Ít-ra-en những mệnh lệnh ông đã nhận được.35 Con cái Ít-ra-en nhìn mặt ông Mô-sê thấy da mặt ông sáng chói; ông Mô-sê lại lấy khăn che mặt, cho đến khi vào đàm đạo với Thiên Chúa.

6. DỰNG NƠI THÁNH

Luật nghỉ ngày sa-bát

35.     1 Ông Mô-sê triệu tập toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en và nói: “Đây là những điều ĐỨC CHÚA truyền phải thi hành:2 Trong sáu ngày, người ta sẽ làm việc, nhưng đối với anh em, ngày thứ bảy sẽ là một ngày thánh, một ngày sa-bát, một ngày nghỉ hoàn toàn, dành cho ĐỨC CHÚA; kẻ nào làm việc trong ngày ấy sẽ bị xử tử.3 Anh em sẽ không được đốt lửa trong ngày sa-bát tại những nơi anh em ở.”

Quyên góp vật liệu (Xh 25 : 1-9; 39: 33 -43 )

4 Ông Mô-sê nói với toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en: “Đây là điều ĐỨC CHÚA đã truyền:5 Anh em hãy lấy của cải mình mà đóng góp vào việc thờ phượng ĐỨC CHÚA. Ai có nhiệt tâm hãy mang đến phần dâng cúng dành cho ĐỨC CHÚA: vàng, bạc và đồng,6 vải đỏ tía, vải điều, vải đỏ thẫm, vải gai mịn và lông dê,7 da cừu nhuộm đỏ và da cá heo, gỗ keo,8 dầu thắp đèn, hương liệu để chế dầu tấn phong và làm hương thơm,9 hồng mã não và ngọc quý để đính vào áo ê-phốt và túi đeo trước ngực.10 Trong anh em, ai là người khéo tay thì hãy đến thực hiện tất cả những gì ĐỨC CHÚA đã truyền:11 Nhà Tạm, lều và bạt, móc, ván, thanh ngang, cột và đế,12 Hòm Bia và đòn khiêng, nắp xá tội, bức trướng làm màn che,13 bàn và đòn khiêng, mọi đồ phụ tùng và bánh tiến,14 trụ đèn và các đồ phụ tùng, đèn và dầu thắp đèn,15 hương án và đòn khiêng, dầu tấn phong và hương thơm, màn che cửa Nhà Tạm,16 bàn thờ dâng lễ toàn thiêu và vỉ đồng, đòn khiêng và mọi đồ phụ tùng; vạc và đế,17 rèm chung quanh khuôn viên, cột và đế, màn che cửa khuôn viên,18 cọc Nhà Tạm và cọc khuôn viên cũng như dây thừng;19 phẩm phục để hành lễ trong nơi thánh; lễ phục dành cho tư tế A-ha-ron và y phục các con ông mặc để thi hành chức tư tế.”

20 Toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en rời ông Mô-sê mà lui ra.21 Rồi những người có nhiệt tâm, mọi kẻ có tinh thần kéo đến, mang theo phần của mình dâng cúng ĐỨC CHÚA, để dựng Lều Hội Ngộ và làm những công việc liên quan đến Lều, cũng như để may lễ phục.22 Đàn ông cũng như đàn bà kéo nhau đến: tất cả những người có nhiệt tâm đem tới nào trâm, khuyên, nào nhẫn với kiềng, mọi thứ đồ vàng; ai nấy đều lấy vàng làm lễ vật dâng ĐỨC CHÚA.23 Những người có sẵn trong nhà vải đỏ tía, vải điều, vải đỏ thẫm, vải gai mịn và lông dê, da cừu nhuộm đỏ và da cá heo, thì cũng đem tới.24 Tất cả những ai lấy bạc và đồng mà dâng cúng, thì đem phần ấy dâng cho ĐỨC CHÚA; và tất cả những ai có sẵn trong nhà gỗ keo để dùng vào mọi công việc cần đến, thì cũng đem tới.25 Mọi phụ nữ khéo tay đã tự mình dệt, rồi đem những gì đã dệt đến: vải đỏ tía và vải điều, vải đỏ thẫm và vải gai mịn.26 Mọi phụ nữ có nhiệt tâm và khéo tay thì lấy lông dê mà kéo sợi.27 Các thủ lãnh đem đến hồng mã não và ngọc quý để đính vào áo ê-phốt và túi đeo trước ngực,28 hương liệu, dầu thắp đèn, dầu tấn phong và hương nhang.29 Mọi con cái Ít-ra-en, đàn ông cũng như đàn bà, có nhiệt tâm góp phần vào mọi công việc ĐỨC CHÚA đã dùng ông Mô-sê mà truyền phải thực hiện, thì đã đem lễ vật tự nguyện dâng ĐỨC CHÚA.

Thợ dựng nơi thánh (Xh 31: 1-11)

30 Ông Mô-sê nói với con cái Ít-ra-en: “Anh em coi, ĐỨC CHÚA đã gọi đích danh ông Bơ-xan-ên, con ông U-ri, con ông Khua, thuộc chi tộc Giu-đa.31 Người đã ban cho ông ấy dồi dào thần khí của Thiên Chúa, để ông ấy thành người khéo tay, giỏi giang và lành nghề mà làm mọi công việc,32 để ông ấy nghĩ ra những tác phẩm nghệ thuật, làm bằng vàng, bạc, hay đồng,33 mài ngọc đính áo, chạm gỗ và thực hiện mọi công việc nghệ thuật.34 Người còn ban tài dạy bảo cho ông ấy, cũng như cho ông O-ho-li-áp, con của ông A-khi-xa-mác, thuộc chi tộc Đan.35 Người đã cho họ lòng trí dồi dào khôn ngoan để thực hiện mọi tác phẩm của thợ chạm, của người nghệ sĩ, của thợ thêu dùng chỉ đỏ tía, chỉ điều, chỉ đỏ thẫm, sợi gai mịn, cũng như của thợ dệt: tất cả những người thực hiện mọi công việc, và nghĩ ra những tác phẩm nghệ thuật.

36.     1 Ông Bơ-xan-ên, ông O-ho-li-áp và mọi người lòng trí khôn ngoan mà ĐỨC CHÚA đã ban cho được khéo tay và giỏi giang, để biết chu toàn mọi việc phục vụ nơi thánh, những người ấy sẽ làm theo tất cả những gì ĐỨC CHÚA đã truyền.

Ông Mô-sê cho ngưng quyên góp vật liệu

2 Ông Mô-sê gọi các ông Bơ-xan-ên và O-ho-li-áp lại, cùng với mọi người lòng trí khôn ngoan đã được ĐỨC CHÚA đặt sự khôn ngoan vào lòng, mọi kẻ có nhiệt tâm bắt tay vào việc.3 Mọi phần dâng cúng mà con cái Ít-ra-en đã mang tới trước mặt ông Mô-sê để dùng vào việc phục vụ nơi thánh, thì họ đem đi để thực hiện công trình. Nhưng sáng nào, con cái Ít-ra-en cũng cứ đem lễ vật tự nguyện tới,4 nên tất cả những người thợ khéo tay đang thực hiện mọi công việc phục vụ nơi thánh đều ngưng công việc đang làm, để tới5 nói với ông Mô-sê: “Dân chúng đem dâng quá số cần thiết cho công việc mà ĐỨC CHÚA đã truyền làm.”6 Ông Mô-sê ra lệnh phải rao trong trại những lời này: “Xin mọi người, nam cũng như nữ, đừng dâng cúng gì thêm cho nơi thánh.” Và dân đã ngừng, không đem gì tới nữa.7 Vật liệu đã đủ cho mọi công việc phải làm, mà còn dư thừa nữa.

Nhà Tạm (Xh 26: 1-14)

8 Trong đám thợ đang thực hiện công trình, tất cả những người khôn ngoan tài giỏi thì dựng Nhà Tạm; ông Mô-sê cho dựng Nhà đó với mười tấm thảm bằng sợi gai mịn xe, chỉ đỏ tía, chỉ điều và chỉ đỏ thẫm; ông cho thêu trên đó những thần hộ giá rất mỹ thuật.9 Mỗi tấm thảm dài mười bốn thước, rộng hai thước; tấm nào cũng có kích thước như vậy.10 Ông cho khâu năm tấm này liền với nhau và năm tấm kia liền với nhau.11 Ông cho lấy vải đỏ tía làm dải đính vào mép tấm thứ nhất của những tấm thảm ráp lại; ông cũng cho đính như thế vào mép tấm cuối cùng của những tấm thảm ráp lại bên kia.12 Ông cho đính năm mươi dải vào tấm thứ nhất, và cũng cho đính năm mươi dải vào mép tấm cuối cùng của những tấm thảm ráp lại bên kia; các dải ấy phải thật cân đối với nhau.13 Ông cho làm năm mươi cái móc bằng vàng, và dùng những móc ấy để nối các tấm vải bố lại với nhau. Như thế, Nhà Tạm thành một khối duy nhất.14 Ông cho làm những tấm thảm lông dê để làm một cái lều, ở bên trên Nhà Tạm; ông cho làm mười một tấm.15 Mỗi tấm dài mười lăm thước, rộng hai thước. Mười một tấm đều có cùng một kích thước.16 Ông cho khâu liền năm tấm thành một mái, và sáu tấm kia thành một mái khác.17 Ông cho đính năm mươi dải vào mép tấm thứ nhất của những tấm thảm ráp lại, và ông cũng cho đính năm mươi dải vào mép tấm cuối cùng của những tấm thảm ráp lại bên kia.18 Ông cho làm năm mươi móc bằng đồng để ghép lại thành một cái lều, sao cho chỉ có một lều duy nhất.19 Ông cho làm một tấm bạt che lều bằng da cừu nhuộm đỏ, và một tấm bạt bằng da cá heo phủ ở bên trên.

Khung lều (Xh 26: 15 -30)

20 Ông cho lấy những tấm ván gỗ keo dựng thẳng lên để căng Nhà Tạm.21 Mỗi tấm dài năm thước, rộng bảy tấc rưỡi.22 Mỗi tấm có hai mộng song song. Ông cho làm mọi tấm ván của Nhà Tạm theo kiểu đó.23 Ông cho đặt ván để dựng Nhà Tạm như sau: hai mươi tấm hướng về Ne-ghép, về phía nam.24 Ông cho làm bốn mươi đế bạc đặt dưới hai mươi tấm ván đó: hai đế dưới một tấm ván ăn khớp với hai mộng của ván, và hai đế dưới tấm ván khác ăn khớp với hai mộng của ván.25 Hông bên kia của Nhà Tạm, hướng bắc, ông cho đặt hai mươi tấm ván,26 và cũng cho làm bốn mươi đế bạc, cứ hai đế dưới một tấm, hai đế dưới một tấm.27 Phía trong cùng Nhà Tạm, hướng tây, ông cho đặt sáu tấm ván.28 Ông cho đặt hai tấm ván ở các góc Nhà Tạm, ở phía trong cùng.29 Các tấm ván được ghép đôi lại với nhau ở phía dưới, và ghép đôi như thế cho tới đỉnh, chỗ vòng thứ nhất. Ông cho đóng hai tấm ván như thế ở hai góc.30 Vậy có tám tấm ván với các đế bạc, tất cả là mười sáu đế: cứ hai đế dưới một tấm, hai đế dưới một tấm.31 Ông cho làm các thanh ngang bằng gỗ keo: năm cái cho các tấm ván ở hông thứ nhất của Nhà Tạm;32 và năm cái cho các tấm ván hông bên kia của Nhà Tạm; cũng như năm cái cho các tấm ván phía trong cùng Nhà Tạm, hướng tây.33 Ông cho làm thanh ngang giữa, cho nó nằm ở nửa độ cao các tấm ván, chạy suốt từ đầu này đến đầu kia.34 Ông cho thiếp vàng các tấm ván; ông cho đúc những vòng bằng vàng để xỏ các thanh ngang; ông cũng cho thiếp vàng các thanh ngang ấy.

Bức trướng (Xh 26: 31 -37)

35 Ông cho làm bức trướng bằng vải đỏ tía, vải điều, vải đỏ thẫm và sợi gai mịn xe. Ông cho thêu trên đó những thần hộ giá rất mỹ thuật.36 Ông cho làm bốn cột gỗ keo thiếp vàng, có những móc bằng vàng để treo bức màn trướng; và ông cho đúc bốn đế bạc để dựng những cột ấy.37 Ông cho làm một bức màn che cửa lều bằng vải đỏ tía, vải điều, vải đỏ thẫm và sợi gai mịn xe: đó là công việc của thợ thêu;38 Ông cũng cho làm năm cột có móc, cho thiếp vàng đầu cột và thanh treo bức trướng; còn năm đế thì bằng đồng.

Hòm Bia (Xh 25: 10 -22)

37.     1 Ông Bơ-xan-ên làm Hòm Bia bằng gỗ keo, dài một thước hai, rộng bảy tấc rưỡi và cao bảy tấc rưỡi.2 Ông lấy vàng ròng mà bọc cả trong lẫn ngoài; ông làm một đường viền chung quanh bằng vàng.3 Ông đúc cho Hòm Bia bốn chiếc vòng bằng vàng gắn vào bốn chân: bên này hai vòng, bên kia hai vòng.4 Ông làm những cây đòn bằng gỗ keo bọc vàng.5 Ông xỏ đòn vào những vòng bên sườn Hòm Bia để khiêng.6 Ông làm một cái nắp xá tội bằng vàng ròng, dài một thước hai, rộng bảy tấc rưỡi.7 Ông làm hai tượng thần hộ giá bằng vàng, ông làm bằng vàng gò và đặt ở hai đầu nắp:8 một tượng ở đầu này, một tượng ở đầu kia. Ông làm các tượng thần hộ giá gắn liền với nắp, ở hai đầu.9 Các tượng thần hộ giá có hai cánh giương lên và phủ trên nắp. Hai tượng đối diện nhau, cùng cúi mặt xuống nắp.

Bàn để bánh tiến (Xh 25: 23 -30)

10 Ông làm cái bàn bằng gỗ keo, dài một thước, rộng nửa thước và cao bảy tấc rưỡi.11 Ông lấy vàng ròng mà bọc, và ông làm một đường viền chung quanh bằng vàng.12 Chung quanh bàn, ông đóng nẹp rộng một tấc và viền nẹp bằng vàng.13 Ông đúc bốn vòng bằng vàng và đặt các vòng đó vào bốn góc, ở bốn chân bàn.14 Các vòng đó ở gần nẹp, dùng để xỏ đòn khiêng bàn.15 Ông làm những cây đòn bằng gỗ keo bọc vàng để khiêng bàn.16 Ông làm những đồ dùng để trên bàn: khay, ly, chén và bình để tế lễ; ông làm những đồ ấy bằng vàng ròng.

Trụ đèn (Xh 25: 31 -40)

17 Ông làm trụ đèn bằng vàng ròng. Ông làm trụ đèn, chân đèn và nhánh đèn bằng vàng gò; đài hoa, nụ hoa và cánh hoa gắn liền với trụ đèn.18 Sáu nhánh đâm ra hai bên: ba nhánh bên này, ba nhánh bên kia.19 Trên nhánh bên này, có ba đài hoa hình hoa hạnh đào, với nụ và cánh hoa; trên nhánh bên kia, có ba đài hoa hình hoa hạnh đào, với nụ hoa và cánh hoa. Sáu nhánh từ trụ đèn đâm ra đều như thế.20 Ở thân trụ đèn, có bốn đài hoa hình hoa hạnh đào, với nụ và cánh hoa.21 Một nụ hoa nằm dưới hai nhánh đầu gắn liền với trụ đèn, một nụ hoa nằm dưới hai nhánh giữa gắn liền với trụ đèn, và một nụ hoa nằm dưới hai nhánh cuối gắn liền với trụ đèn. Sáu nhánh từ trụ đèn đâm ra đều như thế.22 Các nụ hoa và nhánh đều gắn liền với trụ đèn; tất cả thành một khối bằng vàng gò, bằng vàng ròng.23 Ông làm bảy cái đèn, kéo cắt bấc và đĩa đựng tàn bằng vàng ròng.24 Ông dùng ba mươi ký vàng ròng để làm trụ đèn cũng như mọi đồ dùng.

Hương án. Dầu tấn phong và hương thơm. (Xh 30: 1-5)

25 Ông làm hương án bằng gỗ keo. Hương án đó dài nửa thước, rộng nửa thước -nghĩa là hình vuông- và cao một thước; các góc hình sừng làm thành một khối với hương án.26 Ông lấy vàng ròng mà bọc hương án: mặt trên, bốn mặt chung quanh và các góc. Chung quanh hương án, ông làm một đường viền bằng vàng.27 Ông làm hai vòng bằng vàng, phía dưới đường viền, ở hai bên sườn, ở hai bên, để xỏ đòn khiêng hương án.28 Ông làm những cây đòn bằng gỗ keo bọc vàng.29 Ông pha chế dầu thánh để tấn phong, cũng như hương thơm nguyên chất, là sản phẩm của thợ chế nước hoa.

Bàn thờ dâng lễ toàn thiêu (Xh 27: 1-8)

38.     1 Ông làm bàn thờ dâng lễ toàn thiêu bằng gỗ keo: dài hai thước rưỡi, rộng hai thước rưỡi -nghĩa là hình vuông-, cao một thước rưỡi;2 ông làm bốn cái sừng ở bốn góc, các sừng ấy làm thành một khối với bàn thờ. Ông lấy đồng mà bọc bàn thờ.3 Ông làm các đồ dùng trên bàn thờ: nồi, xẻng, bình rảy, xiên và lư hương; các đồ dùng ấy, ông làm bằng đồng.4 Ông làm một cái vỉ bằng đồng, hình lưới, bọc quanh chân bàn thờ, từ đất lên đến nửa chiều cao của bàn thờ.5 Ông đúc bốn chiếc vòng đặt ở bốn góc vỉ đồng, dùng để xỏ đòn.6 Ông làm những cây đòn bằng gỗ keo, và bọc đồng những đòn ấy.7 Ông xỏ đòn vào vòng ở hai bên bàn thờ, để khiêng. Ông làm bàn thờ rỗng, bằng ván ghép lại.

Vạc đồng (Xh 3 0: 18)

8 Ông làm cái vạc đồng có đế cũng bằng đồng, với những gương soi cho phụ nữ phục vụ ở cửa Lều Hội Ngộ.

Khuôn viên (Xh 27: 9-19)

9 Ông làm khuôn viên. Phía nam, hướng Ne-ghép, khuôn viên có những tấm rèm bằng sợi gai mịn xe dài năm mươi thước.10 Hai mươi cột treo rèm dựng trên hai mươi đế bằng đồng; móc ở các cột và thanh treo rèm thì bằng bạc.11 Phía bắc, có những tấm rèm năm mươi thước; hai mươi cột treo rèm dựng trên hai mươi đế bằng đồng; móc ở các cột và thanh treo rèm thì bằng bạc.12 Phía biển, có những tấm rèm hai mươi lăm thước, với mười cột và mười đế.13 Về hướng đông, phía mặt trời mọc, khuôn viên rộng hai mươi lăm thước;14 một bên che tấm rèm bảy thước rưỡi, có ba cột với ba đế;15 bên kia, -nghĩa là hai bên cửa khuôn viên-, cũng che tấm rèm bảy thước rưỡi, có ba cột với ba đế.16 Tất cả các rèm chung quanh khuôn viên đều bằng sợi gai mịn xe.17 Những đế cột thì bằng đồng, những móc ở các cột và thanh treo rèm thì bằng bạc, đầu cột thiếp bạc. Như vậy, mọi cột trong khuôn viên đều nối liền với nhau nhờ những thanh treo rèm bằng bạc.18 Bức màn ở cửa khuôn viên thì bằng chỉ đỏ tía, chỉ điều, chỉ đỏ thẫm và sợi gai mịn xe: đó là công việc của thợ thêu. Bức màn đó dài mười thước, cao -nghĩa là rộng-, hai thước rưỡi, như những tấm rèm của khuôn viên.19 Bốn cột treo rèm và bốn đế thì bằng đồng, móc bằng bạc, đầu cột thiếp bạc, thanh treo rèm cũng bằng bạc.20 Mọi cái cọc của Nhà Tạm và chung quanh khuôn viên đều bằng đồng.

Bảng kết toán

21 Đây là bảng kết toán về Nhà Tạm, Nhà Tạm Chứng Ước. Ông Mô-sê đã ra lệnh cho các thầy Lê-vi, dưới sự hướng dẫn của ông I-tha-ma, con của tư tế A-ha-ron, phải làm bảng này.

22 Chính ông Bơ-xan-ên, con ông U-ri, con ông Khua, thuộc chi tộc Giu-đa, đã thi hành mọi điều ĐỨC CHÚA truyền cho ông Mô-sê.23 Người phụ tá của ông là O-ho-li-áp, con của ông A-khi-xa-mác, thuộc chi tộc Đan; ông là thợ chạm và là nghệ nhân, là thợ thêu chỉ đỏ tía, chỉ điều, chỉ đỏ thẫm và sợi gai mịn.

24 Tổng số vàng dân đã dâng cúng để dùng vào công trình, công trình dựng nơi thánh, là tám trăm bảy mươi ký và hai trăm hai mươi lượng, tính theo đơn vị đo lường của thánh điện.25 Số bạc những người trong cộng đồng thuộc diện kiểm tra dân số đã dâng là ba ngàn ký và năm trăm ba mươi lượng, tính theo đơn vị đo lường của thánh điện.26 Mỗi đầu người là hai chỉ bạc, tức là nửa se-ken, tính theo đơn vị đo lường của thánh điện; bất cứ ai thuộc diện kiểm tra dân số từ hai mươi tuổi trở lên, tức là sáu trăm lẻ ba ngàn năm trăm năm mươi người, đều phải đóng góp như vậy.27 Ba ngàn ký bạc để đúc các đế của nơi thánh và của bức trướng: một trăm đế mất ba ngàn ký, mỗi đế ba mươi ký.28 Ông dùng năm trăm ba mươi lượng để làm móc cột, thiếp đầu cột và nối các cột lại nhờ những thanh treo màn.29 Số đồng người ta dâng cúng là hai ngàn một trăm hai mươi bốn ký.30 Ông đem dùng làm các đế đặt ở cửa Lều Hội Ngộ, bàn thờ đồng và vỉ đồng, mọi đồ phụ tùng của bàn thờ,31 các đế chung quanh khuôn viên, các đế ở cửa khuôn viên, mọi cái cọc của Nhà Tạm và chung quanh khuôn viên.

Y phục của thượng tế

39.     1 Người ta lấy chỉ đỏ tía, chỉ điều và chỉ đỏ thẫm làm phẩm phục để dùng khi hành lễ trong nơi thánh. Người ta làm lễ phục cho ông A-ha-ron, như ĐỨC CHÚA đã truyền cho ông Mô-sê.

Áo ê-phốt (Xh 2 8: 6-14)

2 Người ta làm áo ê-phốt bằng chỉ vàng, chỉ đỏ tía, chỉ điều, chỉ đỏ thẫm và sợi gai mịn xe.3 Người ta cán vàng thành từng lá và kéo thành chỉ để xen vào chỉ đỏ tía, chỉ điều, chỉ đỏ thẫm và sợi gai mịn, và làm nên một công trình rất mỹ thuật.4 Người ta làm cầu vai cho áo ê-phốt và hai thân áo ê-phốt được khâu liền vào hai đầu cầu vai.5 Băng chéo đeo trên áo ê-phốt để giữ áo thì đính liền vào đó; băng chéo đó làm cùng một kiểu với áo ê-phốt: bằng chỉ vàng, chỉ đỏ tía, chỉ điều, chỉ đỏ thẫm và sợi gai mịn xe, như ĐỨC CHÚA đã truyền cho ông Mô-sê.6 Người ta giũa mã não, nhận vào những ổ bằng vàng, khắc tên con cái Ít-ra-en vào các viên ngọc đó theo kiểu thợ chạm khắc dấu ấn.7 Người ta đặt các viên ngọc đó trên cầu vai của áo ê-phốt để làm kỷ vật tưởng nhớ con cái Ít-ra-en, như ĐỨC CHÚA đã truyền cho ông Mô-sê.

Túi đeo trước ngực (Xh 28: 15 -30)

8 Người ta may túi đeo trước ngực rất mỹ thuật theo kiểu áo ê-phốt: bằng chỉ vàng, chỉ đỏ tía, chỉ điều, chỉ đỏ thẫm và sợi gai mịn xe.9 Túi đó hình vuông may kép, dài một gang, rộng một gang.10 Người ta nhận vào đó bốn hàng ngọc: ở hàng thứ nhất có nhận xích não, hoàng ngọc và bích ngọc;11 ở hàng thứ hai có nhận hồng ngọc, lam ngọc và kim cương;12 Ở hàng thứ ba có nhận miêu nhãn thạch, mã não và tử ngọc;13 ở hàng thứ tư có nhận kim lục thạch, mã não có vân và vân thạch. Những viên ngọc đó được nhận vào những ổ bằng vàng.14 Các viên ngọc mang tên con cái Ít-ra-en: mười hai viên ngọc mang mười hai tên của họ khắc theo kiểu dấu ấn, mỗi viên ngọc mang tên của một trong mười hai chi tộc.15 Người ta làm cho túi đeo trước ngực những dây chuyền khoen lật bằng vàng ròng để làm dải buộc.16 Người ta làm hai ổ bằng vàng và hai vòng bằng vàng, và đính hai vòng đó vào hai góc túi.17 Người ta xâu hai dây chuyền khoen lật bằng vàng đó vào hai vòng đặt ở góc túi.18 Người ta đặt hai đầu dây chuyền khoen lật vào hai ổ, rồi đặt lên cầu vai của áo ê-phốt, mặt phải.19 Người ta làm hai vòng bằng vàng, rồi gắn vào hai đầu túi ở mép trong, mặt trái áp áo ê-phốt.20 Người ta làm hai vòng bằng vàng, rồi đính vào hai cầu vai của áo ê-phốt bên dưới, mặt phải, gần chỗ buộc, bên trên băng chéo của áo ê-phốt.21 Người ta lấy một dải vải đỏ tía mà buộc các vòng của túi đeo trước ngực vào các vòng của áo ê-phốt, để túi nằm trên băng chéo của áo ê-phốt: như thế, túi không xê dịch được trên áo ê-phốt, như ĐỨC CHÚA đã truyền cho ông Mô-sê.

Áo khoác (Xh 28: 31 -35)

22 Người ta làm áo khoác toàn bằng sợi đỏ tía: đó là công trình của thợ dệt.23 Cổ áo khoét ở giữa giống như cổ áo giáp: đường viền chung quanh cổ áo không sao rách được.24 Người ta làm ở gấu dưới của áo khoác những quả lựu bằng chỉ đỏ tía, chỉ điều, chỉ đỏ thẫm và sợi gai mịn xe.25 Người ta làm những lục lạc bằng vàng ròng, rồi xếp những lục lạc đó xen kẽ với những quả lựu, vòng quanh gấu dưới áo khoác, xen kẽ với những quả lựu:26 một lục lạc rồi một quả lựu, một lục lạc rồi một quả lựu, vòng quanh gấu dưới áo khoác, để cử hành nghi lễ, như ĐỨC CHÚA đã truyền cho ông Mô-sê.

Y phục tư tế (Xh 28:40 -43)

27 Người ta làm những áo dài bằng sợi gai mịn cho ông A-ha-ron và các con ông: đó là công trình của thợ dệt;28 người ta cũng làm mũ tế bằng sợi gai mịn, khăn chít bằng sợi gai mịn để trang sức, quần bằng sợi gai, sợi gai mịn xe,29 đai lưng bằng sợi gai mịn xe, bằng chỉ đỏ tía, chỉ điều, chỉ đỏ thẫm: đó là công trình của thợ thêu, như ĐỨC CHÚA đã truyền cho ông Mô-sê.

Dấu thánh hiến  (Xh 28:36 -39)

30 Người ta làm huy hiệu bằng vàng ròng, là dấu thánh hiến, và ghi trên đó những chữ sau đây theo kiểu khắc dấu ấn: “Thánh hiến cho ĐỨC CHÚA.”31 Người ta đính nó trên một dây bằng chỉ đỏ tía buộc vào phía trên mũ tế, như ĐỨC CHÚA đã truyền cho ông Mô-sê.

32 Như thế, mọi công việc dựng Nhà Tạm, dựng Lều Hội Ngộ đều hoàn thành. Con cái Ít-ra-en làm mọi sự đúng y như ĐỨC CHÚA đã truyền cho ông Mô-sê.

Ông Mô-sê nhận những công trình đã thực hiện  (Xh 35:10 -19)

33 Họ đem lại cho ông Mô-sê Nhà Tạm, gồm: Lều và mọi đồ phụ tùng, móc, ván, thanh ngang, cột và đế;34 bạt bằng da cừu nhuộm đỏ và bạt bằng da cá heo, bức trướng dùng làm màn che;35 Hòm Bia Chứng Ước, đòn khiêng và nắp xá tội;36 bàn và mọi đồ dùng, bánh tiến;37 trụ đèn bằng vàng ròng và các thứ đèn đặt trên đó, mọi đồ dùng và dầu thắp đèn;38 bàn thờ bằng vàng, dầu tấn phong, hương thơm, màn che cửa Lều;39 bàn thờ bằng đồng và vỉ bằng đồng, đòn khiêng và mọi đồ dùng, vạc và đế;40 màn của khuôn viên, cột, đế và tấm màn che cửa khuôn viên, dây thừng và cọc, cũng như mọi đồ dùng để phục vụ Nhà Tạm, cần cho Lều Hội Ngộ;41 phẩm phục để hành lễ trong nơi thánh, lễ phục dành cho tư tế A-ha-ron và y phục các con ông mặc để thi hành chức tư tế.42 Con cái Ít-ra-en thực hiện tất cả công trình đó hoàn toàn đúng y như ĐỨC CHÚA đã truyền cho ông Mô-sê.

43 Ông Mô-sê nhìn xem mọi công việc đó: họ thực hiện đúng y như ĐỨC CHÚA đã truyền. Ông Mô-sê chúc phúc cho họ.

Dựng và thánh hiến Nhà Tạm

40.     1 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê:2 “Vào ngày mồng một tháng giêng, ngươi sẽ dựng Nhà Tạm, dựng Lều Hội Ngộ.3 Ngươi sẽ đặt vào đó Hòm Bia Chứng Ước và lấy bức trướng mà che Hòm Bia ấy.4 Ngươi sẽ đem bàn tới và bày trên đó những gì cần phải bày ra. Ngươi sẽ đem trụ đèn tới và đặt đèn lên đó.5 Ngươi sẽ đặt hương án bằng vàng trước Hòm Bia Chứng Ước, và treo màn che cửa Nhà Tạm.6 Ngươi sẽ đặt bàn thờ dâng lễ toàn thiêu trước cửa Nhà Tạm, trước cửa Lều Hội Ngộ.7 Ngươi sẽ đặt cái vạc ở giữa Lều Hội Ngộ và bàn thờ, và đổ nước vào đó.8 Ngươi sẽ làm khuôn viên chung quanh và treo màn che cửa khuôn viên.9 Ngươi sẽ lấy dầu tấn phong xức Nhà Tạm và tất cả những gì trong đó; ngươi sẽ thánh hiến Nhà Tạm và mọi đồ vật trong đó; như thế, Nhà Tạm sẽ là vật thánh.10 Ngươi sẽ xức dầu bàn thờ dâng lễ toàn thiêu và mọi đồ dùng; ngươi sẽ thánh hiến bàn thờ, và bàn thờ sẽ là vật rất thánh.11 Ngươi sẽ xức dầu cái vạc và đế, ngươi sẽ thánh hiến cái vạc đó.12 Ngươi sẽ dẫn A-ha-ron và các con ông đến gần cửa Lều Hội Ngộ và lấy nước tẩy rửa họ.13 Ngươi sẽ lấy phẩm phục mặc cho A-ha-ron, xức dầu thánh hiến để ông ấy thi hành chức tư tế phục vụ Ta.14 Ngươi sẽ dẫn các con ông lại gần và cho họ mặc áo dài.15 Ngươi đã xức dầu họ như đã xức dầu cha họ, để họ thi hành chức tư tế phục vụ Ta. Ngươi sẽ làm như thế, để nhờ việc xức dầu, họ trở nên tư tế vĩnh viễn, đời nọ đến đời kia.

Thi hành mệnh lệnh của Thiên Chúa

16 Ông Mô-sê làm mọi sự đúng y như ĐỨC CHÚA đã truyền cho ông.17 Ngày mồng một tháng giêng năm thứ hai, Nhà Tạm được dựng lên.18 Ông Mô-sê cho dựng Nhà Tạm. Ông cho đặt đế, ghép ván, đặt thanh ngang và dựng cột.19 Ông cho căng lều trên Nhà Tạm, lấy bạt che phía trên lều, như ĐỨC CHÚA đã truyền cho ông Mô-sê.20 Ông lấy Chứng Ước đặt vào Hòm Bia, xỏ đòn vào Hòm Bia, đặt nắp xá tội lên trên đó.21 Ông rước Hòm Bia vào trong Nhà Tạm và treo bức trướng để che khuất Hòm Bia Chứng Ước, như ĐỨC CHÚA đã truyền cho ông Mô-sê.22 Ông cho đặt chiếc bàn trong Lều Hội Ngộ, bên cạnh Nhà Tạm, phía bắc, bên ngoài bức trướng,23 rồi cho bày một hàng bánh trên đó, trước nhan ĐỨC CHÚA, như ĐỨC CHÚA đã truyền cho ông Mô-sê.24 Ông cho đặt trụ đèn trong Lều Hội Ngộ, đối diện với bàn, bên cạnh Nhà tạm, phía nam,25 rồi cho đặt đèn lên đó, trước nhan ĐỨC CHÚA, như ĐỨC CHÚA đã truyền cho ông Mô-sê.26 Ông cho đặt bàn thờ bằng vàng trong Lều Hội Ngộ, phía trước bức trướng,27 rồi cho đốt hương thơm trên đó, như ĐỨC CHÚA đã truyền cho ông Mô-sê.28 Ông cho treo màn che cửa Nhà Tạm.29 Bàn thờ dâng lễ toàn thiêu, ông cho đặt ở cửa Nhà Tạm, ở cửa lều Hội Ngộ, rồi ông dâng lễ toàn thiêu và lễ phẩm trên đó, như ĐỨC CHÚA đã truyền cho ông Mô-sê.30 Ông cho đặt cái vạc ở giữa Lều Hội Ngộ và bàn thờ, rồi đổ nước vào đó, để dùng vào việc tẩy rửa.31 Ông A-ha-ron và các con ông lấy nước ấy mà rửa tay chân.32 Mỗi khi họ vào Lều Hội Ngộ và tới gần bàn thờ, thì họ tẩy rửa, như ĐỨC CHÚA đã truyền cho ông Mô-sê.33 Ông cho làm khuôn viên chung quanh Nhà Tạm và bàn thờ, rồi cho treo màn che cửa khuôn viên. Như thế, ông Mô-sê đã hoàn thành công việc.

ĐỨC CHÚA chiếm hữu Nhà Tạm (Ds 9:15 -16)

34 Đám mây che phủ Lều Hội Ngộ, và vinh quang ĐỨC CHÚA đầy tràn Nhà Tạm.35 Ông Mô-sê không thể vào Lều Hội Ngộ vì đám mây đậu trên đó, và vinh quang ĐỨC CHÚA đầy tràn Nhà Tạm.

Mây dẫn đường cho dân Ít-ra-en (Ds 9:17 -23)

36 Ở mỗi chặng đường của họ, khi nào đám mây bay lên khỏi Nhà Tạm, thì con cái Ít-ra-en nhổ trại.37 Nếu mây không bay lên, thì họ không nhổ trại cho đến ngày mây lại bay lên.38 Quả vậy, đám mây của ĐỨC CHÚA đậu trên Nhà Tạm ban ngày, còn ban đêm thì có lửa trong mây, trước mắt toàn thể con cái Ít-ra-en, ở mỗi chặng đường họ đi.

SÁCH GIÔ-SUÊ

I. CHIẾM ĐẤT HỨA
1. CHUẨN BỊ

Mời gọi qua Đất Hứa

1.  1 Sau khi tôi trung ĐỨC CHÚA là ông Mô-sê qua đời, ĐỨC CHÚA phán với con ông Nun là ông Giô-suê, phụ tá của ông Mô-sê:2 “Mô-sê, tôi trung của Ta, đã chết. Vậy bây giờ, ngươi hãy trỗi dậy! Và cùng với tất cả dân này, qua sông Gio-đan, mà vào đất Ta ban cho chúng, tức là con cái Ít-ra-en.3 Mọi nơi bàn chân các ngươi dẫm lên thì Ta đã ban cho các ngươi rồi, như Ta đã phán với Mô-sê.4 Từ sa mạc và dãy Li-băng kia cho đến Sông Cả, nghĩa là sông Êu-phơ-rát, -tất cả xứ người Khết-, và cho đến Biển Lớn, phía mặt trời lặn: đó sẽ là lãnh thổ của các ngươi.5 Mọi ngày đời ngươi, không ai sẽ đứng vững được trước mặt ngươi. Ta sẽ ở với ngươi như Ta đã ở với Mô-sê; Ta sẽ không bỏ rơi ngươi, Ta sẽ không ruồng bỏ ngươi.

Trung tín với Lề Luật: điều kiện để được Thiên Chúa phù trợ

6 “Mạnh bạo lên, can đảm lên! Vì chính ngươi sẽ cho dân này chiếm đất ấy làm gia nghiệp, đất mà Ta đã thề với cha ông chúng là Ta sẽ ban cho chúng.7 Tuy nhiên, ngươi phải mạnh bạo và rất can đảm, để lo thi hành tất cả Lề Luật, mà Mô-sê tôi trung của Ta đã truyền dạy ngươi. Đừng đi trệch bên phải bên trái, ngoài Lề Luật, để được thành công ở bất cứ nơi nào ngươi đi tới.8 Chớ gì sách Luật này đừng rời khỏi miệng ngươi; và ngươi sẽ suy gẫm sách Luật đó ngày đêm, để lo thi hành tất cả những gì viết trong đó; vì như thế ngươi sẽ được thịnh đạt trên đường đời, vì như thế ngươi sẽ thành công.9 Mạnh bạo lên, can đảm lên! Đó chẳng phải là lệnh Ta đã truyền cho ngươi sao? Đừng run khiếp, đừng sợ hãi, vì ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ngươi, sẽ ở với ngươi bất cứ nơi nào ngươi đi tới.”

Các chi tộc bên kia sông Gio-đan tiếp tay

10 Ông Giô-suê truyền lệnh sau đây cho các ký lục trong dân:11 “Các anh hãy rảo khắp trại và truyền cho dân: Hãy chuẩn bị lương thực, vì còn ba ngày nữa anh em sẽ qua sông Gio-đan kia để vào chiếm đất mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, cho anh em chiếm hữu.”

12 Rồi ông Giô-suê nói với những người trong chi tộc Rưu-vên, chi tộc Gát và nửa chi tộc Mơ-na-se:13 “Anh em hãy nhớ điều ông Mô-sê, tôi trung của ĐỨC CHÚA, đã truyền cho anh em: ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, cho anh em được an cư lạc nghiệp khi ban cho anh em đất này.14 Đàn bà, con trẻ và các đàn vật của anh em sẽ ở lại trong phần đất ông Mô-sê đã ban cho anh em bên kia sông Gio-đan; còn anh em, tất cả các dũng sĩ, hãy võ trang đầy đủ mà qua trước anh em mình và trợ lực cho họ,15 cho đến khi ĐỨC CHÚA ban cho anh em cũng như anh em của anh em được an cư lạc nghiệp, cho đến khi chính họ cũng chiếm hữu phần đất mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, ban cho họ. Bấy giờ anh em sẽ trở về phần đất mà anh em đã chiếm hữu. Anh em sẽ chiếm hữu phần đất mà ông Mô-sê, tôi trung của ĐỨC CHÚA, đã ban cho anh em bên kia sông Gio-đan, phía mặt trời mọc.”16 Họ trả lời ông Giô-suê: “Mọi điều ngài truyền chúng tôi làm, chúng tôi sẽ làm; mọi nơi ngài sai chúng tôi đi, chúng tôi sẽ đi.17 Chúng tôi đã nghe lời ông Mô-sê thế nào, thì chúng tôi cũng sẽ nghe lời ngài như vậy. Chỉ cầu mong ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ngài, ở với ngài, như đã ở với ông Mô-sê!18 Kẻ nào chống lại mệnh lệnh của ngài, không nghe bất cứ lời nào ngài truyền dạy, thì sẽ phải bị xử tử. Chỉ có điều là ngài phải mạnh bạo và can đảm! “

Ông Giô-suê sai người đi do thám Giê-ri-khô

2.  1 Từ Sít-tim, ông Giô-suê, con ông Nun, bí mật sai hai người do thám và nói: “Hãy đi xem vùng đất và thành Giê-ri-khô.” Họ đã đi và vào một nhà một kỹ nữ tên là Ra-kháp; họ nằm lại đó.2 Người ta nói với vua Giê-ri-khô: “Đêm vừa rồi, có vài người trong số con cái Ít-ra-en đã vào đây để thăm dò vùng đất này.”3 Vua Giê-ri-khô sai người đến nói với cô Ra-kháp: “Hãy dẫn ra đây những người đã đến với ngươi, đã vào nhà ngươi, vì họ đã đến thăm dò toàn vùng đất này.”4 Nhưng người đàn bà đem hai người kia đi giấu, rồi nói: “Phải, những người ấy có đến với tôi, nhưng tôi không biết họ từ đâu đến.5 Lúc chập tối, khi cửa thành sắp đóng, thì những người ấy đi ra. Tôi không biết họ đi đâu. Các ông hãy mau mau đuổi theo họ thì sẽ bắt kịp.”

6 Rồi cô ta đem họ lên sân thượng và giấu họ dưới đống cây gai cô đã xếp ở đó.7 Các người kia cứ đuổi theo họ trên con đường dẫn tới sông Gio-đan cho đến chỗ lội qua sông. Và người ta đóng cửa thành lại, sau khi những kẻ đuổi theo đã ra khỏi đó.

Giao kèo giữa các người do thám và cô Ra-kháp

8 Họ chưa kịp nằm xuống, thì cô Ra-kháp lên gặp họ trên sân thượng.9 Cô nói với họ: “Tôi biết ĐỨC CHÚA đã ban cho các ông đất này, tôi biết vì các ông mà nỗi kinh hoàng ập xuống trên chúng tôi, và mọi dân cư trong xứ đều rụng rời hốt hoảng trước mặt các ông.10 Vì chúng tôi nghe đồn là ĐỨC CHÚA đã làm cạn Biển Sậy trước mặt các ông khi các ông ra khỏi Ai-cập; chúng tôi cũng nghe đồn về những gì các ông đã làm cho hai vua E-mô-ri là Xi-khôn và Ốc, mà các ông đã tru hiến ở bên kia sông Gio-đan.11 Khi chúng tôi nghe đồn, thì tâm thần chúng tôi sợ hãi như muốn chảy tan ra, không ai còn nhuệ khí trước mặt các ông, vì ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của các ông, là Thiên Chúa ngự chốn trời cao cũng như nơi đất thấp.12 Vậy bây giờ, xin các ông hãy nhân danh ĐỨC CHÚA mà thề với tôi là: bởi tôi đã lấy tình mà đối xử với các ông, thì các ông, các ông cũng sẽ lấy tình mà đối xử với gia đình tôi. Các ông sẽ cho tôi một dấu chắc chắn,13 đó là các ông sẽ để cho cha mẹ tôi, các anh chị em tôi và mọi người thân thuộc của họ được sống, các ông sẽ cứu chúng tôi khỏi chết.”

14 Những người ấy nói với cô Ra-kháp: “Chúng tôi xin thề lấy mạng đền mạng, trừ phi các người tiết lộ chuyện này! Vậy khi nào ĐỨC CHÚA ban đất này cho chúng tôi, chúng tôi sẽ lấy chữ tình chữ tín mà đối xử với cô.”15 Bấy giờ, từ cửa sổ cô thòng dây cho họ xuống, vì nhà cô sát vách tường thành và cô ở ngay trong tường thành.16 Cô nói với họ: “Các ông hãy đi về phía núi, kẻo những người đuổi theo bắt được các ông. Các ông cứ ẩn núp ở đấy ba ngày cho đến khi chúng trở về. Sau đó, các ông cứ đường mình mà đi.”17 Họ nói với cô: “Đây là cách chúng tôi sẽ giữ lời mà cô đã yêu cầu chúng tôi thề:18 Khi nào chúng tôi vào xứ này, cô sẽ buộc dây chỉ điều này ở cửa sổ, nơi cô đã thả chúng tôi xuống, rồi cô sẽ tập họp trong nhà, bên cạnh cô: cha mẹ, các anh chị em và cả nhà cha cô.19 Bấy giờ, ai bước qua cửa nhà cô mà ra ngoài, thì máu người ấy sẽ đổ xuống đầu người ấy, chúng tôi vô can. Nhưng người nào ở trong nhà với cô, thì máu người ấy sẽ đổ xuống đầu chúng tôi, nếu có ai tra tay hại người ấy.20 Cô mà tiết lộ chuyện của chúng tôi, chúng tôi sẽ khỏi phải giữ lời mà cô đã yêu cầu chúng tôi thề.”21 Cô ấy nói: “Mong được như lời các ông đã nói! ” Rồi cô để họ đi, và họ ra đi. Cô buộc dây chỉ điều ở cửa sổ.

Các người do thám trở về

22 Họ lên đường và tiến về phía núi. Họ ở lại đó ba ngày cho đến khi những kẻ đuổi theo trở về. Những người này đã đi lùng họ trên cả con đường ấy mà không tìm được.23 Hai người kia trở về: họ xuống núi, qua sông Gio-đan, rồi tới gặp ông Giô-suê, con ông Nun, và thuật lại cho ông mọi việc đã xảy ra cho họ.24 Họ nói với ông Giô-suê: “ĐỨC CHÚA đã nộp tất cả miền đất ấy vào tay chúng ta, và mọi dân cư ở đó đều rụng rời hốt hoảng trước mặt chúng ta.”

2. QUA SÔNG GIO-ĐAN

Chuẩn bị qua sông

3.  1 Sáng hôm sau, ông Giô-suê dậy sớm và họ nhổ trại rời Sít-tim. Ông và toàn thể con cái Ít-ra-en tới tận sông Gio-đan. Họ đã nghỉ đêm ở đó trước khi qua sông.2 Sau ba ngày, các ký lục đi khắp trại3 và truyền lệnh này cho dân: “Khi thấy Hòm Bia Giao Ước của ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, và thấy các tư tế thuộc dòng dõi Lê-vi khiêng Hòm Bia, anh em phải rời chỗ và đi theo sau Hòm Bia,4 để biết phải đi đường nào, vì anh em chưa đi qua đường ấy bao giờ. 4b Tuy nhiên, phải giữ một khoảng cách ước chừng một ngàn thước ở giữa anh em và Hòm Bia: đừng lại gần.”5 Ông Giô-suê nói với dân: “Anh em hãy nên thánh, vì ngày mai ĐỨC CHÚA sẽ thực hiện những kỳ công giữa anh em.”6 Ông Giô-suê nói với các tư tế: “Hãy khiêng Hòm Bia Giao Ước dẫn đầu dân mà qua sông.” Họ khiêng Hòm Bia Giao Ước và đi trước dân.

Những chỉ thị cuối cùng

7 ĐỨC CHÚA phán với ông Giô-suê: “Hôm nay, Ta bắt đầu cho ngươi được nên cao trọng trước mắt toàn thể con cái Ít-ra-en, để chúng biết là Ta sẽ ở với ngươi như Ta đã ở với Mô-sê.8 Còn ngươi, ngươi sẽ ra lệnh này cho các tư tế khiêng Hòm Bia Giao Ước: khi đến bờ sông Gio-đan, các ngươi hãy đứng lại trong sông Gio-đan.”9 Ông Giô-suê nói với con cái Ít-ra-en: “Anh em hãy tiến lại đây và nghe lời của ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em.”10 Rồi ông nói: “Dựa vào điều này, anh em sẽ biết là Thiên Chúa hằng sống ngự giữa anh em và Người sẽ hoàn toàn đuổi người Ca-na-an, người Khết, người Khi-vi, người Pơ-rít-di, người Ghia-ga-si, người E-mô-ri, người Giơ-vút, cho khuất mắt anh em.11 Này đây, Hòm Bia Giao Ước của Vị Chúa Tể toàn cõi đất sắp dẫn đầu anh em mà qua sông Gio-đan.12 Vậy bây giờ anh em hãy chọn mười hai người trong các chi tộc Ít-ra-en, mỗi chi tộc một người.13 Và khi bàn chân các tư tế khiêng Hòm Bia của ĐỨC CHÚA, Vị Chúa Tể toàn cõi đất, vừa đặt xuống nước sông Gio-đan, thì nước sông Gio-đan, nước mạn ngược chảy xuống, sẽ bị chặn lại và dừng lại thành một khối duy nhất.”

Qua sông

14 Khi dân rời lều để qua sông Gio-đan, thì các tư tế khiêng Hòm Bia Giao Ước dẫn đầu dân.15 Bấy giờ là mùa gặt; sông Gio-đan tràn ra hai bên bờ suốt mọi ngày. Lúc những người khiêng Hòm Bia vừa đến sông Gio-đan, và chân các tư tế khiêng Hòm Bia vừa nhúng vào nước ở ven bờ,16 thì nước mạn ngược chảy xuống dừng lại, dựng đứng thành một khối duy nhất trong một khoảng rất dài, ở A-đam là thành ở cạnh Xác-than; còn nước chảy xuống biển A-ra-va, tức là Biển Muối, thì bị chặn hẳn lại, và dân đã qua sông, đối diện với Giê-ri-khô.17 Các tư tế khiêng Hòm Bia Giao Ước của ĐỨC CHÚA đứng yên tại chỗ, nơi đất khô cạn giữa lòng sông Gio-đan, trong khi toàn thể Ít-ra-en qua sông trên đất khô cạn, cho đến khi toàn dân đã qua hết.

Mười hai bia kỷ niệm

4.  1 Khi toàn dân đã qua sông Gio-đan hết, ĐỨC CHÚA phán với ông Giô-suê:2 “Hãy chọn mười hai người trong dân, mỗi chi tộc một người,3 và truyền lệnh này cho họ: từ nơi này, từ giữa lòng sông Gio-đan, nơi các tư tế đã đặt chân lên, anh em hãy lấy đi mười hai tảng đá, đem qua sông với anh em và đặt ở nơi anh em dừng lại nghỉ ngơi đêm nay.”4 Ông Giô-suê gọi mười hai người ông đã chỉ định trong hàng con cái Ít-ra-en, mỗi chi tộc một người.5 Ông bảo họ: “Hãy đến trước Hòm Bia ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, tận giữa lòng sông Gio-đan, và mỗi người vác một tảng đá trên vai, đúng theo số các chi tộc con cái Ít-ra-en,6 để làm dấu hiệu giữa anh em. Mai ngày khi con cái anh em hỏi: “Những tảng đá này có nghĩa gì đối với quý vị? ,7 anh em sẽ trả lời: “Là vì nước sông Gio-đan đã bị chặn lại trước Hòm Bia Giao Ước của ĐỨC CHÚA; khi Hòm Bia qua sông Gio-đan, nước sông Gio-đan đã bị chặn lại; và các tảng đá này là bia kỷ niệm đối với con cái Ít-ra-en cho đến muôn đời.”8 Con cái Ít-ra-en làm đúng như ông Giô-suê đã truyền: Họ lấy đi mười hai tảng đá, từ giữa lòng sông Gio-đan, như ĐỨC CHÚA đã phán với ông Giô-suê, đúng theo số các chi tộc con cái Ít-ra-en; họ đem theo qua sông đến nơi họ dừng lại, và đặt ở đó.9 Rồi ông Giô-suê dựng mười hai tảng đá ở giữa lòng sông Gio-đan, nơi các tư tế khiêng Hòm Bia Giao Ước đã đặt chân lên; các tảng đá ấy vẫn còn ở đó cho đến ngày nay.

Sau khi qua sông

10 Các tư tế khiêng Hòm Bia đứng giữa lòng sông Gio-đan, cho đến khi tất cả những điều ĐỨC CHÚA đã truyền cho ông Giô-suê phải nói cho dân được thực hiện, theo đúng như tất cả những gì ông Mô-sê đã truyền lại cho ông Giô-suê; và dân đã vội vã qua sông.11 Vậy khi toàn dân đã qua hết, Hòm Bia của ĐỨC CHÚA cũng như các tư tế lại dẫn đầu dân.12 Con cái ông Rưu-vên, con cái ông Gát và nửa chi tộc Mơ-na-se, võ trang đầy đủ, dẫn đầu con cái Ít-ra-en, theo như ông Mô-sê đã nói với họ.13 Khoảng bốn mươi ngàn người được võ trang để ra trận, đi qua trước nhan ĐỨC CHÚA, để tiến đánh vùng thảo nguyên Giê-ri-khô.14 Ngày ấy, ĐỨC CHÚA đã cho ông Giô-suê nên cao trọng trước mắt toàn thể Ít-ra-en, và họ kính sợ ông như đã kính sợ ông Mô-sê, mọi ngày đời ông.

15 ĐỨC CHÚA phán với ông Giô-suê:16 “Hãy truyền cho các tư tế khiêng Hòm Bia Chứng Ước lên khỏi sông Gio-đan.”17 Và ông Giô-suê đã truyền cho các tư tế: “Hãy lên khỏi sông Gio-đan.”18 Vậy, khi các tư tế khiêng Hòm Bia Giao Ước của ĐỨC CHÚA lên khỏi lòng sông Gio-đan, khi họ vừa nhấc chân đặt lên đất cạn, thì nước sông Gio-đan trở về chỗ cũ và lại chảy như trước, tràn ra cả hai bên bờ.

Tới Ghin-gan

19 Dân chúng lên khỏi sông Gio-đan ngày mồng mười tháng giêng và đóng trại ở Ghin-gan, phía đông Giê-ri-khô.20 Ông Giô-suê dựng ở Ghin-gan mười hai tảng đá mà họ đã lấy từ sông Gio-đan,21 rồi nói với con cái Ít-ra-en: “Mai ngày khi con cái anh em hỏi cha ông chúng: “Những tảng đá này có nghĩa gì? ,22 anh em sẽ bảo cho con cái anh em biết: “Ít-ra-en đã qua sông Gio-đan này ráo chân.23 Vì ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, đã làm cạn sông Gio-đan trước mặt anh em cho đến khi anh em đã qua sông, như ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, đã làm tại Biển Sậy, khi Người làm cạn biển trước mặt chúng ta, cho đến khi chúng ta đã qua biển.24 Như thế, mọi dân trên mặt đất sẽ biết rằng tay ĐỨC CHÚA mạnh mẽ dường bao, và anh em sẽ kính sợ ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, hết mọi ngày.”

Các dân miền tây sông Gio-đan kinh hãi

5.  1 Vậy, khi tất cả các vua E-mô-ri ở bên kia sông Gio-đan, về phía tây, cũng như mọi vua Ca-na-an ở vùng duyên hải, nghe tin ĐỨC CHÚA làm cạn sông Gio-đan trước mặt con cái Ít-ra-en cho đến khi họ qua sông, thì tâm thần họ sợ hãi như muốn chảy tan ra, họ không còn nhuệ khí nữa trước mặt con cái Ít-ra-en.

Người Híp-ri chịu cắt bì ở Ghin-gan

2 Khi ấy, ĐỨC CHÚA phán với ông Giô-suê: “Ngươi hãy làm những con dao bằng đá sắc để lại cắt bì một lần nữa cho con cái Ít-ra-en.”3 Ông Giô-suê đã làm những con dao bằng đá và cắt bì cho con cái Ít-ra-en ở Gò Da Quy Đầu.

4 Đây là lý do khiến ông Giô-suê làm việc cắt bì này: Toàn thể đám dân đàn ông con trai ra khỏi Ai-cập, những người tham chiến, đều đã chết dọc đường, trong sa mạc, sau khi ra khỏi Ai-cập;5 tất cả đám dân đó, khi ra khỏi Ai-cập, đều đã chịu cắt bì; còn toàn thể đám dân sinh ở dọc đường, trong sa mạc, thì không.6 Vì con cái Ít-ra-en đã đi trong sa mạc bốn mươi năm, cho đến khi tất cả đám dân đó, tức là những người ra khỏi Ai-cập mà đã tham chiến, đều bị tiêu diệt; họ đã không nghe lời ĐỨC CHÚA, nên ĐỨC CHÚA thề với họ là sẽ không cho họ thấy đất Người đã thề với cha ông họ là sẽ ban cho chúng ta, đất tràn trề sữa và mật.7 Nhưng Người đã cho con cái họ sinh ra thay thế họ, và ông Giô-suê đã cắt bì cho chúng. Quả thế, chúng chưa được cắt bì, vì dọc đường người ta đã không cắt bì cho chúng.8 Vậy, khi người ta đã cắt bì cho toàn thể dân chúng rồi, thì chúng ở yên tại chỗ trong trại cho đến khi lành.9 ĐỨC CHÚA phán với ông Giô-suê: “Hôm nay Ta đã cất khỏi các ngươi cái ô nhục của người Ai-cập.” Vì thế, người ta đã gọi tên nơi ấy là Ghin-gan cho đến ngày nay.

Cử hành lễ Vượt Qua

10 Con cái Ít-ra-en đóng trại ở Ghin-gan và cử hành lễ Vượt Qua ngày mười bốn trong tháng, vào buổi chiều, trong vùng thảo nguyên Giê-ri-khô.11 Hôm sau lễ Vượt Qua, họ đã dùng thổ sản trong xứ, tức là bánh không men và hạt lúa rang, vào đúng ngày đó.12 Hôm sau, không còn man-na nữa, khi họ dùng thổ sản trong xứ; thế là con cái Ít-ra-en không còn có man-na nữa. Năm ấy, họ đã dùng hoa màu của đất Ca-na-an.

3. ĐÁNH CHIẾM GIÊ-RI-KHÔ

Thần hiện

13 Vậy, khi ở gần Giê-ri-khô, ông Giô-suê ngước mắt nhìn, thì này có người đứng đối diện với ông, tay cầm gươm trần. Ông Giô-suê đến gần người ấy và nói: “Ông về phe chúng tôi hay về phe địch? “14 Người ấy nói: “Không, ta là tướng chỉ huy đạo binh của ĐỨC CHÚA, bây giờ ta đến. ..” Ông Giô-suê sấp mặt xuống đất, sụp lạy và nói: “Ngài muốn dạy tôi tớ ngài điều gì? “15 Vị tướng chỉ huy đạo binh của ĐỨC CHÚA nói với ông Giô-suê: “Cởi dép ở chân ra, vì nơi ngươi đang đứng là nơi thánh! ” Và ông Giô-suê đã làm như vậy.

Chiếm Giê-ri-khô

6.  1 Giê-ri-khô đóng kín cổng thành, phòng thủ chống lại con cái Ít-ra-en: nội bất xuất, ngoại bất nhập.2 ĐỨC CHÚA phán với ông Giô-suê: “Xem đây! Ta nộp vào tay ngươi thành Giê-ri-khô, vua và các dũng sĩ của thành ấy.3 Các ngươi, tất cả những người tham chiến, các ngươi sẽ đi vòng quanh thành, đi chung quanh thành một lần; (các) ngươi sẽ làm như vậy sáu ngày.4 Bảy tư tế sẽ cầm bảy cái tù và bằng sừng cừu đi trước Hòm Bia. Ngày thứ bảy, các ngươi sẽ đi vòng quanh thành bảy lần, và các tư tế sẽ thổi tù và.5 Khi tù và bằng sừng cừu rú lên, khi các ngươi nghe tiếng tù và, thì toàn dân lớn tiếng hò reo xung trận. Bấy giờ tường thành sẽ sụp đổ tại chỗ; dân chúng ai nấy cứ thẳng trước mặt mình mà tiến lên.”

6 Ông Giô-suê, con ông Nun, triệu tập các tư tế và nói với họ: “Các ông hãy khiêng Hòm Bia Giao Ước, và bảy tư tế phải cầm bảy tù và bằng sừng cừu đi trước Hòm Bia của ĐỨC CHÚA.”7 Ông nói với dân: “Hãy tiến tới và đi vòng quanh thành; những người được võ trang hãy qua phía trước Hòm Bia của ĐỨC CHÚA.”8 Điều đó đã xảy ra như ông Giô-suê đã nói với dân. Bảy tư tế cầm bảy tù và bằng sừng cừu qua phía trước nhan ĐỨC CHÚA, vừa đi vừa thổi; còn Hòm Bia Giao Ước của ĐỨC CHÚA thì đi sau họ.9 Quân tiên phong đi trước các tư tế đang thổi tù và. Quân hậu vệ đi theo sau Hòm Bia. Ai nấy bước đi theo tiếng tù và.

10 Trước đó ông Giô-suê đã ra lệnh này cho dân: “Anh em đừng hò reo xung trận, đừng để ai nghe thấy tiếng anh em, đừng hé môi nói ra lời nào, cho đến ngày tôi bảo anh em: Hãy hò reo xung trận! Bấy giờ, anh em mới hò reo xung trận.”

11 Hòm Bia ĐỨC CHÚA đi vòng quanh thành, đi một vòng chung quanh, rồi ai nấy trở về trại và qua đêm tại đó.12 Sáng hôm sau, ông Giô-suê dậy sớm, và các tư tế khiêng Hòm Bia ĐỨC CHÚA.13 Bảy tư tế cầm bảy tù và bằng sừng cừu đi trước Hòm Bia ĐỨC CHÚA, vừa đi vừa thổi; quân tiên phong đi trước họ, và quân hậu vệ theo sau Hòm Bia ĐỨC CHÚA; ai nấy bước đi theo tiếng tù và.

14 Ngày thứ hai, họ đi vòng quanh thành một lần, rồi trở về trại. Họ làm như vậy sáu ngày.15 Ngày thứ bảy, họ dậy sớm khi hừng đông ló rạng, và đi vòng quanh thành bảy lần cùng theo một cách thức. Chỉ có ngày đó họ mới đi vòng quanh thành bảy lần.16 Đến lần thứ bảy, khi các tư tế thổi tù và, ông Giô-suê nói với dân: “Hãy hò reo xung trận, vì ĐỨC CHÚA đã nộp thành cho anh em.”

Giê-ri-khô bị án tru hiến

17 “Thành và mọi sự trong thành sẽ bị án tru hiến để kính ĐỨC CHÚA, chỉ có cô kỹ nữ Ra-kháp và mọi người ở với cô trong nhà là sẽ được sống, vì cô đã giấu các sứ giả chúng ta sai đi.18 Tuy nhiên, anh em phải đề phòng án tru hiến, kẻo anh em bị án tru hiến vì lấy đồ vật nào trong số những gì bị án biệt hiến. Bằng không, anh em sẽ làm cho trại Ít-ra-en phải bị án tru hiến, và như thế anh em gây tai hoạ cho trại.19 Tất cả vàng bạc, mọi đồ đồng, đồ sắt sẽ được thánh hiến cho ĐỨC CHÚA, và được xung vào kho tàng của ĐỨC CHÚA.”

20 Bấy giờ, dân hò reo xung trận, và người ta rúc tù và. Vừa nghe tiếng tù và, dân lớn tiếng hò reo xung trận, và tường thành sụp đổ tại chỗ. Dân chúng ai nấy cứ thẳng trước mặt mình mà tiến lên đánh thành, và đã chiếm được.21 Họ dùng lưỡi gươm mà thi hành án tru hiến mọi sự trong thành, từ đàn ông cho đến đàn bà, từ người trẻ cho đến người già, đến cả bò lừa và chiên cừu.

Nhà cô Ra-kháp thoát nạn

22 Ông Giô-suê nói với hai người đã đi do thám trong xứ: “Hãy vào nhà người kỹ nữ, và đem người đàn bà ấy cũng như mọi người thân thuộc của cô ra khỏi đó, theo như anh em đã thề hứa với cô.”23 Vậy các người thanh niên do thám vào nhà cô Ra-kháp, và đem cô ra khỏi đó cùng với cha mẹ, anh em cô và mọi người thân thuộc của cô; họ đem tất cả thị tộc của cô ra khỏi đó, và cho họ ở bên ngoài trại Ít-ra-en.

24 Rồi họ phóng hoả đốt thành cũng như tất cả những gì trong đó; ngoại trừ vàng bạc và những đồ đồng, đồ sắt, thì người ta nộp vào kho tàng nhà ĐỨC CHÚA.25 Nhưng cô kỹ nữ Ra-kháp cùng với gia đình cha cô và mọi người thân thuộc của cô, thì ông Giô-suê để cho sống. Cô ở giữa dân Ít-ra-en cho đến ngày nay, vì cô đã giấu sứ giả ông Giô-suê sai đi do thám Giê-ri-khô.

Nguyền rủa những ai tái thiết Giê-ri-khô

26 Thuở ấy, ông Giô-suê bắt phải thề rằng:
“Trước nhan ĐỨC CHÚA, khốn cho kẻ đứng lên
tái thiết thành Giê-ri-khô này!
Kẻ nào đào móng dựng nền,
thì con đầu lòng của nó phải chết;
kẻ nào dựng cổng xây tường,
thì con út của nó phải mạng vong! “

27 ĐỨC CHÚA ở với ông Giô-suê, và danh tiếng đồn ra khắp xứ.

Tội không thi hành án biệt hiến

7.  1 Nhưng con cái Ít-ra-en đã can tội không thi hành án biệt hiến: ông A-khan, con ông Các-mi, cháu ông Dáp-đi, chắt ông De-rác, thuộc chi tộc Giu-đa, đã lấy đồ vật trong số những thứ bị án biệt hiến. Nên ĐỨC CHÚA nổi cơn thịnh nộ với con cái Ít-ra-en.

Thất bại ở thành Ai

2 Từ Giê-ri-khô, ông Giô-suê sai người đến thành Ai ở gần Bết A-ven, về phía đông Bết Ên. Ông nói với họ: “Hãy lên do thám xứ ấy! ” Họ lên do thám thành Ai.3 Họ trở về với ông Giô-suê và nói: “Đừng đưa cả dân lên! Chỉ cần khoảng hai hoặc ba ngàn người lên mà đánh thành Ai. Đừng làm khổ toàn dân trong vụ này, vì bọn kia không đông mấy! “

4 Vậy có chừng ba ngàn người trong dân đã lên đó, nhưng họ đã chạy trốn trước mặt người thành Ai.5 Người thành Ai đã giết khoảng ba mươi sáu người của họ. Người thành Ai đuổi theo họ từ đàng trước cổng thành đến Sơ-va-rim, và đánh bại họ ở chỗ dốc. Tâm thần của dân sợ hãi như muốn chảy tan ra như nước.

Ông Giô-suê cầu nguyện

6 Ông Giô-suê xé áo mình ra, và cùng với các kỳ mục Ít-ra-en sấp mặt xuống đất trước Hòm Bia ĐỨC CHÚA, cho đến chiều. Họ rắc bụi lên đầu.7 Ông Giô-suê nói: “Ôi! Lạy Chúa là ĐỨC CHÚA, sao Ngài lại đem dân này qua sông Gio-đan mà nộp chúng con vào tay người E-mô-ri để huỷ diệt chúng con? Giá chúng con được định cư bên kia sông Gio-đan, thì có hơn không?8 Xin đoái thương, lạy Chúa, con biết nói gì đây, sau khi Ít-ra-en phải quay lưng chạy trốn các địch thù?9 Người Ca-na-an và mọi dân cư trong xứ sẽ nghe biết tin này. Họ sẽ quay lại chống chúng con và xoá tên chúng con khỏi mặt đất. Khi đó, Ngài sẽ làm gì để chứng tỏ danh Ngài vĩ đại? “

ĐỨC CHÚA trả lời

10 ĐỨC CHÚA phán với ông Giô-suê: “Đứng dậy đi! Sao ngươi cứ sấp mặt xuống đất như vậy?11 Ít-ra-en đã phạm tội, hơn nữa, chúng đã vi phạm giao ước mà Ta đã truyền cho chúng phải giữ; chúng đã dám lấy cả đồ vật bị án biệt hiến, chúng đã dám lấy trộm, giấu đi và bỏ vào đồ đoàn của chúng!12 Vì thế, con cái Ít-ra-en sẽ không thể đương đầu với địch thù của chúng. Chúng sẽ quay lưng chạy trốn các địch thù, vì chúng đã trở nên những kẻ mang án tru hiến. Ta sẽ không ở với các ngươi nữa, nếu các ngươi không loại khỏi các ngươi những đồ vật bị án biệt hiến.13 Đứng dậy đi! Hãy làm cho dân được nên thánh. Ngươi sẽ nói: Anh em hãy lo cho mình được nên thánh để chuẩn bị cho ngày mai, vì ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của Ít-ra-en, phán thế này: Hỡi Ít-ra-en, giữa các ngươi có một đồ vật bị án biệt hiến. (Các) ngươi sẽ không thể đương đầu với địch thù của (các) ngươi, bao lâu các ngươi không cất khỏi các ngươi đồ vật ấy.14 Sáng mai, các ngươi sẽ tiến đến theo từng chi tộc. Chi tộc nào ĐỨC CHÚA đã dùng thăm mà chỉ định, sẽ tiến đến theo từng thị tộc. Thị tộc nào ĐỨC CHÚA đã dùng thăm mà chỉ định, sẽ tiến đến theo từng gia đình. Gia đình nào ĐỨC CHÚA đã dùng thăm mà chỉ định, sẽ tiến đến từng người một.15 Kẻ nào bị chỉ định bởi việc bắt thăm vì có liên quan đến án biệt hiến, thì sẽ bị thiêu cùng với tất cả đồ vật của nó; vì nó đã vi phạm giao ước của ĐỨC CHÚA, và vì nó đã làm một điều ô nhục trong Ít-ra-en.”

Tìm được thủ phạm và ra hình phạt

16 Sáng hôm sau, ông Giô-suê dậy sớm và cho dân Ít-ra-en tiến đến theo chi tộc: chi tộc Giu-đa bắt trúng thăm.17 Ông cho các thị tộc Giu-đa tiến đến, và thị tộc De-rác bắt trúng thăm; ông cho thị tộc De-rác tiến đến theo từng gia đình; và gia đình Dáp-đi bắt trúng thăm.18 Ông cho gia đình Dáp-đi tiến đến từng người một, và A-khan, con ông Các-mi, cháu ông Dáp-đi, chắt ông De-rác, thuộc chi tộc Giu-đa, bắt trúng thăm.

19 Ông Giô-suê bảo A-khan: “Này ngươi, hãy tôn vinh ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của Ít-ra-en, và hãy suy tôn Người! Hãy thú thật với ta những gì ngươi đã làm, đừng giấu giếm gì cả.”20 A-khan trả lời ông Giô-suê: “Quả thật, con đã đắc tội với ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của Ít-ra-en, đây là điều con đã làm:21 Trong số chiến lợi phẩm, con trông thấy một chiếc áo khoác đẹp miền Sin-a, hai ký bạc và một thỏi vàng cân nặng hơn nửa ký, vì lòng tham, con đã lấy; các vật ấy được chôn dưới đất, ở giữa lều của con, và bạc thì ở bên dưới.”

22 Ông Giô-suê sai người chạy tới lều A-khan; quả thật chiếc áo khoác được chôn trong lều, còn bạc thì ở dưới.23 Họ lấy tất cả ra khỏi lều, mang về cho ông Giô-suê và toàn thể con cái Ít-ra-en, rồi đổ ra trước nhan ĐỨC CHÚA.

24 Khi ấy, ông Giô-suê đem A-khan, con ông De-rác đi, cùng với bạc, áo khoác, nén vàng, cũng như con trai, con gái, bò lừa, chiên dê, lều trại và tất cả những gì của nó. Toàn thể Ít-ra-en cùng đi với nó. Người ta đem chúng lên cánh đồng A-kho.

25 Ông Giô-suê bảo: “Sao ngươi lại gây hoạ cho chúng ta? Xin ĐỨC CHÚA giáng hoạ cho ngươi hôm nay! ” Toàn thể Ít-ra-en ném đá A-khan. Họ ném đá và thiêu những gì còn lại.

26 Rồi người ta chất một đống đá lớn trên A-khan. Đống đá ấy vẫn còn cho đến ngày nay. Bấy giờ, ĐỨC CHÚA nguôi cơn thịnh nộ. Vì thế, người ta gọi nơi này là “cánh đồng A-kho” cho đến ngày nay.

4. ĐÁNH CHIẾM THÀNH AI

Thiên Chúa truyền lệnh cho ông Giô-suê

8.  1 ĐỨC CHÚA phán với ông Giô-suê: “Đừng hãi, đừng sợ! Hãy đem theo ngươi mọi chiến sĩ. Đứng dậy đi, tiến lên đánh thành Ai. Xem đây, Ta nộp vào tay ngươi vua thành Ai, dân, thành và xứ của vua ấy.2 Ngươi sẽ đối xử với thành Ai và vua thành ấy như đã đối xử với Giê-ri-khô và vua thành ấy. Các ngươi chỉ được chiếm cho mình chiến lợi phẩm và thú vật. Ngươi hãy đặt quân mai phục phía sau thành để tấn công.”

Mưu kế của ông Giô-suê

3 Ông Giô-suê trỗi dậy, cùng với mọi chiến sĩ lên đánh thành Ai. Ông chọn ba mươi ngàn dũng sĩ, và đang đêm sai họ đi.4 Ông ra lệnh này cho họ: “Xem đây! Anh em sẽ mai phục phía sau thành để tấn công, nhưng đừng ở quá xa, và tất cả anh em hãy sẵn sàng.5 Còn tôi và toàn dân ở với tôi, chúng tôi sẽ tiến lại gần thành. Khi chúng ra nghênh chiến với chúng ta như lần đầu, chúng tôi sẽ chạy trốn trước mặt chúng.6 Chúng sẽ chạy ra đuổi theo chúng tôi, cho đến khi chúng tôi nhử chúng ra xa thành, vì chúng sẽ nói: “Họ chạy trốn trước mặt chúng ta như lần đầu! Chúng tôi sẽ chạy trốn trước mặt họ;7 còn anh em, anh em sẽ đứng lên, rời chỗ mai phục và chiếm thành. ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, sẽ nộp thành vào tay anh em.8 Vậy sau khi đoạt được thành, anh em sẽ phóng hoả đốt thành. Anh em phải làm theo lời ĐỨC CHÚA. Hãy coi! Đó là mệnh lệnh tôi truyền cho anh em.”

9 Ông Giô-suê sai họ đi; họ đi đến chỗ mai phục và núp ở giữa Bết Ên và Ai, về phía tây của thành, còn ông Giô-suê thì qua đêm ở giữa dân.10 Sáng hôm sau, ông Giô-suê dậy sớm, duyệt lại hàng ngũ của dân. Ông và các kỳ mục Ít-ra-en tiến lên, đi trước dân để tấn công thành Ai.11 Mọi chiến sĩ ở với ông thì đi lên, tiến tới. Đến trước mặt thành Ai, họ đóng trại ở phía bắc thành, giữa họ và thành có một thung lũng.12 Ông lấy chừng năm ngàn người, cho họ mai phục giữa Bết Ên và Ai, phía tây thành.13 Khi dân đã dàn trận ở phía bắc thành, và đặt hậu quân ở phía tây, thì đêm ấy ông Giô-suê đi ra giữa cánh đồng.

Cuộc đánh chiếm thành Ai

14 Vua thành Ai thấy thế, thì sáng hôm sau, vua và toàn dân trong thành vội vàng dậy sớm, ra nghênh chiến với Ít-ra-en ở chỗ đã định, đối diện với A-ra-va. Nhưng ông không biết là có quân mai phục đang chờ ông đằng sau thành.15 Ông Giô-suê và toàn dân Ít-ra-en để cho quân địch đánh, và họ tháo chạy về phía sa mạc.16 Toàn dân trong thành tập họp lại, đuổi theo. Chúng đuổi theo ông Giô-suê và bị nhử ra xa thành.17 Không một người nào trong thành Ai và Bết Ên mà không chạy ra rượt theo Ít-ra-en, chúng để thành bỏ ngỏ mà đuổi theo Ít-ra-en.18 ĐỨC CHÚA phán với ông Giô-suê: “Hãy giơ ngọn lao ngươi đang cầm trong tay hướng về thành Ai, vì Ta sẽ nộp thành ấy vào tay ngươi.” Ông Giô-suê giơ ngọn lao đang cầm trong tay về phía thành.19 Ông vừa giơ tay lên thì quân mai phục vội vàng trỗi dậy, rời khỏi chỗ núp. Họ chạy vào và chiếm thành rồi vội vàng phóng hoả đốt thành.

20 Người thành Ai quay lại, nhìn thấy khói từ thành bốc lên trời. Chúng không còn sức chạy trốn đàng nào nữa, vì những người Ít-ra-en đang chạy trốn vào sa mạc quay lại đánh những kẻ đuổi theo họ.21 Thấy quân mai phục chiếm được thành và thấy khói từ thành bốc lên, ông Giô-suê và toàn thể Ít-ra-en trở lại đánh người thành Ai.22 Những người khác ra khỏi thành đón đường chúng, khiến chúng lọt vào giữa Ít-ra-en, bị chận cả hai đầu. Ít-ra-en giết chúng, không để sót một tên, không để thoát một mống.23 Vua thành Ai bị bắt sống và bị điệu tới ông Giô-suê.24 Khi Ít-ra-en đã giết sạch dân thành Ai, kẻ ở ngoài đồng, cũng như kẻ ở trong sa mạc là nơi chúng đuổi theo họ, khi tất cả, cho đến tên cuối cùng, đã ngã gục dưới lưỡi gươm, thì toàn thể Ít-ra-en trở về thành Ai và dùng lưỡi gươm giết chúng.25 Số những kẻ ngã gục trong ngày đó, đàn ông cũng như đàn bà, tất cả lên tới mười hai ngàn, mọi người đều là dân thành Ai.

Án tru diệt và cuộc tàn phá thành Ai

26 Ông Giô-suê cứ giơ tay cầm lao, không hạ xuống cho đến khi ông thi hành án tru diệt tất cả thành Ai.27 Người Ít-ra-en chỉ chiếm cho mình thú vật và chiến lợi phẩm của thành ấy, theo lệnh ĐỨC CHÚA đã truyền cho ông Giô-suê.

28 Ông Giô-suê đã đốt thành Ai, khiến nó mãi mãi là một nơi điêu tàn, một chốn hoang vu vẫn còn đến ngày nay.29 Ông cho treo cổ vua thành Ai trên cây cho đến chiều. Nhưng khi mặt trời lặn, ông ra lệnh hạ xác xuống khỏi cây và quăng ở cửa thành. Người ta chất trên y một đống đá lớn vẫn còn cho đến ngày nay.

5. DÂNG HY LỄ VÀ ĐỌC SÁCH LUẬT TRÊN NÚI Ê-VAN

Bàn thờ bằng đá nguyên vẹn

30 Bấy giờ, ông Giô-suê dựng bàn thờ kính ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của Ít-ra-en, trên núi Ê-van,31 theo lệnh ông Mô-sê, tôi trung của ĐỨC CHÚA, đã truyền cho con cái Ít-ra-en, như đã chép trong Sách Luật Mô-sê: đó là một bàn thờ bằng đá nguyên vẹn, chưa có đồ sắt chạm tới. Trên đó, người ta dâng lễ toàn thiêu kính ĐỨC CHÚA và dâng lễ kỳ an.

Đọc Sách Luật Mô-sê

32 Ông Giô-suê cho khắc bản sao Luật Mô-sê trên những tảng đá; ông Mô-sê đã viết Luật đó trước mặt con cái Ít-ra-en.33 Toàn thể Ít-ra-en, các bậc kỳ mục, kinh sư và thẩm phán đều đứng hai bên Hòm Bia, đối diện với các tư tế Lê-vi khiêng Hòm Bia Giao Ước của ĐỨC CHÚA, người ngoại kiều cũng như người bản xứ, một nửa đứng trước núi Gơ-ri-dim, một nửa đứng trước núi Ê-van, để theo lệnh ông Mô-sê, tôi trung của ĐỨC CHÚA, dân Ít-ra-en được chúc phúc trước.34 Sau đó, ông Giô-suê đọc mọi lời của Lề Luật, -những lời chúc phúc và những lời nguyền rủa-, theo như mọi điều đã ghi trong Sách Luật.35 Không có lời nào ông Mô-sê đã truyền viết ra, mà ông Giô-suê lại không đọc trước mặt toàn thể cộng đồng Ít-ra-en, gồm cả đàn bà, trẻ con và ngoại kiều cùng đi chung với họ.

6. HIỆP ƯỚC GIỮA ÍT-RA-EN VÀ NGƯỜI GHÍP-ÔN

Liên minh chống Ít-ra-en

9.  1 Nghe tin ấy, tất cả các vua ở bên kia sông Gio-đan, trên miền núi, trong miền Sơ-phê-la và ở vùng ven Biển Lớn cho đến tận Li-băng: các vua Khết, E-mô-ri, Ca-na-an, Pơ-rít-di, Khi-vi và Giơ-vút,2 hợp nhau để cùng chiến đấu chống lại ông Giô-suê và Ít-ra-en.

Mưu của người Ghíp-ôn

3 Người Ghíp-ôn nghe biết những gì ông Giô-suê đã làm cho Giê-ri-khô và Ai,4 thì cũng dùng mưu. Chúng lên đường, mang theo lương thực, và cho lừa chở những chiếc bị cũ, những bầu rượu bằng da cũ, thủng và được vá lại,5 chân mang dép cũ được khâu lại, mình mặc quần áo cũ; tất cả bánh dự trữ đều khô cứng, nát vụn.

6 Chúng đi gặp ông Giô-suê ở trại Ghin-gan; chúng nói với ông và người Ít-ra-en: “Chúng tôi từ nơi xa đến, vậy bây giờ xin các ông ký hiệp ước với chúng tôi.”7 Người Ít-ra-en mới nói với người Khi-vi: “Biết đâu (các) ông lại chẳng sống ngay giữa chúng tôi, thì (chúng) tôi ký hiệp ước với các ông làm gì? “8 Chúng nói với ông Giô-suê: “Chúng tôi là tôi tớ của ông.” Ông Giô-suê nói: “Các ông là ai, và từ đâu đến? “9 Chúng đáp: “Nghe biết danh tiếng ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ông, các tôi tớ của ông đã từ một nước rất xa đến đây. Vì chúng tôi đã nghe nói về Người, về tất cả những gì Người đã làm bên Ai-cập,10 và về tất cả những gì Người đã giáng cho hai vua người E-mô-ri ở bên kia sông Gio-đan, nghĩa là cho Xi-khôn, vua Khét-bôn, và Ốc, vua Ba-san, ở Át-ta-rốt.11 Các bậc kỳ mục của chúng tôi và mọi người dân trong nước đã nói với chúng tôi: “Các anh hãy mang theo lương thực đi đường mà đi đón họ; hãy nói với họ: Chúng tôi là tôi tớ của các ông; vậy bây giờ xin các ông ký hiệp ước với chúng tôi.12 Bánh của chúng tôi đây này: khi chúng tôi đem ra khỏi nhà làm lương thực, ngày chúng tôi ra đi để đến với các ông, nó còn nóng hổi, mà bây giờ nó đã khô cứng, nát vụn!13 Những bầu rượu kia, khi chúng tôi đổ đầy rượu vào, thì hãy còn mới, mà nay đã thủng; quần áo và giày dép của chúng tôi đây đã cũ vì đường sá xa xôi.”14 Người Ít-ra-en nhận một phần lương thực dự trữ ấy mà không thỉnh ý ĐỨC CHÚA qua lời sấm.15 Ông Giô-suê để chúng được bình an, và ký hiệp ước bảo đảm tính mạng của chúng. Và những người lãnh đạo cộng đồng thề ước với chúng.

16 Ba ngày sau khi ký hiệp ước với chúng, người Ít-ra-en nghe biết chúng là người láng giềng và sống giữa họ.17 Con cái Ít-ra-en rời nơi đó mà vào thành của chúng ngày thứ ba; thành của chúng là Ghíp-ôn, Cơ-phi-ra, Bơ-ê-rốt, Kia-giát Giơ-a-rim.18 Con cái Ít-ra-en không giết chúng, vì các người lãnh đạo cộng đồng đã thề ước với chúng nhân danh ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của Ít-ra-en; nhưng toàn thể cộng đồng đã kêu trách những người lãnh đạo.

Quy chế cho người Ghíp-ôn

19 Mọi người lãnh đạo nói với toàn thể cộng đồng: “Chúng tôi đã nhân danh ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của Ít-ra-en, mà thề; nên bây giờ chúng ta không được đụng tới chúng.20 Chúng ta sẽ đối xử với chúng như thế này: Chúng ta sẽ để cho chúng sống, và cơn thịnh nộ sẽ không giáng xuống chúng ta, vì chúng ta đã thề ước với chúng như vậy.”21 Những người lãnh đạo nói tiếp: “Cứ để chúng sống, nhưng chúng phải chặt củi, múc nước cho toàn thể cộng đồng.” Những người lãnh đạo đã nói với chúng như thế.22 Ông Giô-suê triệu tập chúng lại và nói: “Tại sao các người đã lừa dối chúng tôi mà nói: “Chúng tôi ở rất xa các ông”, trong khi các người sống giữa chúng tôi?23 Bây giờ, các người là những kẻ bị nguyền rủa, tất cả các người sẽ mãi mãi làm nô lệ, làm người chặt củi, múc nước cho Nhà của Thiên Chúa tôi.”24 Chúng trả lời ông Giô-suê: “Người ta đã kể đi kể lại cho các tôi tớ ngài đây lệnh mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ông, đã truyền cho ông Mô-sê, tôi trung của Người, là trao cho các ông tất cả xứ sở, và tiêu diệt trước mặt các ông toàn thể dân cư trong xứ. Chúng tôi đã sợ cho tính mạng của chúng tôi, chúng tôi rất sợ các ông, nên chúng tôi đã làm điều ấy.25 Vậy bây giờ chúng tôi đang ở trong tay ông, ông cứ đối xử với chúng tôi như ông nghĩ thế nào là hay là phải! “26 Ông đã đối xử với chúng như thế này: ông đã cứu chúng khỏi tay con cái Ít-ra-en, và họ đã không giết chúng.27 Nhưng ngày ấy ông Giô-suê bắt chúng chặt củi, múc nước để phục vụ cộng đồng và bàn thờ của ĐỨC CHÚA cho đến ngày nay, ở nơi Người sẽ chọn.

7. LIÊN MINH NĂM VUA E-MÔ-RI. ĐÁNH CHIẾM MIỀN NAM PA-LÉT-TIN.

Năm vua đánh Ghíp-ôn

10.  1 A-đô-ni Xe-đéc, vua Giê-ru-sa-lem, nghe tin ông Giô-suê đã chiếm thành Ai, đã tru hiến thành này, đã đối xử với thành Ai và vua thành này như với Giê-ri-khô và vua thành ấy. Vua cũng nghe tin dân thành Ghíp-ôn đã cầu hoà với Ít-ra-en và đang sống giữa Ít-ra-en.2 Khi đó người ta hết sức sợ hãi, bởi vì Ghíp-ôn là một thành lớn như một kinh thành. Quả thế, thành đó lớn hơn thành Ai, và mọi người trong thành đều là những tay anh hùng.3 A-đô-ni Xe-đéc, vua Giê-ru-sa-lem, sai người đến nói với Hô-ham, vua Khép-rôn, với Pia-am, vua Giác-mút, với Gia-phia, vua La-khít, và với Đơ-via, vua Éc-lon:4 “Xin quý vị lên với tôi và cứu viện cho tôi, để chúng ta cùng đánh Ghíp-ôn, vì Ghíp-ôn đã cầu hoà với Giô-suê và con cái Ít-ra-en.”5 Năm vua E-mô-ri là vua Giê-ru-sa-lem, vua Khép-rôn, vua Giác-mút, vua La-khít, vua Éc-lon, đem quân liên minh với nhau và cùng đi lên. Họ bao vây Ghíp-ôn và tấn công thành ấy.

Ông Giô-suê đến cứu viện Ghíp-ôn

6 Dân thành Ghíp-ôn đến trại Ghin-gan nói với ông Giô-suê: “Xin ngài đừng từ chối tiếp tay cho các tôi tớ ngài. Xin ngài sớm lên với chúng tôi, giải thoát chúng tôi, cứu viện chúng tôi, vì tất cả các vua E-mô-ri ở miền núi đều hợp nhau chống lại chúng tôi.”7 Ông Giô-suê rời Ghin-gan mà đi lên, cùng với tất cả chiến sĩ và dũng sĩ.8 ĐỨC CHÚA phán với ông Giô-suê: “Đừng sợ chúng, vì Ta đã nộp chúng vào tay ngươi, không ai trong bọn chúng sẽ đứng vững trước mặt ngươi.”9 Sau khi từ Ghin-gan đi lên suốt cả một đêm, ông Giô-suê bất thình lình đến nơi chúng đóng quân.

Ơn trên phù hộ

10 ĐỨC CHÚA làm cho chúng tán loạn trước mặt Ít-ra-en. Và Ít-ra-en đã làm cho chúng đại bại ở Ghíp-ôn. Họ đuổi theo chúng lên phía đèo Bết Khô-rôn, và đánh giết chúng mãi cho đến A-dê-ca, cho đến Mác-kê-đa.11 Khi chúng chạy trốn trước mặt Ít-ra-en đến chân đèo Bết Khô-rôn, thì từ trời, ĐỨC CHÚA cho rơi những hòn đá lớn xuống trên chúng mãi cho đến A-dê-ca, khiến chúng phải chết. Chúng chết vì cơn mưa đá nhiều hơn là vì gươm con cái Ít-ra-en giết.12 Bấy giờ, trong ngày ĐỨC CHÚA nộp người E-mô-ri cho con cái Ít-ra-en, ông Giô-suê thưa chuyện với ĐỨC CHÚA. Trước mặt con cái Ít-ra-en, ông nói:
“Hỡi mặt trời, hãy dừng lại trên thành Ghíp-ôn;
hỡi mặt trăng, hãy dừng lại trên thung lũng Ai-gia-lôn! “

13 Mặt trời liền dừng lại, mặt trăng lập tức đứng lại, cho đến khi dân đã trị tội các địch thù.

Việc đó đã chẳng được ghi chép trong sách Người Công Chính sao ? Mặt trời đứng yên ở giữa trời, không vội lặn, gần một ngày tròn.  14 Trước đó và từ đó về sau, không có hôm nào như hôm ấy, ĐỨC CHÚA nghe lời một người phàm, vì ĐỨC CHÚA chiến đấu cho Ít-ra-en.15 Ông Giô-suê và toàn dân Ít-ra-en trở về trại ở Ghin-gan.

Năm vua trốn trong hang Mác-kê-đa

16 Năm vua đó tẩu thoát và trốn vào hang Mác-kê-đa.17 Người ta báo tin cho ông Giô-suê rằng: “Đã tìm thấy năm vua trốn trong hang Mác-kê-đa.”18 Ông Giô-suê nói: “Hãy lăn những tảng đá lớn để lấp cửa hang, và đặt người ở đó canh giữ chúng.19 Còn anh em, đừng đứng lại, hãy đuổi theo kẻ thù, chặn đường triệt thoái, đừng cho chúng vào lại các thành của chúng, vì ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, đã nộp chúng vào tay anh em.”

20 Sau khi ông Giô-suê và con cái Ít-ra-en làm cho chúng hoàn toàn đại bại đến mức tận tuyệt -trừ ít người trốn thoát vào được thành kiên cố của chúng-,21 thì toàn dân mới an toàn trở về trại với ông Giô-suê ở Mác-kê-đa; không một ai dám hé môi nói phạm đến con cái Ít-ra-en.

22 Ông Giô-suê nói: “Mở cửa hang, đem năm vua ấy ra đây cho tôi.”23 Họ đã làm như thế: họ đem năm vua ấy ra khỏi hang cho ông. Đó là vua Giê-ru-sa-lem, vua Khép-rôn, vua Giác-mút, vua La-khít, vua Éc-lon.24 Khi họ đã đem các vua ấy ra cho ông Giô-suê, thì ông triệu tập tất cả những người Ít-ra-en lại, và nói với những tướng lãnh các chiến sĩ tháp tùng ông: “Tiến lại gần đây, đặt chân lên cổ các vua này.” Họ tiến lại gần và đặt chân họ lên cổ chúng.25 Ông Giô-suê nói: “Đừng hãi, đừng sợ; mạnh bạo lên, can đảm lên! Vì ĐỨC CHÚA sẽ xử như thế này với mọi địch thù mà anh em sẽ phải nghênh chiến.”26 Sau đó, ông Giô-suê cho đánh và giết chết chúng, rồi treo lên năm ngọn cây. Chúng bị treo trên cây cho đến chiều.

27 Khi mặt trời lặn, ông Giô-suê truyền hạ chúng xuống khỏi cây. Người ta quăng chúng vào hang, nơi chúng đã trốn, và người ta đặt những tảng đá lớn nơi cửa hang. Những tảng đá ấy còn mãi cho đến ngày nay.

Chiếm các thành miền nam Ca-na-an

28 Ngày hôm ấy, ông Giô-suê chiếm được Mác-kê-đa và dùng lưỡi gươm chém giết dân trong thành cũng như vua của chúng. Ông tru hiến chúng cũng như mọi sinh vật trong đó, không để một mạng nào sống sót. Ông đã xử với vua Mác-kê-đa như đã xử với vua Giê-ri-khô.

29 Rồi ông Giô-suê cùng với toàn thể Ít-ra-en rời Mác-kê-đa mà qua Líp-na. Ông giao chiến với Líp-na.30 ĐỨC CHÚA cũng đã nộp Líp-na và cả vua thành ấy vào tay Ít-ra-en. Ít-ra-en đã dùng lưỡi gươm chém giết dân trong thành cũng như mọi sinh vật trong đó, không để một mạng nào sống sót. Ông đã xử với vua thành đó như đã xử với vua thành Giê-ri-khô.

31 Ông Giô-suê cùng với toàn thể Ít-ra-en rời Líp-na mà qua La-khít. Ông vây hãm và tấn công thành.32 ĐỨC CHÚA nộp La-khít vào tay Ít-ra-en. Ít-ra-en chiếm thành đó vào ngày thứ hai, và dùng lưỡi gươm chém giết dân trong thành cũng như mọi sinh vật trong đó, y như đã xử với Líp-na.33 Bấy giờ, Hô-ram, vua Ghe-dê, lên cứu viện cho La-khít, nhưng ông Giô-suê đánh bại nó cũng như dân của nó, đến nỗi không để một mạng nào sống sót.34 Ông Giô-suê cùng với toàn thể Ít-ra-en rời La-khít mà qua Éc-lon. Họ vây hãm và tấn công thành.35 Ngày ấy, họ chiếm thành và dùng lưỡi gươm chém giết dân trong thành. Ngày ấy, ông tru hiến mọi sinh vật trong đó, y như đã xử với La-khít.

36 Ông Giô-suê cùng với toàn thể Ít-ra-en rời Éc-lon mà lên Khép-rôn. Họ tấn công Khép-rôn.37 Họ chiếm thành và dùng lưỡi gươm chém giết dân trong thành, cũng như vua của thành đó, mọi thị trấn phụ thuộc và mọi sinh vật trong đó. Ông không để một mạng nào sống sót, y như đã xử với Éc-lon. Ông tru hiến thành ấy cũng như mọi sinh vật trong đó.

38 Ông Giô-suê cùng với toàn thể Ít-ra-en quay sang Đơ-via và tấn công thành đó.39 Ông chiếm được thành Đơ-via, bắt được vua, và chiếm mọi thị trấn phụ thuộc của thành ấy. Họ đã dùng lưỡi gươm chém giết chúng và tru hiến mọi sinh vật trong đó. Ông không để một mạng nào sống sót. Ông Giô-suê đã xử với thành Khép-rôn, với Líp-na và vua của các thành ấy thế nào, thì cũng xử với Đơ-via và vua của thành ấy như vậy.

Tổng kết về các cuộc chinh phục miền nam

40 Ông Giô-suê đánh chiếm toàn xứ: miền núi, miền Ne-ghép, miền Sơ-phê-la, các Sườn Núi, và giết tất cả các vua. Ông không để một mạng nào sống sót. Ông tru hiến tất cả những gì có sinh khí, theo mệnh lệnh của ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của Ít-ra-en.41 Ông Giô-suê đánh chúng từ Ca-đê Bác-nê-a cho đến Ga-da, cũng như toàn xứ Gô-sen cho đến Ghíp-ôn.42 Ông Giô-suê đã giết tất cả các vua đó, và chiếm đất của chúng, chỉ trong một trận đánh, vì ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của Ít-ra-en, đã chiến đấu cho Ít-ra-en.43 Ông Giô-suê và toàn thể Ít-ra-en trở về trại, ở Ghin-gan.

8. CHINH PHỤC MIỀN BẮC PA-LÉT-TIN

Các vua miền bắc liên minh với nhau

11.  1 Khi nghe tin đó, Gia-vin, vua Kha-xo, sai người đến với Giô-váp, vua Ma-đôn, với Sim-rôn, vua Ác-sáp,2 với các vua ở phía bắc trong miền núi và miền A-ra-va phía nam Kin-na-rốt, trong miền Sơ-phê-la và trên mạn ngược Đo, ở phía tây,3 với người Ca-na-an ở phía đông và phía tây, với người E-mô-ri, Khết, Pơ-rít-di, Giơ-vút trên miền núi và Khi-vi ở dưới chân Khéc-môn, trong xứ Mít-pa.4 Chúng ra đi, chúng và tất cả các binh sĩ của chúng, một đám dân đông đảo, nhiều như cát ngoài bãi biển, cùng với vô số ngựa xe.

Chiến thắng ở Mê-rôm

5 Tất cả các vua đó liên minh với nhau thành một khối, kéo nhau đến đóng trại gần bờ suối ở Mê-rôm, để giao chiến với Ít-ra-en.6 ĐỨC CHÚA phán với ông Giô-suê: “Đừng sợ chúng, vì ngày mai cũng vào giờ này, Ta sẽ nộp thây của tất cả bọn chúng cho Ít-ra-en; ngươi sẽ chặt nhượng chân ngựa và phóng hoả đốt chiến xa của chúng.”7 Ông Giô-suê và mọi chiến sĩ bất thình lình ập tới gần chúng ở bờ suối Mê-rôm và xông vào đánh.8 ĐỨC CHÚA nộp chúng vào tay Ít-ra-en. Dân Ít-ra-en đánh chúng và đuổi theo chúng cho đến Xi-đôn Đại đô, cho đến Mít-rơ-phốt Ma-gim, và cho đến thung lũng Mít-pê, ở phía đông, họ đánh chúng tới mức không để một mạng nào sống sót.9 Ông Giô-suê xử với chúng như ĐỨC CHÚA đã phán với ông: Ông đã chặt nhượng chân ngựa và phóng hoả đốt chiến xa.

Chiếm Kha-xo và các thành khác ở phía bắc

10 Thuở ấy, ông Giô-suê trở về, chiếm Kha-xo và dùng gươm giết vua thành đó, vì trước kia Kha-xo là thủ đô của các vương quốc đó.11 Họ dùng lưỡi gươm chém giết mọi sinh vật trong thành, tru hiến chúng; không còn một sinh vật nào sót lại; và ông đã phóng hoả đốt Kha-xo.

12 Ông Giô-suê chiếm mọi thành của các vua đó và dùng lưỡi gươm chém giết tất cả các vua của những thành đó. Ông tru hiến chúng, như ông Mô-sê tôi trung của ĐỨC CHÚA đã truyền.

13 Nhưng Ít-ra-en không đốt thành nào xây dựng trên gò phế tích; chỉ có ông Giô-suê đốt Kha-xo mà thôi.14 Con cái Ít-ra-en chiếm cho mình mọi chiến lợi phẩm của các thành ấy và thú vật; nhưng họ dùng lưỡi gươm chém giết mọi người, đến mức tiêu diệt hết, không để một sinh vật nào sống sót.

15 Những gì ĐỨC CHÚA đã truyền cho ông Mô-sê, tôi trung của Người, thì ông Mô-sê truyền lại cho ông Giô-suê, và ông Giô-suê đã làm như vậy. Ông không bỏ sót một điều gì ĐỨC CHÚA đã truyền cho ông Mô-sê.

Tổng kết về các cuộc chinh phục miền bắc

16 Thế là ông Giô-suê đã chiếm toàn xứ đó: miền núi, tất cả miền Ne-ghép, tất cả đất Gô-sen, miền Sơ-phê-la, miền A-ra-va, miền núi Ít-ra-en và đồng bằng của miền đó.

17 Từ núi Trọc đi lên Xê-ia cho đến Ba-an Gát trong thung lũng Li-băng dưới chân núi Khéc-môn, ông bắt được các vua của chúng, cho đánh và giết chết.18 Trong nhiều ngày, ông Giô-suê giao chiến với tất cả các vua đó.19 Không một thành nào làm hoà với con cái Ít-ra-en, ngoại trừ người Khi-vi cư ngụ ở Ghíp-ôn. Nhờ chiến đấu, con cái Ít-ra-en đã lấy được mọi thành.20 Quả thế, ĐỨC CHÚA đã quyết định làm cho dân ấy cứng lòng mà nghênh chiến với Ít-ra-en, để Ít-ra-en tru hiến chúng, không ân xá cho chúng, và làm cho chúng phải bị tiêu diệt, như ĐỨC CHÚA đã truyền cho ông Mô-sê.

21 Thuở ấy, ông Giô-suê đến đánh đuổi người A-nác khỏi miền núi: Khép-rôn, Đơ-via, A-náp, khỏi tất cả miền núi Giu-đa và Ít-ra-en. Ông Giô-suê tru hiến chúng và các thành của chúng.22 Không còn sót lại một người A-nác nào nữa trong đất con cái Ít-ra-en, ngoại trừ ở Ga-da, Gát và Át-đốt.23 Ông Giô-suê chiếm trọn đất ấy y như ĐỨC CHÚA đã phán với ông Mô-sê. Ông Giô-suê đã ban đất ấy làm gia nghiệp cho Ít-ra-en, để các chi tộc chia nhau.
Và xứ sở được sống yên hàn, hết nạn chiến tranh.

9. TỔNG KẾT VỀ CUỘC CHIẾN THẮNG CÁC VUA Ở HAI BÊN SÔNG GIO-ĐAN

Các vua bại trận ở phía đông sông Gio-đan

12.  1 Đây là các vua trong xứ đã bị con cái Ít-ra-en đánh bại và chiếm đất, bên kia sông Gio-đan, phía mặt trời mọc, từ suối Ác-nôn đến núi Khéc-môn, và tất cả miền A-ra-va ở phía đông:2 Xi-khôn, vua E-mô-ri, đóng đô tại Khét-bôn. Vua này cai trị vùng đất từ A-rô-e trên bờ suối Ác-nôn, kể cả lòng suối, một nửa Ga-la-át, cho đến suối Giáp-bốc, ranh giới của con cái Am-mon;3 miền A-ra-va cho đến phía đông biển Kin-ne-rét, và cho đến phía đông biển A-ra-va, -tức là Biển Muối, theo hướng Bết Ha Giơ-si-mốt, nằm ở phía nam chân núi Pít-ga.

4 Rồi Ốc, vua Ba-san, một người còn sống sót của dân Ra-pha, đóng đô tại Át-ta-rốt và Ét-re-i.5 Vua này cai trị miền núi Khéc-môn, Xan-kha và toàn miền Ba-san cho đến ranh giới của người Gơ-sua và Ma-a-kha, và một nửa Ga-la-át cho đến ranh giới của Xi-khôn, vua Khét-bôn.6 Ông Mô-sê, tôi trung của ĐỨC CHÚA, và con cái Ít-ra-en đánh bại chúng. Ông Mô-sê, tôi trung của ĐỨC CHÚA, đã cho những người thuộc các chi tộc Rưu-vên, Gát và một nửa chi tộc Mơ-na-se được chiếm đất của chúng làm sở hữu.

Các vua bại trận ở phía tây sông Gio-đan

7 Và sau đây là các vua trong xứ đã bị ông Giô-suê và con cái Ít-ra-en đánh bại bên kia sông Gio-đan, ở phía tây, từ Ba-an Gát trong thung lũng Li-băng cho đến núi Trọc đứng trên đường đi Xê-ia, và ông Giô-suê đã cho các chi tộc Ít-ra-en được chiếm làm sở hữu để chia nhau:8 trên miền núi, trong miền Sơ-phê-la, tại A-ra-va, ở các Sườn Núi, trong sa mạc vùng Ne-ghép, nơi các người Khết, E-mô-ri, Ca-na-an, Pơ-rít-di, Khi-vi và Giơ-vút:

9 Vua Giê-ri-khô, một; vua Ai, bên cạnh Bết Ên, một,
10 vua Giê-ru-sa-lem, một; vua Khép-rôn, một,
11 vua Giác-mút, một; vua La-khít, một,
12 vua Éc-lon, một; vua Ghe-de, một,
13 vua Đơ-via, một; vua Ghe-đe, một,
14 vua Khoóc-ma, một; vua A-rát, một,
15 vua Líp-na, một; vua A-đu-lam, một,
16 vua Mác-kê-đa, một; vua Bết Ên, một,
17 vua Táp-pu-ác, một; vua Khê-phe, một,
18 vua A-phếch, một; vua La-sa-rôn, một,
19 vua Ma-đôn, một; vua Kha-xo, một,
20 vua Sim-rôn Mơ-rôn, một; vua Ác-sáp, một,
21 vua Ta-nác, một; vua Mơ-ghít-đô, một,
22 vua Ke-đét, một; vua Gióc-nơ-am núi Các-men, một,
23 vua Đo ở mạn ngược Đo, một; vua Gô-gim ở Ghin-gan, một,
24 vua Tia-xa, một; số tất cả các vua là ba mươi mốt.

II. PHÂN CHIA ĐẤT ĐAI CHO CÁC CHI TỘC
1. MỆNH LỆNH CỦA THIÊN CHÚA

13.  1 Khi ông Giô-suê về già, tuổi đã cao, ĐỨC CHÚA phán với ông: “Ngươi đã già nua tuổi tác, mà đất đai còn phải chiếm thì lại quá nhiều.2 Đây là đất còn lại:

‘Mọi địa hạt người Phi-li-tinh, tất cả vùng dân Gơ-sua, 3 từ Si-kho đối diện với Ai-cập, cho đến ranh giới Éc-rôn ở phía bắc, cũng được coi là thuộc về Ca-na-an; vùng đất của năm thủ lãnh Phi-li-tinh: Ga-da, Át-đốt, Át-cơ-lôn, Gát và Éc-rôn; rồi vùng đất của người A-vim,4 ở phía nam; trọn vùng đất người Ca-na-an và Mơ-a-ra của người Xi-đôn cho đến A-phếch, đến ranh giới của người E-mô-ri;5 vùng đất của người Gơ-van và tất cả Li-băng phía mặt trời mọc, từ Ba-an Gát ở chân núi Khéc-môn cho đến lối vào Cửa Ải Kha-mát.

6 Tất cả dân miền núi từ Li-băng đến Mít-rơ-phốt Ma-gim, mọi người Xi-đôn, chính Ta sẽ xua đuổi chúng cho khuất mắt con cái Ít-ra-en. Ngươi chỉ có việc cho Ít-ra-en bắt thăm để được đất làm gia nghiệp như Ta đã truyền cho ngươi.7 Và bây giờ, ngươi hãy chia đất này làm gia nghiệp cho chín chi tộc và nửa chi tộc Mơ-na-se.”

2. CÁC CHI TỘC BÊN KIA SÔNG GIO-ĐAN

Nhìn tổng quát

8 Cùng với nửa chi tộc Mơ-na-se còn lại, chi tộc Rưu-vên và chi tộc Gát đã nhận phần gia nghiệp mà ông Mô-sê đã ban cho họ bên kia sông Gio-đan, phía đông, như ông Mô-sê, tôi trung của ĐỨC CHÚA, đã ban cho họ:9 từ A-rô-e trên bờ suối Ác-nôn và thành nằm giữa thung lũng, toàn vùng cao nguyên Mê-đơ-va cho đến Đi-vôn;10 mọi thành của Xi-khôn, vua dân E-mô-ri, trị vì ở Khét-bôn, cho đến ranh giới của con cái Am-mon,11 Ga-la-át và lãnh thổ của người Gơ-sua và người Ma-a-kha, tất cả núi Khéc-môn và toàn miền Ba-san cho đến Xan-kha;12 ở Ba-san, tất cả vương quốc của Ốc, là vua trị vì ở Át-ta-rốt và Ét-re-i, và là người còn sống sót của dân Ra-pha. Ông Mô-sê đã đánh bại và xua đuổi chúng đi.13 Nhưng con cái Ít-ra-en không xua đuổi được người Gơ-sua và người Ma-a-kha, khiến chúng còn sinh sống giữa Ít-ra-en cho đến ngày nay.14 Chỉ có chi tộc Lê-vi là không được nhận phần gia nghiệp: các hoả tế dâng ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của Ít-ra-en, là gia nghiệp của chi tộc đó, như lời Người đã phán với họ.

Chi tộc Rưu-vên

15 Ông Mô-sê đã ban một phần đất cho chi tộc con cái ông Rưu-vên, theo các thị tộc của họ.16 Lãnh thổ của họ trải rộng từ A-rô-e, trên bờ suối Ác-nôn, với thành nằm giữa thung lũng, cũng như toàn vùng cao nguyên, cho đến Mê-đơ-va,17 Khét-bôn và mọi thành vùng cao nguyên: Đi-vôn, Ba-mốt Ba-an, Bết Ba-an Mơ-ôn,18 Gia-hát, Cơ-đê-mốt, Mê-pha-át,19 Kia-gia-tha-gim, Xíp-ma, Xe-rét Ha-sa-kha trên ngọn đồi nằm giữa đồng bằng,20 Bết Pơ-o, các sườn núi Pít-ga, Bết Ha Giơ-si-mốt,21 mọi thành vùng cao nguyên và toàn vương quốc của Xi-khôn, vua E-mô-ri, đang trị vì ở Khét-bôn. Ông Mô-sê đã đánh bại vua này, cũng như các thủ lãnh Ma-đi-an, E-vi, Re-kem, Xua, Khua và Re-va, là các chư hầu của Xi-khôn ở trong vùng đất đó.22 Còn thầy bói Bi-lơ-am, con ông Bơ-o, thì con cái Ít-ra-en đã lấy gươm giết chết, cùng một lượt với những người bại trận.23 Vậy lãnh thổ con cái ông Rưu-vên là sông Gio-đan và vùng phụ cận. Các thành và làng mạc của những thành ấy là gia nghiệp con cái ông Rưu-vên theo các thị tộc của họ.

Chi tộc Gát

24 Ông Mô-sê đã ban một phần đất cho chi tộc Gát, cho con cái ông Gát, theo các thị tộc của họ.25 Lãnh thổ của họ gồm có: Gia-de và tất cả các thành miền Ga-la-át, nửa phần đất của con cái Am-mon cho đến A-rô-e, đối diện với Ráp-ba,26 từ Khét-bôn cho đến Ra-mát Ha Mít-pê và Bơ-tô-nim, từ Ma-kha-na-gim cho đến lãnh thổ Lít-via,27 và các thành trong thung lũng: Bết Ha-ram, Bết Nim-ra, Xúc-cốt, Xa-phôn, phần còn lại thuộc vương quốc của Xi-khôn, vua Khét-bôn, lấy sông Gio-đan làm ranh giới cho đến hết biển hồ Kin-ne-rét, bên kia sông Gio-đan, về phía đông.28 Các thành và làng mạc của những thành ấy là gia nghiệp con cái ông Gát, theo các thị tộc của họ.

Nửa chi tộc Mơ-na-se

29 Ông Mô-sê đã ban một phần đất cho nửa chi tộc Mơ-na-se; đó là phần dành cho nửa chi tộc Mơ-na-se, theo các thị tộc của họ.30 Lãnh thổ của họ gồm có: từ Ma-kha-na-gim, toàn miền Ba-san, toàn vương quốc của Ốc, vua Ba-san, mọi trại của Gia-ia ở miền Ba-san, tức là sáu mươi thành.31 Nửa miền Ga-la-át, Át-ta-rốt và Ét-re-i, những thành trong vương quốc của vua Ốc ở Ba-san; các thành ấy là phần của con cái ông Ma-khia, con ông Mơ-na-se, thực ra là một nửa số con cái ông Ma-khia, theo các thị tộc của họ.

32 Đó là phần ông Mô-sê ban làm gia nghiệp, trong vùng thảo nguyên Mô-áp, bên kia sông Gio-đan, đối diện với Giê-ri-khô, về phía đông.33 Nhưng ông Mô-sê không cho chi tộc Lê-vi được hưởng gia nghiệp. Chính ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của Ít-ra-en, là gia nghiệp của họ, như lời Người đã phán với họ.

3. BA CHI TỘC LỚN Ở PHÍA TÂY SÔNG GIO-ĐAN

Nhập đề

14.  1 Đây là phần gia nghiệp con cái Ít-ra-en đã lãnh nhận ở xứ Ca-na-an, phần gia nghiệp mà tư tế E-la-da, ông Giô-suê con ông Nun, và những người đứng đầu gia tộc của các chi tộc con cái Ít-ra-en, đã chia cho họ.2 Chín chi tộc và một nửa chi tộc đã bắt thăm và lãnh được gia nghiệp, theo mệnh lệnh của ĐỨC CHÚA, qua trung gian của ông Mô-sê.3 Thật vậy, ông Mô-sê đã ban gia nghiệp cho hai chi tộc và một nửa chi tộc ở bên kia sông Gio-đan; nhưng ông đã không ban cho các người Lê-vi phần gia nghiệp giữa các chi tộc.4 Đó là vì con cái ông Giu-se chia làm hai chi tộc: Mơ-na-se và Ép-ra-im; còn các người Lê-vi thì không nhận được vùng đất trong xứ, ngoại trừ các thành để ở, cùng với đồng cỏ cho súc vật và của cải thuộc về họ.5 ĐỨC CHÚA đã truyền cho ông Mô-sê thế nào, thì con cái Ít-ra-en làm như vậy: họ đã phân chia đất đai.

Phần đất của ông Ca-lếp

6 Con cái ông Giu-đa đến gần ông Giô-suê ở Ghin-gan. Ông Ca-lếp, con ông Giơ-phun-ne, người Cơ-nát, nói với ông: “Ông biết lời ĐỨC CHÚA đã phán với ông Mô-sê, người của Thiên Chúa, về tôi và về ông ở Ca-đê Bác-nê-a.7 Tôi được bốn mươi tuổi khi ông Mô-sê, tôi trung của ĐỨC CHÚA, từ Ca-đê Bác-nê-a, sai tôi đi do thám xứ này, và tôi đã thật lòng báo cáo cho ông ấy.8 Những người anh em cùng lên với tôi đã làm cho tâm thần của dân sợ hãi như muốn chảy tan ra. Nhưng tôi đã trọn tình trọn nghĩa với ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của tôi.9 Ngày ấy, ông Mô-sê đã thề rằng: “Đất mà chân anh dẫm lên chắc chắn sẽ trở thành gia nghiệp của anh, của con cái anh cho đến muôn đời, vì anh đã trọn tình trọn nghĩa với ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của tôi.10 Và bây giờ, này ĐỨC CHÚA đã để tôi sống như lời Người đã phán cách đây bốn mươi lăm năm, kể từ khi ĐỨC CHÚA nói lời đó với ông Mô-sê, thuở Ít-ra-en còn đi trong sa mạc. Bây giờ, hôm nay đây tôi đã được tám mươi lăm tuổi.11 Ngày hôm nay, tôi vẫn còn khoẻ như ngày ông Mô-sê sai tôi đi. Sức lực tôi xưa thế nào, bây giờ cũng vậy, để chiến đấu hay đi lại hoạt động.12 Vậy giờ đây, xin cho tôi núi này, núi ĐỨC CHÚA đã nói đến trong ngày ấy, vì ông đã nghe nói trong ngày ấy, là ở đấy có người A-nác và những thành trì kiên cố lớn lao. Nếu ĐỨC CHÚA ở với tôi, tôi sẽ xua đuổi chúng, như ĐỨC CHÚA đã phán.”

13 Ông Giô-suê chúc phúc cho ông Ca-lếp, con ông Giơ-phun-ne, và tặng Khép-rôn cho ông làm gia nghiệp cho đến ngày nay.14 Vì thế, Khép-rôn đã thành gia nghiệp của ông Ca-lếp, con ông Giơ-phun-ne, người Cơ-nát, vì ông đã trọn tình trọn nghĩa với ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của Ít-ra-en.

15 Ngày trước, tên của Khép-rôn là Kia-giát Ác-ba. Ác-ba là người cao lớn nhất trong dân A-nác.
Và xứ sở được sống yên hàn, hết nạn chiến tranh.

Chi tộc Giu-đa

15.  1 Phần chi tộc con cái Giu-đa bắt thăm được, để chia cho các thị tộc của họ, nằm ở vùng giáp giới Ê-đôm trong sa mạc Xin, về phía nam, mãi tận cùng phía nam.2 Ranh giới phía nam khởi sự từ cuối Biển Muối, chỗ biển ăn sâu vào phía nam,3 đi về phía nam dốc Ác-ráp-bim, băng qua Xin, trở lên phía nam Ca-đê Bác-nê-a, rồi đi qua Khét-rôn, lên Át-đa và quay sang Các-ca,4 sau đó băng qua Át-môn, tới Suối Ai-cập, và dừng lại ở biển. “Đó sẽ là ranh giới phía nam của các ngươi.”5 Ranh giới phía đông là Biển Muối cho đến cửa sông Gio-đan. Ranh giới phía bắc bắt đầu từ chỗ Biển Muối tiếp giáp với cửa sông Gio-đan,6 đi lên Bết Khoóc-la, băng qua phía bắc Bết Ha A-ra-va, rồi lại đi lên tảng đá Bô-han, Bô-han là con ông Rưu-vên,7 rồi đi lên Đơ-via, từ cánh đồng A-kho, và ở phía bắc quay về Ghin-gan đối diện với dốc A-đum-mim nằm ở phía nam Suối, sau đó qua vùng nước Ên Se-mét, và đi tới Ên Rô-ghên,8 kế đó lại đi lên thung lũng Ben Hin-nôm cho tới sườn đồi phía nam Giơ-vút, tức là Giê-ru-sa-lem. Ranh giới đó lên tận đỉnh núi đối diện với thung lũng Hin-nôm về phía tây, ở cực bắc cánh đồng Ra-pha,9 sau đó, từ đỉnh núi, lượn về phía mạch nước Nép-tô-ác và đi về các thành vùng núi Ép-rôn, rồi lượn về phía Ba-a-la, tức là Kia-giát Giơ-a-rim.10 Từ Ba-a-la, ranh giới đó quay sang phía tây đến núi Xê-ia, đi dọc theo sườn núi Giơ-a-rim phía bắc, tức là Cơ-xa-lôn, xuống tới Bết Se-mét và băng qua Tim-na,11 rồi đi về sườn núi Éc-rôn phía bắc, sau đó lượn về phía Sích-ca-rôn, băng qua núi Ba-a-la, đến tận Giáp-nơ-ên và dừng lại ở biển.

12 Ranh giới phía tây là Biển Lớn và miền duyên hải. Đó là ranh giới chung quanh phần đất con cái Giu-đa, chia theo các thị tộc của họ.

Con cái ông Ca-lếp chiếm đất Khép-rôn (Tl 1,10-15)

13 Người ta chia cho ông Ca-lếp, con ông Giơ-phun-ne một phần đất ở giữa con cái ông Giu-đa, theo mệnh lệnh ĐỨC CHÚA ban cho ông Giô-suê: Kia-giát Ác-ba, tức là Khép-rôn, – Ác-ba là cha ông A-nác.14 Ông Ca-lếp đã đuổi ra khỏi đó ba người con của ông A-nác: Sê-sai, A-khi-man và Tan-mai là con cháu ông A-nác.15 Từ đó, ông lên đánh dân cư thành Đơ-via. Tên của Đơ-via trước kia là Kia-giát Xê-phe.16 Ông Ca-lếp nói: “Ai đánh và chiếm được Kia-giát Xê-phe, thì tôi sẽ gả Ác-xa con gái tôi cho người ấy.”17 Ót-ni-ên con ông Cơ-nát em ông Ca-lếp, đã chiếm được thành, và ông Ca-lếp đã gả Ác-xa con gái mình cho Ót-ni-ên.18 Khi cô ta đến, Ót-ni-ên liền xúi cô xin cha một thửa ruộng. Cô xuống lừa, và ông Ca-lếp hỏi cô: “Chuyện gì thế con? “19 Cô thưa: “Xin cha cho con một món quà. Vì cha đã cho con đất Ne-ghép, thì xin cũng cho con cả suối nước nữa.” Và ông đã cho cô suối trên suối dưới.

20 Đó là gia nghiệp của chi tộc con cái ông Giu-đa, theo các thị tộc của họ.

Danh sách các thành của chi tộc Giu-đa

21 Các thành ở cuối phần đất của chi tộc con cái Giu-đa, ở vùng giáp giới Ê-đôm trong miền Ne-ghép, là:
Cáp-xơ-ên, Ê-đe, Gia-gua, 22 Ki-na, Đi-mô-na, Át-a-đa,23 Ke-đét, Kha-xo, Gít-nan,24 Díp, Te-lem, Bơ-a-lốt,25 Kha-xo Kha-đát-ta, Cơ-ri-giốt, Khét-rôn tức là Kha-xo,26 A-mam, Sơ-ma, Mô-la-đa,27 Khát-xa Gát-đa, Khét-môn, Bết Pe-lét,28 Khát-xa Su-an, Bơ-e Se-va, Bít-giốt-gia,29 Ba-a-la, I-gim, E-xem,30 En-tô-lát, Cơ-xin, Khoóc-ma,31 Xích-lắc, Mát-man-na, Xan-xan-na,32 Lơ-va-ốt, Sin-khim, A-gin, và Rim-môn: đó là hai mươi chín thành và làng mạc của các thành ấy.

33 Trong vùng Sơ-phê-la, thì có:
Ét-ta-ôn, Xo-rơ-a, Át-na, 34 Da-nô-ác, Ên Gan-nim, Táp-pu-ác, Ha Ê-nam,35 Giác-mút, A-đu-lam, Xô-khô, A-dê-ca,36 Sa-a-ra-gim, A-đi-tha-gim, Ha Gơ-đê-ra và Gơ-đê-rô-tha-gim: đó là mười bốn thành và làng mạc của các thành ấy.

37 Xơ-nan, Kha-đa-xa, Mích-đan Gát,38 Đi-lơ-an, Ha Mít-pê, Gióc-thơ-ên,39 La-khít, Bót-cát, Éc-lon,40 Cáp-bôn, Lác-mát, Kít-lít,41 Gơ-đê-rốt, Bết Đa-gôn, Na-a-ma, Mác-kê-đa: đó là mười sáu thành và làng mạc của các thành ấy.

42 Líp-na, E-the, A-san,43 Gíp-tác, Át-na, Nơ-xíp,44 Cơ-i-la, Ác-díp, Ma-rê-sa: đó là chín thành và làng mạc của các thành ấy.

45 Éc-rôn với các thành phụ thuộc và làng mạc của các thành ấy,46 từ Éc-rôn cho đến biển, tất cả những vùng bên cạnh Át-đốt và các làng mạc;47 Át-đốt, các thành phụ thuộc và làng mạc của thành đó; Ga-da, các thành phụ thuộc và làng mạc của thành đó, cho đến Suối Ai-cập, Biển Lớn làm ranh giới.

48 Trong vùng núi thì có:
Sa-mia, Giát-tia, Xô-khô, 49 Đan-na, Kia-giát Xan-na, tức là Đơ-via,50 A-náp, Ét-tơ-mô-a, A-nim,51 Gô-sen, Khô-lôn và Ghi-lô: đó là mười một thành và làng mạc của các thành ấy.

52 A-ráp, Đu-ma, Ét-an,53 Gia-num, Bết Táp-pu-ác, A-phê-ca,54 Khum-ta, Kia-giát Ác-ba, tức là Khép-rôn, Xi-o: đó là chín thành và làng mạc của các thành ấy.

55 Ma-ôn, Các-men, Díp, Giút-ta,56 Gít-rơ-en, Gióc-đơ-am, Da-nô-ác,57 Ha-ca-gin, Ghíp-a và Tim-na: đó là mười thành và làng mạc của các thành ấy.

58 Khan-khun, Bết Xua, Gơ-đo,59 Ma-a-rát, Bết A-nốt và En-tơ-côn: đó là sáu thành và làng mạc của các thành ấy.
(Tơ-cô-a, Ép-ra-tha tức là Bê-lem, Pơ-o, Ê-tham, Cu-lon, Ta-tam, Xo-rét, Ke-rem, Ga-lim, Be-the và Ma-na: đó là mười một thành và làng mạc của các thành ấy.)

60 Kia-giát Ba-an tức là Kia-giát Giơ-a-rim, Ha Ráp-ba: đó là hai thành và làng mạc của các thành ấy.

61 Trong sa mạc thì có:
Bết Ha A-ra-va, Mít-đin, Xơ-kha-kha, 62 Níp-san, Thành Muối và Ên Ghe-đi: đó là sáu thành và làng mạc của các thành ấy.

63 Nhưng con cái ông Giu-đa đã không thể xua đuổi được người Giơ-vút ở tại Giê-ru-sa-lem. Người Giơ-vút ở với con cái ông Giu-đa, tại Giê-ru-sa-lem cho đến ngày nay.

Con cái ông Giu-se

16.  1 Phần con cái ông Giu-se bắt thăm được khởi đầu từ sông Gio-đan đối diện với Giê-ri-khô, đến vùng nước Giê-ri-khô, về phía đông, băng qua sa mạc từ Giê-ri-khô lên đến núi Bết Ên,2 rồi từ Bết Ên, tới Lút và đi về phía ranh giới của người Ác-ki ở A-ta-rốt,3 sau đó xuống phía tây, hướng tới ranh giới của người Giáp-lết, cho đến ranh giới Bết Khô-rôn Hạ và đến Ghe-de, rồi dừng lại ở biển.4 Đó là gia nghiệp của hai con ông Giu-se là Mơ-na-se và Ép-ra-im.

Chi tộc Ép-ra-im

5 Ranh giới con cái Ép-ra-im theo các thị tộc của họ, ranh giới phần gia nghiệp của họ phía đông là từ Át-rốt Át-đa cho đến Bết Khô-rôn Thượng.6 Ranh giới đó đi tới biển, phía bắc có Mích-mơ-thát, phía đông hướng về Ta-a-nát Si-lô, rồi băng qua đó, đi về phía đông Gia-nô-ác.7 Từ Gia-nô-ác, ranh giới đó đi xuống A-ta-rốt và Na-a-ra, gặp Giê-ri-khô, và đi tới sông Gio-đan.8 Từ Táp-pu-ác, ranh giới đó tiến về suối Ca-na ở mạn tây, rồi dừng lại ở biển. Đó là gia nghiệp của chi tộc con cái Ép-ra-im, theo các thị tộc của họ,9 ngoài ra còn có những thành dành cho con cái Ép-ra-im nằm giữa gia nghiệp con cái Mơ-na-se: tất cả những thành và làng mạc của các thành ấy.10 Nhưng họ đã không xua đuổi được người Ca-na-an ở tại Ghe-de. Người Ca-na-an ở lại giữa Ép-ra-im cho đến ngày nay, nhưng phải lo làm việc khổ sai.

Chi tộc Mơ-na-se

17.  1 Vì ông Mơ-na-se là con đầu lòng ông Giu-se nên phần chi tộc Mơ-na-se bắt thăm được thì thuộc về ông Ma-khia, con đầu lòng ông Mơ-na-se, và là cha ông Ga-la-át; vì là một chiến sĩ, ông đã nhận được miền Ga-la-át và Ba-san.2 Rồi đến phần các con khác của ông Mơ-na-se, chia theo các thị tộc của họ: con cái ông A-vi-e-de, con cái ông Khê-léc, con cái ông Át-ri-ên, con cái ông Se-khem, con cái ông Khê-phe, con cái ông Sơ-mi-đa. Đó là các con trai, con cái ông Mơ-na-se, cháu ông Giu-se, theo các thị tộc của họ.3 Ông Xơ-lóp-khát, con ông Khê-phe, cháu ông Ga-la-át, chắt ông Ma-khia, chít ông Mơ-na-se, không có con trai mà chỉ có con gái, đây là tên các cô: Mác-la, Nô-a, Khoóc-la, Min-ca và Tia-xa.4 Các cô đến gặp tư tế E-la-da, ông Giô-suê, con ông Nun, và đến gặp các thủ lãnh, rồi thưa: “ĐỨC CHÚA đã truyền cho ông Mô-sê phải cho chúng tôi một phần gia nghiệp ở giữa anh em chúng tôi.” Theo mệnh lệnh của ĐỨC CHÚA, người ta trao cho các cô một phần gia nghiệp ở giữa các anh em của cha các cô.5 Vậy ông Mơ-na-se bắt trúng thăm, nhận được mười phần đất, không kể miền Ga-la-át và Ba-san ở bên kia sông Gio-đan.6 Thật thế, các con gái thuộc chi tộc Mơ-na-se nhận được một phần gia nghiệp ở giữa các con trai trong chi tộc. Còn miền Ga-la-át thì thuộc về những con trai khác trong chi tộc Mơ-na-se.

7 Ranh giới của chi tộc Mơ-na-se, giáp giới phần đất A-se, bắt đầu từ Mích-mơ-thát đối diện với Si-khem, rồi đi về phía nam tới chỗ dân Ên Táp-pu-ác ở.8 Xứ Táp-pu-ác thuộc về Mơ-na-se, nhưng thành Táp-pu-ác nằm ở ranh giới Mơ-na-se thì thuộc về con cái Ép-ra-im.9 Sau đó, ranh giới ấy đi xuống phía suối Ca-na; phía nam suối có những thành thuộc về Ép-ra-im, các thành này nằm giữa các thành của Mơ-na-se. Ranh giới của Mơ-na-se thì ở phía bắc suối và dừng lại ở biển.10 Phía nam thuộc về Ép-ra-im; còn phía bắc thuộc về Mơ-na-se có biển làm ranh giới, bắc giáp A-se và đông giáp Ít-xa-kha.11 Trong phần đất của Ít-xa-kha và A-se, chi tộc Mơ-na-se còn có Bết San và các thành phụ thuộc, Gíp-lơ-am và các thành phụ thuộc; chi tộc đó cũng có các dân cư thành Đo và các thành phụ thuộc, các dân cư thành Ên Đo và các thành phụ thuộc, các dân cư thành Ta-nác và các thành phụ thuộc, các dân cư thành Mơ-ghít-đô và các thành phụ thuộc, và một phần ba thành Ne-phét.12 Nhưng con cái ông Mơ-na-se đã không thể chiếm được các thành đó, và người Ca-na-an quyết ở lại trong xứ.13 Tuy nhiên, khi trở nên hùng mạnh, con cái Ít-ra-en bắt người Ca-na-an phải lo làm việc khổ sai, nhưng không thể đuổi chúng đi được.

Con cái ông Giu-se khiếu nại

14 Con cái ông Giu-se nói với ông Giô-suê: “Tại sao ông cho (chúng) tôi chỉ được bắt thăm có một lần, chỉ được một phần đất làm gia nghiệp, trong khi (chúng) tôi là một dân đông đảo? Cho đến bây giờ, ĐỨC CHÚA vẫn ban phúc lành cho (chúng) tôi.”15 Ông Giô-suê nói: “Nếu anh (em) là một dân đông đảo, thì hãy lên rừng, và tại đó, đốn cây mà ở trong xứ người Pơ-rít-di và Ra-pha, vì núi Ép-ra-im quá nhỏ đối với anh (em).”16 Con cái ông Giu-se nói: “Ở núi không có đủ chỗ cho chúng tôi; vả lại, mọi người Ca-na-an ở đồng bằng, cũng như người Ca-na-an ở Bết San và ở các thành phụ thuộc, và người Ca-na-an ở cánh đồng Gít-rơ-en đều có xe sắt.”17 Ông Giô-suê nói với nhà Giu-se, với Ép-ra-im và Mơ-na-se: “Anh em là một dân đông đảo và hùng mạnh. Anh (em) không chỉ bắt thăm được một phần đất mà thôi.18 Anh (em) sẽ nhận được một ngọn núi, đó là một khu rừng và anh (em) sẽ đốn cây đi; anh (em) sẽ kiểm soát được các lối ra vào, bởi vì anh (em) sẽ đuổi người Ca-na-an đi, mặc dầu chúng có xe (sắt) và mạnh mẽ.

4. BẢY CHI TỘC KHÁC

Chia đất cho bảy chi tộc khác

18.  1 Toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en tụ họp ở Si-lô, nơi họ đặt Lều Hội Ngộ. Xứ sở phải khuất phục họ.2 Trong số con cái Ít-ra-en, chỉ còn bảy chi tộc chưa nhận phần gia nghiệp của họ.3 Ông Giô-suê nói với con cái Ít-ra-en: “Cho đến bao giờ anh em còn lơ là không đi chiếm xứ mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của cha ông anh em, đã ban cho anh em?4 Anh em hãy chỉ định ba người trong mỗi chi tộc. Tôi sẽ sai họ đi, họ sẽ lên đường rảo khắp xứ và phác hoạ địa hình để chia phần gia nghiệp, rồi trở lại với tôi.5 Họ sẽ phân chia xứ sở làm bảy vùng đất. Giu-đa sẽ ở lại trong lãnh thổ của mình ở phía nam, còn nhà Giu-se sẽ ở lại trong lãnh thổ của mình ở phía bắc.6 Anh em sẽ phác hoạ địa hình xứ sở đã chia làm bảy vùng đất, rồi đem lại đây cho tôi. Chính tại đây, tôi sẽ cho anh em bắt thăm trước nhan ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa chúng ta.7 Các người thuộc chi tộc Lê-vi sẽ không có phần ở giữa anh em, vì chức tư tế ĐỨC CHÚA ban cho họ làm phần gia nghiệp của họ. Còn Gát và Rưu-vên và nửa chi tộc Mơ-na-se thì đã nhận phần gia nghiệp của họ ở bên kia sông Gio-đan, bên phía đông, phần gia nghiệp mà ông Mô-sê, tôi trung của ĐỨC CHÚA, đã cho họ.”

8 Những người đó trỗi dậy và đi. Ông Giô-suê đã truyền cho những người đi phác hoạ địa hình của xứ và nói: “Anh em hãy đi rảo khắp xứ và phác hoạ địa hình, rồi trở lại với tôi. Chính tại đây tôi sẽ cho anh em bắt thăm trước nhan ĐỨC CHÚA, tại Si-lô.”9 Những người ấy đi khắp nơi trong xứ, phác hoạ địa hình, phân chia các thành trong xứ làm bảy vùng đất và ghi vào sổ, rồi trở về với ông Giô-suê ở trại Si-lô.10 Ông Giô-suê cho họ bắt thăm tại Si-lô, trước nhan ĐỨC CHÚA, và ở đó ông Giô-suê chia đất đai cho con cái Ít-ra-en, theo các phần đã phân phối.

Chi tộc Ben-gia-min

11 Trước hết, chi tộc con cái Ben-gia-min, theo các thị tộc của họ, bắt thăm được một phần đất. Phần đất họ bắt thăm được nằm giữa phần đất con cái Giu-đa và con cái Giu-se.12 Ranh giới phía bắc khởi đầu từ sông Gio-đan, đi lên sườn phía bắc Giê-ri-khô, rồi lên núi về phía tây và dừng lại ở sa mạc Bết A-ven.13 Từ đó, ranh giới ấy đi về phía Lút, ở sườn phía nam, tức là Bết Ên, rồi xuống Át-rốt Át-đa, trên ngọn núi ở phía nam Bết Khô-rôn Hạ.14 Sau đó, ranh giới lượn vòng và quay sang phía tây, hướng về phía nam từ núi đối diện với Bết Khô-rôn ở phía nam, rồi dừng lại ở Kia-giát Ba-an, tức là Kia-giát Giơ-a-rim, thành của con cái Giu-đa. Đó là phía tây.15 Về phía nam, từ tận cùng Kia-giát Giơ-a-rim, ranh giới tiến về phía tây, tới mạch nước Nép-tô-ác.16 Ranh giới đi xuống cho đến hết ngọn núi đối diện với thung lũng Ben Hin-nôm nằm trong cánh đồng Ra-pha ở phía bắc, rồi đi xuống thung lũng Hin-nôm, bên sườn Giơ-vút ở phía nam, và đi xuống Ên Rô-ghên.17 Sau đó, ranh giới lượn về phía bắc và tới Ên Se-mét, rồi tiến về Gơ-li-lót đối điện với dốc A-đum-mim, đi xuống tảng đá Bô-han, Bô-han là con ông Rưu-vên.18 Ranh giới lại đi qua sườn phía bắc đối diện với A-ra-va và đi xuống A-ra-va.19 Rồi ranh giới đi qua sườn bắc Bết Khoóc-la, dừng lại ở chỗ Biển Muối về phía bắc tiếp giáp với cửa sông Gio-đan về phía nam. Đó là ranh giới phía nam.20 Sông Gio-đan làm thành ranh giới phía đông. Đó là phần gia nghiệp của con cái Ben-gia-min với ranh giới chung quanh, chia theo các thị tộc của họ.

Các thành của chi tộc Ben-gia-min

21 Các thành của chi tộc con cái Ben-gia-min, theo các thị tộc của họ, là như sau: Giê-ri-khô, Bết Khoóc-la, Ê-méc Cơ-xít,22 Bết Ha A-ra-va, Xơ-ma-ra-gim,23 Bết Ên A-vim, Pa-ra, Óp-ra,24 Cơ-pha Ha Am-mô-ni, Óp-ni, Ghe-va, -đó là mười hai thành và làng mạc của các thành ấy-25 Ghíp-ôn, Ra-ma, Bơ-ê-rốt,26 Ha Mít-pê, Cơ-phi-ra, Mốt-xa,27 Re-kem, Giếc-pơ-ên, Ta-ra-la,28 Xê-la Ha-e-lép, Giơ-vút, tức là Giê-ru-sa-lem, Ghíp-át, Kia-giát -đó là mười bốn thành và làng mạc của các thành ấy-. Đó là phần gia nghiệp của con cái Ben-gia-min, chia theo các thị tộc của họ.

Chi tộc Si-mê-ôn

19.  1 Ông Si-mê-ôn và chi tộc con cái Si-mê-ôn, tính theo các thị tộc của họ, bắt thăm được phần thứ hai; phần gia nghiệp của họ nằm giữa phần gia nghiệp con cái Giu-đa.2 Phần gia nghiệp của họ gồm có: Bơ-e Se-va, Se-va, Mô-la-đa,3 Khát-xa Su-an, Ba-la, E-xem,4 En-tô-lát, Bơ-thun, Khoóc-ma,5 Xích-lắc, Bết Ha Mác-ca-vốt, Kha-xa Xu-xa,6 Bết Lơ-va-ốt, Sa-ru-khen, -đó là mười ba thành và làng mạc của các thành ấy-,7 A-gin, Rim-môn, E-the, A-san, -đó là bốn thành và làng mạc của các thành ấy-,8 Cũng như mọi làng mạc chung quanh các thành đó cho đến Ba-a-lát Bơ-e và Ra-mát Ne-ghép. Đó là phần gia nghiệp của chi tộc con cái Si-mê-ôn, chia theo các thị tộc của họ.9 Phần gia nghiệp của con cái Si-mê-ôn lấy từ phần đất của con cái Giu-đa, vì vùng đất này quá lớn đối với con cái Giu-đa, nên con cái Si-mê-ôn nhận phần gia nghiệp ngay giữa gia nghiệp của con cái Giu-đa.

Chi tộc Dơ-vu-lun

10 Con cái Dơ-vu-lun, theo các thị tộc của họ, bắt thăm được phần đất thứ ba. Ranh giới phần gia nghiệp của họ đi đến tận Xa-rít,11 đi lên về phía tây, theo hướng Mác-a-la, gặp Đáp-be-sét, rồi gặp suối đối diện với Gióc-nơ-am.12 Từ Xa-rít, ranh giới đó trở về hướng đông, phía mặt trời mọc, cho đến ranh giới Kít-lốt Ta-bo, tiến về Đa-vơ-rát và lên Gia-phia.13 Từ đó, ranh giới qua hướng đông, phía mặt trời mọc, ở Gát Khê-phe, ở Ít-ta Ca-xin, đi tới Rim-môn và lượn về Nê-a.14 Rồi ranh giới quay sang phía bắc Khan-na-thôn và dừng lại ở thung lũng Gíp-tác Ên.15 Ngoài ra, còn có Cát-tát, Na-ha-lan, Sim-rôn, Gít-a-la và Bê-lem: đó là mười hai thành và làng mạc của các thành ấy.16 Các thành ấy và làng mạc của các thành ấy là phần gia nghiệp của con cái Dơ-vu-lun, chia theo các thị tộc của họ.

Chi tộc Ít-xa-kha

17 Ông Ít-xa-kha và con cái ông, theo các thị tộc của họ bắt thăm được phần đất thứ tư.18 Lãnh thổ của họ gồm có: Gít-rơ-en, Cơ-xu-lốt, Su-nêm,19 Kha-pha-ra-gim, Si-ôn, A-na-kha-rát,20 Ha Ráp-bít, Kít-giôn, E-vét,21 Re-mét, Ên Gan-nim, Ên Khát-đa, Bết Pát-xết.22 Ranh giới gặp Ta-bo, Sa-kha-xi-ma và Bết Se-mét, rồi dừng lại ở sông Gio-đan: đó là mười sáu thành và làng mạc của các thành ấy.23 Các thành ấy và làng mạc của các thành ấy là phần gia nghiệp của chi tộc con cái Ít-xa-kha, chia theo các thị tộc của họ.

Chi tộc A-se

24 Chi tộc con cái A-se, theo các thị tộc của họ, bắt thăm được phần đất thứ năm.25 Lãnh thổ của họ gồm có: Khen-cát, Kha-li, Be-ten, Ác-sáp,26 A-lam-me-léc, Am-át, Mi-sơ-an. Ranh giới đó gặp Các-men về phía tây và gặp Si-kho Líp-nát,27 rồi lui về phía mặt trời mọc đến Bết Đa-gôn, gặp phần đất của Dơ-vu-lun và thung lũng Gíp-tác Ên ở phía bắc, Bết Ha Ê-méc và Nơ-i-ên; ranh giới đó tiến về Ca-vun ở phía trái,28 tới Ép-rôn, Rơ-khốp, Kham-môn, Ca-na, cho đến Xi-đôn Đại Đô.29 Rồi ranh giới đó quay về Ra-ma, cho đến Tia, một thành luỹ kiên cố, sau đó lại quay về Khô-xa và dừng lại ở Biển, ở Mê-khe-ven, Ác-díp,30 Um-ma, A-phếch và Rơ-khốp: đó là hai mươi thành và các làng mạc của các thành ấy.31 Các thành ấy và làng mạc của các thành ấy là phần gia nghiệp của chi tộc con cái A-se, chia theo các thị tộc của họ.

Chi tộc Náp-ta-li

32 Con cái Náp-ta-li, theo các thị tộc của họ, bắt thăm được phần đất thứ sáu.33 Ranh giới của họ khởi đầu từ Khê-lép, từ cây Sồi ở Xa-a-nan-nim, đi qua A-đa-mi Ha Ne-kép và Giáp-nơ-ên cho đến Lắc-cum, và dừng lại ở sông Gio-đan.34 Rồi ranh giới đó quay về phía tây, đi qua Át-nốt Ta-vô, và từ đó đi tới Khu-cốc, gặp phần đất của Dơ-vu-lun ở phía nam, gặp phần đất của A-se ở phía tây và sông Gio-đan ở phía mặt trời mọc.35 Các thành luỹ kiên cố là: Hát-xít-đim, Xe, Kham-mát, Rắc-cát, Kin-ne-rét,36 A-đa-ma, Ra-ma, Kha-xo,37 Ke-đét, Ét-re-i, Ên Kha-xo,38 Giếc-ôn, Mích-đan Ên, Kho-rem, Bết A-nát, Bết Se-mét: đó là mười chín thành và làng mạc của các thành ấy. Các thành ấy và các làng mạc của các thành ấy là phần gia nghiệp của chi tộc con cái Náp-ta-li, chia theo các thị tộc của họ.

Chi tộc Đan

40 Chi tộc con cái Đan, theo các thị tộc của họ, bắt thăm được phần đất thứ bảy.41 Lãnh thổ của phần gia nghiệp họ gồm có: Xo-rơ-a, Ét-ta-ôn, Ia Se-mét,42 Sa-a-láp-bin, Ai-gia-lôn, Gít-la,43 Ê-lôn, Tim-na, Éc-rôn,44 En-tơ-kê, Ghíp-bơ-thôn, Ba-a-lát,45 Giơ-hút, Bơ-nê Bơ-rắc, Gát Rim-môn,46 vùng nước Giác-côn, Rắc-côn, cùng với lãnh thổ đối diện với Gia-phô.47 Nhưng con cái Đan vượt quá lãnh thổ của họ. Quả thế, con cái Đan tiến lên đánh Le-sem, chiếm thành này và dùng lưỡi gươm giết chết cả thành. Họ chiếm thành và ở tại đó. Họ gọi Le-sem là Đan, lấy tên Đan, cha của họ, mà đặt cho thành đó.

48 Các thành ấy và làng mạc của các thành ấy là phần gia nghiệp của chi tộc con cái Đan, chia theo các thị tộc của họ.

49 Khi đã chia xong đất đai theo ranh giới thành những phần gia nghiệp, con cái Ít-ra-en tặng ông Giô-suê, con ông Nun, một phần gia nghiệp giữa họ.50 Theo mệnh lệnh của ĐỨC CHÚA, họ tặng ông thành mà ông đã xin, là Tim-nát Xe-rác, trong vùng núi Ép-ra-im: ông xây lại thành và ở tại đó.

5. KẾT LUẬN VỀ VIỆC PHÂN CHIA ĐẤT ĐAI

51 Đó là các phần gia nghiệp mà tư tế E-la-da, ông Giô-suê, con ông Nun, và các thủ lãnh gia tộc của các chi tộc con cái Ít-ra-en đã dùng cách bắt thăm mà chia cho họ ở Si-lô, trước nhan ĐỨC CHÚA, tại cửa Lều Hội Ngộ. Như thế, họ đã làm xong việc phân chia đất đai.

6. CÁC THÀNH ĐẶC BIỆT

Các thành trú ẩn

20.  1 ĐỨC CHÚA phán với ông Giô-suê:2 “Hãy nói với con cái Ít-ra-en: Các ngươi hãy chỉ định cho mình những thành trú ẩn, như Ta đã dùng Mô-sê làm trung gian mà phán với các ngươi.3 Một kẻ sát nhân đã làm thiệt mạng một người vì vô ý, vì lầm lẫn, sẽ có thể đến đó nương náu; những thành ấy sẽ là nơi các ngươi trú ẩn để thoát khỏi tay người đòi nợ máu.4 Kẻ sát nhân sẽ tới một trong các thành ấy mà nương náu, đứng ở lối vào cổng thành và trình cho các kỳ mục trong thành nghe sự việc của mình; những người này sẽ nhận nó vào thành ở với họ, và chỉ cho nó một nơi cư ngụ giữa họ.5 Nếu người đòi nợ máu lùng bắt kẻ sát nhân, thì họ sẽ không nộp nó vào tay người ấy, vì kẻ sát nhân đã làm thiệt mạng người thân cận do lầm lẫn, chứ không phải vì trước kia đã có hận thù với người này.6 Kẻ sát nhân sẽ ở trong thành này cho đến khi ra trước cộng đồng để chịu xét xử, hay cho đến khi thượng tế đương chức qua đời. Khi đó kẻ sát nhân có thể trở về thành, về nhà của nó, về thành nó đã bỏ trốn.”

7 Người ta đã thánh hiến Ke-đét ở Ga-li-lê trong miền núi Náp-ta-li, Si-khem trong miền núi Ép-ra-im, và Kia-giát Ác-ba, tức là Khép-rôn trong miền núi Giu-đa.8 Và bên kia sông Gio-đan đối diện với Giê-ri-khô, về phía đông, người ta chọn Be-xe thuộc chi tộc Rưu-vên trong sa mạc, trên vùng cao nguyên, chọn Ra-mốt thuộc chi tộc Gát, trong vùng Ga-la-át, và Gô-lan thuộc chi tộc Mơ-na-se trong vùng Ba-san.9 Đó là những thành chỉ định cho mọi con cái Ít-ra-en và người ngoại kiều ở giữa họ, để phàm ai đã vô ý làm thiệt mạng người nào, thì có thể tới đó nương náu và khỏi phải chết do tay người đòi nợ máu, cho đến khi ra trước mặt cộng đồng.

Các thành của người Lê-vi

21.  1 Những người đứng đầu các gia tộc Lê-vi tới gặp tư tế E-la-da, ông Giô-suê con ông Nun, và những người đứng đầu gia tộc của các chi tộc con cái Ít-ra-en,2 Si-lô trong đất Ca-na-an, và thưa rằng: “ĐỨC CHÚA đã dùng ông Mô-sê làm trung gian mà truyền phải cấp cho chúng tôi những thành để ở, những đồng cỏ cho thú vật của chúng tôi.”3 heo lệnh của ĐỨC CHÚA, con cái Ít-ra-en đã lấy một phần gia nghiệp của họ mà cho những người Lê-vi các thành sau đây và đồng cỏ phụ thuộc.4 ác thị tộc người Cơ-hát bắt thăm được phần của mình: con cái tư tế A-ha-ron, trong số những người Lê-vi, được mười ba thành thuộc các chi tộc Giu-đa, Si-mê-ôn và Ben-gia-min.5 òn những người con khác của ông Cơ-hát thì bắt thăm được mười thành thuộc những thị tộc của các chi tộc Ép-ra-im, Đan và một nửa chi tộc Mơ-na-se.6 ác con ông Ghéc-sôn bắt thăm được mười ba thành thuộc những thị tộc của các chi tộc Ít-xa-kha, A-se, Náp-ta-li và một nửa chi tộc Mơ-na-se ở Ba-san.7 ác con ông Mơ-ra-ri, theo các thị tộc của họ, được mười hai thành thuộc chi tộc Rưu-vên, chi tộc Gát và chi tộc Dơ-vu-lun.

8 Con cái Ít-ra-en đã dùng cách bắt thăm mà cấp cho các người Lê-vi những thành này cùng với các đồng cỏ, như ĐỨC CHÚA đã truyền qua trung gian ông Mô-sê.

Phần dành cho người Cơ-hát

9 Con cái Ít-ra-en đã lấy của chi tộc con cái Giu-đa và chi tộc con cái Si-mê-ôn mà cấp cho các người Lê-vi những thành được chỉ đích danh sau đây.10 Đó là phần của con cái A-ha-ron thuộc các thị tộc Cơ-hát, trong hàng con cái Lê-vi, vì họ đã bắt thăm được phần đầu tiên.11 Người ta cấp cho họ Kia-giát Ác-ba, tức là Khép-rôn, -Ác-ba là cha ông A-nác-, trong miền núi Giu-đa và các đồng cỏ chung quanh.12 Còn đồng ruộng và làng mạc phụ thuộc, thì người ta cấp cho ông Ca-lếp, con ông Giơ-phun-ne, làm sở hữu.13 Người ta cấp cho con cái tư tế A-ha-ron thành trú ẩn cho kẻ sát nhân, là Khép-rôn với các đồng cỏ, cũng như Líp-na với các đồng cỏ,14 Giát-tia với các đồng cỏ, Ét-tơ-mô-a với các đồng cỏ,15 Khô-lôn với các đồng cỏ, Đơ-via với các đồng cỏ,16 A-gin với các đồng cỏ, Giút-ta với các đồng cỏ, Bết Se-mét với các đồng cỏ: đó là chín thành thuộc hai chi tộc ấy.17 Người ta lấy của chi tộc Ben-gia-min mà cấp cho họ bốn thành: Ghíp-ôn với các đồng cỏ, Ghe-va với các đồng cỏ,18 A-na-thốt với các đồng cỏ, An-môn với các đồng cỏ.19 Tổng số các thành của các tư tế con cái ông A-ha-ron là mười ba thành với các đồng cỏ.

20 Còn các thị tộc con cái Cơ-hát, những người Lê-vi còn lại trong số con cái Cơ-hát, thì bắt thăm được các thành thuộc chi tộc Ép-ra-im.21 Người ta cấp cho họ thành trú ẩn cho kẻ sát nhân, là Si-khem với các đồng cỏ, trong vùng núi Ép-ra-im, Ghe-de với các đồng cỏ,22 Kíp-xa-gim với các đồng cỏ, Bết Khô-rôn với các đồng cỏ: bốn thành.23 Người ta lấy của chi tộc Đan mà cấp cho họ bốn thành: En-tơ-kê với các đồng cỏ, Ghíp-bơ-thôn với các đồng cỏ,24 Ai-gia-lôn với các đồng cỏ, Gát Rim-môn với các đồng cỏ.25 Người ta lấy của một nửa chi tộc Mơ-na-se mà cấp cho họ hai thành: Ta-nác với các đồng cỏ, Gíp-lơ-am với các đồng cỏ.26 Tổng số là mười thành với các đồng cỏ cho các thị tộc còn lại của con cái Cơ-hát.

Phần dành cho các con ông Ghéc-sôn

27 Phần dành cho các con ông Ghéc-sôn, thuộc các thị tộc Lê-vi, lấy của một nửa chi tộc Mơ-na-se thành trú ẩn cho kẻ sát nhân, là Gô-lan ở Ba-san với các đồng cỏ, cũng như Bơ-ét-tơ-ra với các đồng cỏ: hai thành.28 Người ta lấy của chi tộc Ít-xa-kha mà cấp cho họ bốn thành: Kít-giôn với các đồng cỏ, Đa-vơ-rát với các đồng cỏ,29 Giác-mút với các đồng cỏ, Ên Gan-nim với các đồng cỏ.30 Người ta lấy của chi tộc A-se mà cấp cho họ bốn thành: Mi-sơ-an với các đồng cỏ, Áp-đôn với các đồng cỏ,31 Khen-cát với các đồng cỏ, Rơ-khốp với các đồng cỏ.32 Người ta lấy của chi tộc Náp-ta-li mà cấp cho họ ba thành: thành trú ẩn cho kẻ sát nhân, là Ke-đét ở Ga-li-lê với các đồng cỏ, Kham-mốt Đo với các đồng cỏ, Các-tan với các đồng cỏ.33 Tổng số các thành của người Ghéc-sôn theo các thị tộc của họ là mười ba thành với các đồng cỏ.

Phần dành cho các con ông Mơ-ra-ri

34 Phần dành cho các thị tộc con cái Mơ-ra-ri, các người Lê-vi còn lại, thì người ta lấy của chi tộc Dơ-vu-lun bốn thành: Gióc-nơ-am với các đồng cỏ, Các-ta với các đồng cỏ,35 Đim-na với các đồng cỏ, Na-ha-lan với các đồng cỏ.36 Ở bên kia sông Gio-đan, người ta lấy của chi tộc Rưu-vên mà cấp cho họ bốn thành: thành trú ẩn cho kẻ sát nhân, là Be-xe trong sa-mạc, trên vùng cao nguyên, với các đồng cỏ, Gia-hát với các đồng cỏ,37 Cơ-đê-mốt với các đồng cỏ, Mê-pha-át với các đồng cỏ.38 Người ta lấy của chi tộc Gát mà cấp cho họ tất cả là bốn thành: thành trú ẩn cho kẻ sát nhân, là Ra-mốt tại Ga-la-át với các đồng cỏ, Ma-kha-na-gim với các đồng cỏ,39 Khét-bôn với các đồng cỏ, Gia-de với các đồng cỏ.40 Tổng số các thành dành cho con cái Mơ-ra-ri theo các thị tộc của họ, cho các thị tộc Lê-vi còn lại, các thành họ bắt thăm được, là mười hai thành.

41 Tổng số các thành của người Lê-vi ở giữa các sở hữu của con cái Ít-ra-en là bốn mươi tám thành và đồng cỏ phụ thuộc.42 Mỗi thành trong số các thành đó gồm có nội thành và đồng cỏ chung quanh. Tất cả mọi thành đó đều như thế.

7. TỔNG KẾT VỀ VIỆC PHÂN CHIA ĐẤT ĐAI

Kết luận về việc phân chia đất đai

43 ĐỨC CHÚA đã ban cho Ít-ra-en toàn miền đất mà Người đã thề là sẽ ban cho cha ông họ. Họ đã chiếm được đất ấy và ở tại đó.44 ĐỨC CHÚA cho họ được thảnh thơi mọi bề, đúng như Người đã thề với cha ông họ. Trong số mọi địch thù, không ai chống nổi họ. ĐỨC CHÚA đã nộp mọi địch thù vào tay họ.45 Trong mọi lời tốt lành ĐỨC CHÚA đã phán với nhà Ít-ra-en, không một lời nào ra vô hiệu: mọi lời đều ứng nghiệm.

III. CUỐI ĐỜI ÔNG GIÔ-SUÊ
1. CÁC CHI TỘC BÊN KIA SÔNG GIO-ĐAN TRỞ VỀ. VẤN ĐỀ BÀN THỜ CỦA HỌ.

Đưa quân của các chi tộc bên kia sông Gio-đan trở về

22.  1 Bấy giờ, ông Giô-suê triệu tập những người thuộc các chi tộc Rưu-vên, Gát và một nửa chi tộc Mơ-na-se lại2 và nói: “Anh em đã tuân giữ tất cả những gì ông Mô-sê, tôi trung của ĐỨC CHÚA, đã truyền cho anh em, và anh em đã nghe lời tôi mỗi khi tôi ra lệnh truyền cho anh em.3 Cho đến nay, đã nhiều ngày rồi, anh em đã không bỏ rơi anh em mình, và anh em đã cẩn thận giữ mệnh lệnh của ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em.4 Giờ đây, ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, đã ban cho anh em của anh em được an cư lạc nghiệp, như Người đã phán với họ. Vậy bây giờ anh em hãy quay lại và đi về lều trại của anh em, trong phần đất thuộc quyền sở hữu của anh em, mà ông Mô-sê, tôi trung của ĐỨC CHÚA, đã ban cho anh em bên kia sông Gio-đan.5 Tuy nhiên, anh em hãy hết sức cẩn thận thi hành mệnh lệnh và Lề Luật mà ông Mô-sê, tôi trung của ĐỨC CHÚA, đã truyền cho anh em: đó là yêu mến ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, đi theo mọi đường lối của Người, giữ các mệnh lệnh của Người, gắn bó với Người và phụng sự Người hết lòng, hết linh hồn anh em.”6 Ông Giô-suê chúc phúc cho họ và tiễn họ về lều trại của họ.

7 Ông Mô-sê đã cấp cho nửa chi tộc Mơ-na-se một phần đất ở Ba-san; ông Giô-suê cấp cho nửa chi tộc kia một phần đất khác ở giữa anh em của họ bên kia sông Gio-đan, về phía tây. Khi tiễn chân họ trở về lều trại của họ, ông Giô-suê cũng chúc phúc cho họ8 và nói: “Anh em hãy trở về lều trại mình với những tài sản lớn, với đoàn súc vật hết sức đông đúc, với bạc, vàng, đồng và sắt, với quần áo nhiều vô kể. Anh em hãy chia cho anh em mình chiến lợi phẩm lấy được của địch thù.”

Xây bàn thờ trên bờ sông Gio-đan

9 Con cái Rưu-vên, con cái Gát và nửa chi tộc Mơ-na-se, từ giã con cái Ít-ra-en ở Si-lô, trong đất Ca-na-an, mà lên đường trở về xứ Ga-la-át trong phần đất thuộc quyền sở hữu của họ, đất họ đã chiếm làm của riêng, theo lệnh của ĐỨC CHÚA mà ông Mô-sê đã truyền lại.10 Khi đến vùng sông Gio-đan thuộc đất Ca-na-an, con cái Rưu-vên, con cái Gát và nửa chi tộc Mơ-na-se xây ở đó một bàn thờ bên bờ sông Gio-đan, một bàn thờ trông đồ sộ.

11 Nghe tin đó, con cái Ít-ra-en nói: “Này con cái Rưu-vên, con cái Gát và nửa chi tộc Mơ-na-se đã xây bàn thờ đối diện với đất Ca-na-an, trong vùng sông Gio-đan, quay về phía con cái Ít-ra-en.”12 Nghe tin đó, toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en tụ họp ở Si-lô để tiến lên đánh họ.

Con cái Ít-ra-en trách móc các chi tộc ở phía tây

13 Con cái Ít-ra-en cử người đến gặp con cái Rưu-vên, con cái Gát và nửa chi tộc Mơ-na-se ở xứ Ga-la-át. Đó là ông Pin-khát, con của tư tế E-la-da14 và mười thủ lãnh cùng đi với ông, mỗi gia tộc trong mọi chi tộc Ít-ra-en một thủ lãnh. Mỗi người đều đứng đầu gia tộc trong hàng ngũ Ít-ra-en.15 Khi đến với con cái Rưu-vên, con cái Gát và nửa chi tộc Mơ-na-se ở miền Ga-la-át, họ nói rằng:16 “Toàn thể cộng đồng của ĐỨC CHÚA đã nói thế này: Hôm nay anh em đã đắc tội với ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của Ít-ra-en, và phản bội Người, khi xây cho mình một bàn thờ. Hôm nay anh em đã nổi lên chống lại Người. Sao lại có chuyện bất trung như vậy?

17 Chúng ta đã phạm tội ở Pơ-o, như vậy chưa đủ sao? Cho đến ngày nay, chúng ta chưa gột rửa được hết tội đó, mặc dầu tai ương đã giáng xuống cộng đồng của ĐỨC CHÚA,18 mà hôm nay anh em lại phản bội ĐỨC CHÚA! Nếu hôm nay anh em nổi loạn chống ĐỨC CHÚA, thì ngày mai Người sẽ nổi cơn thịnh nộ với toàn thể cộng đồng Ít-ra-en.

19 Nếu phần đất thuộc quyền sở hữu của anh em là đất ô uế, anh em hãy qua bên vùng đất thuộc quyền sở hữu của ĐỨC CHÚA, nơi đặt Nhà Tạm của ĐỨC CHÚA. Anh em hãy kiếm đất làm sở hữu ở giữa chúng tôi. Nhưng chớ nổi lên chống ĐỨC CHÚA, cũng đừng nổi lên chống chúng tôi, mà xây một bàn thờ nào khác ngoài bàn thờ của ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa chúng ta.20 Khi A-khan, con cháu ông De-rác, phạm tội bất trung lúc thi hành lệnh án biệt hiến, thì cơn thịnh nộ đã chẳng giáng xuống toàn thể cộng đồng Ít-ra-en, chứ không phải chỉ một mình hắn đã mất mạng vì tội mình đó sao? “

Các chi tộc bên kia sông Gio-đan tự biện hộ

21 Con cái Rưu-vên, con cái Gát và nửa chi tộc Mơ-na-se trả lời cho những người đứng đầu hàng ngũ Ít-ra-en rằng:22 “ĐỨC CHÚA, Thần các thần, ĐỨC CHÚA, Thần các thần, chính Người biết, và Ít-ra-en cũng phải biết: Nếu đó là một cuộc nổi loạn hay là một tội bất trung đối với ĐỨC CHÚA, thì xin Người đừng cứu chúng tôi hôm nay.23 Nếu chúng tôi xây một bàn thờ để phản bội ĐỨC CHÚA, mà dâng lễ toàn thiêu và lễ phẩm, hay là dâng hy lễ kỳ an, thì xin chính ĐỨC CHÚA hỏi tội!24 Nhưng không phải thế! Chúng tôi đã hành động như vậy, vì lo âu trước một sự việc có thể xảy ra. Chúng tôi đã tự nhủ: Mai ngày, con cái anh em có thể nói với con cái chúng tôi: Các anh có liên quan gì với ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của Ít-ra-en?25 ĐỨC CHÚA đã đặt một ranh giới giữa chúng tôi và các anh là con cái Rưu-vên và con cái Gát: đó là sông Gio-đan. Các anh chẳng được chung phần với ĐỨC CHÚA! Như thế, con cái anh em sẽ làm cho con cái chúng tôi không còn kính sợ ĐỨC CHÚA nữa!

26 Vì vậy, chúng tôi tự nhủ: Ta hãy lo xây cho mình một bàn thờ, không phải để dâng lễ toàn thiêu hoặc hy lễ,27 nhưng để làm bằng chứng giữa chúng tôi và anh em, giữa dòng dõi đôi bên, rằng chúng tôi chỉ lo việc phụng thờ ĐỨC CHÚA, với các lễ toàn thiêu, hy lễ và lễ kỳ an của chúng tôi, khi ở trước nhan Người. Như thế, mai ngày con cái anh em sẽ không thể nói với con cái chúng tôi: Các anh chẳng được chung phần với ĐỨC CHÚA.28 Chúng tôi tự nhủ: Giả sử mai ngày họ nói như thế với chúng tôi, với chúng tôi hay dòng dõi chúng tôi, thì chúng tôi sẽ nói: Hãy coi bàn thờ này, cha ông chúng tôi đã xây rập theo mẫu bàn thờ kính ĐỨC CHÚA, không phải để dâng lễ toàn thiêu hoặc hy lễ, mà là để làm bằng chứng giữa chúng tôi và các anh.29 Chúng tôi không hề có ý muốn nổi lên chống ĐỨC CHÚA và phản bội Người hôm nay, khi xây một bàn thờ khác để dâng lễ toàn thiêu, lễ phẩm và hy lễ, ngoài bàn thờ kính ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa chúng ta, ở trước Nhà Tạm của Người.”

Hai bên thoả hiệp với nhau

30 Sau khi nghe con cái Rưu-vên, con cái Gát và con cái Mơ-na-se nói những lời ấy, tư tế Pin-khát, các thủ lãnh của cộng đồng và những người đứng đầu hàng ngũ Ít-ra-en cùng đi với ông, lấy làm vừa ý.31 Ông Pin-khát, con của tư tế E-la-da, nói với con cái Rưu-vên, con cái Gát và con cái Mơ-na-se: “Hôm nay, chúng tôi biết là ĐỨC CHÚA ngự giữa chúng ta, vì anh em đã không phạm tội bất trung đó đối với ĐỨC CHÚA; vì thế, anh em đã cứu con cái Ít-ra-en khỏi tay ĐỨC CHÚA.”

32 Ông Pin-khát, con của tư tế E-la-da, và các thủ lãnh từ giã con cái Rưu-vên, và con cái Gát ở xứ Ga-la-át, mà trở về với con cái Ít-ra-en ở đất Ca-na-an, và kể lại cho họ nghe sự việc.33 Con cái Ít-ra-en lấy làm vừa ý về sự việc đó. Con cái Ít-ra-en chúc tụng Thiên Chúa và không còn nói đến chuyện tiến lên đánh con cái Rưu-vên và con cái Gát, để tàn phá vùng đất họ ở.34 Con cái Rưu-vên và con cái Gát gọi bàn thờ là “Bằng chứng”, vì, theo họ nói, “bàn thờ làm chứng giữa chúng ta rằng ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa.”

2. DIỄN TỪ CUỐI CÙNG CỦA ÔNG GIÔ-SUÊ
Ông Giô-suê tóm kết công trình của mình

23.  1 Lâu ngày sau khi ĐỨC CHÚA ban cho Ít-ra-en được thảnh thơi mọi bề, không còn thù địch nào nữa, và khi ông Giô-suê đã già, tuổi đã cao,2 thì ông triệu tập toàn thể Ít-ra-en, các kỳ mục, những người đứng đầu, các thủ lãnh và ký lục, rồi nói: “Tôi đã già nua tuổi tác.3 Phần anh em, anh em đã chứng kiến mọi sự mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, giáng xuống trên mọi dân đó vì anh em, bởi ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, đã chiến đấu cho anh em.4 Anh em xem! Tôi đã cho các chi tộc của anh em bắt thăm được đất của các dân còn sót lại đó làm gia nghiệp, cũng như của mọi dân tôi đã quét sạch, từ sông Gio-đan cho đến Biển Lớn, phía mặt trời lặn.5 ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, sẽ đẩy lui chúng cho khuất mắt anh em, sẽ trục xuất chúng đi cho khuất mắt anh em. Anh em sẽ chiếm lấy đất đai của chúng, theo như lời ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em đã phán.

Phải sống thế nào giữa các dân ngoại

6 Vậy anh em phải thật cương quyết tuân giữ và thực hành tất cả những gì ghi trong Sách Luật Mô-sê, không đi trệch bên phải bên trái,7 không lui tới với những dân ấy, những dân còn sót lại giữa anh em. Anh em đừng kêu tên các thần của chúng, đừng lấy tên các thần ấy mà thề. Đừng phụng thờ chúng, đừng sụp xuống lạy chúng.8 Trái lại, anh em sẽ chỉ gắn bó với ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, như anh em đã làm cho đến ngày nay.9 ĐỨC CHÚA đã trục xuất những dân lớn mạnh cho khuất mắt anh em, và không ai đã đứng vững trước mặt anh em cho đến ngày nay.10 Chỉ một người trong anh em mà đuổi được cả ngàn người, vì chính ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, chiến đấu cho anh em, theo lời Người đã phán với anh em.11 Anh em phải hết sức chú tâm yêu mến ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em.

12 Nhưng nếu anh em phản bội ĐỨC CHÚA và gắn bó với những dân còn sót lại đang ở với anh em đó, nếu anh em kết duyên kết nghĩa với chúng, nếu anh em lui tới với chúng và chúng lui tới với anh em,13 thì hãy biết chắc rằng ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, sẽ không còn tiếp tục trục xuất các dân đó cho khuất mắt anh em: chúng sẽ thành dò lưới và cạm bẫy hại anh em, thành roi quất vào sườn và gai đâm vào mắt, cho đến khi anh em biến khỏi mảnh đất tốt này mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, đã ban cho anh em.

14 Hôm nay đây tôi bước vào đoạn đường mà mọi người trên đời này phải đi qua. Anh em hãy nhìn nhận với tất cả tấm lòng và tâm hồn, là trong mọi lời tốt lành mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, đã phán với anh em, không một lời nào đã ra vô hiệu: mọi sự đã ứng nghiệm cho anh em; không một lời nào đã ra vô hiệu.

15 Như mọi lời tốt lành mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, đã phán hứa cho anh em đều ứng nghiệm, thì ĐỨC CHÚA cũng sẽ làm cho mọi lời nguyền rủa anh em được ứng nghiệm, cho đến khi anh em bị tiêu diệt khiến anh em không còn trên mảnh đất tốt này mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, đã ban cho anh em.

16 Nếu anh em vi phạm giao ước mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, đã truyền cho anh em phải giữ, để đi phụng thờ các thần khác và sụp xuống lạy chúng, thì ĐỨC CHÚA sẽ bừng bừng nổi cơn thịnh nộ chống lại anh em, và anh em sẽ mau chóng biến khỏi đất tốt lành Người đã ban cho anh em.”

3. ĐẠI HỘI SI-KHEM

24.  1 Ông Giô-suê quy tụ ở Si-khem mọi chi tộc Ít-ra-en và triệu tập các kỳ mục Ít-ra-en, các thủ lãnh, thẩm phán và ký lục. Họ đứng trước nhan Thiên Chúa.2 Ông Giô-suê nói với toàn dân: “ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của Ít-ra-en, phán thế này: “Thuở xưa, khi còn ở bên kia Sông Cả, cha ông các ngươi, cho đến Te-rác là cha của Áp-ra-ham và của Na-kho, đã phụng thờ các thần khác.3 Ta đã đem cha các ngươi là Áp-ra-ham từ bên kia Sông Cả mà dẫn đi khắp đất Ca-na-an. Ta đã cho dòng dõi nó nên đông đúc và ban I-xa-ác cho nó.4 Ta đã ban Gia-cóp và Ê-xau cho I-xa-ác. Ta cho Ê-xau chiếm hữu núi Xê-ia. Còn Gia-cóp và các con thì xuống Ai-cập.5 Ta đã sai Mô-sê và A-ha-ron đi; Ta đã dùng những việc Ta làm ở Ai-cập mà đánh phạt nước ấy, rồi Ta đã đưa các ngươi ra khỏi đó.6 Ta đã đưa cha ông các ngươi ra khỏi Ai-cập và các ngươi đã tới biển. Người Ai-cập, với chiến xa và kỵ binh, đuổi theo cha ông các ngươi cho đến Biển Sậy.7 Họ kêu lên ĐỨC CHÚA; Người cho sương mù sa xuống giữa các ngươi và người Ai-cập, Người cho biển ập xuống vùi lấp chúng đi. Mắt các ngươi đã chứng kiến những việc Ta đã làm ở Ai-cập. Các ngươi đã ở lại lâu ngày trong sa mạc.8 Ta đã đem các ngươi vào đất người E-mô-ri. Chúng ở bên kia sông Gio-đan. Chúng đã giao chiến với các ngươi, nhưng Ta đã nộp chúng vào tay các ngươi. Các ngươi đã chiếm đất của chúng, và Ta đã tiêu diệt chúng trước mắt các ngươi.9 Rồi Ba-lác, con của Xíp-po, vua Mô-áp, đã đứng lên giao chiến với Ít-ra-en. Ba-lác đã cho mời Bi-lơ-am, con của Bơ-o, đến nguyền rủa các ngươi.10 Nhưng Ta đã không muốn nghe Bi-lơ-am. Nó đã phải chúc phúc cho các ngươi, và Ta đã giải thoát các ngươi khỏi tay Ba-lác.

11 Các ngươi đã qua sông Gio-đan và tới Giê-ri-khô. Những người làm chủ Giê-ri-khô giao chiến với các ngươi: đó là người E-mô-ri, Pơ-rít-di, Ca-na-an, Khết, Ghia-ga-si, Khi-vi và Giơ-vút. Nhưng Ta đã nộp chúng vào tay các ngươi.12 Ta đã thả ong bầu bay đi trước các ngươi; chúng đuổi hai vua E-mô-ri đi cho khuất mắt các ngươi; chính ong bầu chứ không phải cung kiếm của (các) ngươi đã đuổi chúng.13 Ta ban cho các ngươi đất (các) ngươi đã không vất vả khai phá, những thành các ngươi đã không xây mà được ở, những vườn nho và vườn ô-liu các ngươi đã không trồng mà được ăn.”

Ít-ra-en chọn ĐỨC CHÚA

14 “Bây giờ anh em hãy kính sợ ĐỨC CHÚA, hãy chân thành và trung tín phụng thờ Người. Anh em hãy vất bỏ các thần cha ông anh em đã phụng thờ bên kia Sông Cả và ở Ai-cập, và hãy phụng thờ ĐỨC CHÚA.15 Nếu anh em không bằng lòng phụng thờ ĐỨC CHÚA, thì hôm nay anh em cứ tuỳ ý chọn thần mà thờ hoặc là các thần cha ông anh em đã phụng thờ bên kia Sông Cả, hoặc là các thần của người E-mô-ri mà anh em đã chiếm đất để ở. Về phần tôi và gia đình tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ ĐỨC CHÚA.”

16 Dân đáp lại: “Chúng tôi không hề có ý lìa bỏ ĐỨC CHÚA để phụng thờ các thần khác!17 Vì chính ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của chúng tôi, đã đem chúng tôi cùng với cha ông chúng tôi lên từ đất Ai-cập, từ nhà nô lệ, đã làm trước mắt chúng tôi những dấu lạ lớn lao đó, đã gìn giữ chúng tôi trên suốt con đường chúng tôi đi, giữa mọi dân tộc chúng tôi đã đi ngang qua.18 ĐỨC CHÚA đã đuổi cho khuất mắt chúng tôi mọi dân tộc cũng như người E-mô-ri ở trong xứ. Về phần chúng tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ ĐỨC CHÚA, vì Người là Thiên Chúa của chúng tôi.”

19 Ông Giô-suê nói với dân: “Anh em sẽ không thể phụng thờ ĐỨC CHÚA, vì Người là Thiên Chúa thánh thiện, Thiên Chúa ghen tương; Người sẽ không dung thứ tội phản nghịch cũng như tội lỗi của anh em đâu.20 Nếu anh em lìa bỏ ĐỨC CHÚA để phụng thờ các thần ngoại, Người sẽ quay lại chống anh em, giáng hoạ xuống anh em và tiêu diệt anh em, dù trước đây Người đã giáng phúc cho anh em.”

21 Dân nói với ông Giô-suê: “Không đâu, chúng tôi quyết phụng thờ ĐỨC CHÚA! “22 Ông Giô-suê nói với dân: “Anh em hãy cam đoan với chính mình là anh em đã chọn ĐỨC CHÚA để phụng thờ.” Họ nói: “Xin cam đoan! “23 Ông Giô-suê nói: “Bây giờ, anh em hãy vứt bỏ các thần ngoại đang ở với anh em, và hướng lòng về ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của Ít-ra-en.”24 Dân nói với ông Giô-suê: “Chúng tôi sẽ phụng thờ ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của chúng tôi, và chúng tôi sẽ nghe lời Người.”

Giao ước Si-khem

25 Trong ngày ấy, ông Giô-suê thay mặt dân kết giao ước, ông đưa ra quy luật và điều luật ở Si-khem.26 Ông Giô-suê viết những lời đó trong Sách Luật của Thiên Chúa. Ông lấy một tảng đá lớn và dựng ở đó, dưới cây sồi trong nơi thánh của ĐỨC CHÚA.27 Ông Giô-suê nói với toàn dân: “Đây, tảng đá này sẽ làm chứng về những điều chúng ta đã cam đoan, vì nó đã nghe mọi lời ĐỨC CHÚA phán với chúng ta. Nó sẽ làm chứng về những điều anh em đã cam đoan, kẻo anh em chối bỏ Thiên Chúa của anh em.”28 Ông Giô-suê giải tán dân chúng, ai nấy trở về phần đất họ đã nhận làm gia nghiệp.

4. PHỤ LỤC
Ông Giô-suê qua đời

29 Sau những biến cố đó, tôi trung của ĐỨC CHÚA là ông Giô-suê, con ông Nun, từ trần, thọ một trăm mười tuổi.30 Người ta chôn cất ông tại thửa đất ông đã nhận được làm gia nghiệp ở Tim-nát Xe-rác, trong vùng núi Ép-ra-im; phía bắc núi Ga-át.31 Ít-ra-en đã phụng thờ ĐỨC CHÚA suốt thời gian ông Giô-suê và các kỳ mục đến sau ông còn sống; những người này biết tất cả công trình ĐỨC CHÚA đã thực hiện cho Ít-ra-en.

Hài cốt ông Giu-se. Tư tế E-la-da qua đời.

32 Hài cốt ông Giu-se mà con cái Ít-ra-en đã đem lên từ Ai-cập, thì được chôn cất ở Si-khem, trong thửa ruộng ông Gia-cóp đã mua của con ông Kha-mo, cha ông Si-khem, với giá một trăm đồng bạc; đó là phần gia nghiệp của con cái ông Giu-se.33 Còn ông E-la-da, con ông A-ha-ron, sau khi chết thì được chôn cất trên ngọn đồi của con ông là ông Pin-khát; đồi này đã được cấp cho ông Pin-khát trong miền núi Ép-ra-im.

SÁCH THỦ LÃNH

LỜI DẪN THỨ NHẤT
KỂ SƠ LƯỢC VỀ CUỘC ĐỊNH CƯ TẠI CA-NA-AN

Cuộc định cư của Giu-đa, Si-mê-ôn, Ca-lếp và Kê-ni (Gs 15: 13 -19)

1.  1 Sau khi ông Giô-suê từ trần, con cái Ít-ra-en đã thỉnh ý ĐỨC CHÚA rằng: “Ai trong chúng con sẽ lên đương đầu với quân Ca-na-an trước tiên để giao tranh với chúng?”2 ĐỨC CHÚA phán: “Giu-đa sẽ lên: Này Ta đã trao đất ấy vào tay nó.”3 Giu-đa liền nói với Si-mê-ôn, anh mình, rằng: “Mời anh cùng tôi lên phần đất tôi đã trúng thăm; chúng ta cùng chiến đấu chống quân Ca-na-an; tới lượt tôi, tôi sẽ cùng anh đi đến phần đất anh đã trúng thăm.” Và Si-mê-ôn đã cùng đi với ông ta.4 Vậy Giu-đa đi lên; ĐỨC CHÚA đã trao quân Ca-na-an và quân Pơ-rít-di vào tay họ; và tại Be-déc, họ đã đánh bại mười ngàn người của chúng.5 Họ đã gặp A-đô-ni Be-déc tại Be-déc; họ liền tấn công y, đánh tan quân Ca-na-an và quân Pơ-rít-di.6 A-đô-ni Be-déc tháo chạy, nhưng họ đã đuổi theo bắt được y, và chặt ngón tay cái và ngón chân cái của y.7 A-đô-ni Be-déc nói: “Bảy mươi vua bị chặt ngón tay cái và ngón chân cái, đã ăn mót dưới gầm bàn của tôi. Tôi đã xử sự thế nào, thì Thiên Chúa cũng xử lại với tôi như vậy.” Họ đưa y vào Giê-ru-sa-lem và y đã chết tại đó.8 Con cái Giu-đa đã tấn công Giê-ru-sa-lem, chiếm lấy thành, dùng gươm giết và nổi lửa đốt thành.

9 Sau đó con cái Giu-đa đã xuống tấn công người Ca-na-an bấy giờ đang ở trên núi, ở vùng Ne-ghép và vùng Sơ-phê-la.10 Giu-đa cũng tiến đánh quân Ca-na-an bấy giờ đang ở Khép-rôn, -tên của Khép-rôn trước kia là Kia-giát Ác-ba- và họ đã đánh bại Sê-sai, A-khi-man và Tan-mai.11 Từ đấy họ tiến đánh dân cư thành Đơ-via -tên của Đơ-via trước kia là Kia-giát Xê-phe.12 Ông Ca-lếp nói: “Ai đánh và chiếm được Kia-giát Xê-phe, tôi sẽ gả Ác-xa con gái tôi cho người ấy.”13 Ót-ni-ên con ông Cơ-nát, em ông Ca-lếp, đã chiếm được thành; và ông Ca-lếp đã gả Ác-xa con gái mình cho Ót-ni-ên.14 Khi cô ta đến, Ót-ni-ên liền xúi cô xin cha một thửa ruộng. Cô xuống lừa, và ông Ca-lếp hỏi cô: “Chuyện gì thế con? “15 Cô thưa: “Xin cha cho con một món quà: vì cha đã cho con đất Ne-ghép, thì xin cũng cho con cả suối nước nữa.” Ông Ca-lếp đã cho cô suối trên suối dưới.16 Con cái ông Kê-ni, nhạc phụ ông Mô-sê, đã từ Thành Chà Là cùng với con cái Giu-đa đi lên sa mạc Giu-đa, trong vùng Ne-ghép A-rát. Họ đã đi và đến ở với dân ấy.17 Giu-đa đã đi với Si-mê-ôn anh mình. Họ tấn công quân Ca-na-an bấy giờ đang ở Xơ-phát và đã tru diệt chúng. Người ta đã gọi tên thành ấy là Khoóc-ma.18 Rồi Giu-đa chiếm Ga-da và vùng lân cận, chiếm Át-cơ-lôn và vùng lân cận, chiếm Éc-rôn và vùng lân cận.19 ĐỨC CHÚA phù trợ Giu-đa và ông đã chiếm giữ vùng núi; nhưng ông không trục xuất được dân cư vùng đồng bằng, vì chúng có xe sắt.20 Các ông đã cứ lời ông Mô-sê mà giao Khép-rôn cho ông Ca-lếp, và ông này đã đuổi ba người con của A-nác ra khỏi đó.21 Còn những người Giơ-vút cư ngụ tại Giê-ru-sa-lem, thì con cái Ben-gia-min đã không đánh đuổi họ; vì thế những người Giơ-vút vẫn ở với con cái Ben-gia-min tại Giê-ru-sa-lem cho tới ngày nay.

Chiếm Bết Ên

22 Nhà Giu-se cũng tiến lên Bết Ên và ĐỨC CHÚA ở với họ.23 Nhà Giu-se đã cho người do thám Bết Ên -tên thành này trước kia là Lút.24 Các thám tử gặp một người đàn ông từ trong thành đi ra, liền nói với người ấy: “Chỉ cho chúng tôi lối vào thành; chúng tôi sẽ xử khoan hồng với anh! “25 Người ấy chỉ cho họ lối vào thành, và họ đã dùng gươm tàn sát cả thành; còn người ấy cùng với cả thị tộc thì họ để cho đi.26 Người ấy ra đi đến đất người Khết, xây một thành và đặt tên là Lút. Đó là tên của thành ấy cho tới ngày nay.

Các chi tộc phía bắc

27 Mơ-na-se không đánh thắng được Bết San và các vùng phụ thuộc, cũng như Ta-nác và các vùng phụ thuộc, cũng chẳng đánh thắng được dân cư thành Đo và các vùng phụ thuộc, dân cư thành Gíp-lơ-am và các vùng phụ thuộc, dân cư thành Mơ-ghít-đô và các vùng phụ thuộc. Người Ca-na-an quyết ở lại trong đất đó.28 Nhưng khi Ít-ra-en trở nên hùng cường, thì bắt người Ca-na-an làm nô dịch cho mình, chứ không trục xuất được chúng.29 Ép-ra-im không trục xuất được người Ca-na-an cư ngụ ở Ghe-de, và người Ca-na-an vẫn sống giữa họ ở Ghe-de.30 Dơ-vu-lun không trục xuất được dân cư thành Kít-rôn và dân cư thành Na-ha-lôn; người Ca-na-an vẫn sống giữa họ, nhưng phải làm nô dịch cho họ.31 A-se không trục xuất được dân cư thành Ác-cô, dân cư thành Xi-đôn, Ác-láp, Ác-díp, Khen-ba, A-phích và Rơ-khốp.32 Thế là người A-se cư ngụ giữa người Ca-na-an đang sống trên đất ấy, vì họ đã không trục xuất được chúng.33 Náp-ta-li không trục xuất được dân cư thành Bết Se-mét và dân cư thành Bết A-nát, nên họ cư ngụ giữa người Ca-na-an đang sống trong đất ấy, nhưng dân cư thành Bết Se-mét và Bết A-nát đã phải làm nô dịch cho họ.34 Người E-mô-ri đã dồn con cháu Đan lên vùng núi, không để cho họ xuống đồng bằng.35 Người E-mô-ri quyết giữ vững Ha Khe-rét, Ai-gia-lôn và Sa-an-vim; nhưng khi bàn tay nhà Giu-se đè nặng trên chúng, thì chúng đã phải làm nô dịch cho họ.36 Ranh giới của người E-mô-ri chạy dài từ dốc Ác-ráp-bim, từ Núi Đá trở lên.

Thần sứ của ĐỨC CHÚA cho Ít-ra-en biết trước những điều bất hạnh

2.  1 Thần sứ của ĐỨC CHÚA từ Ghin-gan lên Bô-khim và nói: “Ta đã đưa các ngươi lên từ Ai-cập và dẫn vào đất Ta đã thề ban cho tổ tiên các ngươi. Ta đã phán: Chẳng bao giờ Ta phá huỷ Giao Ước của Ta với các ngươi.2 Còn các ngươi thì không được kết ước với dân cư trong xứ này; phải triệt hạ các bàn thờ của chúng. Nhưng các ngươi đã không nghe lời Ta. Các ngươi đã làm gì thế?3 Vậy Ta bảo: Ta sẽ không đuổi chúng cho khuất mắt các ngươi, và chúng sẽ sống kè kè bên các ngươi; các thần của chúng sẽ là cạm bẫy cho các ngươi.”4 Khi thần sứ của ĐỨC CHÚA nói những lời ấy cho toàn thể con cái Ít-ra-en, thì dân oà lên khóc.5 Thế là người ta đặt tên cho nơi ấy là Bô-khim và họ đã tế lễ kính ĐỨC CHÚA tại đó.

LỜI DẪN THỨ HAI
NHẬN ĐỊNH TỔNG QUÁT VỀ THỜI CÁC THỦ LÃNH

Cuối đời ông Giô-suê

6 Bấy giờ ông Giô-suê giải tán dân chúng, và con cái Ít-ra-en ai nấy về nơi mình đã trúng thăm làm gia nghiệp, để chiếm hữu đất đai.7 Dân đã phục vụ ĐỨC CHÚA suốt thời ông Giô-suê và suốt thời các kỳ mục là những người sống lâu sau ông Giô-suê, và đã chứng kiến tất cả những công cuộc vĩ đại ĐỨC CHÚA đã thực hiện cho Ít-ra-en.8 Ông Giô-suê, con ông Nun, tôi trung của ĐỨC CHÚA, từ trần, thọ một trăm mười tuổi.9 Người ta chôn cất ông tại thửa đất ông đã nhận được làm gia nghiệp ở Tim-nát Khe-rét trong vùng núi Ép-ra-im, phía bắc núi Ga-át.10 Khi đến lượt cả thế hệ ấy về sum họp với tổ tiên mình, thì xuất hiện một thế hệ kế tiếp không hề biết ĐỨC CHÚA và những công cuộc Người đã thực hiện cho Ít-ra-en.

Ý nghĩa tôn giáo thời các thủ lãnh

11 Con cái Ít-ra-en đã làm điều dữ trái mắt ĐỨC CHÚA, và đã làm tôi các thần Ba-an.12 Họ đã lìa bỏ ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của tổ tiên, Đấng đã đưa họ ra khỏi đất Ai-cập, và họ đã đi theo các thần ngoại lai trong số các thần của các dân chung quanh. Họ sụp lạy các thần ấy và chọc giận ĐỨC CHÚA.13 Họ đã lìa bỏ ĐỨC CHÚA để làm tôi thần Ba-an và các nữ thần Át-tô-rét.14 ĐỨC CHÚA nổi cơn thịnh nộ với Ít-ra-en và đã trao họ vào tay quân cướp cho chúng tha hồ bóc lột; Người đã trao họ vào tay kẻ thù chung quanh, nên họ không thể đương đầu nổi với kẻ thù.15 Cứ mỗi lần họ xuất trận là tay ĐỨC CHÚA giáng hoạ trên họ, như ĐỨC CHÚA đã phán và thề với họ. Họ lâm cảnh khốn cùng.

16 Bấy giờ ĐỨC CHÚA cho xuất hiện các thủ lãnh để giải thoát họ khỏi tay những kẻ cướp phá họ.17 Nhưng rồi các thủ lãnh của họ, họ cũng chẳng nghe mà cứ đàng điếm với các thần ngoại lai và sụp lạy các thần đó. Họ vội từ bỏ con đường cha ông họ đã đi, là tuân giữ mệnh lệnh của ĐỨC CHÚA; họ đã không noi gương các ngài.18 Khi ĐỨC CHÚA cho xuất hiện các thủ lãnh để giúp họ, thì ĐỨC CHÚA ở với vị thủ lãnh và Người cứu họ khỏi tay quân thù bao lâu vị thủ lãnh còn sống, vì ĐỨC CHÚA động lòng trắc ẩn trước những tiếng than khóc của họ, khi họ bị đàn áp và ức hiếp.19 Nhưng sau khi vị thủ lãnh qua đời thì họ lại ra hư đốn hơn cả cha ông họ. Họ chạy theo các thần ngoại lai để làm tôi và sụp lạy chúng, chứ không từ bỏ những hành vi và đường lối ngoan cố của họ.

Lý do tồn tại của chư dân

20 ĐỨC CHÚA nổi cơn thịnh nộ với Ít-ra-en; Người phán: “Vì lũ dân này đã vi phạm giao ước Ta đã truyền cho cha ông chúng phải giữ, và chúng đã không nghe tiếng Ta,21 nên trong số các dân mà Giô-suê còn để lại khi từ trần, Ta cũng sẽ không đuổi một dân nào cho khuất mắt chúng.22 Ta sẽ dùng các dân ấy để thử thách Ít-ra-en, xem chúng có tuân giữ đường lối ĐỨC CHÚA như cha ông chúng đã tuân giữ hay không.23 Vậy ĐỨC CHÚA đã để cho các dân ấy tiếp tục tồn tại mà không vội trục xuất chúng, cũng chẳng trao chúng vào tay ông Giô-suê.

3

1 Đây là các dân ĐỨC CHÚA cho tồn tại, để dùng chúng mà thử thách tất cả những người Ít-ra-en đã không biết các cuộc chiến tại Ca-na-an là gì,2 chỉ cốt cho các thế hệ con cái Ít-ra-en biết học việc binh đao, ít là cho những kẻ trước đây chưa biết.3 Năm vương hầu Phi-li-tinh và tất cả các người Ca-na-an, người Xi-đôn, người Khi-vi ở trên vùng núi Li-băng, từ núi Ba-an Khéc-môn đến Cửa Ải Kha-mát.4 Chúng còn đó để thử thách Ít-ra-en, xem họ có tuân giữ mệnh lệnh ĐỨC CHÚA đã dùng ông Mô-sê mà truyền cho cha ông họ hay không.5 Vậy con cái Ít-ra-en đã sống giữa người Ca-na-an, người Khết, người E-mô-ri, người Pơ-rít-di, người Khi-vi và người Giơ-vút.6 Và họ đã cưới con gái của chúng, cũng như gả con gái mình cho chúng, và họ đã làm tôi các thần của chúng.

SỰ TÍCH CÁC THỦ LÃNH

1. ÔNG ÓT-NI-ÊN

7 Con cái Ít-ra-en đã làm điều dữ trái mắt ĐỨC CHÚA. Họ đã lìa bỏ ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của họ, và làm tôi các thần Ba-an và nữ thần A-sê-ra.8 ĐỨC CHÚA nổi cơn thịnh nộ với Ít-ra-en và đã trao họ vào tay Cu-san Rít-a-tha-gim, vua A-ram Na-ha-ra-gim; con cái Ít-ra-en đã làm tôi Cu-san Rít-a-tha-gim tám năm.

9 Con cái Ít-ra-en kêu lên ĐỨC CHÚA và ĐỨC CHÚA cho xuất hiện một vị cứu tinh là ông Ót-ni-ên, con ông Cơ-nát, em ông Ca-lếp, để cứu con cái Ít-ra-en; ông Ót-ni-ên đã giải thoát họ.10 Thần khí của ĐỨC CHÚA ở trên ông, và ông đã lãnh đạo Ít-ra-en. Ông xuất trận và ĐỨC CHÚA đã trao Cu-san Rít-a-tha-gim, vua A-ram, vào tay ông, và tay ông đè nặng lên Cu-san Rít-a-tha-gim.11 Bấy giờ lãnh thổ được bình an bốn mươi năm. Sau đó ông Ót-ni-ên, con ông Cơ-nát, từ trần.

2. ÔNG Ê-HÚT

12 Con cái Ít-ra-en lại làm điều dữ trái mắt ĐỨC CHÚA, và ĐỨC CHÚA đã tăng cường sức mạnh cho Éc-lon, vua Mô-áp, chống Ít-ra-en, vì họ đã làm điều dữ trái mắt ĐỨC CHÚA.13 Ông đã phối hợp với con cái Am-mon và A-ma-lếch, rồi tiến quân, đánh bại Ít-ra-en và chiếm lấy Thành Chà Là của họ.14 Con cái Ít-ra-en phải làm tôi Éc-lon, vua Mô-áp, mười tám năm.

15 Bấy giờ con cái Ít-ra-en kêu lên ĐỨC CHÚA, ĐỨC CHÚA liền cho xuất hiện một vị cứu tinh là ông Ê-hút, con ông Ghê-ra, người Ben-gia-min, một người thuận tay trái. Vậy con cái Ít-ra-en nhờ ông mang cống lễ nộp cho Éc-lon, vua Mô-áp.16 Ông Ê-hút làm cho mình một chiếc gươm hai lưỡi, dài một gô-mét, và cột dưới áo bên hông phải.17 Ông mang cống lễ nộp cho Éc-lon, vua Mô-áp; Éc-lon là một người béo phị.18 Sau khi đã trao cống lễ, ông cho đám người mang cống lễ đi ra.19 Còn chính ông, người đã viếng các tượng đá ở Ghin-gan trở về, thì nói: “Thưa ngài, tôi có một điều bí mật muốn thưa với ngài.” Vua nói: “Im lặng! ” Tất cả mọi người túc trực bên vua đều ra ngoài.20 Bấy giờ ông Ê-hút tới gần vua, lúc ấy đang ngồi ở phòng mát phía trên dành riêng cho vua, và ông Ê-hút nói: “Tôi có một lời của Thiên Chúa phải nói cho ngài.” Vua liền bỏ ghế đứng lên.21 Ông Ê-hút thò tay trái, rút chiếc gươm từ hông phải, thọc vào bụng vua22 lút cán, mỡ bám chặt lưỡi gươm -vì ông Ê-hút không rút gươm khỏi bụng vua- và lưỡi gươm lòi ra đằng mông.23 Ông Ê-hút qua hành lang mà đi ra, sau khi đã đóng các cửa phòng trên và khoá lại.

24 Ông vừa đi ra thì các đầy tớ vua đi vào. Họ thấy các cửa phòng trên vẫn khoá thì nói: “Hẳn là vua đang mắc việc cần trong phòng sau.”25 Họ đợi hoài mà không thấy mở cửa phòng trên; nên sau cùng họ lấy chìa khoá mở phòng ra, thì kìa tôn chủ của họ nằm chết sóng sượt dưới đất.

26 Phần ông Ê-hút đã tẩu thoát, lúc họ còn đang chờ. Ông đi qua các tượng đá mà trốn chạy về hướng Ha Xơ-i-ra.27 Vừa tới nơi, ông liền rúc tù và vang khắp núi Ép-ra-im. Con cái Ít-ra-en cùng với ông từ núi tràn xuống; chính ông đi tiên phong.28 Ông bảo họ: “Hãy theo tôi, vì ĐỨC CHÚA đã trao vào tay anh em kẻ thù của anh em là người Mô-áp.” Họ đi theo ông, chiếm giữ các lối qua sông Gio-đan, không để lọt một người Mô-áp nào.29 Thời kỳ ấy họ hạ được khoảng mười ngàn người Mô-áp, tất cả những kẻ cường tráng và dũng cảm, không sót một tên.30 Ngày hôm ấy, Mô-áp đã bị bàn tay Ít-ra-en hạ nhục, và lãnh thổ được bình an tám mươi năm.

3. ÔNG SAM-GA

31 Sau ông là ông Sam-ga, con ông A-nát, ông đã dùng gậy thúc bò đánh giết sáu trăm người Phi-li-tinh. Ông cũng là một vị cứu tinh của Ít-ra-en.

4. BÀ ĐƠ-VÔ-RA VÀ ÔNG BA-RẮC

4.  1 Con cái Ít-ra-en lại làm điều dữ trái mắt ĐỨC CHÚA sau khi ông Ê-hút từ trần,2 nên ĐỨC CHÚA trao họ vào tay Gia-vin, vua Ca-na-an, trị vì tại Kha-xo. Tướng chỉ huy quân đội của ông là Xi-xơ-ra, cư ngụ ở Kha-rô-sét Ha Gô-gim.

3 Con cái Ít-ra-en kêu lên ĐỨC CHÚA, vì ông Gia-vin có đến chín trăm xe sắt, và ông đã đàn áp con cái Ít-ra-en một cách tàn bạo suốt hai mươi năm trường.

Bà Đơ-vô-ra

4 Bà Đơ-vô-ra, một nữ ngôn sứ, vợ ông Láp-pi-đốt, thời ấy làm thủ lãnh xét xử Ít-ra-en.5 Bà ngồi xử dưới Cây Chà Là Đơ-vô-ra, giữa Ra-ma và Bết Ên, trên núi Ép-ra-im, và con cái Ít-ra-en đến với bà để bà xét xử cho.6 Bà sai người mời ông Ba-rắc, con ông A-vi-nô-am, từ Ke-đét thuộc Náp-ta-li tới, và nói với ông: “ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của Ít-ra-en, lại không nói với ông thế này sao? Hãy đi chiêu mộ trong vùng núi Ta-bo lấy mười ngàn người trong số con cái Náp-ta-li và trong số con cái Dơ-vu-lun để đi với ngươi.7 Ta sẽ dụ tướng Xi-xơ-ra, chỉ huy quân đội vua Gia-vin tiến về phía ngươi, bên suối Ki-sôn, cùng với chiến xa và quân binh của nó, và Ta sẽ trao nó vào tay ngươi.”8 Ông Ba-rắc nói với bà: “Nếu bà đi với tôi thì tôi đi, nếu bà không đi với tôi thì tôi không đi.”9 Bà trả lời: “Chắc chắn tôi sẽ đi với ông. Có điều là trong chuyến đi này, vinh dự không thuộc về ông, vì ĐỨC CHÚA sẽ trao Xi-xơ-ra vào tay một người đàn bà.” Bà Đơ-vô-ra chỗi dậy đi với ông Ba-rắc đến Ke-đét.10 Ông Ba-rắc triệu tập Dơ-vu-lun và Náp-ta-li tiến về Ke-đét. Mười ngàn người theo chân ông, cả bà Đơ-vô-ra cũng đi với ông.

Ông Khe-ve, người Kê-ni

11 Ông Khe-ve, người Kê-ni, đã tách khỏi Ca-in, khỏi con cái ông Khô-váp, nhạc phụ ông Mô-sê, và đã dựng lều bên cây sồi tại Xa-an-na-gim, gần Ke-đét.

Xi-xơ-ra bị đánh bại

12 Người ta báo tin cho Xi-xơ-ra rằng: “Ông Ba-rắc, con ông A-vi-nô-am, đã lên núi Ta-bo”.13 Tướng Xi-xơ-ra liền tập trung tất cả các chiến xa, chín trăm xe sắt và toàn bộ lực lượng dưới quyền ông, đưa từ Kha-rô-sét Ha Gô-gim đến suối Ki-sôn.14 Bấy giờ bà Đơ-vô-ra nói với ông Ba-rắc: “Đứng lên! Vì đây là ngày ĐỨC CHÚA trao Xi-xơ-ra vào tay ông. ĐỨC CHÚA lại không xuất trận trước mặt ông sao? ” Ông Ba-rắc từ núi Ta-bo đi xuống với mười ngàn quân theo sau.15 ĐỨC CHÚA dùng gươm của ông Ba-rắc đánh Xi-xơ-ra cùng với chiến xa và toàn thể doanh trại của ông này, khiến tất cả phải tán loạn trước mặt ông Ba-rắc. Xi-xơ-ra tụt khỏi xe và chạy bộ mà trốn.16 Ông Ba-rắc truy kích đoàn xe và quân binh cho đến Kha-rô-sét Ha Gô-gim. Tất cả quân binh của Xi-xơ-ra đều ngã gục dưới lưỡi gươm của ông Ba-rắc, không sót một tên.

Xi-xơ-ra bị giết

17 Xi-xơ-ra chạy bộ trốn về phía lều bà Gia-ên, vợ ông Khe-ve, người Kê-ni, vì lúc ấy đang có hoà bình giữa Gia-vin, vua Kha-xo, với nhà Khe-ve, người Kê-ni.18 Bà Gia-ên ra đón Xi-xơ-ra, và nói với ông: “Thưa ngài, xin dừng lại, xin dừng lại nơi đây, đừng sợ! ” Ông dừng lại, đi theo bà vào lều; bà lấy tấm thảm phủ lên ông.19 Ông nói với bà: “Cho tôi xin chút nước uống, vì tôi khát quá.” Bà liền mở vò sữa, cho ông uống, rồi lại phủ kín ông.20 Ông nói với bà: “Xin bà đứng ở cửa lều, hễ ai đến hỏi có người nào ở đây không, thì bà nói: “Không.”21 Nhưng bà Gia-ên, vợ ông Khe-ve, lấy cái cọc lều, tay cầm búa, lặng lẽ đến bên Xi-xơ-ra, đóng cọc vào màng tang ông, xuyên xuống đất, đang lúc ông ngủ say vì mệt. Thế là ông chết.22 Đang lúc ấy, ông Ba-rắc truy nã Xi-xơ-ra vừa tới, thì bà Gia-ên ra đón ông và nói: “Lại đây, tôi cho ông xem người ông đang tìm.” Ông đi theo bà, thì này, Xi-xơ-ra nằm chết với cái cọc xuyên màng tang.

Ít-ra-en được giải thoát

23 Hồi đó Thiên Chúa hạ nhục Gia-vin, vua Ca-na-an, trước mặt con cái Ít-ra-en.24 Bàn tay con cái Ít-ra-en ngày càng đè nặng trên Gia-vin, vua Ca-na-an, cho đến khi họ tiễu trừ được Gia-vin, vua Ca-na-an.

Bài ca của bà Đơ-vô-ra và ông Ba-rắc

5.  1 Ngày hôm ấy bà Đơ-vô-ra và ông Ba-rắc, con ông A-vi-nô-am, hát rằng:

2 “Trong Ít-ra-en thuở chiến binh xoã tóc xung phong,
thuở toàn dân tình nguyện lên đường,
các bạn ơi, nào chúc tụng ĐỨC CHÚA!

3 Nghe đây, hỡi các vua! Hãy lắng tai, này các thủ lãnh!
Tôi sẽ hát lên mừng ĐỨC CHÚA,
sẽ đàn ca kính Người là Thiên Chúa của Ít-ra-en.

4 Thân lạy ĐỨC CHÚA, khi Ngài ra khỏi Xê-ia,
khi Ngài từ ruộng đồng Ê-đôm xuất phát,
thì trái đất chuyển rung, các tầng trời tan chảy,
mây cũng tan chảy thành mưa.

5 Núi đồi chấn động trước nhan ĐỨC CHÚA,
Xi-nai cũng chấn động trước nhan Người
là Thiên Chúa của Ít-ra-en.

6 Thời Sam-ga, con ông A-nát,
thời Gia-ên, còn đâu những đoàn khách lữ hành!
Những kẻ xưa kia đi trên quan lộ
nay lần mò theo những lối quanh co.

7 Trong Ít-ra-en không còn thủ lãnh,
không còn nữa cho tới khi bà đứng lên, hỡi bà Đơ-vô-ra
bà đứng lên, hỡi mẹ hiền trong Ít-ra-en!

8 Khi người ta chọn những thần mới,
bấy giờ chiến tranh đến ngay trước cửa,
khiên mộc chẳng thấy, gươm giáo cũng không
trong tay bốn mươi ngàn quân Ít-ra-en.

9 Lòng tôi ngưỡng mộ các nhà chỉ huy Ít-ra-en,
những kẻ trong dân tình nguyện lên đường.
Các bạn ơi, nào chúc tụng ĐỨC CHÚA!

10 Hỡi những ai cỡi lừa trắng,
hỡi những kẻ ngồi thảm hoa,
hỡi khách bộ hành, hát lên đi!

11 Những người chia nhau chiến lợi phẩm bên bồn nước,
hãy cất tiếng ca ngợi hồng ân của ĐỨC CHÚA,
những hồng ân Người ban cho thủ lãnh Ít-ra-en,
bấy giờ dân của ĐỨC CHÚA ùa xuống các cửa.

12 Phấn khởi lên! Phấn khởi lên nào! Đơ-vô-ra hỡi!
Phấn khởi lên! Phấn khởi lên nào! Hát một bài ca!
Đứng lên! Hỡi Ba-rắc!
Bỏ tù kẻ bỏ tù ông! Hỡi con của A-vi-nô-am!

13 Bấy giờ Ít-ra-en xuống cửa vì chính nghĩa của mình,
dân của ĐỨC CHÚA đã xuống như những vị anh hùng.

14 Các lãnh tụ Ép-ra-im ở trong thung lũng,
trong hàng ngũ theo ông, có Ben-gia-min.
Các vị chỉ huy xuất thân từ Ma-khia,
từ Dơ-vu-lun, những người nắm côn trượng.

15 Các lãnh tụ Ít-xa-kha theo bà Đơ-vô-ra.
Náp-ta-li trung thành với Ba-rắc,
chạy theo vết chân ông trong thung lũng.
Trong các thị tộc của Rưu-vên,
bàn bạc thì thật là sôi nổi!

16 “Sao bạn cứ ở lì trong hốc đá, mải nghe tiếng sáo bên đàn chiên?
Trong các thị tộc của Rưu-vên,
bàn bạc thì thật là sôi nổi!

17 Ga-la-át ở lại bên kia sông Gio-đan,
còn Đan, sao cứ sống trên tàu bè?
A-se thì định cư miền duyên hải,
trong các hải cảng, vẫn cứ nhởn nhơ!

18 Dơ-vu-lun, dân coi nhẹ cái chết,
cùng với Náp-ta-li, trên điểm cao chiến trường.

19 Các vua đã tới, đã giao tranh,
các vua Ca-na-an đã giao tranh
tại Ta-nác, bên dòng suối Mơ-ghít-đô.
Chúng đã không cướp được bạc làm chiến lợi phẩm.

20 Từ trời cao, tinh tú đã giao tranh,
từ trên quỹ đạo, tinh tú chống lại Xi-xơ-ra.

21 Dòng suối Ki-sôn đã cuốn trôi chúng,
dòng suối ngàn xưa, suối Ki-sôn.
Dũng cảm tiến lên, hồn ta hỡi!

22 Bấy giờ vó ngựa vang rền trên mặt đất,
đoàn thiên lý mã phi nhanh, phi thật nhanh.

23 “Hãy nguyền rủa Mê-rốt -thần sứ ĐỨC CHÚA nói-,
nguyền rủa, nguyền rủa các dân cư của nó.
Vì chúng đã không đến yểm trợ ĐỨC CHÚA,
yểm trợ ĐỨC CHÚA với các bậc anh hùng.

24 Phúc thay bà Gia-ên, phu nhân ông Khe-ve, người Kê-ni,
hơn các phụ nữ,
hơn các phụ nữ trong lều trại, bà thật là có phúc.

25 Y xin nước, bà cho sữa.
Bà dâng sữa béo trong chén quý của hàng thượng lưu.

26 Rồi tay trái cầm lấy chiếc cọc,
còn tay phải nắm búa công nhân,
đánh Xi-xơ-ra, đập cho bể đầu,
và đâm thủng màng tang.

27 Dưới chân bà, y ngã quỵ, té nhào, nằm sóng sượt,
dưới chân bà, y ngã quỵ, té nhào;
ngã quỵ nơi nào, té nhào nơi ấy, nằm bất động.

28 Qua cửa sổ, một bà khác nghiêng mình kêu la,
đó là mẹ của Xi-xơ-ra, nói qua song cửa:
“Sao xe của con tôi mãi không về?
Sao đoàn xe trận của con tôi về chậm thế?

29 Công chúa khôn ngoan nhất của bà đã trả lời,
và bà cứ nhẩm đi nhắc lại:

30 “Chắc họ đã gặp may, và đang chia nhau chiến lợi phẩm:
một hai nàng cho mỗi chiến binh,
và nhiễu điều làm chiến lợi phẩm cho Xi-xơ-ra.
Một hai tấm nhiễu điều thêu sặc sỡ,
choàng lên cổ của người toàn thắng.

31 Lạy ĐỨC CHÚA! Mọi kẻ thù của Ngài
đều tiêu vong như thế!
Còn những ai yêu mến Ngài,
xin cho họ rạng rỡ như mặt trời hừng đông.”
Và lãnh thổ bình an bốn mươi năm.

5. ÔNG GHÍT-ÔN VÀ ÔNG A-VI-ME-LÉC
A. Thiên Chúa gọi ông Ghít-ôn

Người Ma-đi-an áp bức dân Ít-ra-en

6.  1 Con cái Ít-ra-en đã làm điều dữ trái mắt ĐỨC CHÚA, nên ĐỨC CHÚA đã trao họ vào tay người Ma-đi-an trong bảy năm.2 Tay người Ma-đi-an đè nặng trên Ít-ra-en. Để tránh mặt người Ma-đi-an, con cái Ít-ra-en đã thiết lập những khu an toàn trong các vùng núi, những hang động hốc đá.3 Hễ Ít-ra-en gieo giống thì người Ma-đi-an, người A-ma-lếch và người Phương Đông cũng lên; chúng lên chống lại Ít-ra-en.4 Chúng đóng trại bên cạnh họ và tàn phá hoa màu, đất đai cho đến sát Ga-da, không để sót lại vật gì trong Ít-ra-en, dù là gia súc hay bò lừa cũng vậy.5 Vì chúng lên cùng với đàn vật và lều trại của chúng, tiến vào nhiều vô kể như châu chấu; chúng và lạc đà của chúng đông không đếm nổi. Chúng tràn vào tàn phá xứ sở.6 Như vậy người Ít-ra-en hoàn toàn kiệt quệ vì người Ma-đi-an. Và con cái Ít-ra-en đã kêu lên ĐỨC CHÚA.

Một ngôn sứ can thiệp

7 Khi con cái Ít-ra-en kêu lên ĐỨC CHÚA về người Ma-đi-an,8 thì ĐỨC CHÚA đã sai một vị ngôn sứ đến với con cái Ít-ra-en. Ông nói với họ: “ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của Ít-ra-en phán thế này: Chính Ta đã đưa các ngươi lên khỏi Ai-cập, đã kéo các ngươi ra khỏi nhà nô lệ,9 đã giải thoát các ngươi khỏi tay Ai-cập, khỏi tay mọi kẻ áp bức các ngươi, và đã đuổi chúng cho khuất mắt các ngươi, đã ban cho các ngươi đất đai của chúng.10 Và Ta đã phán với các ngươi: Ta là ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của các ngươi. Các ngươi không được kính sợ các thần của người E-mô-ri, khi các ngươi cư ngụ trên đất của chúng. Nhưng các ngươi đã không nghe tiếng Ta.”

Thần sứ của ĐỨC CHÚA hiện ra với ông Ghít-ôn

11 Thần sứ của ĐỨC CHÚA đến và ngồi dưới cây tùng ở Óp-ra. Cây này là của ông Giô-át, thuộc gia đình A-vi-e-de. Con ông là Ghít-ôn bấy giờ đang đập lúa trong bồn đạp nho để tránh mặt người Ma-đi-an.12 Thần sứ ĐỨC CHÚA hiện ra với ông và nói: “Chào chiến sĩ can trường! ĐỨC CHÚA ở với ông.”13 Ông Ghít-ôn đáp: “Ôi, thưa Ngài, nếu ĐỨC CHÚA ở với chúng tôi, thì sao chúng tôi đến nông nỗi này? Đâu cả rồi những kỳ công mà cha ông đã kể lại cho chúng tôi nghe, rằng: chẳng phải ĐỨC CHÚA đã đưa chúng ta lên khỏi Ai-cập sao? Thế mà bây giờ ĐỨC CHÚA đã bỏ rơi chúng tôi, trao chúng tôi vào tay người Ma-đi-an.”

14 Bấy giờ ĐỨC CHÚA quay lại nhìn ông và nói: “Hãy mạnh bạo lên đường cứu Ít-ra-en khỏi tay quân Ma-đi-an. Không phải chính Ta sai ngươi sao? “15 Nhưng ông đáp: “Ôi, thưa Ngài, con lấy gì mà cứu Ít-ra-en? Này dòng họ con thấp kém nhất trong chi tộc Mơ-na-se, mà con lại nhỏ nhất trong nhà cha con.”16 ĐỨC CHÚA phán với ông: “Ta sẽ ở với ngươi, và ngươi sẽ đánh quân Ma-đi-an như đánh có một người.”17 Ông thưa: “Nếu Ngài thương con thì xin cho con một dấu chứng tỏ Ngài đang nói với con.18 Xin Ngài đừng rời khỏi đây cho tới khi con trở lại, mang theo của lễ đặt trước nhan Ngài.” Người phán: “Ta sẽ ở lại cho tới khi ngươi trở về.”

19 Ông Ghít-ôn đi bắt một con dê non làm thịt, và lấy hai thùng bột làm mấy chiếc bánh không men. Thịt thì ông để trong một cái rổ, còn nước cốt thì đựng trong một cái thố. Rồi ông mang đến cho Người ở dưới cây tùng. Khi ông đến gần,20 thì Thần sứ Thiên Chúa nói với ông: “Hãy lấy thịt và bánh không men đặt trên tảng đá này và rưới nước cốt lên.” Ông đã làm như thế.

21 Thần sứ của ĐỨC CHÚA giơ đầu gậy đang cầm trong tay đụng vào thịt và bánh không men, lửa liền từ tảng đá bốc lên, đốt cháy hết thịt cùng bánh không men. Thần sứ ĐỨC CHÚA biến khỏi mắt ông.22 Ông Ghít-ôn thấy đó chính là Thần sứ ĐỨC CHÚA. Ông Ghít-ôn nói: “Chết tôi rồi, lạy ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng của tôi, vì tôi đã thấy Thần sứ ĐỨC CHÚA nhãn tiền! “23 Nhưng ĐỨC CHÚA phán với ông: “Bình an cho ngươi! Đừng sợ: ngươi không chết đâu.”24 Tại đó ông Ghít-ôn xây một bàn thờ kính ĐỨC CHÚA, và ông gọi nơi ấy là ĐỨC CHÚA – Bình an. Cho đến ngày nay, bàn thờ ấy vẫn còn tại Óp-ra, đất của gia đình A-vi-e-de.

Ông Ghít-ôn triệt hạ Ba-an

25 Một đêm kia ĐỨC CHÚA phán bảo ông: “Hãy lấy con bò mộng của cha ngươi, con bò bảy tuổi, rồi phá huỷ bàn thờ Ba-an của cha ngươi và chặt đứt cây cột thần bên cạnh.26 Ngươi sẽ xây bàn thờ kính ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa ngươi, trên đỉnh của nơi kiên cố này, sắp xếp sao cho gọn ghẽ. Ngươi sẽ lấy con bò và dâng làm lễ toàn thiêu với gỗ cây cột thần ngươi đã chặt.”27 Vậy ông Ghít-ôn mang theo mười người đầy tớ và làm như ĐỨC CHÚA đã nói với ông. Tuy nhiên, vì sợ người nhà của cha mình và những người trong thành, ông không dám làm ban ngày, nên đã làm ban đêm.28 Sáng hôm sau, khi những người trong thành thức dậy, thì kìa bàn thờ Ba-an đã bị triệt hạ, cây cột thần cạnh đó đã bị chặt, và con bò mộng thứ hai đã được dâng làm lễ toàn thiêu trên bàn thờ mới xây.29 Họ nói với nhau: “Ai đã làm chuyện này thế? ” Rồi họ điều tra và tìm hiểu, thì ra là ông Ghít-ôn, con ông Giô-át, đã làm chuyện đó.30 Dân thành liền nói với ông Giô-át: “Đưa con ông ra đây! Nó phải chết, vì nó đã triệt hạ bàn thờ Ba-an và đã chặt đứt cây cột thần bên cạnh.”31 Ông Giô-át nói với tất cả mọi người đứng trước mặt ông: “Các anh bênh quyền lợi của Ba-an ư? Hay là các anh tính cứu thần đó? Kẻ nào bênh quyền lợi Ba-an sẽ phải chết trước khi trời rạng sáng. Nếu Ba-an là thần thì Ba-an cứ tự biện hộ. Ghít-ôn đã phá bàn thờ của Ba-an đó.”32 Ngày hôm ấy, người ta gọi ông Ghít-ôn là Giơ-rúp-ba-an, mà rằng: “Xin Ba-an đối phó với hắn, vì hắn đã triệt hạ bàn thờ của người.”

Kêu gọi chiến đấu

33 Tất cả các người Ma-đi-an, người A-ma-lếch và người Phương Đông đều nhất tề tập hợp; họ băng qua sông và đóng trại tại đồng bằng Gít-rơ-en.34 Ông Ghít-ôn được đầy thần khí của ĐỨC CHÚA; ông rúc tù và, và người A-vi-e-de quy tụ lại sau lưng ông.35 Ông sai sứ giả kêu gọi mọi người trong chi tộc Mơ-na-se, và họ quy tụ lại sau lưng ông; ông sai sứ giả kêu gọi mọi người trong chi tộc A-se, Dơ-vu-lun và Náp-ta-li, họ cũng đều tiến lên đón ông.

Lông cừu làm điềm báo

36 Ông Ghít-ôn thưa với Thiên Chúa: “Nếu đúng là Ngài sẽ dùng tay con để cứu Ít-ra-en như Ngài đã phán,37 thì này đây con đặt một mớ lông cừu trong sân lúa: nếu chỉ có sương trên lông cừu mà thôi, còn tất cả mặt đất đều khô, thì con biết Ngài sẽ dùng tay con để cứu Ít-ra-en như Ngài đã phán.”38 Và đã xảy ra như vậy. Sáng hôm sau ông dậy sớm, bóp mớ lông cừu, vắt cho sương chảy ra đầy một chén nước.39 Ông Ghít-ôn lại thưa với Thiên Chúa: “Xin Ngài đừng thịnh nộ với con, để con được nói một lần nữa. Xin cho con được trắc nghiệm bằng lông cừu một lần nữa thôi: chỉ có lông cừu là khô, còn tất cả mặt đất đều đẫm sương.”40 Đêm ấy Thiên Chúa đã làm như vậy. Chỉ có lông cừu là khô, còn tất cả mặt đất đều đẫm sương.

B.  Ông Ghít-ôn giao chiến bên tây ngạn sông Gio-đan

ĐỨC CHÚA rút bớt quân số của ông Ghít-ôn

7.  1 Ông Giơ-rúp-ba-an, tức Ghít-ôn, cũng như toàn dân đang ở với ông, thức dậy thật sớm, và ông đóng trại gần Ên Kha-rốt; còn trại quân Ma-đi-an thì nằm ở phía bắc trại ông, sát đồi Mô-re, trong đồng bằng.2 ĐỨC CHÚA phán bảo ông: “Đám dân ở với ngươi quá đông; Ta không trao quân Ma-đi-an vào tay chúng được, kẻo Ít-ra-en lại tự phụ phạm đến Ta, khi cho rằng “Chính tay tôi đã cứu tôi.3 Vậy ngươi hãy công bố cho dân nghe: “Ai sợ hãi và run khiếp thì hãy về đi! ” Và ông Ghít-ôn đã thử họ: hai mươi ngàn người trong dân rút lui, còn lại mười ngàn.

4 ĐỨC CHÚA phán với ông Ghít-ôn: “Dân này vẫn còn đông. Hãy bảo chúng xuống gần nước, ở đó Ta sẽ thử chúng. Kẻ nào Ta nói với ngươi “người này sẽ đi với ngươi” thì kẻ đó sẽ đi với ngươi. Còn tất cả những ai Ta nói với ngươi “người này không đi với ngươi”, kẻ đó sẽ không được đi.”5 Vậy ông Ghít-ôn đem đám dân ấy đến gần nước, và ĐỨC CHÚA phán với ông Ghít-ôn: “Tất cả những ai thè lưỡi tớp nước như chó, ngươi hãy để riêng ra, tất cả những ai quỳ xuống mà uống cũng vậy.”6 Số người dùng tay đưa nước lên miệng mà tớp là ba trăm. Tất cả số dân còn lại đều quỳ xuống mà uống nước.7 Bấy giờ ĐỨC CHÚA phán với ông Ghít-ôn: “Với ba trăm người đã tớp nước, Ta sẽ cứu các ngươi, và sẽ trao quân Ma-đi-an vào tay ngươi. Còn tất cả những người khác thì hãy rút lui, ai về nhà nấy.”8 Người ta giữ lại vò lương thực của đám dân, cùng với các tù và. Sau đó, ông Ghít-ôn cho tất cả con cái Ít-ra-en trở về, ai nấy về lều mình, chỉ giữ lại ba trăm người. Doanh trại của người Ma-đi-an nằm phía dưới trại của ông, trong đồng bằng.

Điềm báo thắng trận

9 Đêm ấy ĐỨC CHÚA phán với ông: “Đứng lên! Đi xuống doanh trại, vì Ta sẽ trao nó vào tay ngươi.10 Nhưng nếu ngươi sợ không dám xuống, thì hãy đi xuống trại với Pu-ra, đầy tớ ngươi.11 Ngươi sẽ nghe ngóng xem chúng nói gì; sau đó tay ngươi sẽ ra cứng rắn, và ngươi sẽ xuống đánh trại.” Vậy chính ông đã cùng với Pu-ra, đầy tớ ông, xuống tới đầu tiền đồn của trại.

12 Quân Ma-đi-an, A-ma-lếch và toàn quân Phương Đông nằm đầy đồng bằng, nhiều vô kể như châu chấu, và số lạc đà của chúng không đếm nổi, như cát trên bờ biển.13 Ông Ghít-ôn tới nơi, thì này một tên đang kể cho đồng đội một giấc chiêm bao. Hắn nói: “Đây là giấc chiêm bao tôi đã nằm mơ: một tấm bánh lúa mạch lăn trong trại Ma-đi-an, tới một chiếc lều, đụng vào lều thì nó ngã xuống, cuốn chỏng gọng cái lều lên, thế là cái lều đổ.”14 Người đồng đội hoạ theo và nói: “Đây chỉ có thể là chiếc gươm của Ghít-ôn, con Giô-át, người Ít-ra-en. Thiên Chúa đã trao người Ma-đi-an và cả doanh trại vào tay ông ta.”15 Khi nghe kể giấc chiêm bao và lời giải thích, ông Ghít-ôn sấp mình xuống, đoạn trở về trại Ít-ra-en và nói: “Đứng lên! Vì ĐỨC CHÚA đã trao vào tay anh em doanh trại Ma-đi-an.”

Cuộc đột kích

16 Bấy giờ ông chia ba trăm người thành ba cánh quân, trao vào tay mọi người tù và, vò rỗng có đuốc bên trong.17 Ông bảo họ: “Hãy nhìn và làm theo tôi. Khi tới đầu trại, tôi làm gì thì các anh cứ làm theo!18 Tôi sẽ rúc tù và cùng một lúc với tất cả những người đi với tôi; bấy giờ các anh cũng rúc tù và khắp quanh trại và cùng hô: Vì ĐỨC CHÚA! Vì Ghít-ôn! “

19 Ông Ghít-ôn cùng với một trăm người theo ông đi tới đầu trại vào đầu canh hai, lúc vừa thay người canh; họ rúc tù và, đồng thời đập bể những chiếc vò đang cầm trong tay.20 Bấy giờ cả ba cánh quân đều rúc tù và, đập bể vò; tay trái nắm chắc đuốc, tay phải cầm tù và rúc lên, rồi họ cùng hô: “Vì ĐỨC CHÚA, vì Ghít-ôn, vung kiếm lên! “21 Chung quanh trại, ai nấy đứng yên tại chỗ. Cả trại tán loạn, la ó và chạy trốn.22 Trong lúc ba trăm người rúc tù và thì ĐỨC CHÚA làm cho mỗi người trong khắp trại quay gươm giết bạn mình. Cả doanh trại đều trốn chạy về phía Xơ-rê-ra cho đến Bết Ha Sít-ta, bên bờ suối A-vên Mơ-khô-la, đối diện với Táp-bát.

Truy kích

23 Bấy giờ từ Náp-ta-li, A-se và toàn thể Mơ-na-se, các người Ít-ra-en họp nhau lại và rượt đuổi quân Ma-đi-an.24 Ông Ghít-ôn sai sứ giả đi kêu gọi khắp vùng núi Ép-ra-im: “Hãy xuống đón đầu quân Ma-đi-an, chiếm cứ các nguồn nước của chúng, cho đến Bết Ba-ra và sông Gio-đan.” Tất cả các người Ép-ra-im đều họp lại chiếm lấy các nguồn nước cho đến Bết Ba-ra và sông Gio-đan.25 Họ bắt được hai tướng của Ma-đi-an là Ô-rếp và Dơ-ếp; họ giết Ô-rếp tại tảng đá Ô-rếp, còn Dơ-ếp thì giết tại bồn ép nho Dơ-ếp. Họ còn rượt theo quân Ma-đi-an và mang thủ cấp của Ô-rếp và Dơ-ếp từ bên kia sông Gio-đan về cho ông Ghít-ôn.

Ép-ra-im kêu trách

8.  1 Những người Ép-ra-im nói với ông: “Ông đối xử với chúng tôi như vậy nghĩa là thế nào? Ông đã không thèm gọi chúng tôi, khi ông lên đường đánh quân Ma-đi-an.” Họ đã công kích ông dữ dội.2 Nhưng ông nói với họ: “Việc tôi đã làm sánh sao được với các anh? Thứ mà Ép-ra-im ăn mót, lại không tốt hơn cả mùa trái của A-vi-e-de sao?3 Thiên Chúa đã trao vào tay các anh các thủ lãnh Ma-đi-an là Ô-rếp và Dơ-ếp, thì tôi có thể làm gì sánh được với các anh? ” Nghe ông nói thế, họ mới nguôi giận.

C. Ông Ghít-ôn giao chiến bên kia sông Gio-đan. Ông từ trần.

Ông Ghít-ôn vượt sông Gio-đan truy lùng địch

4 Tới sông Gio-đan, ông Ghít-ôn sang sông cùng với ba trăm người theo ông, rất mệt mỏi nhưng vẫn truy lùng quân địch.5 Ông nói với các người Xúc-cốt: “Làm ơn cho đám người theo tôi mấy tấm bánh, vì họ đã mệt mỏi rồi, mà tôi thì còn phải truy lùng De-vác và Xan-mun-na, vua Ma-đi-an.”6 Nhưng các thủ lãnh Xúc-cốt trả lời: “Số mạng của De-vác và Xan-mun-na nay đã nằm gọn trong tay ông rồi sao, mà chúng tôi phải cấp bánh cho quân đội của ông? “7 Ông Ghít-ôn đáp: “Đã vậy thì một khi ĐỨC CHÚA trao De-vác và Xan-mun-na vào tay ta rồi, ta sẽ lấy gai rừng và cây ké mà xé xác các ngươi! “8 Từ đấy, ông đi lên Pơ-nu-ên, và lại nói với người ta như vậy, nhưng những người Pơ-nu-ên trả lời y như những người Xúc-cốt.9 Ông cũng nói với người Pơ-nu-ên rằng: “Khi ta trở về bình an vô sự, ta sẽ triệt hạ tháp này.”

De-vác và Xan-mun-na bại trận

10 De-vác và Xan-mun-na lúc ấy đang ở Các-co cùng với đạo quân của họ, chừng mười lăm ngàn người, đó là số còn lại trong toàn bộ doanh trại con cái Phương Đông. Vì mười hai ngàn mạng biết tuốt gươm đã gục ngã.11 Ông Ghít-ôn tiến lên theo con đường của dân du mục, ở phía đông Nô-vác và Gióc-bô-ha, và đã tấn công trại khi trại cứ tưởng là an toàn.12 De-vác và Xan-mun-na chạy trốn, nhưng ông đã đuổi kịp và bắt được cả hai vua Ma-đi-an là De-vác và Xan-mun-na, gây khiếp đảm cho toàn bộ doanh trại.

Ông Ghít-ôn báo thù

13 Sau trận chiến, ông Ghít-ôn, con ông Giô-át trở về qua ngả đường lên Khe-rét.14 Ông bắt một thiếu niên thuộc dân Xúc-cốt và tra hỏi nó. Nó viết cho ông tên các thủ lãnh Xúc-cốt, và các kỳ mục trong dân là bảy mươi bảy người.15 Vậy ông đến với người Xúc-cốt và nói: “Đây là De-vác và Xa-mun-na! Vì chúng, các ngươi đã đay nghiến ta mà rằng: “Số mạng của De-vác và Xan-mun-na nay đã nằm gọn trong tay ông rồi sao, mà chúng tôi phải cấp bánh cho những người mệt mỏi của ông? “16 Ông bắt các kỳ mục trong thành, lấy gai rừng và cây ké mà dạy cho những người Xúc-cốt một bài học.17 Tháp Pơ-nu-ên, ông cũng triệt hạ, và tàn sát cả những người trong thành.18 Ông nói với De-vác và Xan-mun-na: “Những kẻ các ngươi đã tàn sát ở Ta-bo là người thế nào? ” Chúng thưa: “Ông thế nào, họ cũng vậy; người nào cũng có vẻ hoàng tử.”19 Ông nói: “Họ là anh em cùng mẹ với ta đó. Thề có ĐỨC CHÚA hằng sống! Giả như các ngươi để họ sống, thì ta chẳng sát hại các ngươi đâu! “20 Rồi ông bảo người con cả của ông Gie-the: “Đứng lên! Giết chúng đi! ” Nhưng chàng thiếu niên sợ không dám tuốt gươm, vì cậu còn trẻ.21 De-vác và Xan-mun-na liền nói: “Vậy thì chính nhà ngươi đứng lên giết chúng ta đi, vì anh hùng đâu có sợ chết! ” Ông Ghít-ôn đứng lên hạ sát De-vác và Xan-mun-na, rồi tháo lấy những chiếc vòng đeo cổ các con lạc đà của chúng.

Cuối đời ông Ghít-ôn

22 Người Ít-ra-en nói với ông Ghít-ôn: “Xin ông cai trị chúng tôi, cả ông cũng như con cháu ông, vì ông đã giải thoát chúng tôi khỏi tay quân Ma-đi-an.”23 Ông Ghít-ôn trả lời: “Chính tôi sẽ không cai trị, mà con tôi cũng không cai trị anh em, nhưng ĐỨC CHÚA sẽ cai trị anh em.”24 Ông Ghít-ôn nói với họ: “Tôi xin anh em một điều là mỗi người cho tôi một cái nhẫn trong số chiến lợi phẩm của mình.” Sở dĩ như vậy là vì những người bại trận là dân Ít-ma-ên, nên chúng mang nhẫn vàng.25 Những người ấy đáp: “Hẳn là chúng tôi sẽ tặng ông rồi.” Họ trải chiếc áo choàng ra, và mỗi người bỏ vào đấy một chiếc nhẫn đã chiếm được.26 Trọng lượng số nhẫn vàng ông đã xin được là mười bảy ký vàng, không kể các vòng khuyên, các hoa tai và những chiếc áo điều các vua Ma-đi-an vẫn mặc, và không kể các vòng đeo cổ các con lạc đà của chúng.27 Ông Ghít-ôn lấy số vàng đó làm một tượng ê-phốt và đặt trong thành của ông tại Óp-ra; và toàn thể Ít-ra-en đã đàng điếm với nó, nên nó hoá cái bẫy cho ông Ghít-ôn và nhà ông.

28 Ma-đi-an bị hạ nhục trước mặt con cái Ít-ra-en; chúng không còn ngẩng đầu lên được nữa. Dưới thời ông Ghít-ôn, lãnh thổ được bình an bốn mươi năm.29 Ông Giơ-rúp-ba-an, con ông Giô-át, lui về sống cảnh điền viên.30 Ông Ghít-ôn sinh được bảy mươi người con, vì ông có nhiều vợ.31 Ông có người tỳ thiếp ở Si-khem, bà cũng sinh cho ông một con trai; và ông đặt tên cho nó là A-vi-me-léc.32 Ông Ghít-ôn, con ông Giô-át, qua đời sau khi hưởng tuổi già hạnh phúc, và được chôn cất trong phần mộ của ông Giô-át, thân phụ ông, tại Óp-ra của dòng họ A-vi-e-de.

Ít-ra-en lại suy sụp

33 Sau khi ông Ghít-ôn qua đời, con cái Ít-ra-en lại đàng điếm với các Ba-an, và tôn Ba-an Bơ-rít làm thiên chúa của mình.34 Con cái Ít-ra-en không nhớ ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa của mình, Đấng đã giải thoát họ khỏi tay mọi thù địch chung quanh.35 Họ cũng chẳng đối xử nhân nghĩa với nhà ông Giơ-rúp-ba-an, tức Ghít-ôn, mà đền đáp tất cả những điều tốt lành ông đã làm cho Ít-ra-en.

D.  Vương triều của A-vi-me-léc

9.  1 A-vi-me-léc, con ông Giơ-rúp-ba-an, đến Si-khem gặp bà con bên ngoại, và nói với họ, cùng cả gia tộc bên ngoại rằng:2 “Xin bà con hỏi các thân hào Si-khem xem: điều nào tốt cho các vị? Để cho bảy mươi người, tức là tất cả các con ông Giơ-rúp-ba-an cai trị các vị, hay là để một người cai trị các vị mà thôi? Xin các vị nhớ cho rằng tôi là anh em ruột thịt của các vị.”3 Bà con bên ngoại dùng chính những lời đó nói về A-vi-me-léc cho toàn thể thân hào Si-khem nghe, và lòng họ nghiêng về A-vi-me-léc, vì họ nói: “Ông ấy là bà con của chúng ta.”4 Vậy họ trao cho ông bảy mươi se-ken bạc, lấy của đền Ba-an Bơ-rít, A-vi-me-léc dùng tiền ấy thuê những đứa vô lại cùng bọn du đãng, và chúng theo ông.5 Thế là ông đến nhà cha mình tại Óp-ra, hạ sát các anh em, tức là bảy mươi người con của ông Giơ-rúp-ba-an, trên cùng một tảng đá; chỉ sót có Giô-tham, con út của ông Giơ-rúp-ba-an, vì anh ta lẩn trốn được.6 Bấy giờ tất cả thân hào Si-khem cùng toàn dân Bết Mi-lô họp lại, kéo đến tôn A-vi-me-léc lên làm vua, bên cạnh cây sồi trước bia đá ở Si-khem.

Ngụ ngôn của ông Giô-tham

7 Khi người ta báo tin ấy cho ông Giô-tham, ông liền lên đứng trên đỉnh núi Gơ-ri-dim, cất tiếng gọi và nói với những người kia rằng: “Hỡi các thân hào Si-khem! Hãy nghe tôi đây, thì Thiên Chúa cũng sẽ nghe các người.

8 Cây cối đã lên đường đi xức dầu phong một vua cai trị chúng. Chúng nói với cây ô-liu: “Hãy làm vua cai trị chúng tôi!

9 Nhưng cây ô-liu nói với chúng: “Chẳng lẽ tôi lại từ bỏ dầu của tôi là thứ đã từng làm cho thần minh và người đời được tôn trọng, mà đi đu đưa trên cây cối hay sao?

10 Cây cối liền nói với cây vả: “Hãy đến làm vua cai trị chúng tôi!

11 Nhưng cây vả bảo chúng: “Chẳng lẽ tôi lại từ bỏ vị ngọt và trái ngon của tôi mà đi đu đưa trên cây cối hay sao?

12 Bấy giờ cây cối nói với cây nho: “Hãy đến làm vua cai trị chúng tôi!

13 Nhưng cây nho bảo chúng: “Chẳng lẽ tôi lại từ bỏ rượu của tôi là thứ đã từng làm cho thần minh và người đời phấn khởi, mà đi đu đưa trên cây cối hay sao?

14 Tất cả cây cối liền nói với bụi gai: “Hãy đến làm vua cai trị chúng tôi!

15 Bụi gai trả lời cây cối: “Nếu quả thật các ngươi xức dầu phong ta làm vua cai trị các ngươi, thì hãy tới nương náu dưới bóng ta; bằng không, lửa sẽ bốc ra từ bụi gai và sẽ thiêu rụi các cây bá hương Li-băng!

16 Các người có đối xử thành thật và trọn đạo khi tôn A-vi-me-léc lên làm vua không? Các người có đối xử tốt với ông Giơ-rúp-ba-an và nhà ông ấy không? Có đối xử với ông xứng với công lao của ông không?17 Cha tôi đã chiến đấu vì các người, đã liều mạng để giải thoát các người khỏi tay quân Ma-đi-an.18 Thế mà ngày nay các người lại phản bội nhà cha tôi, tàn sát con cái ông, tất cả bảy mươi người trên cùng một tảng đá, rồi đặt đứa con người tỳ thiếp của ông là A-vi-me-léc lên làm vua cai trị các thân hào Si-khem, vì y là bà con của các người.19 Vậy, nếu ngày hôm nay các người đã đối xử thành thật và trọn đạo với ông Giơ-rúp-ba-an và nhà ông, thì cứ việc vui vì A-vi-me-léc, và mong sao y cũng được vui vì các người.20 Bằng không, thì xin cho một ngọn lửa phát ra từ A-vi-me-léc để thiêu huỷ các thân hào Si-khem cùng với dân Bết Mi-lô, và xin cho một ngọn lửa phát ra từ các thân hào Si-khem và dân Bết Mi-lô để thiêu huỷ A-vi-me-léc nữa! “21 Rồi ông Giô-tham chạy về phía Bơ-e và trú ngụ tại đây, vì sợ A-vi-me-léc, người anh em của ông.

Si-khem phản loạn chống A-vi-me-léc

22 A-vi-me-léc cầm quyền cai trị Ít-ra-en ba năm.23 Rồi Thiên Chúa gây một thần khí bất hoà giữa A-vi-me-léc và các thân hào Si-khem, khiến các thân hào Si-khem phản lại A-vi-me-léc.24 Như vậy là để báo phục tội giết bảy mươi người con ông Giơ-rúp-ba-an, và để làm cho máu họ đổ xuống trên A-vi-me-léc, người anh em đã giết họ, và đổ xuống trên các thân hào Si-khem, những người đã tiếp tay với y, để y giết anh em mình.25 Các thân hào Si-khem đã đặt những ổ mai phục trên các ngọn núi, để cướp bóc tất cả những người đi ngang qua đó. Người ta báo tin ấy cho A-vi-me-léc biết.

26 Bấy giờ ông Ga-an, con ông E-vét, cùng đi với anh em ông, và họ qua Si-khem; các thân hào Si-khem tín nhiệm ông.27 Họ ra vườn hái nho, rồi đạp ép và tổ chức vui chơi. Họ vào đền các thần minh của họ, ăn uống và nguyền rủa A-vi-me-léc.28 Ông Ga-an, con ông E-vét nói: “A-vi-me-léc là ai, và Si-khem là ai mà chúng ta làm tôi nó? Nó chẳng phải là con Giơ-rúp-ba-an, và đại diện của nó chẳng phải là Dơ-vun sao? Các người hãy làm tôi con cái Kha-mo, cha của Si-khem; còn chúng tôi, việc gì chúng tôi phải làm tôi nó?29 Ai sẽ trao dân này vào tay tôi, để tôi loại trừ A-vi-me-léc? Và tôi nói với nó: “Hãy tăng thêm quân của mi và ra đây! “

30 Ông Dơ-vun, tổng trấn thành, nghe những lời ông Ga-an, con ông E-vét nói, thì nổi giận.31 Ông lập mưu sai sứ đến nói với A-vi-me-léc rằng: “Này, Ga-an, con của E-vét, và anh em y đã đến Si-khem và đang khích động thành này chống lại ông.32 Vậy, đang đêm ông hãy trỗi dậy, và cùng với quân lính của ông mai phục ngoài đồng.33 Rồi sáng sớm, lúc rạng đông, hãy mau lẹ tấn công thành. Khi y và đám người cùng đi với y ra đón ông, thì gặp chúng đâu ông hãy đánh đó.”

34 Đang đêm, A-vi-me-léc cùng với quân lính của ông chỗi dậy, chia thành bốn nhóm mai phục gần Si-khem.35 Ông Ga-an, con ông E-vét, đi ra và dừng lại ở lối vào cổng thành. A-vi-me-léc cùng với quân lính của ông từ chỗ mai phục chỗi dậy.36 Ông Ga-an thấy đám dân thì nói với ông Dơ-vun: “Đây là đám dân từ các đỉnh núi xuống.” Nhưng ông Dơ-vun nói: “Đó là bóng núi mà ông lại trông ra như người ta.”37 Ông Ga-an còn lên tiếng nói: “Đây là những người từ rốn đất mà xuống, còn nhóm kia thì từ con đường Cây Sồi Các Thầy Bói mà đến.”38 Bấy giờ ông Dơ-vun nói với ông: “Đâu rồi cái miệng ngươi từng nói: A-vi-me-léc là ai mà chúng ta làm tôi nó? Đây chẳng phải là đám dân ngươi đã khinh dể sao? Bây giờ ngươi hãy đi ra mà giao chiến với nó.”39 Ông Ga-an đi ra, dẫn đầu các thân hào Si-khem, giao chiến với A-vi-me-léc.40 Nhưng A-vi-me-léc đuổi đánh ông, và ông Ga-an phải trốn chạy. Nhiều người gục chết trước khi tới được lối vào cổng.41 Sau đó A-vi-me-léc cư ngụ ở A-ru-ma; còn ông Dơ-vun thì trục xuất ông Ga-an và anh em ông, không cho ở Si-khem nữa.

Triệt hạ thành và tháp Si-khem

42 Hôm sau đám người kia đi ra cánh đồng, và người ta báo cho A-vi-me-léc biết.43 Ông lấy dân của mình chia thành ba nhóm và sắp xếp một cuộc mai phục ngoài đồng. Ông nhìn, và này đám người kia đi ra khỏi thành; ông chỗi dậy tiến đánh chúng tơi bời.44 A-vi-me-léc cùng với quân lính của ông ập tới chặn lối vào cổng thành, còn hai nhóm kia thì ập tới tất cả những kẻ ở ngoài đồng và đánh chúng tơi bời.45 Suốt ngày hôm ấy A-vi-me-léc tấn công thành. Ông đã chiếm được thành và tàn sát tất cả dân cư, rồi triệt hạ và rắc muối lên thành.46 Nghe tin đó, các thân hào Mích-đan Si-khem liền xuống hầm đền thờ En Bơ-rít.47 Người ta báo tin cho A-vi-me-léc biết là tất cả thân hào Mích-đan Si-khem đã họp nhau lại.48 Bấy giờ A-vi-me-léc lên núi Xan-môn cùng với tất cả quân lính của ông. Ông cầm rìu chặt một cành cây, giơ lên, rồi đặt xuống vai mình, và nói với quân lính của ông: “Các anh thấy tôi làm gì, thì cứ làm như tôi, mau lên! “49 Mọi người đều chặt, mỗi người một cành cây. Họ đi theo A-vi-me-léc, đặt cành cây trên hầm, rồi nổi lửa đốt hầm, làm cho mọi người ở Mích-đan Si-khem chết hết, khoảng chừng một ngàn người, cả đàn ông lẫn đàn bà.

A-vi-me-léc tấn công Tê-vết và bị tử trận

50 Sau đó A-vi-me-léc đi đến Tê-vết, đóng trại đối diện với Tê-vết và chiếm thành ấy.51 Có một ngọn tháp kiên cố ở giữa thành và tất cả đàn ông, đàn bà cùng toàn thể các thân hào trong thành đều trốn vào tháp ấy; họ ẩn náu bên trong và leo lên lầu của ngọn tháp.52 A-vi-me-léc đi tới và tấn công tháp; ông đến sát lối vào tháp để châm lửa đốt.53 Bấy giờ một người đàn bà liệng một phiến đá cối xuống đầu A-vi-me-léc làm ông bể sọ.54 Ông liền gọi chàng thanh niên cận vệ của mình và bảo: “Hãy tuốt gươm giết ta đi, kẻo người ta lại nói về ta rằng: Một người đàn bà đã giết hắn.” Người cận vệ đâm ông, và ông đã chết.55 Người Ít-ra-en thấy A-vi-me-léc đã chết thì bỏ đi, ai nấy về nhà mình.

56 Thế là Thiên Chúa đã báo oán A-vi-me-léc vì sự dữ ông đã gây cho thân phụ mình là giết bảy mươi người anh em.57 Và Thiên Chúa đã báo oán những người Si-khem vì tất cả sự dữ họ đã gây ra. Như thế là đã ứng nghiệm nơi họ lời chúc dữ của Giô-tham, con ông Giơ-rúp-ba-an.

ÔNG GÍP-TÁC VÀ CÁC THỦ LÃNH NHỎ

6. ÔNG TÔ-LA

10.  1 Sau A-vi-me-léc, có ông Tô-la con ông Pu-a, cháu ông Đô-đô, người Ít-xa-kha, đã xuất hiện để cứu Ít-ra-en. Ông cư ngụ tại Sa-mia, vùng núi Ép-ra-im.2 Ông làm thủ lãnh Ít-ra-en được hai mươi ba năm, thì qua đời và được chôn cất tại Sa-mia.

7. ÔNG GIA-IA

3 Sau ông Tô-la, thì có ông Gia-ia, người Ga-la-át, xuất hiện, làm thủ lãnh Ít-ra-en hai mươi hai năm.4 Ông có ba mươi người con, cỡi ba mươi con lừa và coi ba mươi thành, mà người ta đặt tên là Kha-vốt Gia-ia; những thành đó còn cho tới ngày nay trong đất Ga-la-át.

5 Rồi ông Gia-ia qua đời và được chôn cất tại Ca-môn.

8. ÔNG GÍP-TÁC

Ít-ra-en bị người Am-mon đàn áp

6 Con cái Ít-ra-en lại làm điều dữ trái mắt ĐỨC CHÚA và làm tôi các thần Ba-an và Át-tô-rét, các thần của người A-ram, các thần của người Xi-đôn, các thần của người Mô-áp, các thần của con cái Am-mon và các thần của người Phi-li-tinh; họ đã lìa bỏ ĐỨC CHÚA và không làm tôi Người nữa.7 ĐỨC CHÚA nổi cơn thịnh nộ với Ít-ra-en và đã trao họ vào tay người Phi-li-tinh và vào tay con cái Am-mon.8 Trong thời ấy, suốt mười tám năm, chúng hành hạ và áp bức con cái Ít-ra-en, tức là toàn thể con cái Ít-ra-en ở bên kia sông Gio-đan, trong đất người E-mô-ri tại Ga-la-át.9 Con cái Am-mon vượt sông Gio-đan để giao chiến với cả Giu-đa, Ben-gia-min và nhà Ép-ra-im nữa, khiến Ít-ra-en phải lâm cảnh khốn cùng.10 Bấy giờ con cái Ít-ra-en mới kêu lên ĐỨC CHÚA rằng: “Chúng con đã xúc phạm đến Ngài, bởi vì chúng con đã lìa bỏ Thiên Chúa của chúng con mà làm tôi các Ba-an.”11 ĐỨC CHÚA phán với con cái Ít-ra-en: “Khi người Ai-cập, người E-mô-ri, con cái Am-mon, người Phi-li-tinh,12 người Xi-đôn, người A-ma-lếch và người Ma-đi-an áp bức các ngươi, và các ngươi kêu lên Ta, thì Ta đã chẳng cứu các ngươi khỏi tay chúng sao?13 Nhưng các ngươi đã lìa bỏ Ta và làm tôi các thần khác; vì thế, Ta sẽ không cứu các ngươi nữa.14 Đi mà kêu lên các thần các ngươi đã chọn; chúng sẽ cứu các ngươi lúc các ngươi bị cơ cực! “15 Con cái Ít-ra-en mới thưa cùng ĐỨC CHÚA: “Chúng con đã phạm tội. Xin Ngài cứ xử với chúng con sao cho đẹp mắt Ngài; nhưng hôm nay xin cứu chúng con.”16 Họ cất bỏ, không giữ lại những thần ngoại bang nữa, và họ làm tôi ĐỨC CHÚA, vì thế Người không dằn lòng được trước sự đau khổ của Ít-ra-en.

17 Con cái Am-mon tập họp lại và đóng trại ở Ga-la-át. Con cái Ít-ra-en cũng hội lại và đóng trại ở Mít-pa.18 Dân chúng và các thủ lãnh Ga-la-át nói với nhau: “Ai là người sẽ xung phong giao chiến với con cái Am-mon? Người ấy sẽ đứng đầu toàn thể dân cư Ga-la-át.”

Ông Gíp-tác đặt điều kiện

11.  1 Ông Gíp-tác, người Ga-la-át, bấy giờ là một dũng sĩ. Ông là con của một gái điếm. Ông Ga-la-át sinh ra Gíp-tác.2 Nhưng vợ ông Ga-la-át cũng sinh cho ông những người con khác nữa. Các người con của bà này khi lớn lên đã đuổi Gíp-tác đi, và nói với ông: “Mày không có phần gia nghiệp trong nhà của cha chúng tao, vì mày là con của một mụ khác.”3 Ông Gíp-tác liền bỏ trốn, không ở với các anh nữa. Ông cư ngụ tại đất Tốp; những đứa vô lại kết đảng với ông Gíp-tác và cùng với ông tung hoành.

4 Sau đó một thời gian, con cái Am-mon giao chiến với Ít-ra-en.5 Và khi con cái Am-mon giao chiến với Ít-ra-en, thì các kỳ mục Ga-la-át đi tìm ông Gíp-tác ở đất Tốp.6 Họ nói với ông Gíp-tác: “Xin ông đến chỉ huy chúng tôi giao chiến với con cái Am-mon.”7 Ông Gíp-tác trả lời các kỳ mục Ga-la-át: “Nào chẳng phải chính các ông đã ghét tôi và đuổi tôi ra khỏi nhà cha tôi sao? Vì cớ gì bây giờ các ông lại đến với tôi, lúc các ông lâm cảnh khốn cùng? “8 Các kỳ mục Ga-la-át nói với ông Gíp-tác: “Ấy vậy bây giờ chúng tôi mới phải quay về với ông; xin ông đến với chúng tôi, ông sẽ giao chiến với con cái Am-mon, sẽ thành người lãnh đạo chúng tôi, tức là toàn thể dân cư Ga-la-át.”9 Ông Gíp-tác nói với các kỳ mục Ga-la-át: “Nếu các ông đưa tôi về để giao chiến với con cái Am-mon, và ĐỨC CHÚA trao chúng vào tay tôi, thì tôi sẽ là người lãnh đạo các ông.”10 Các kỳ mục Ga-la-át nói với ông Gíp-tác: “Xin ĐỨC CHÚA chứng giám cho chúng ta, nếu chúng tôi không làm như lời ông nói.”11 Rồi ông Gíp-tác cùng đi với các kỳ mục Ga-la-át, và dân đã đặt ông làm người lãnh đạo và chỉ huy họ; ông Gíp-tác lặp lại tất cả các lời ông đã nói, trước nhan ĐỨC CHÚA tại Mít-pa.

Ông Gíp-tác điều đình với con cái Am-mon

12 Ông Gíp-tác sai sứ giả đến nói với vua dân Am-mon rằng: “Giữa tôi với ông có chuyện gì mà ông lại đến chống tôi, để giao chiến với xứ sở tôi? ” Vua dân Am-mon nói với các sứ giả của ông Gíp-tác: “Tại sao, khi lên khỏi Ai-cập, Ít-ra-en lại chiếm đất của ta, từ Ác-nôn cho tới Giáp-bốc và tới sông Gio-đan? Bây giờ muốn yên thì trả lại đi! ” 14 Ông Gíp-tác lại sai sứ giả đến với vua dân Am-mon lần nữa 15 và thưa: “Ông Gíp-tác nói thế này: Ít-ra-en không chiếm đất của Mô-áp cũng như đất của con cái Am-mon, 16 vì khi đi lên khỏi Ai-cập, Ít-ra-en đã đi con đường sa mạc tới Biển Sậy và đã đến Ca-đê. 17 Bấy giờ Ít-ra-en sai sứ giả đến thưa với vua Ê-đôm rằng: Xin cho phép tôi đi qua đất của ngài. Nhưng vua Ê-đôm không nghe. Ít-ra-en cũng sai người đến với vua Mô-áp, nhưng ông này cũng chẳng nghe; Ít-ra-en đành lưu lại Ca-đê. 18 Sau đó, họ đã theo con đường sa mạc đi bọc xứ Ê-đôm và Mô-áp, tới phía đông đất Mô-áp, và đóng trại bên kia Ác-nôn, nhưng không vào biên giới Mô-áp vì Ác-nôn là biên giới Mô-áp. 19 Rồi Ít-ra-en sai sứ giả đến gặp ông Xi-khôn, vua dân E-mô-ri, trị vì tại Khét-bôn và thưa với ông: Xin cho phép tôi đi qua đất của ngài để tới nơi tôi phải đến. 20 Thế nhưng ông Xi-khôn đã không tin mà cho Ít-ra-en đi qua biên giới của ông; ông Xi-khôn lại còn triệu tập toàn dân, đóng trại tại Gia-hát và giao chiến với Ít-ra-en. 21 Và ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của Ít-ra-en, đã trao ông Xi-khôn và toàn dân của ông vào tay Ít-ra-en, và Ít-ra-en đã đánh chúng tơi bời. Rồi Ít-ra-en chiếm hết đất của dân E-mô-ri cư ngụ trên đất ấy. 22 Họ cũng chiếm tất cả các biên giới của người E-mô-ri từ Ác-nôn tới Giáp-bốc, và từ sa mạc tới sông Gio-đan. 23 Bây giờ ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của Ít-ra-en đã trục xuất người E-mô-ri khỏi Ít-ra-en dân của Người, thì liệu ông có trục xuất được nó không? 24 Cái mà thần Cơ-mốt của ông, ban cho ông làm sở hữu, ông lại không chiếm hữu sao? Cũng thế, tất cả những gì ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của chúng tôi đã truất hữu của những dân sở hữu, trước mặt chúng tôi, thì chúng tôi chiếm hữu. 25 Nay liệu ông có hơn gì ông Ba-lác, con ông Xíp-po, vua Mô-áp không? Ông ta có tranh chấp nổi với Ít-ra-en, hay là đánh bại được nó không? 26 Khi Ít-ra-en định cư tại Khét-bôn và các thị trấn phụ thuộc, tại A-rô-e và các thị trấn phụ thuộc, tại tất cả các thành nằm trên các nhánh của Ác-nôn đã ba trăm năm, thì tại sao lúc bấy giờ các người không chiếm lại? 27 Tôi đã không xúc phạm đến ông, còn ông đã xử tệ với tôi là giao chiến với tôi. Xin ĐỨC CHÚA, Đấng phán xét, hôm nay phân xử giữa con cái Ít-ra-en và con cái Am-mon.” 28 Nhưng vua dân Am-mon không nghe những lời ông Gíp-tác sai người nói với vua.

Ông Gíp-tác khấn và thắng trận

29 Thần khí của ĐỨC CHÚA ở trên ông Gíp-tác và ông đã sang Ga-la-át và Mơ-na-se, rồi qua Mít-pa Ga-la-át, và từ Mít-pa Ga-la-át ông qua đánh con cái Am-mon.30 Ông Gíp-tác khấn hứa với ĐỨC CHÚA rằng: “Nếu Ngài trao con cái Am-mon vào tay con,31 thì -khi con đã thắng con cái Am-mon mà trở về bình an- hễ người nào ra khỏi cửa nhà con để đón con, người đó sẽ thuộc về ĐỨC CHÚA, và con sẽ dâng nó làm lễ toàn thiêu.”32 Ông Gíp-tác qua bên con cái Am-mon để giao chiến với chúng, và ĐỨC CHÚA đã trao chúng vào tay ông.33 Ông đánh chúng tơi bời từ A-rô-e cho tới gần Min-nít, tất cả là hai mươi thành, và cho tới A-vên Cơ-ra-mim. Thật là một cuộc đại bại: con cái Am-mon bị hạ nhục trước mặt con cái Ít-ra-en.

34 Khi ông Gíp-tác trở về Mít-pa, về nhà ông, thì này con gái ông ra đón ông, vừa đánh trống vừa nhảy múa. Cô là con gái độc nhất của ông: ngoài cô ra, ông không có con trai con gái nào khác.35 Thoạt nhìn thấy cô, ông liền xé áo và nói: “Ôi, con gái của cha, thật con làm khổ cha rồi! Chính con lại ở trong số những kẻ gây bất hạnh cho cha! Cha đã trót mở miệng khấn hứa cùng ĐỨC CHÚA và không thể rút lại được.”36 Cô thưa với ông: “Thưa cha, cha đã trót mở miệng khấn hứa cùng ĐỨC CHÚA, thì cha cứ thi hành cho con như lời cha đã khấn hứa, vì ĐỨC CHÚA đã cho cha trả thù được con cái Am-mon, kẻ thù của cha.”37 Cô lại nói với cha: “Xin cha cho con điều này là hoãn cho con hai tháng để con đi lang thang trên các núi đồi, mà khóc cho đời con gái của con cùng với các bạn con.”38 Ông nói: “Con cứ đi”, và ông để cho cô đi hai tháng. Cô ra đi cùng với các bạn, khóc cho đời con gái của cô trên các núi đồi.39 Hết hai tháng, cô trở về với cha, và ông thi hành cho cô lời ông đã khấn hứa. Cô chưa biết đến việc vợ chồng. Và đã thành mọi tục lệ trong Ít-ra-en, là40 hằng năm các cô gái Ít-ra-en đi khóc thương con gái ông Gíp-tác, người Ga-la-át, mỗi năm bốn ngày.

Chiến tranh giữa Ép-ra-im và Ga-la-át.  Ông Gíp-tác qua đời.

12.  1 Người Ép-ra-im tập hợp lại, vượt sông tới Xa-phôn và nói với ông Gíp-tác: “Tại sao ông vượt sông đánh con cái Am-mon, mà lại không gọi chúng tôi cùng đi? Chúng tôi sẽ nổi lửa đốt nhà ông cho ông chết luôn! “2 Ông Gíp-tác nói với họ: “Tôi và dân tôi phải tranh chấp ác liệt với con cái Am-mon. Tôi đã cầu cứu các người, mà các người đã chẳng cứu tôi khỏi tay chúng.3 Tôi thấy không ai cứu, nên đã liều mạng vượt sông đánh con cái Am-mon, và ĐỨC CHÚA đã trao tay chúng vào tay tôi. Vậy tại sao hôm nay các người lại lên gây chiến với tôi? “4 Ông Gíp-tác tập hợp tất cả các người Ga-la-át và giao chiến với Ép-ra-im. Người Ga-la-át đánh Ép-ra-im tơi bời, vì Ép-ra-im đã nói: “Này quân Ga-la-át! Tụi bay chỉ là người Ép-ra-im đào thoát, ăn bám cả Ép-ra-im lẫn Mơ-na-se.”5 Ga-la-át chiếm giữ các khúc cạn trên sông Gio-đan, nơi Ép-ra-im có thể qua. Khi có người Ép-ra-im đào thoát nói: “Cho tôi qua”, thì những người Ga-la-át hỏi: “Anh có phải là người Ép-ra-im không? ” Nếu hắn đáp: “Không”,6 thì họ bảo: “Hãy nói: Síp-bô-lét.” Nếu hắn nói: “Xíp-bô-lét”, vì hắn không nói đúng được, thì bấy giờ họ bắt lấy hắn mà giết, gần khúc cạn trên sông Gio-đan. Thời gian đó, bốn mươi hai ngàn người Ép-ra-im đã ngã gục.

7 Ông Gíp-tác làm thủ lãnh Ít-ra-en sáu năm, rồi ông Gíp-tác, người Ga-la-át, qua đời và được chôn cất trong thành của mình, ở Ga-la-át.

9. ÔNG ÍP-XAN

8 Sau ông Gíp-tác, thì có ông Íp-xan, người Bê-lem, làm thủ lãnh Ít-ra-en.9 Ông có ba mươi người con trai và ba mươi người con gái. Ông gả các cô cho người ngoại bang, và hỏi ba mươi người vợ cho các con trai ông, cũng người ngoại bang. Ông làm thủ lãnh Ít-ra-en bảy năm.10 Rồi ông Íp-xan qua đời và được chôn cất tại Bê-lem.

10. ÔNG Ê-LÔN

11 Sau ông Íp-xan, thì có ông Ê-lôn, người Dơ-vu-lun, làm thủ lãnh Ít-ra-en. Ông làm thủ lãnh mười năm.12 Rồi ông Ê-lôn, người Dơ-vu-lun, qua đời và được chôn cất tại Ai-gia-lôn, trong đất Dơ-vu-lun.

11. ÔNG ÁP-ĐÔN

13 Sau ông Ê-lôn, thì có ông Áp-đôn, con ông Hi-lên, người Pia-a-thôn, làm thủ lãnh Ít-ra-en.14 Ông có bốn mươi con trai và ba mươi cháu trai, cỡi bảy mươi con lừa. Ông làm thủ lãnh Ít-ra-en tám năm.15 Rồi ông Áp-đôn, con ông Hi-lên, người Pia-a-thôn, qua đời và được chôn cất tại Pia-a-thôn, trong đất Ép-ra-im, trên núi của người A-ma-lếch.

12. ÔNG SAM-SÔN

Truyền tin ông Sam-sôn ra đời

13.  1 Con cái Ít-ra-en lại làm sự dữ trái mắt ĐỨC CHÚA, và ĐỨC CHÚA đã trao họ vào tay người Phi-li-tinh bốn mươi năm.

2 Có một người đàn ông ở Xo-rơ-a, thuộc chi tộc Đan, tên là Ma-nô-ác. Vợ ông son sẻ và không sinh con.3 Sứ giả của ĐỨC CHÚA hiện ra với người vợ và nói với bà: “Này, bà là người son sẻ và không sinh con, nhưng bà sẽ có thai và sinh một con trai.4 Vậy bây giờ phải kiêng cữ: đừng uống rượu và thức có men, cũng đừng ăn mọi thứ không thanh sạch.5 Vì này bà sẽ có thai và sinh một con trai. Dao cạo sẽ không được lướt trên đầu nó, vì con trẻ sẽ là một na-dia của Thiên Chúa từ lòng mẹ. Chính nó sẽ bắt đầu cứu Ít-ra-en khỏi tay người Phi-li-tinh.”6 Bà đi vào và nói với chồng rằng: “Một người của Thiên Chúa đã đến gặp tôi; hình dáng của người như hình dáng một sứ giả của Thiên Chúa, rất đáng sợ. Tôi đã không dám hỏi người từ đâu tới; và danh tánh người, người cũng không tiết lộ cho tôi.7 Nhưng người nói với tôi: “Này bà sẽ có thai và sẽ sinh một con trai; bây giờ bà phải kiêng cữ: đừng uống rượu và thức có men, cũng đừng ăn mọi thứ không thanh sạch, vì con trẻ ấy sẽ là một na-dia của Thiên Chúa, từ lòng mẹ cho đến ngày nó chết.”

Thiên sứ hiện ra lần thứ hai

8 Ông Ma-nô-ác khẩn cầu ĐỨC CHÚA, ông nói: “Thưa Ngài, xin vui lòng cho người của Thiên Chúa mà Ngài đã sai, đến với chúng con một lần nữa, và dạy chúng con phải làm gì cho đứa trẻ sẽ sinh ra.”9 Thiên Chúa nghe tiếng ông Ma-nô-ác, và sứ giả của ĐỨC CHÚA lại đến gặp vợ ông, lúc bà đang ở ngoài đồng, khi ông Ma-nô-ác, chồng bà, không có mặt ở đó.10 Bà vội vã chạy đi báo cho chồng, và nói với ông: “Này người đã gặp tôi hôm trước, lại hiện ra với tôi nữa.”11 Ông Ma-nô-ác đứng dậy đi theo vợ, đến gặp người kia và nói: “Ngài có phải là người đã nói với bà này không? ” Người ấy đáp: “Chính tôi.”12 Ông Ma-nô-ác nói: “Khi xảy ra như ngài nói, thì đứa bé phải giữ luật nào, và nó phải làm gì? “13 Sứ giả của ĐỨC CHÚA nói với ông Ma-nô-ác: “Tất cả những điều tôi đã nói với bà ấy thì bà ấy phải giữ.14 Tất cả những gì bởi cây nho mà ra, thì bà không được ăn, cũng không được uống rượu và thức có men; tất cả những gì không thanh sạch, thì bà không được ăn. Mọi điều tôi đã truyền, thì bà phải tuân giữ.”15 Ông Ma-nô-ác thưa với sứ giả của ĐỨC CHÚA: “Xin cho phép chúng tôi giữ ngài lại và dọn hầu ngài một con dê tơ! “16 Sứ giả của ĐỨC CHÚA nói với ông Ma-nô-ác: “Ông có giữ tôi lại, tôi cũng chẳng ăn bánh của ông; nhưng nếu ông dọn lễ toàn thiêu kính ĐỨC CHÚA, thì ông hãy dâng lên Người đi”, vì ông Ma-nô-ác không biết người ấy là sứ giả của ĐỨC CHÚA.17 Bấy giờ ông Ma-nô-ác nói với sứ giả của ĐỨC CHÚA: “Xin ngài cho biết quý danh, để khi xảy ra như ngài nói, chúng tôi sẽ trọng đãi ngài! “18 Sứ giả của ĐỨC CHÚA nói với ông: “Sao ông lại hỏi tên tôi? Đó là một điều bí nhiệm.”19 Bấy giờ ông Ma-nô-ác bắt một con dê tơ và lấy tế phẩm, để dâng làm lễ toàn thiêu trên tảng đá kính ĐỨC CHÚA, Đấng đã thực hiện những kỳ công, rồi ông Ma-nô-ác và bà vợ đứng nhìn.20 Khi ngọn lửa từ bàn thờ bốc lên trời, thì sứ giả của ĐỨC CHÚA cũng lên theo trong ngọn lửa của bàn thờ, trước sự chứng kiến của ông Ma-nô-ác và vợ ông; họ phục lạy sát đất.21 Sứ giả của ĐỨC CHÚA không hiện ra với ông Ma-nô-ác và vợ ông nữa. Bấy giờ ông Ma-nô-ác mới biết vị đó chính là sứ giả của ĐỨC CHÚA.22 Ông Ma-nô-ác liền nói với vợ: “Chúng ta chết mất thôi, vì đã thấy Thiên Chúa.”23 Nhưng vợ ông nói với ông: “Nếu ĐỨC CHÚA có ý định giết chúng ta, thì Người đã chẳng nhận lễ toàn thiêu và tế phẩm từ tay chúng ta, đã chẳng cho chúng ta thấy tất cả những điều ấy, và mới đây đã chẳng cho chúng ta nghe một điều như thế.”24 Bà sinh được một con trai và đặt tên là Sam-sôn. Đứa bé lớn lên, và ĐỨC CHÚA chúc lành cho nó.25 Thần khí ĐỨC CHÚA bắt đầu tác động trên Sam-sôn tại Trại Đan giữa Xo-rơ-a và Ét-ta-ôn.

Ông Sam-sôn kết hôn

14.  1 Ông Sam-sôn xuống Tim-na và để ý đến một phụ nữ trong số các con gái của người Phi-li-tinh tại Tim-na.2 Ông trở lên và báo cho cha mẹ rằng: “Con đã để ý đến một phụ nữ trong số con gái của người Phi-li-tinh tại Tim-na. Vậy xin cha mẹ cưới cô ấy cho con.”3 Cha ông cũng như mẹ ông nói: “Trong số con gái của bà con mày và trong tất cả dân tao, không có phụ nữ hay sao mà mày lại đi lấy vợ trong đám người Phi-li-tinh không cắt bì ấy? ” Nhưng ông Sam-sôn trả lời cha: “Xin cha cứ cưới cô ấy cho con, vì nàng vừa mắt con.”4 Cha mẹ ông không biết rằng việc đó là do ĐỨC CHÚA xui khiến, bởi lẽ Người đang tìm cớ cho người Phi-li-tinh gây chuyện, vì thời ấy người Phi-li-tinh đang đô hộ Ít-ra-en.

5 Ông Sam-sôn xuống Tim-na, và khi ông tới các vườn nho ở Tim-na, thì này một con sư tử con rống lên và chồm ra phía ông.6 Bấy giờ thần khí của ĐỨC CHÚA ập xuống trên ông; ông dùng tay không xé nó ra như xé một con dê con; nhưng ông không cho cha mẹ hay việc ông đã làm.7 Sau đó ông xuống chuyện trò với người phụ nữ và nàng vừa mắt Sam-sôn.8 Ít lâu sau, ông trở lại cưới nàng. Ông rẽ qua để xem xác chết con sư tử, thì này có một đàn ong đậu trong bộ xương con sư tử và cả mật nữa.9 Ông móc ra và cầm trong tay, vừa đi vừa ăn. Rồi khi về nhà, ông biếu cha mẹ và cha mẹ ông cũng ăn. Nhưng ông không cho cha mẹ biết là ông đã móc mật ong từ bộ xương con sư tử.10 Sau đó cha ông đã xuống gặp người phụ nữ và tại đó ông Sam-sôn làm một bữa tiệc, vì các trai tráng vẫn làm như thế.11 Khi thấy ông, người ta đã cử ba mươi người trong số bạn hữu để ở với ông.

Ông Sam-sôn ra câu đố

12 Ông Sam-sôn nói với họ: “Tôi ra cho các anh một câu đố. Nếu trong bảy ngày tiệc, các anh giải được câu đố ấy và tìm ra câu đáp, thì tôi sẽ tặng các anh ba mươi chiếc áo lụa quý và ba mươi chiếc khác để thay.13 Nếu các anh không giải được, thì các anh phải cho tôi ba mươi chiếc áo lụa quý và ba mươi chiếc khác để thay.” Họ nói với ông: “Anh ra câu đố đi; chúng tôi nghe đây! “14 Ông liền nói với họ:
“Thức ăn xuất tự người dùng,
ngọt ngào xuất tự sức hùng, là chi? “
Nhưng sau ba ngày họ vẫn không giải được câu đố.

15 Ngày thứ tư họ nói với vợ ông Sam-sôn: “Hãy dụ chồng chị để anh ấy giải nghĩa câu đố cho chúng tôi, nếu không, chúng tôi sẽ nổi lửa đốt cả chị lẫn nhà cha chị. Có phải để bóc lột chúng tôi mà các người đã mời chúng tôi tới đây hay không? “16 Vợ ông Sam-sôn khóc tỉ tê bên ông. Nàng nói: “Anh chỉ có ghét em thôi, chẳng yêu em chút nào. Anh ra câu đố cho đồng bào em, mà lại không giải cho em.” Ông nói với nàng: “Này, cha mẹ anh, anh cũng còn không giải cho, huống chi là em! “17 Nhưng nàng khóc tỉ tê bên ông suốt bảy ngày tiệc. Ngày thứ bảy ông đã giải nghĩa cho nàng, vì nàng quấy rầy ông; và nàng giải câu đố cho đồng bào mình.

18 Ngày thứ bảy, trước khi mặt trời lặn, người trong thành nói với ông:
“Cái gì ngọt quá mật ong,
khoẻ hơn sư tử thì ông chịu hàng! “
Ông bảo họ:
“Không cày với bò cái của ta,
tụi bay đã chẳng tìm ra câu này! “

19 Bấy giờ thần khí của ĐỨC CHÚA ập xuống trên ông; ông liền xuống Át-cơ-lôn và giết ba mươi người trong bọn họ, lột áo của những người ấy, rồi trao những áo để thay cho những kẻ đã giải được câu đố. Ông bừng bừng nổi giận trở về nhà cha ông.20 Còn vợ của ông Sam-sôn, thì được gán cho một người đã làm phù rể cho ông.

Ông Sam-sôn đốt mùa màng của người Phi-li-tinh

15.  1 Ít lâu sau, vào mùa gặt lúa miến, ông Sam-sôn mang một con dê tơ đến thăm vợ. Ông nói: “Tôi muốn vào phòng ngủ của vợ tôi”; nhưng bố vợ không cho ông vào.2 Bố vợ nói: “Thật sự tôi tưởng là anh đã chán ghét nó, nên tôi đã trao nó cho người đã làm phù rể cho anh. Con em nó lại chẳng khá hơn nó sao? Vậy để con em thay cho chị nó đi! “3 Ông Sam-sôn nói với họ: “Lần này thì tôi vô tội đối với người Phi-li-tinh, nếu tôi làm hại chúng.”4 Ông Sam-sôn đi bắt ba trăm con chó sói; lấy đuốc, rồi cột ngược đuôi con này với đuôi con kia và buộc một chiếc đuốc giữa hai đuôi.5 Ông châm lửa vào đuốc và lùa sói vào đồng lúa chín của người Phi-li-tinh, thiêu rụi từ gốc rạ cho đến bông lúa, thiêu cả nho và ô-liu nữa.

6 Người Phi-li-tinh hỏi: “Ai đã làm chuyện này? ” Và người ta đáp: “Đó là Sam-sôn, con rể của ông người Tim-na, vì ông ấy đã đem vợ hắn gán cho người phù rể của hắn.” Những người Phi-li-tinh đi lên, nổi lửa đốt cả nàng lẫn cha nàng.7 Ông Sam-sôn nói với họ: “Vì chúng bay đã làm như thế, thì tao sẽ trả thù cho được mới thôi.”8 Ông đánh cho chúng một trận tơi bời, khiến chúng bị thảm bại. Rồi ông xuống ở trong một hốc đá tại Ê-tham.

Hàm lừa

9 Người Phi-li-tinh lên đóng trại ở Giu-đa và tràn ra tới Lê-khi.

10 Người Giu-đa nói với chúng: “Tại sao các anh lại lên chống chúng tôi? ” Chúng đáp; “Để bắt trói Sam-sôn; chúng tôi lên để xử với hắn như hắn đã xử với chúng tôi”11 Ba ngàn người Giu-đa xuống hốc đá ở Ê-tham, nói với ông Sam-sôn: “Ông không biết là người Phi-li-tinh đang đô hộ chúng ta sao? Ông đã làm gì cho chúng tôi thế? ” Ông trả lời họ: “Chúng xử với tôi làm sao, tôi cũng xử với chúng như vậy! “12 Họ nói: “Chúng tôi xuống bắt trói và nộp ông cho người Phi-li-tinh! ” Ông Sam-sôn nói với họ: “Các anh phải thề với tôi là chính các anh sẽ không đập chết tôi.”13 Họ đáp: “Chúng tôi chỉ bắt trói và nộp ông cho chúng thôi; chứ giết ông thì chúng tôi không giết.” Rồi họ dùng hai chiếc dây thừng mới mà trói ông và xốc ông lên khỏi hốc đá.

14 Ông vào đến Lê-khi, thì người Phi-li-tinh reo hò ra đón ông. Bấy giờ khi thần khí của ĐỨC CHÚA ập xuống trên ông, thì những chiếc dây thừng trên cánh tay ông tựa như những sợi chỉ cháy xèo trong lửa và dây cột tay ông đều tuột xuống.15 Vớ được một hàm lừa còn tươi, ông đưa tay lượm lấy và dùng nó đánh chết một ngàn người.16 Ông Sam-sôn nói:
“Với một hàm lừa ta đã giết chúng từng đống,
với một hàm lừa ta đánh chết cả ngàn tên.”

17 Nói xong ông liệng chiếc hàm khỏi tay, và gọi nơi ấy là Ra-mát Lê-khi.18 Ông khát quá, nên kêu cầu ĐỨC CHÚA rằng: “Ngài là Đấng đã dùng tay tôi tớ Ngài thực hiện cuộc chiến thắng vĩ đại này, mà chẳng lẽ giờ đây con lại phải chết khát và rơi vào tay những kẻ không cắt bì? “19 Bấy giờ Thiên Chúa xẻ khe đá ở Lê-khi, nước liền vọt ra; ông uống, thấy hồi sức và tỉnh táo lại. Bởi thế người ta gọi nơi ấy là Ên Ha-cô-rê; suối ấy vẫn còn ở Lê-khi cho tới ngày nay.20 Ông Sam-sôn làm thủ lãnh Ít-ta-en hai mươi năm trong thời người Phi-li-tinh cai trị.

Chuyện xảy ra ở cổng thành Ga-da

16.  1 Ông Sam-sôn đến Ga-da. Tại đây ông gặp một cô điếm và đi với cô.2 Người ta báo cho những người Ga-da rằng: “Sam-sôn đã tới đây.” Họ liền bao vây và rình ông suốt đêm ấy ở cổng thành. Họ ở yên suốt đêm mà rằng: “Đợi đến tảng sáng, ta sẽ giết hắn.”3 Nhưng ông Sam-sôn nằm ngủ tới nửa đêm, và giữa đêm ông trỗi dậy, nắm lấy cánh cổng thành cùng với hai cây cột, nhổ luôn cả then ngang, rồi vác lên vai, đi trên đỉnh núi đối diện với Khép-rôn.

Ông Sam-sôn bị Đa-li-la phản trắc

4 Sau đó ông phải lòng một phụ nữ tên là Đa-li-la, ở thung lũng Xô-rếch.5 Các vương hầu Phi-li-tinh lên gặp cô ta. Họ nói với nàng: “Cô hãy dụ hắn xem bởi đâu hắn có sức mạnh như thế, và chúng tôi phải dùng cách nào mới trị được hắn, trói làm sao mới khống chế được hắn, rồi mỗi người chúng tôi sẽ cho cô một ngàn mốt bạc.”

6 Đa-li-la nói với ông Sam-sôn: “Nào cho em biết, em xin anh: bởi đâu anh có sức mạnh như thế? Trói làm sao mới khống chế anh được? “7 Ông Sam-sôn đáp: “Nếu trói anh bằng bảy dây cung mới, chưa phơi khô, thì anh sẽ mất sức và trở nên như bất cứ một người nào khác.”8 Các vương hầu Phi-li-tinh đem đến cho nàng bảy dây cung mới chưa phơi khô; nàng dùng các dây ấy trói ông lại,9 đang khi cho người rình sẵn trong phòng. Nàng nói với ông: “Này anh Sam-sôn! Quân Phi-li-tinh đấy! ” Ông liền giật đứt các dây cung như sợi đay đứt khi đụng vào lửa. Thế là sức mạnh của ông không bị tiết lộ.

10 Bấy giờ Đa-li-la nói với ông Sam-sôn: “Anh chỉ xí gạt em thôi, toàn nói xạo không à! Bây giờ hãy cho em biết, em xin anh: phải dùng cái gì mới trói được anh? “11 Ông nói với nàng: “Nếu trói chặt anh bằng những dây thừng mới, chưa dùng vào việc gì, thì anh sẽ mất sức và trở nên như bất cứ một người nào khác.”12 Đa-li-la liền lấy những dây thừng mới, trói ông lại, rồi nói: “Này anh Sam-sôn, quân Phi-li-tinh đấy! ” Đang khi cho người rình sẵn trong phòng. Nhưng ông đã giựt bung các dây thừng đó khỏi cánh tay như giựt một sợi chỉ.

13 Đa-li-la lại nói với ông Sam-sôn: “Đến bây giờ mà anh vẫn còn xí gạt em, toàn nói xạo không à! Hãy cho em biết phải dùng cái gì mới trói được anh! ” Ông nói với nàng: “Nếu em kết tóc trên đầu anh thành bảy bím, rồi cột vào dây thừng của khung dệt, đóng cọc siết cho chặt, thì anh sẽ mất sức và trở nên như bất cứ người nào khác.”14 Vậy nàng làm cho ông ngủ, đoạn kết tóc trên đầu ông thành bảy bím rồi cột vào dây thừng của khung dệt và đóng cọc siết cho chặt. Nàng nói với ông: “Này anh Sam-sôn, quân Phi-li-tinh đấy! ” Ông tỉnh giấc và bứng cả cọc, cả khung dệt, lẫn dây thừng của khung dệt.

15 Nàng lại nói với ông: “Làm sao anh nói là anh yêu em, trong khi anh không thật lòng với em? Đây là lần thứ ba anh xí gạt em và không tỏ cho em biết: bởi đâu anh có sức mạnh như thế? “16 Vì ngày nào nàng cũng dùng hết lời lẽ mà nài ép và làm khổ ông, khiến ông héo hắt đến chết được,17 ông thổ lộ hết tâm can với nàng, và nói: “Dao cạo chưa hề đụng đến đầu anh, vì anh là một na-dia của Thiên Chúa từ lúc còn trong lòng mẹ. Nếu anh bị cạo đầu thì anh sẽ mất sức ngay, trở nên yếu nhược và như mọi người khác.”18 Đa-li-la thấy rằng ông đã thổ lộ hết tâm can với nàng, liền sai người đi gọi các vương hầu Phi-li-tinh và nói: “Lần này các ông hãy lên, vì anh ấy đã thổ lộ hết tâm can với tôi.” Các vương hầu Phi-li-tinh liền lên gặp nàng, mang sẵn bạc trong tay.19 Vậy nàng làm cho ông ngủ trên đầu gối mình, rồi kêu người cạo bảy bím tóc trên đầu ông; nàng bắt đầu khống chế ông, và ông đã mất sức.20 Nàng nói: “Này anh Sam-sôn, quân Phi-li-tinh đấy! ” Ông tỉnh giấc và nói: “Mình sẽ bung ra như mọi lần và lại thoát thôi.” Nhưng ông đâu có biết: ĐỨC CHÚA không còn ở với ông nữa.21 Quân Phi-li-tinh bắt lấy ông, móc mắt và giải ông xuống Ga-da. Chúng chập xích đồng lại, cột ông và bắt ông kéo cối xay trong nhà tù.

Ông Sam-sôn trả thù rồi chết

22 Nhưng rồi từ cái đầu bị cạo trọc, tóc ông lại mọc ra.23 Các vương hầu Phi-li-tinh họp lại để long trọng tế thần Đa-gôn của chúng và ăn mừng. Chúng nói:
“Thần của ta đã trao vào tay ta tên Sam-sôn, kẻ thù của ta.”

24 Khi nhìn thấy ông, dân chúng reo hò tung hô thần của chúng và nói:
“Thần của ta đã trao vào tay ta tên Sam-sôn, kẻ thù của ta,
kẻ tàn phá xứ sở ta, kẻ tăng thêm số tử vong của ta.”

25 Trong khi lòng hả hê, chúng nói: “Hãy gọi Sam-sôn ra làm trò tiêu khiển cho chúng ta! ” Vậy chúng kêu ông Sam-sôn từ nhà tù đến; và ông làm trò tiêu khiển trước mặt chúng. Rồi chúng đặt ông đứng giữa các cột.26 Bấy giờ ông Sam-sôn nói với cậu thiếu niên đang dắt tay ông: “Cậu dẫn tôi đi và cho tôi sờ vào các cột cái chống đỡ toà nhà, để tôi dựa lưng.”27 Toà nhà lúc đó đầy chật đàn ông đàn bà. Tất cả các vương hầu Phi-li-tinh đều ở đó, và trên sân thượng có khoảng ba ngàn đàn ông đàn bà đang coi ông Sam-sôn làm trò tiêu khiển.28 Ông Sam-sôn kêu cầu ĐỨC CHÚA và thưa: “Lạy ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng của con, xin nhớ đến con và ban sức cho con lần này nữa thôi, ôi lạy Thiên Chúa, để chỉ đánh một trận là con trả thù được quân Phi-li-tinh đã móc mắt con.”29 Bấy giờ ông Sam-sôn rờ vào hai chiếc cột ở giữa, là những cột cái chống đỡ toà nhà, và ông tì vào các cột ấy, tay mặt bên này, tay trái bên kia.30 Rồi ông Sam-sôn nói: “Đành chết với bọn Phi-li-tinh vậy! ” Đoạn ông dùng sức đẩy mạnh, và toà nhà sụp đổ đè các vương hầu và tất cả dân chúng có mặt ở đó. Thành ra số người ông giết được khi ông chết lại đông hơn số người ông đã giết được khi còn sống.31 Anh em ông và cả nhà cha ông xuống đưa ông về chôn cất giữa Xo-rơ-a và Ét-ta-ôn trong phần mộ ông Ma-nô-ác, cha ông. Ông làm thủ lãnh Ít-ra-en được hai mươi năm.

PHỤ LỤC

1. NHÀ THỜ CỦA ÔNG MI-KHA VÀ NHÀ THỜ CỦA HỌ ĐAN

Nhà thờ tư của ông Mi-kha

17.  1 Xưa có một người thuộc vùng núi Ép-ra-im, tên là Mi-kha-giơ-hu.2 Ông thưa với bà mẹ: “Số bạc một ngàn một trăm thỏi mà người ta đã lấy mất của mẹ, khiến mẹ chửi rủa và mẹ cũng đã nói cho con nghe, thì này số bạc đó, con đang giữ đây; chính con đã lấy đó.” Mẹ ông liền nói: “Xin ĐỨC CHÚA chúc lành cho con tôi! “3 Ông trả lại mẹ ông số bạc một ngàn một trăm thỏi, nhưng mẹ ông nói: “Chính tay mẹ đã dâng hiến trọn số bạc này cho ĐỨC CHÚA, để con của mẹ dùng làm một tượng, một hình đúc bằng kim khí. Vậy bây giờ mẹ đưa lại cho con.”

4 Nhưng ông trả số bạc lại cho mẹ. Mẹ ông giữ lấy hai trăm thỏi, rồi trao cho thợ đúc, người này làm một tượng, một hình đúc, đặt tại nhà ông Mi-kha-giơ-hu.5 Ông Mi-kha này có một nhà thờ; ông đã làm một ê-phốt và các te-ra-phim, rồi phong cho một người trong các con làm tư tế cho ông.6 Thời đó Ít-ra-en không có vua, ai muốn làm gì thì làm.

7 Có một thanh niên, người Bê-lem Giu-đa, thuộc chi tộc Giu-đa. Anh là một thầy Lê-vi ở đó như khách trú.8 Người ấy đi khỏi thành Bê-lem Giu-đa để tìm chỗ cư trú. Trên đường đi, anh vào vùng núi Ép-ra-im đến nhà ông Mi-kha.9 Ông Mi-kha nói với anh: “Anh từ đâu tới? ” Anh nói với ông: “Tôi là một người Lê-vi thuộc Bê-lem Giu-đa; tôi đi tìm chỗ cư trú.”10 Ông Mi-kha nói với anh: “Xin ở lại đây với tôi, để làm sư phụ và tư tế cho tôi. Phần tôi, mỗi năm tôi sẽ cung cấp cho anh mười thỏi bạc, áo mặc và lương thực cần dùng.”11 Thầy Lê-vi đồng ý ở lại với ông; người trẻ tuổi ấy được ông coi như một trong các con ông.12 Ông Mi-kha phong cho thầy Lê-vi làm tư tế; người trẻ tuổi ấy trở thành tư tế của ông và ở trong nhà ông Mi-kha.13 Ông Mi-kha nói: “Bây giờ tôi biết ĐỨC CHÚA sẽ phù hộ tôi vì tôi đã có một thầy Lê-vi làm tư tế.”

Những người thuộc chi tộc Đan đi kiếm đất

18.  1 Thời ấy Ít-ra-en không có vua. Cũng thời ấy chi tộc Đan đang tìm đất làm gia nghiệp để định cư, vì cho tới ngày đó họ không được lãnh phần gia nghiệp riêng giữa các chi tộc Ít-ra-en.2 Vậy con cái Đan sai năm người dũng cảm trong thị tộc của họ, ra khỏi ranh giới Xo-rơ-a và Ét-ta-ôn, rảo quanh khắp xứ để do thám. Họ nói với những người này: “Các anh hãy đi do thám đất đai.” Năm người đi vào vùng núi Ép-ra-im. Đến gần nhà ông Mi-kha và qua đêm tại đây.3 Vì họ ở cạnh nhà ông Mi-kha, nên đã nhận ra tiếng của chàng thanh niên Lê-vi; họ đã rẽ qua đó và nói với anh: “Ai đã bảo anh tới đây? Anh làm gì ở đây? Chuyện gì đã xảy ra cho anh tại đây? “4 Anh trả lời họ: “Ông Mi-kha đã làm cho tôi thế này thế này: ông đã thuê tôi và tôi đã trở thành tư tế của ông.”5 Họ nói với anh: “Xin anh thỉnh vấn Thiên Chúa cho chúng tôi biết công cuộc chúng tôi đang theo đuổi có thành tựu hay không.”6 Thầy tư tế bảo họ: “Các anh cứ đi bình an; ĐỨC CHÚA để mắt nhìn xem công cuộc các anh đang theo đuổi.”

7 Năm người ấy ra đi. Họ vào La-gít và thấy dân chúng ở đây an cư lạc nghiệp theo kiểu người Xi-đôn, yên lành và an tâm, không thiếu hụt gì trong xứ. Dân chúng thừa hưởng của cải, lại ở xa người Xi-đôn, và không có chuyện gì với ai cả.8 Năm người ấy trở về với anh em ở Xo-rơ-a và Ét-ta-ôn. Anh em họ hỏi: “Thế nào? “9 Họ đáp: “Đứng lên! Chúng ta hãy lên đánh chúng! Vì chúng tôi đã thấy xứ đó: Thật là tuyệt vời! Thế mà các anh cứ điềm nhiên! Đừng chần chừ nữa: đi đi, vào chiếm lấy xứ ấy!10 Tới nơi các anh sẽ gặp một dân yên lành, một xứ mênh mông bốn bề bát ngát. Chắc chắn là Thiên Chúa đã trao đất ấy vào tay các anh: Đó là một nơi không thiếu hụt gì trên mặt đất.”

Cuộc di dân của họ Đan

11 Vậy một số người thuộc chi tộc Đan, là sáu trăm người được võ trang để chiến đấu, đã rời khỏi nơi ấy, từ Xo-rơ-a và từ Ét-ta-ôn.12 Họ tiến lên đóng trại tại Kia-giát Giơ-a-rim miền Giu-đa. Bởi thế người ta gọi nơi ấy là Trại Đan cho tới ngày nay. Nơi ấy ở phía tây Kia-giát Giơ-a-rim.13 Từ đấy họ qua vùng núi Ép-ra-im và đến tận nhà ông Mi-kha.

14 Năm người đã đi thăm dò đất La-gít lên tiếng nói với anh em họ: “Các anh biết không? Trong các ngôi nhà đó có một ê-phốt, mấy te-ra-phim, một tượng, một hình đúc bằng kim khí. Vậy bây giờ các anh nghĩ xem phải làm gì.”15 Họ rẽ qua hướng đó, vào nhà thầy Lê-vi trẻ tuổi, trong nhà ông Mi-kha, và chào hỏi thầy,16 đang khi sáu trăm người trong số con cái họ Đan, được võ trang để chiến đấu, chực sẵn ở ngưỡng cửa.17 Năm người đã đi thăm dò đất và đã vào đấy, liền lấy tượng, ê-phốt, te-ra-phim và hình đúc bằng kim khí đang khi thầy tư tế chực sẵn ở ngưỡng cửa cùng với sáu trăm người được võ trang để chiến đấu.18 Vậy những người ấy đã vào nhà ông Mi-kha lấy tượng, ê-phốt, te-ra-phim và hình đúc bằng kim khí. Nhưng thầy tư tế nói với họ: “Các anh làm gì thế? “19 Họ bảo thầy: “Im! Lấy tay bịt miệng lại và đi theo chúng tôi, thầy sẽ là sư phụ và tư tế của chúng tôi. Thầy làm tư tế cho gia đình của một người hơn là cho cả một chi tộc và một thị tộc trong Ít-ra-en sao? “20 Thầy Tư tế, lòng đầy phấn khởi, liền cầm lấy ê-phốt, te-ra-phim và hình đúc bằng kim khí, rồi nhập đoàn với họ.

21 Họ lui gót ra đi. Họ để đàn bà, con trẻ, súc vật và hành lý đi trước.22 Khi những người ấy đã đi xa nhà ông Mi-kha, thì hàng xóm láng giềng của ông Mi-kha tri hô lên, và rượt theo con cái Đan.23 Họ gọi theo con cái Đan; những người này quay lại, nói với ông Mi-kha: “Chuyện gì mà ông la ó thế? “24 Ông trả lời: “Các ngươi đánh cắp tượng thần ta đã làm, lại còn rước cả tư tế đi, thì ta còn gì nữa? Vậy mà còn hỏi “Chuyện gì thế”, thế là thế nào? “25 Con cái Đan đáp: “Đừng bắt chúng tôi phải nghe ông nói nữa, kẻo những kẻ bực bội sẽ tấn công các người, và ông cùng gia đình ông sẽ mất mạng.”26 Rồi con cái Đan tiếp tục đi. Còn ông Mi-kha, thấy họ mạnh hơn mình, thì quay gót trở về nhà.

Chiếm La-gít. Thiết lập họ Đan và nhà thờ.

27 Các người ấy lấy tượng ông Mi-kha đã làm, và đem theo thầy tư tế đã ở với ông; rồi họ đánh La-gít, chống một dân yên lành và an tâm. Họ dùng lưỡi kiếm chém giết dân ấy và nổi lửa đốt thành.28 Không có ai tiếp cứu, vì thành ấy ở xa Xi-đôn và không có liên hệ gì với ai cả. Thành ấy nằm trong thung lũng gần Bết Rơ-khốp. Họ xây lại thành và định cư ở đấy.29 Họ đặt tên thành là Đan, theo tên ông tổ của họ là Đan, con của ông Ít-ra-en. Thực ra trước kia tên thành là La-gít.30 Con cái Đan dựng tượng ấy lên mà thờ. Ông Giơ-hô-na-than, con ông Ghéc-sôm, cháu ông Mơ-na-se, ông và con cái ông làm tư tế cho họ Đan mãi tới ngày dân trong nước bị lưu đày.31 Vậy tượng ông Mi-kha đã làm, thì họ dựng lên mà thờ, trong suốt thời gian có nhà Thiên Chúa ở Si-lô.

2. TỘI ÁC CỦA DÂN GHÍP-A.  CHIẾN TRANH CHỐNG BEN-GIA-MIN.

Người Lê-vi vùng Ép-ra-im và cô tỳ thiếp

19.  1 Thời ấy -thời Ít-ra-en chưa có vua- có một người Lê-vi cư trú trong thung lũng vùng núi Ép-ra-im. Người ấy lấy một phụ nữ Bê-lem Giu-đa làm tỳ thiếp.2 Người tỳ thiếp giận chồng, bỏ về nhà cha mình tại Bê-lem Giu-đa. Nàng lưu lại đây một thời gian là bốn tháng.3 Chồng nàng lên đường đi tìm nàng để năn nỉ, mong đưa nàng về với mình. Cùng đi với chàng, có một người đầy tớ và hai con lừa. Nàng dẫn chàng vào nhà cha mình. Khi thấy chàng, người cha của thiếu phụ vui mừng ra đón chàng.4 Ông bố vợ, cha của thiếu phụ, giữ chàng lại, nên chàng ở với ông ba ngày. Họ ăn uống và qua đêm tại đó.5 Ngày thứ tư, chàng dậy sớm và chuẩn bị lên đường, thì cha của thiếu phụ nói với con rể: “Anh dùng chút bánh lót dạ đã, rồi hãy đi.”6 Họ ngồi xuống và cả hai cùng ăn uống với nhau. Đoạn cha của thiếu phụ lại nói với anh ta: “Mời anh ở lại qua đêm cho thoải mái.”7 Khi người ấy đứng lên đi, thì ông bố vợ nài ép, nên chàng ở lại qua đêm nữa.8 Ngày thứ năm chàng dậy sớm để lên đường, nhưng cha của thiếu phụ nói: “Mời anh ăn lót dạ đã.” Thế là họ lại kéo dài tới xế chiều và cả hai cùng ăn với nhau.9 Khi người ấy đứng lên đi cùng với người tỳ thiếp và tên đầy tớ, thì bố vợ, cha của thiếu phụ, nói với chàng: “Này trời đã về chiều, hãy qua đêm đã! Đây ngày sắp tàn, hãy qua đêm tại đây cho thoải mái. Ngày mai các người sẽ dậy sớm lên đường và anh sẽ về lều của anh.”10 Nhưng người ấy không muốn ở lại qua đêm; chàng đứng lên và đi cho tới khi nhìn thấy Giơ-vút tức là Giê-ru-sa-lem. Cùng đi với chàng có hai con lừa đã thắng yên, người tỳ thiếp và tên đầy tớ của chàng.

Tội ác của dân Ghíp-a

11 Khi họ đến gần Giơ-vút, thì lúc ấy, giờ đã quá muộn. Người đầy tớ nói với chủ: “Thưa ngài, chúng ta nên rẽ vào thành của người Giơ-vu-xi mà qua đêm tại đó.”12 Người chủ trả lời: “Chúng ta sẽ không rẽ vào một thành nào của người xa lạ, vì những người đó không phải là con cái Ít-ra-en; chúng ta cứ đi cho tới Ghíp-a.”13 Chàng còn nói với tên đầy tớ: “Đi! Chúng ta hãy tới một trong các nơi kia; chúng ta sẽ nghỉ đêm tại Ghíp-a hoặc Ra-ma.”14 Vậy họ tiếp tục đi; khi họ tới sát Ghíp-a thuộc Ben-gia-min thì mặt trời lặn.15 Họ liền ghé vào Ghíp-a để qua đêm. Chàng vào ngồi ở công trường thành phố, nhưng không ai mời họ về nhà nghỉ đêm.

16 Chiều đến bỗng có một cụ già đi làm ruộng về. Cụ là người vùng núi Ép-ra-im, nhưng cư trú ở Ghíp-a; còn người địa phương thì là con cái Ben-gia-min.17 Cụ già ngước mắt lên và thấy người lữ khách ở công trường thành phố, liền nói với người ấy: “Anh đi đâu, và từ đâu tới? “18 Chàng trả lời: “Chúng tôi từ Bê-lem Giu-đa đi về thung lũng vùng núi Ép-ra-im, quê tôi ở đấy. Tôi đã đến Bê-lem Giu-đa và bây giờ đang trên đường trở về nhà. Thế nhưng chẳng người nào đón tiếp tôi cả.19 Cỏ rơm cho lừa ăn, tôi có sẵn, cả bánh và rượu để tôi, nữ tỳ của ông và thằng bé đi theo tôi tớ của ông dùng, cũng đều có, không thiếu thứ gì.”20 Cụ già nói: “Chúc anh bình an! Anh cần gì, cứ để tôi lo; chỉ xin anh đừng nghỉ đêm ở công trường.”21 Vậy cụ đưa chàng vào nhà mình và vất rơm cho lừa ăn. Họ rửa chân rồi ăn uống.

22 Đang lúc họ ăn uống vui vẻ như vậy, thì này có những người dân trong thành, những kẻ vô lại, bao vây nhà ấy, vừa đập cửa dồn dập, vừa nói với cụ già là gia chủ: “Hãy đưa người đàn ông đã vào nhà ông ra đây cho chúng tôi chơi! “23 Cụ chủ nhà ra gặp chúng và nói: “Này anh em, tôi van anh em đừng làm chuyện ác đức! Một khi người đàn ông này đã vào nhà tôi rồi, thì xin các anh đừng làm điều bỉ ổi.24 Này tôi có đứa con gái còn trinh, và người tỳ thiếp của anh ta nữa. Tôi đưa họ ra cho các anh cưỡng hiếp và xử với họ thế nào tuỳ ý. Còn đối với người này thì đừng làm điều bỉ ổi ấy.”25 Nhưng đám người đó không thèm nghe. Bấy giờ người kia dẫn tỳ thiếp của mình ra ngoài cho chúng chơi. Chúng cưỡng hiếp nàng suốt đêm cho tới sáng, và lúc rạng đông mới buông tha.

26 Gần sáng, khi người đàn bà trở về, thì nàng té xỉu ngay lối vào nhà cụ già, nơi chồng nàng đang trọ. Nàng nằm đấy cho tới sáng hẳn.27 Sáng ngày ra chồng nàng dậy, mở cửa và chuẩn bị lên đường, thì này người đàn bà, tỳ thiếp của chàng nằm bên cửa nhà, hai tay vắt trên ngưỡng cửa.28 Chàng gọi nàng: “Dậy đi! Chúng ta lên đường”, nhưng không một tiếng trả lời. Bấy giờ chàng xốc nàng lên lừa, rồi khởi hành về nhà.29 Về tới nhà, chàng lấy dao đem chặt người tỳ thiếp ra từng mảnh, thành mười hai phần, rồi gởi đi khắp lãnh thổ Ít-ra-en.30 Mọi người, ai thấy cũng đều nói: “Chưa xảy ra và chưa hề thấy như thế bao giờ, kể từ ngày con cái Ít-ra-en từ đất Ai-cập đi lên cho tới nay. Hãy suy nghĩ xem, hãy bàn luận và lên tiếng! “

Người Ít-ra-en trả thù tội ác Ghíp-a

20.  1 Tất cả cộng đồng con cái Ít-ra-en, từ Đan tới Bơ-e Se-va và đất Ga-la-át, họp lại, muôn người như một, bên cạnh ĐỨC CHÚA ở Mít-pa.2 Các người đứng đầu toàn dân và các chi tộc Ít-ra-en, đều tham dự công hội của Dân Thiên Chúa, tất cả là 400.000 bộ binh biết tuốt gươm.3 Con cái Ben-gia-min nghe tin rằng con cái Ít-ra-en đã lên Mít-pa. Con cái Ít-ra-en nói: “Hãy kể đi! Tội ác đó đã xảy ra thế nào? “4 Bấy giờ người Lê-vi, chồng của người đàn bà đã bị giết, lên tiếng nói: “Tôi cùng với người tỳ thiếp đến Ghíp-a thuộc Ben-gia-min để nghỉ đêm.5 Các thân hào Ghíp-a đã xông đến phá tôi, và suốt đêm bao vây nhà tôi ở, để hại tôi, vì họ định giết tôi. Còn người tỳ thiếp của tôi thì họ cưỡng hiếp cho đến chết.6 Vậy tôi đã đem chặt người tỳ thiếp của tôi ra từng phần, rồi gởi đi khắp lãnh thổ thuộc gia nghiệp Ít-ra-en, bởi vì những người ấy đã làm một điều sỉ nhục và bỉ ổi trong Ít-ra-en.7 Này đây, tất cả quý vị là con cái Ít-ra-en, hãy trao đổi ý kiến và quyết định tại đây.”8 Toàn dân, muôn người như một, đứng lên nói: “Không ai được về lều, không ai được trở lại nhà!9 Bây giờ, chúng ta sẽ làm thế này đối với Ghíp-a, là rút thăm xem ai sẽ lên tấn công nó!10 Trong tất cả các chi tộc Ít-ra-en, cứ 100 người thì lấy 10, 1.000 thì lấy 100, 10.000 thì lấy 1.000, để tải lương cho dân quân, là những người khi đến nơi sẽ xử với Ghíp-a thuộc Ben-gia-min, tương xứng với điều bỉ ổi nó đã làm tại Ít-ra-en.”11 Như thế tất cả mọi người Ít-ra-en đã họp nhau muôn người như một, để chống lại thành ấy.

Người Ben-gia-min ngoan cố

12 Các chi tộc Ít-ra-en sai người đi nói với toàn thể chi tộc Ben-gia-min: “Tội ác như vậy đã xảy ra nơi các người là thế nào?13 Bây giờ hãy nộp những con người đó, những kẻ vô lại ở Ghíp-a, để chúng tôi xử tử chúng và khử trừ tội ác khỏi Ít-ra-en.” Nhưng con cái Ben-gia-min không muốn nghe lời con cái Ít-ra-en là anh em mình.

Giao tranh đầu tiên

14 Bấy giờ con cái Ben-gia-min từ các thành tập họp lại ở Ghíp-a để đi giao chiến với con cái Ít-ra-en.15 Ngày hôm ấy, con cái Ben-gia-min từ các thành được kiểm tra là 26.000 người biết tuốt gươm, không kể dân cư ở Ghíp-a.16 Trong tất cả đám dân đó có 700 tinh binh thuận tay trái; những người này đều có thể dùng ná bắn một hòn đá trúng một sợi tóc mà không sai trệch.17 Con cái Ít-ra-en cũng được kiểm tra, tổng số là 400.000 người biết tuốt gươm, không kể Ben-gia-min; tất cả đều là chiến binh.18 Họ chỗi dậy tiến lên Bết Ên để thỉnh vấn Thiên Chúa. Con cái Ít-ra-en hỏi: “Ai trong chúng con sẽ lên trước để giao chiến với con cái Ben-gia-min? ” ĐỨC CHÚA phán: “Giu-đa lên trước.”19 Sáng sớm con cái Ít-ra-en tiến lên đóng trại tấn công Ghíp-a.20 Người Ít-ra-en ra đi giao chiến với Ben-gia-min, và người Ít-ra-en dàn trận chống Ghíp-a.21 Con cái Ben-gia-min từ Ghíp-a xông ra, và hôm ấy họ giết được22 000 người Ít-ra-en nằm ngổn ngang trên mặt đất. 22 Nhưng đạo quân Ít-ra-en phục hồi được khí thế và lại dàn trận để chiến đấu tại chính nơi đã dàn trận hôm trước.23 Sở dĩ như thế là vì con cái Ít-ra-en đã lên kêu khóc trước nhan ĐỨC CHÚA cho đến chiều và thỉnh vấn ĐỨC CHÚA rằng: “Con còn phải giao tranh chống con cái Ben-gia-min, anh em con nữa không? ” ĐỨC CHÚA trả lời: “Tiến lên đánh nó đi! “24 Ngày thứ hai con cái Ít-ra-en tới gần con cái Ben-gia-min.25 Nhưng ngày thứ hai này Ben-gia-min từ Ghíp-a cũng xông ra ứng chiến, và trong số con cái Ít-ra-en họ còn giết được 18.000 người nằm ngổn ngang trên mặt đất, toàn là những người biết tuốt gươm.26 Bấy giờ tất cả con cái Ít-ra-en và toàn dân đã lên Bết Ên; họ ngồi khóc tại đây trước nhan ĐỨC CHÚA. Hôm ấy họ ăn chay cho đến chiều. Rồi họ dâng lễ toàn thiêu và lễ kỳ an lên trước nhan ĐỨC CHÚA.27 Con cái Ít-ra-en đã thỉnh vấn ĐỨC CHÚA -thời bấy giờ ở đấy có Hòm Bia Giao Ước của Thiên Chúa,28 và có ông Pin-khát con ông E-la-da, cháu ông A-ha-ron, túc trực trước Hòm Bia- họ hỏi rằng: “Con còn phải lâm trận chống con cái Ben-gia-min, anh em con nữa hay là thôi? ” ĐỨC CHÚA trả lời: “Các ngươi cứ lên, vì sáng mai Ta sẽ trao chúng vào tay (các) ngươi.”

Ben-gia-min bại trận

29 Bấy giờ Ít-ra-en đặt quân phục kích bao vây Ghíp-a.30 Ngày thứ ba, con cái Ít-ra-en tiến lên đánh con cái Ben-gia-min, và dàn trận tấn công Ghíp-a như nhữmg lần trước.31 Con cái Ben-gia-min xông ra ứng chiến với đạo quân ấy và bị nhử ra xa thành. Như những lần trước, chúng bắt đầu giết một số người Ít-ra-en, chừng ba mươi mạng trong đám dân quân ấy, trên những con đường, ngả thì lên Bết Ên, ngả thì đi đến Ghíp-a, giữa đồng trống.32 Con cái Ben-gia-min bảo nhau: “Bọn chúng lại bị ta đánh cho tháo chạy như lần trước”; nhưng con cái Ít-ra-en lại tự nhủ: “Trốn chạy đi! Ta sẽ nhử chúng ra xa thành, tới các con đường ấy.”33 Mọi người Ít-ra-en từ vị trí của mình vùng lên và dàn trận tại Ba-an Ta-ma, đồng thời những người Ít-ra-en mai phục cũng từ vị trí của mình vùng lên ở phía tây Ghe-va.34 Vậy 10. 00 0 tinh binh được chọn từ khắp Ít-ra-en tiến đến ngay trước Ghíp-a. Giao tranh dữ dội xảy ra, mà người Ben-gia-min không hay biết tai hoạ đang ập xuống trên mình.35 ĐỨC CHÚA đánh cho Ben-gia-min tháo chạy trước Ít-ra-en, và hôm đó con cái Ít-ra-en đã giết được 25. 10 0 người Ben-gia-min, toàn là những người biết tuốt gươm.

36 Con cái Ben-gia-min thấy mình bị đánh bại, nhưng người Ít-ra-en nhường đất lại cho người Ben-gia-min, vì họ tin tưởng ở quân mai phục họ đã đặt bao vây Ghíp-a.37 Quân mai phục tấn công chớp nhoáng Ghíp-a; họ xông ra và dùng gươm tàn sát cả thành.38 Giữa người Ít-ra-en và quân mai phục đã có lời hẹn rằng quân mai phục sẽ đốt lửa cho khói bốc lên khỏi thành làm hiệu.39 Người Ít-ra-en sẽ rút khỏi trận địa, khi người Ben-gia-min bắt đầu giết một số chừng ba mươi người Ít-ra-en, vì chúng nói: “Chắc chắn là nó hoàn toàn bị ta đánh bại như lần trước.”40 Rồi một cột khói làm hiệu bắt đầu bốc lên khỏi thành. Người Ben-gia-min liền quay trở lại, thì này toàn thành như lửa bốc cháy ngút trời.41 Bấy giờ người Ít-ra-en quay lại phản công, khiến người Ben-gia-min khiếp vía, vì thấy tai hoạ đang ập xuống trên mình.

42 Chúng quay đầu chạy về phía sa mạc để trốn người Ít-ra-en, nhưng trận chiến cũng lan tới chúng, và chúng bị những người từ các thành xông ra tiêu diệt giữa đường.43 Họ vây chặt người Ben-gia-min, rượt bắt không ngừng và đè bẹp chúng cho đến khi trông thấy Ghíp-a, về hướng mặt trời mọc.44 Phía Ben-gia-min có 18. 00 0 người ngã gục, tất cả đều là dũng sĩ.45 Còn những kẻ quay đầu chạy trốn vào sa mạc, về phía Tảng đá Rim-môn, thì người ta giết tỉa được 5.000 trên các nẻo đường; họ bám sát chúng cho tới Ghít-ôm và giết thêm được 2.000 nữa.46 Những người Ben-gia-min đã ngã gục hôm ấy tính tất cả là 25.000 biết tuốt gươm, toàn là dũng sĩ.47 Những kẻ quay đầu chạy trốn vào sa mạc tới được Tảng đá Rim-môn là 60 0 người; chúng ở tảng đá Rim-môn bốn tháng.48 Người Ít-ra-en trở lại đánh con cái Ben-gia-min; họ dùng gươm tàn sát từ đàn ông trong thành cho đến súc vật và tất cả những gì họ gặp. Tới thành nào, họ cũng đều phóng hoả.

Người Ít-ra-en hối hận

21.  1 Người Ít-ra-en đã thề tại Mít-pa rằng: “Không ai trong chúng ta sẽ gả con gái mình cho người Ben-gia-min.”2 Dân chúng đến Bết Ên và ở lại đó trước nhan Thiên Chúa cho đến chiều; họ cất tiếng khóc nức nở.3 Họ nói: “Lạy ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của Ít-ra-en, tại sao lại xảy ra chuyện này, là ngày nay Ít-ra-en mất đi một chi tộc? “4 Sáng hôm sau, dân dậy sớm và lập bàn thờ ở đó, rồi dâng lễ toàn thiêu và lễ kỳ an.5 Con cái Ít-ra-en nói: “Trong tất cả các chi tộc Ít-ra-en, ai là người đã không lên dự công hội chầu ĐỨC CHÚA? ” vì ai đã không lên chầu ĐỨC CHÚA ở Mít-pa, thì đã có lời thề long trọng chống lại kẻ ấy rằng: “Chắc chắn nó phải chết.”

6 Thấy tội nghiệp cho Ben-gia-min anh em mình, con cái Ít-ra-en nói: “Hôm nay một chi tộc đã bị cắt đứt khỏi Ít-ra-en.7 Chúng ta sẽ làm gì để tìm vợ cho những kẻ còn sống sót, vì chúng ta đã thề nhân danh ĐỨC CHÚA là không gả con gái mình cho chúng? “

Các trinh nữ Gia-vết được trao cho người Ben-gia-min

8 Họ lại hỏi: “Trong các chi tộc Ít-ra-en có ai đã không lên chầu ĐỨC CHÚA ở Mít-pa? ” Thì ra chẳng có ai thuộc Gia-vết thuộc Ga-la-át đã lên trại, dự công hội.9 Quả thật khi người ta kiểm tra dân chúng, thì ở đấy không có ai là người thuộc dân cư Gia-vết thuộc Ga-la-át cả.10 Bấy giờ cộng đồng ở đó sai 12. 00 0 người trong số các dũng sĩ và truyền cho họ rằng: “Các anh hãy dùng gươm đi giết dân cư Gia-vết thuộc Ga-la-át, kể cả đàn bà con nít.11 Đây là điều các anh sẽ làm: tất cả đàn ông đàn bà đã biết chuyện vợ chồng, các anh sẽ tru hiến hết.”12 Trong số dân cư Gia-vết thuộc Ga-la-át, họ tìm được bốn trăm thiếu nữ còn trinh, nghĩa là chưa ăn nằm với đàn ông, và đã đem các cô về trại Si-lô trong đất Ca-na-an.13 Toàn thể cộng đồng sai người đi nói chuyện với con cái Ben-gia-min ở Tảng đá Rim-môn và đề nghị hoà hoãn với họ.14 Bấy giờ người Ben-gia-min trở về và người ta trao cho họ những phụ nữ còn sống sót trong số các phụ nữ Gia-vết thuộc Ga-la-át, nhưng không tìm được đủ số cho họ.

Bắt cóc các cô gái Si-lô

15 Dân chúng thấy tội nghiệp cho Ben-gia-min, vì ĐỨC CHÚA đã làm cho các chi tộc Ít-ra-en bị một vết nứt rạn.16 Bấy giờ các kỳ mục của cộng đồng nói: “Chúng ta sẽ làm gì để tìm vợ cho những kẻ còn sống sót, vì các phụ nữ Ben-gia-min đã bị tiêu diệt? “17 Họ nói: “Ben-gia-min sẽ chiếm phần còn sót lại, để một chi tộc không bị xoá khỏi Ít-ra-en,18 Thế mà chúng ta lại không thể gả con gái mình cho chúng được! ” Sở dĩ như vậy vì con cái Ít-ra-en đã thề rằng: “Vô phúc cho ai gả con gái cho Ben-gia-min! “

19 Nhưng họ lại nói: “Này hàng năm có lễ kính ĐỨC CHÚA tại Si-lô, mạn bắc Bết Ên, phía đông con đường từ Bết Ên lên Si-khem và phía nam Lơ-vô-na.20 Vậy họ truyền cho con cái Ben-gia-min: “Các anh vào các vườn nho mà ẩn nấp.21 Khi thấy các cô gái Si-lô đi ra múa hát với nhau, thì các anh cũng đi ra khỏi vườn nho, mỗi người bắt một cô trong đám con gái Si-lô ấy, đem về làm vợ, rồi đi về đất Ben-gia-min.22 Nếu cha các cô hoặc anh các cô có tới kỳ kèo với chúng tôi, thì chúng tôi sẽ nói với họ: “Xin thông cảm với chúng tôi mà hiểu cho họ, vì mỗi người chúng tôi đã không bắt một cô đem về làm vợ trong lúc đánh nhau, mà các anh cũng chẳng gả các cô ấy cho họ; nếu gả, thì các anh đã mắc lỗi rồi.”

23 Con cái Ben-gia-min đã làm như thế. Họ đã lấy vợ trong đám các cô múa hát bị bắt cóc, tương đương với số người của họ, và trở về phần gia nghiệp của mình. Họ xây thành và cư ngụ ở đó.

24 Còn con cái Ít-ra-en lúc bấy giờ cũng rời khỏi đó, ai nấy về chi tộc và thị tộc của mình: mỗi người rời khỏi đó mà về phần gia nghiệp của mình.

25 Thời đó Ít-ra-en không có vua. Ai muốn làm gì thì làm.

SÁCH RÚT

Rút và bà Na-o-mi

1.  1 Vào thời các thủ lãnh cai trị, một nạn đói xảy ra trong xứ.  Có một người cùng với vợ và hai con trai bỏ Bê-lem miền Giu-đa mà đến ở trong cánh đồng Mô-áp.2 Tên người đàn ông là Ê-li-me-léc, tên người vợ ấy là Na-o-mi và tên của hai con trai là Mác-lôn và Kin-giôn. Họ là người Ép-ra-tha thuộc xứ Bê-lem miền Giu-đa. Họ đến cánh đồng Mô-áp và ở lại đó.3 Rồi ông Ê-li-me-léc, chồng bà Na-o-mi, chết đi, còn lại bà Na-o-mi và hai đứa con.4 Hai người này lấy vợ Mô-áp, một người tên là Oóc-pa, người kia tên là Rút. Họ ở lại đó chừng mười năm.5 Rồi Mác-lôn và Kin-giôn cả hai đều chết, còn lại bà Na-o-mi mất chồng, mất con.6 Bà lên đường cùng với hai người con dâu, bỏ cánh đồng Mô-áp mà trở về quê hương, vì tại cánh đồng Mô-áp, bà nghe nói là ĐỨC CHÚA đã viếng thăm dân Người và cho họ có bánh ăn.7 Vậy bà cùng với hai con dâu ra khỏi nơi họ đã ở mà lên đường trở về xứ Giu-đa.

8 Bà Na-o-mi nói với hai con dâu: “Thôi, mỗi người chúng con hãy trở về nhà mẹ mình. Xin ĐỨC CHÚA tỏ lòng thương chúng con, như chúng con đã tỏ lòng thương những người quá cố và mẹ!9 Xin ĐỨC CHÚA cho mỗi người chúng con tìm được cuộc sống an nhàn dưới mái nhà một người chồng! ” Rồi bà ôm hôn hai con dâu. Họ oà lên khóc.10 Họ thưa: “Chúng con muốn cùng mẹ trở về với dân của mẹ.”11 Bà Na-o-mi nói: “Các con ơi, về đi, theo mẹ làm gì? Trong lòng mẹ còn con trai nào nữa đâu mà gả chồng cho các con.12 Về đi, các con ơi! Đi đi! Mẹ quá già rồi, không còn tái giá được nữa. Cho dù mẹ có nói được: mẹ còn hy vọng, ngay đêm nay sẽ lấy chồng và sinh được con trai,13 thì chẳng lẽ chúng con cứ đợi mãi cho đến khi chúng lớn lên? Chẳng lẽ chúng con cứ ở vậy, không chịu lấy chồng? Không, các con ơi! Tình cảnh chúng con làm mẹ cay đắng lắm, vì tay ĐỨC CHÚA giáng phạt mẹ.”14 Hai người con dâu lại oà lên khóc. Oóc-pa ôm hôn từ giã mẹ chồng, còn Rút thì cứ khắng khít theo bà.

15 Bà Na-o-mi nói: “Kìa chị dâu con trở về với dân tộc của nó và các thần của nó. Con cũng vậy, hãy theo chị dâu con mà về đi! “16 Rút đáp: “Xin mẹ đừng ép con bỏ mẹ mà trở về, không theo mẹ nữa, vì
mẹ đi đâu, con đi đó,
mẹ ở đâu, con ở đó,
dân của mẹ là dân của con,
Thiên Chúa của mẹ là Thiên Chúa của con.

17 Mẹ chết ở đâu, con chết ở đó,
và nơi đó con sẽ được chôn cất.
Xin ĐỨC CHÚA phạt con thế này
và thêm thế kia nữa,
nếu con lìa xa mẹ
mà không phải vì cái chết! “

18 Thấy Rút cứ một mực đi với mình, bà Na-o-mi không còn nói gì về chuyện đó nữa.19 Hai mẹ con cùng đi cho đến khi tới Bê-lem. Họ tới Bê-lem, làm cả thành xôn xao. Các người phụ nữ hỏi: “Có phải bà Na-o-mi đấy không? “20 Bà nói: “Đừng gọi tôi là Na-o-mi nữa, hãy gọi tôi là Ma-ra, vì Đấng Toàn Năng đã bắt tôi phải chịu quá nhiều cay đắng.21 Tôi ra đi, của cải dư đầy, ĐỨC CHÚA đem tôi về hai bàn tay trắng! Gọi tôi là Na-o-mi làm gì, trong khi ĐỨC CHÚA đã làm cho tôi tủi nhục, Đấng Toàn Năng đã để tôi đau khổ? “

22 Thế là từ cánh đồng Mô-áp, bà Na-o-mi trở về cùng với con dâu người Mô-áp là Rút. Họ đã đến Bê-lem vào đầu mùa gặt lúa mạch.

Cô Rút trong đồng ruộng của ông Bô-át

2.  1 Bà Na-o-mi có một thân nhân bên họ nhà chồng, một người khá giàu, thuộc thị tộc Ê-li-me-léc. Người ấy tên là Bô-át.2 Rút, người Mô-áp, nói với bà Na-o-mi: “Xin mẹ để con đi ra ruộng mót lúa đằng sau người nào có lòng nhân từ đoái nhìn con.” Bà trả lời: “Con cứ đi đi.”3 Nàng đi và đến ruộng mót lúa đằng sau thợ gặt. Nàng may mắn gặp được một thửa ruộng của ông Bô-át, người trong thị tộc Ê-li-me-léc.4 Và kìa ông Bô-át từ Bê-lem đến, nói với thợ gặt: “Xin ĐỨC CHÚA ở cùng các anh! ” Họ nói: “Xin ĐỨC CHÚA giáng phúc cho ông! “5 Ông Bô-át nói với người tôi tớ trông coi thợ gặt: “Cô kia là người của ai thế? “6 Người tôi tớ trông coi thợ gặt trả lời: “Đó là một thiếu phụ Mô-áp, người đã cùng với bà Na-o-mi từ cánh đồng Mô-áp trở về.7 Cô đã nói: “Cho phép tôi mót và nhặt những bông lúa đằng sau thợ gặt. Cô ấy đã đến và ở lại từ sáng tới giờ: Cô ấy chẳng chịu nghỉ ngơi chút nào.”

8 Ông Bô-át nói với Rút: “Này con, con có nghe không?  Đừng đi mót ở ruộng nào khác, cũng đừng rời khỏi đây, nhưng cứ theo sát các tớ gái của ta.9 Con nhìn thửa ruộng chúng gặt và cứ đi theo chúng. Nào ta đã chẳng ra lệnh cho các tôi tớ không được đụng tới con sao? Nếu khát, con cứ đến chỗ để bình mà uống nước các tôi tớ đã múc.”10 Rút liền cúi rạp xuống đất mà lạy ông, rồi nói: “Sao con lại được ông lấy lòng nhân từ đoái nhìn và quan tâm đến, dù con là một người ngoại quốc? “11 Ông Bô-át đáp: “Người ta đã kể lại cho ta nghe tất cả những gì con đã làm cho mẹ chồng sau khi chồng con mất, cũng như chuyện con đã bỏ cả cha mẹ và quê hương, mà đến với một dân trước kia con không hề biết tới.12 Xin ĐỨC CHÚA trả công cho con vì những gì con đã làm! Chớ gì ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của Ít-ra-en, thưởng công bội hậu cho con, Người là Đấng cho con ẩn náu dưới cánh Người! “13 Nàng nói: “Thưa ông, ước gì con được ông lấy lòng nhân từ đoái nhìn, vì ông đã an ủi con và nói những lời thân ái với nữ tỳ của ông, mặc dù con không đáng làm một nữ tỳ của ông.”

14 Đến bữa ăn, ông Bô-át nói với nàng: “Con lại gần đây, lấy bánh chấm vào nước dấm mà ăn.” Nàng ngồi bên cạnh thợ gặt. Ông Bô-át đưa cho nàng một mớ lúa rang. Nàng ăn no và còn để dành nữa.15 Rồi nàng trỗi dậy mót lúa. Ông Bô-át ra lệnh này cho các tôi tớ của ông: “Cho dù cô ấy có mót ngay giữa những bó lúa đi nữa, các anh cũng đừng nhục mạ cô ấy.16 Hơn nữa, các anh hãy để ý rút vài bông lúa ra khỏi đống lúa đã gặt và để lại cho cô ấy mót. Đừng trách móc cô ấy làm gì.”17 Nàng mót trong ruộng cho đến chiều, rồi đập lúa đã mót. Tất cả được gần hai thùng lúa mạch.

18 Nàng đem lúa trở về thành và mẹ chồng thấy những gì nàng đã mót được. Rồi nàng lấy ra, đưa cho bà những gì nàng để dành sau khi ăn no.19 Mẹ chồng nói với nàng: “Hôm nay con đã mót ở đâu? Con đã làm ở đâu? Xin Thiên Chúa giáng phúc cho người đã quan tâm đến con! ” Nàng cho mẹ chồng biết mình đã làm ở ruộng người nào. Nàng nói: “Người đã cho con làm ở ruộng mình hôm nay tên là Bô-át.”20 Bà Na-o-mi nói với con dâu: “Xin ĐỨC CHÚA giáng phúc cho ông ấy, Người là Đấng đã không từ chối tỏ lòng nhân nghĩa đối với kẻ sống và kẻ chết! ” Bà lại nói: “Ông ấy là bà con gần của chúng ta, ông ấy là một trong những người bảo tồn dòng dõi của chúng ta.”21 Rút người Mô-áp thưa: “Ông ấy còn nói với con: “Con cứ theo sát các tôi tớ của ta cho đến khi chúng gặt hái xong tất cả.”22 Bà Na-o-mi bảo con dâu là Rút: “Con ơi, tốt hơn là con cứ đi ra với các tớ gái của ông ấy, để khỏi bị người ta ngược đãi trong ruộng khác.”23 Vậy nàng theo sát các tớ gái của ông Bô-át để mót, cho đến hết mùa gặt lúa mạch và lúa mì. Và nàng vẫn ở với mẹ chồng.

Ông Bô-át nằm ngủ

3.  1 Bà mẹ chồng Na-o-mi nói với Rút: “Con ơi, mẹ chẳng có bổn phận tìm cho con một chốn an nhàn để con được hạnh phúc sao?2 Mà ông Bô-át không phải là chỗ bà con gần của chúng ta đó ư? Con lại đã chẳng ở với các tớ gái của ông ấy sao? Này, đêm nay ông phải rê lúa mạch dưới sân lúa.3 Vậy con tắm rửa đi, xức dầu thơm, khoác áo choàng vào, rồi xuống sân lúa. Con đừng cho ông nhận ra con trước khi ông ăn uống xong.4 Khi ông đi ngủ, con hãy để ý xem ông nằm chỗ nào, rồi đến lật góc chăn phủ chân ông mà nằm xuống. Ông sẽ cho con biết con phải làm gì.”5 Rút thưa với bà: “Mẹ dạy gì, con sẽ làm tất cả.”

6 Nàng xuống sân lúa và làm đúng như mẹ chồng đã dạy.7 Ông Bô-át ăn uống xong, lòng vui tươi hớn hở. Ông đi ngủ ở đầu đống lúa. Rút nhẹ nhàng đi tới đó, lật góc chăn phủ chân ông và nằm xuống.8 Vào giữa đêm, ông Bô-át rùng mình; ông trở mình thì thấy một phụ nữ nằm dưới chân.9 Ông hỏi: “Chị là ai? ” Nàng đáp: “Con là Rút, tớ gái của ông. Xin ông giăng vạt áo choàng ra mà phủ lấy tớ gái của ông, vì ông là người bảo tồn dòng dõi.”10 Ông nói: “Này con, xin ĐỨC CHÚA ban phúc lành cho con! Việc hiếu nghĩa thứ hai con đã làm còn có giá hơn việc trước: con đã không chạy theo các người trai trẻ, dù họ nghèo hay giàu.11 Giờ đây, hỡi con, con đừng sợ. Tất cả những điều con sẽ nói, ta sẽ làm cho con. Vì mọi người hội họp ở cửa thành này đều biết con là một phụ nữ đức hạnh.12 Quả thật, hiện nay ta là người bảo tồn dòng dõi, nhưng còn có người bảo tồn dòng dõi họ hàng với con gần hơn ta.13 Con cứ qua đêm ở đây. Sáng mai, nếu người ấy muốn dùng quyền bảo tồn dòng dõi đối với con thì tốt, người ấy cứ việc; nếu người ấy không muốn thì, có ĐỨC CHÚA hằng sống, ta thề sẽ dùng quyền đó! Hãy ngủ đi cho đến sáng.”14 Nàng đã ngủ dưới chân ông cho đến sáng. Tờ mờ sáng, lúc chưa ai nhận ra ai, nàng đã chỗi dậy. Ông tự nhủ: “Không được để cho người ta biết là người phụ nữ này đã đến sân lúa.”15 Ông nói: “Hãy đưa vạt áo choàng của con ra, và cầm chắc lấy.” Nàng cầm chắc rồi, thì ông đong cho nàng sáu đấu lúa mạch, rồi đặt lên vai nàng. Sau đó, nàng đi vào thành.

16 Nàng về đến nhà mẹ chồng, mẹ chồng hỏi: “Thế nào, con? ” Nàng thuật lại cho mẹ chồng nghe tất cả những gì người đó đã làm cho nàng.17 Nàng nói: “Ông ấy đã cho con sáu đấu lúa mạch này, vì ông nói: “Con không được trở về nhà mẹ chồng tay không.”18 Bà nói: “Này con, con cứ ở nhà cho đến khi biết việc này ngã ngũ ra sao, vì ông ấy sẽ không chịu ở yên đâu, cho đến khi lo xong việc đó nội ngày hôm nay.”

Ông Bô-át cưới cô Rút

4.  1 Ông Bô-át lên cửa thành và ngồi ở đó. Và này, người bảo tồn dòng dõi mà ông Bô-át đã nói tới, đi ngang qua. Ông Bô-át nói: “Này ông ơi, mời ông đến và ngồi xuống đây.” Người ấy đến và ngồi xuống.2 Ông Bô-át chọn lấy mười người trong số các kỳ mục của thành và nói: “Mời các ông ngồi lại đây.” Họ ngồi xuống.3 Ông nói với người bảo tồn dòng dõi: “Bà Na-o-mi từ cánh đồng Mô-áp mới về, định bán thửa ruộng của người anh em chúng ta là Ê-li-me-léc.4 Phần tôi, tôi nghĩ là cần phải báo cho ông biết rằng: trước mặt quý vị hiện diện ở đây và các kỳ mục trong dân, ông hãy tậu thửa ruộng ấy! Nếu ông muốn dùng quyền bảo tồn dòng dõi của ông, thì xin hãy dùng; bằng không thì xin tuyên bố cho tôi biết, vì ngoài ông ra, không ai có quyền bảo tồn dòng dõi; còn tôi thì chỉ đứng sau ông.” Người ấy nói: “Vâng, tôi sẽ dùng quyền bảo tồn đó.”5 Ông Bô-át nói: “Ngày nào ông tậu ruộng chính tay bà Na-o-mi bán, thì lúc đó ông cũng phải lấy cả cô Rút người Mô-áp, vợ của người quá cố, để gia nghiệp người đó mãi mãi mang tên người đó.”6 Người bảo tồn dòng dõi nói: “Thế thì tôi không thể dùng quyền bảo tồn đó được, để khỏi làm hại gia nghiệp của tôi. Xin ông thay tôi mà dùng quyền đó, vì tôi không thể dùng được.”

7 Theo phong tục thời xưa tại Ít-ra-en, khi có chuyện liên quan đến quyền bảo tồn hay việc đổi chác, để xác nhận việc đó, thì người này cởi dép trao cho người kia. Đó là cách chứng nhận tại Ít-ra-en.8 Người bảo tồn dòng dõi nói với ông Bô-át: “Ông hãy tậu cho ông đi”, rồi người ấy cởi dép ra.

9 Ông Bô-át nói với các kỳ mục và toàn dân: “Hôm nay, xin quý vị làm chứng cho là tôi tậu từ tay bà Na-o-mi tất cả những gì thuộc về ông Ê-li-me-léc, tất cả những gì thuộc về Kin-giôn và Mác-lôn.10 Và cả Rút người Mô-áp, vợ của Mác-lôn nữa, tôi cũng lấy làm vợ, để gia nghiệp người quá cố mãi mãi mang tên người đó, và để người đó khỏi bị xoá tên trong đám bà con họ hàng, cũng như trong số dân cư tụ họp tại cửa thành. Hôm nay, quý vị làm chứng cho điều đó.”11 Toàn dân ở cửa thành và các kỳ mục đáp: “Chúng tôi xin làm chứng! Xin ĐỨC CHÚA cho người phụ nữ sắp vào nhà ông được nên giống như bà Ra-khen và bà Lê-a, cả hai bà này đã xây dựng nhà Ít-ra-en!
Chúc ông được giàu có ở Ép-ra-tha!
Chúc ông được nổi tiếng ở Bê-lem!

12 Chớ gì dòng dõi mà ĐỨC CHÚA sẽ ban cho ông, nhờ người thiếu phụ này, làm cho nhà của ông được nên giống như nhà của ông Pe-rét, là người con mà bà Ta-ma đã sinh cho ông Giu-đa! “

13 Vậy ông Bô-át lấy cô Rút, và nàng trở thành vợ ông. Ông đến với nàng. Nhờ ơn ĐỨC CHÚA, nàng đã thụ thai và sinh một con trai.14 Các phụ nữ nói với bà Na-o-mi: “Chúc tụng ĐỨC CHÚA, Đấng hôm nay đã không để cho bà phải thiếu người bảo tồn dòng dõi: tên tuổi con trẻ sẽ được tung hô tại Ít-ra-en!15 Nó sẽ giúp bà lấy lại sức sống, và sẽ là người nâng đỡ bà trong tuổi già, vì người con dâu biết yêu quý bà đã sinh ra nó, nàng quý giá hơn bảy đứa con trai.”16 Bà Na-o-mi bế đứa trẻ lên và ôm vào lòng. Chính bà nuôi nấng đứa trẻ đó.

17 Các bà hàng xóm láng giềng đặt tên cho đứa trẻ và nói: “Bà Na-o-mi đã sinh được một cháu trai.” Họ đặt tên cho nó là Ô-vết. Đó là cha của ông Gie-sê, là ông nội vua Đa-vít.

Gia phả vua Đa-vít

18 Đây là dòng dõi của ông Pe-rét:

19 Khét-rôn sinh Ram; Ram sinh Am-mi-na-đáp.20 Am-mi-na-đáp sinh Nác-sôn; Nác-sôn sinh Xan-môn.21 Xan-môn sinh Bô-át; Bô-át sinh Ô-vết;22 Ô-vết sinh Gie-sê; Gie-sê sinh Đa-vít.

SÁCH AI CA

BÀI THỨ NHẤT
1.

A-lép                       1 Làm sao Đô Thị dân đông đúc
                                  lại ngồi trơ, tủi nhục một mình!
                                  Xưa lệnh bà giữa muôn dân nước,
                                  nay khác chi quả phụ tội tình.
                                  Bà nữ chúa đứng đầu các tỉnh
                                  đã trở thành một kẻ khổ sai.

Bết                          2 Tỉ ti nàng khóc suốt đêm dài,
                                   suối lệ đắng cay tràn đôi má;
                                   chẳng thấy kẻ nào đến ủi an
                                   trong số những người yêu thuở trước.
                                   Bạn hữu thân tình nay bội ước,
                                   thành ra cả một lũ địch thù.

Ghi-men                  3 Bị lưu đày, Giu-đa cực khổ,
                                   phải làm tôi nhuốc hổ vô cùng.
                                   Này đây giữa dân ngoại nàng đang sống,
                                   nàng chẳng hề được vui thú nghỉ ngơi.
                                   Mọi kẻ rượt theo nàng
                                   đã bắt được nàng trong đường cùng ngõ hẻm.

Đa-lét                       4 Đường phố Xi-on đượm màu tang tóc,
                                   chẳng còn ai trẩy lễ lên đền.
                                   Cổng thành vắng lặng không một bóng.
                                   Tư tế thở than, nữ trinh sầu thảm,
                                   cả thành chìm ngập giữa đắng cay!

Hê                             5 Quân áp bức nắm đầu cưỡi cổ,
                                   kẻ tử thù hớn hở sướng vui,
                                   vì ĐỨC CHÚA làm cho nàng cực khổ
                                   bởi tội nàng nhiều quá;
                                   lũ con nàng bị quân áp bức đày đi xa.

Vau                          6 Thiếu nữ Xi-on quả hết thời,
                                   vẻ rực rỡ huy hoàng không còn nữa.
                                   Thủ lãnh của nàng khác chi nai đói
                                   không tìm ra đồng cỏ.
                                   Họ kiệt sức bước đi
                                   trước những người xua đuổi.

Da-in                       7 Giê-ru-sa-lem nhớ lại
                                   những ngày gian khổ và kiếp sống lang thang
                                   khi dân ngã gục, không người tiếp cứu,
                                  dưới bàn tay tàn bạo của quân thù.
                                  Quân áp bức thấy nàng sụp đổ, thì cười nhạo khinh chê.

Khết                       8 Giê-ru-sa-lem phạm quá nhiều tội lỗi, nên đã ra ô uế.
                                  Mọi kẻ xưa kia từng kính nể, nay khinh mạn cười chê,
                                  vì thấy nàng loã thể.
                                  Ngay chính nàng cũng phải rên siết,
                                  cũng phải ngoảnh mặt đi.

Tết                         9 Trên áo nàng, vết nhơ còn rành rành ra đó,
                                  mà nàng đâu nghĩ tới hậu vận đang chờ.
                                  Nàng sa cơ quá mức, không một kẻ ủi an.
                                  “Lạy ĐỨC CHÚA, xin nhìn nỗi nhục nhằn con phải chịu,
                                  vì kẻ thù đắc thắng dương oai.”

Giốt                      10 Quân áp bức đưa tay vét sạch các kho báu của nàng.
                                  Phải, chính mắt nàng thấy đám dân ngoại
                                  kéo nhau vào đền thánh.
                                  Chúng là những kẻ Ngài cấm ngặt
                                  không được vào nơi công hội của Ngài.

Cáp                         11 Toàn dân rên rỉ đi tìm bánh,
                                  đổi kho tàng lấy một chút cầm hơi.
                                 “Lạy ĐỨC CHÚA, xin Ngài nhìn rõ
                                  xem con đây tủi hổ biết chừng nào!”

La-mét                   12 “Này tất cả những ai qua lại, hãy nhìn kỹ mà xem:
                                  Có nỗi khổ nào so sánh được
                                 với nỗi khổ ĐỨC CHÚA giáng trên tôi,
                                 khi Người nổi trận lôi đình mà trừng phạt.

Mêm                       13 Từ trời cao, Người phóng lửa xuống
                                 cho xâm nhập tận cốt tuỷ tôi.
                                 Dưới chân tôi, Người giăng lưới sẵn, cho tôi phải té nhào.
                                 Người bỏ tôi hiu quạnh, suốt cả ngày bệnh hoạn ốm đau.

Nun                        14 Người theo dõi lỗi lầm tôi đã phạm, siết chặt lỗi lầm đó trong tay,
                                 rồi đặt lên cổ tôi như cái ách, khiến tôi phải kiệt quệ, hao mòn.
                                 Người đã trao tôi vào tay chúng,
                                 làm cho tôi không thể ngóc đầu lên.

Xa-méc                 15 Mọi người hùng đang ở với tôi, Chúa đều khinh chê và loại bỏ.
                                Nhằm chống lại tôi, nhằm diệt
                                quân tinh nhuệ của tôi,
                                Người triệu tập hết vào công hội.
                                Chúa chà đạp, giày xéo nàng trinh nữ, con gái Giu-đa,
                                như đạp nho trong bồn.

A-in                       16 Thế nên tôi khóc ròng khóc rã,
                                 cặp mắt tôi, suối lệ tuôn trào.
                                 Bởi Đấng ủi an tôi, Đấng ban lại cho tôi sức sống,
                                 Người đã lìa xa tôi.
                                 Con cái tôi phải mồ côi cô độc bởi chưng thù địch quá hung tàn.”

Pê                          17 Xi-on chìa đôi tay kêu cứu, mà không người an ủi.
                                 ĐỨC CHÚA ra lệnh cho thù địch: hãy tấn công Gia-cóp tư bề.
                                Ngay cả với địch quân, Giê-ru-sa-lem cũng trở thành ô uế.

Xa-đê                    18 “Đấng chính trực công minh là ĐỨC CHÚA,
                                còn tôi, tôi chống lại lời Người.
                                Nghe đi nào, mọi dân, mọi nước,
                                và thấy cho nỗi khổ cực của tôi.
                                Con cái tôi, thanh niên, thiếu nữ, bị bắt đi lưu đày.

Cốp                      19 Tôi ngỏ lời kêu gọi tình nhân,
                                nhưng chúng là những tên lừa đảo.
                                Tư tế và kỳ mục của tôi tắt thở trong thành nội
                                khi đi tìm miếng bánh để cầm hơi.

Rết                      20 Lạy ĐỨC CHÚA, xin hãy nhìn xem:
                                giữa cảnh khốn cùng, ruột gan con đòi đoạn,
                                trái tim con thổn thức bồi hồi.
                                Con quả đã cứng đầu cứng cổ.
                                Ngoài đường phố gươm đao thao túng,
                                ở trong nhà thần chết hoành hành.

Sin                       21 Xin Ngài lắng nghe con rên rỉ: có ai thèm an ủi con đâu!
                                Mọi kẻ thù con vui mừng hớn hở
                                khi biết chính Ngài gây khổ cực cho con.
                                Ngày Ngài hứa, xin cho mau đến
                                để chúng cùng số phận với con.

Tau                      22 Xin cho tội ác chúng đã phạm
                                phơi bày tất cả trước thánh nhan Ngài.
                                Xin Ngài xử với chúng
                                như đã xử với con, vì tất cả tội con đã phạm.
                                Con than thở đã quá nhiều rồi, và tim con héo hắt.”

BÀI THỨ HAI
2.

A-lép                    1 Vì đâu Đức Chúa nổi lôi đình
                                khiến thiếu nữ Xi-on tối mày tối mặt?
                                Vẻ huy hoàng của Ít-ra-en,
                                từ trời cao Người quăng xuống đất,
                                chẳng nhớ đến bệ Người kê chân
                                trong ngày Người nổi cơn thịnh nộ.

Bết                       2 Mọi nơi cư ngụ của Gia-cóp,
                                Đức Chúa huỷ diệt chẳng chút xót thương;
                                nổi trận lôi đình, Người triệt hạ
                                đồn luỹ của thiếu nữ Giu-đa;
                                Người xô xuống đất và làm nhục
                                vương quốc và thủ lãnh của nàng.

Ghi-men              3 Bừng bừng lửa giận, Người bẻ gãy sừng,
                                đập tan sức mạnh Ít-ra-en,
                                rút tay hữu cho quân thù xông tới;
                                Người đốt lên trong Gia-cóp như ngọn hoả hào
                                thiêu rụi khắp chung quanh.

Đa-lét                   4 Người giương cung khác nào địch thủ,
                                vung tay hữu như thể đối phương,
                                bao trang tuấn tú, Người giết sạch,
                                trút cơn thịnh nộ như trút lửa
                                xuống lều trại của thiếu nữ Xi-on.

Hê                         5 Chúa nên như địch thủ, huỷ diệt Ít-ra-en,
                                huỷ diệt mọi lâu đài dinh thự, triệt hạ các luỹ đồn của nó;
                                nơi thiếu nữ Giu-đa, Người gia tăng tiếng than van kêu khóc.

Vau                       6 Người đốt phá cả lều lẫn vườn, triệt hạ nơi họp nhau mừng lễ;
                                lễ hội và sa-bát tại Xi-on, ĐỨC CHÚA để rơi vào quên lãng;
                                nổi giận bừng bừng, Người loại bỏ nhà vua cũng như thầy tư tế.

Da-in                    7 Chúa chán ghét bàn thờ,
                                thánh điện của Người, Người cũng ghê tởm.
                                Tường luỹ các dinh thự của Người,
                                Người trao nộp vào tay địch thủ.
                                Chúng hò la trong Nhà ĐỨC CHÚA, như trong buổi hội hè.

Khết                    8 ĐỨC CHÚA đã tính chuyện tàn phá tường luỹ của thiếu nữ Xi-on.
                                Người đã giăng dây đo, quyết thẳng tay tiêu diệt tới cùng.
                                Tường trong luỹ ngoài, Người gieo tang tóc:
                                tất cả cùng ảm đạm thê lương.

Tết                       9 Cổng thành bị sụt sâu dưới đất, Người phá tung, bẻ gãy then cài.
                                Vua cùng thủ lãnh đi biệt xứ, giữa chư dân sống kiếp đoạ đày.
                                Pháp luật đâu còn nữa;
                                ngôn sứ chẳng được thấy thị kiến do ĐỨC CHÚA ban cho.

Giốt                     10 Hàng kỳ mục của thiếu nữ Xi-on
                                ngồi thinh lặng ngay trên thềm đất,
                                đầu rắc đầy tro bụi, mình mặc áo vải thô.
                               Các cô trinh nữ Giê-ru-sa-lem gục đầu sát đất.

Cáp                       11 Suối lệ tuôn trào đến mòn đôi mắt,
                                ruột gan tôi đòi đoạn, tâm can tôi rối bời;
                                vì con gái dân tôi rã rời tan nát,
                               còn lũ sơ sinh và bầy trẻ dại
                               gục ngã khắp quảng trường.

La-mét                  12 Lũ trẻ thơ hoài công hỏi mẹ: “Bánh con đâu? “,
                                rồi ngã gục trên quảng trường thành phố,
                                tựa như người bị đâm:
                                chúng trút linh hồn ngay trên tay mẹ.

Mêm                      13 Hỡi thiếu nữ Giê-ru-sa-lem, ví ngươi cùng ai, sánh ngươi với ai?
                                Này trinh nữ, cô gái Xi-on, ai cứu được ngươi, ai ủi an ngươi?
                                Tai hoạ ngươi mắc phải lớn quá rồi,
                                lớn tựa trùng dương, ai chữa nổi?

Nun                       14 Ngôn sứ của ngươi tỏ cho ngươi thấy
                                toàn điều hư ảo, toàn chuyện khói mây,
                                còn lỗi lầm ngươi, chúng không vạch rõ
                               để đảo ngược vận số của ngươi.
                               Điều chúng thấy là điều huyền hoặc,
                               chỉ đưa ngươi vào ảo tưởng mà thôi.

Xa-méc                15 Thiếu nữ Giê-ru-sa-lem ơi, kẻ qua người lại nhạo báng ngươi,
                                vỗ tay, huýt sáo, lắc đầu cười: “Phải chăng đây Đô Thị
                                từng được gọi là tuyệt thế giai nhân,
                                là niềm vui cho toàn cõi địa cầu?”

Pê                          16 Mọi kẻ thù há miệng hăm ngươi,
                                huýt sáo, nghiến răng, bọn chúng nói:
                                “Phen này ta nuốt sống ăn tươi.
                                Ngày ta chờ đợi nay đã đến, ngày đó, ta đã thấy đây rồi.”

A-in                       17 ĐỨC CHÚA thi hành điều Người đã quyết,
                                thực hiện lời Người đã phán xưa,
                                lời Người truyền dạy từ bao thuở,
                                nên đã diệt trừ, chẳng chút xót thương.
                                Người làm cho kẻ thù ngươi hả hê sung sướng,
                                tăng sức mạnh cho kẻ chống đối ngươi.

Xa-đê                   18 Tự đáy lòng, hãy kêu lên Chúa,
                                hỡi tường thành của thiếu nữ Xi-on!
                                Cứ để mặc suối lệ ngươi tuôn chảy, ngày đêm chẳng khi ngừng.
                                Chớ khi nào ngơi nghỉ, cũng đừng để dòng lệ khô đi.

Cốp                     19 Đứng dậy đi, la lên trong đêm tối,
                                khi năm canh chỉ mới bắt đầu!
                               Trước nhan Chúa, hãy trút niềm tâm sự, giơ tay hướng về Người
                               mà cầu cho sinh mạng của đoàn con đang lịm dần vì đói
                               đầu đường, góc phố, khắp nơi nơi.

Rết                     20 Lạy ĐỨC CHÚA, xin nhìn xem cho kỹ,
                               Ngài đối xử thế này với ai đây?
                               Làm sao người mẹ đành ăn thịt
                               những đứa con mình bồng bế trên tay?
                               Làm sao tư tế và ngôn sứ
                               lại bị giết ngay trong thánh điện Ngài?

Sin                      21 Ngoài phố, em bé với cụ già nằm la liệt,
                               thanh niên và thiếu nữ ngã gục dưới lưỡi gươm.
                               Ngày phẫn nộ, Ngài thẳng tay tàn sát,
                               Ngài tiêu diệt, chẳng chút xót thương.

Tau                    22 Bao nỗi kinh hoàng từ bốn phương kéo tới
                               như người ta trẩy hội:
                               Ngài đã gọi chúng đến bủa vây tôi.
                               Ngày ĐỨC CHÚA nổi trận lôi đình,
                               không ai thoát nạn, không người sống sót.
                               Những đứa con tôi bế bồng nuôi dưỡng,
                               nay địch quân giết chết cả rồi.

BÀI THỨ BA
3

A-lép                   1 Tôi là người đã sống cảnh lầm than
                               dưới làn roi giận dữ của Người.
                                      2 Người dẫn tôi, bắt tôi lần bước,
                               trong tối tăm, không ánh sáng soi đường.
                                      3 Suốt ngày Người ra tay
                               hành hạ tôi đủ cách.

Bết                      4 Da thịt tôi, Người khiến phải hao mòn,
                               xương cốt tôi, Người làm cho rời rã.
                                      5 Người đắp ụ nhằm tấn công tôi,
                               vùi dập tôi trong cay đắng nhục nhằn.
                                      6 Người nhốt tôi trong ngục tù tăm tối,
                               như những kẻ đã chết tự ngàn xưa.

Ghi-men            7 Người xây tường vây kín lấy tôi, tôi không sao trốn thoát.
                               Xiềng xích tôi, Người làm cho thêm nặng.
                                     8 Tôi kêu la cầu cứu, Người cũng bịt miệng tôi,
                              không để tôi khẩn nguyện.
                                     9 Người lấy đá hộc chận đường tôi,
                              xoá lối đi khiến tôi phải lạc hướng.

Đa-lét                10 Người là con báo rình rập tôi,
                              là sư tử chờ mồi trong bóng tối.
                                    11 Người để tôi lạc lối nhằm xé xác phanh thây,
                              bỏ mặc tôi cô đơn tiều tuỵ.
                                    12 Người giương nỏ nhắm tôi,
                              tôi trở thành mục tiêu cho Người bắn.

Hê                      13 Người rút tên trong ống
                              bắn vào tạng phủ tôi.
                                    14 Tôi nên trò cười cho thiên hạ,
                             nên vè vãn suốt ngày họ nghêu ngao.
                                    15 Người ép tôi nuốt cay ngậm đắng,
                             rượu bồ hòn bắt uống cho say.

Vau                   16 Răng tôi, Người bắt nhai đá sỏi,
                             xác tôi, Người vùi dập dưới đống tro.
                                    17 Hồn tôi hết được bình an thư thái,
                             tôi đã quên mùi hạnh phúc rồi.
                                    18 Tôi tự nhủ: cuộc sống của mình nay chấm dứt,
                            hy vọng nơi ĐỨC CHÚA cũng tiêu tan.

Da-in                 19 Xin nhớ đến nỗi khốn cùng của con,
                            và cuộc đời con vất vưởng nuốt cay ngậm đắng.
                                    20 Nỗi niềm riêng canh cánh bên lòng,
                            khiến hồn con tiêu hao mòn mỏi.
                                    21 Đây là điều con suy đi gẫm lại,
                            nhờ thế mà con vững dạ cậy trông:

Khết                22 Lượng từ bi ĐỨC CHÚA đâu đã cạn,
                            lòng thương xót của Người mãi không vơi.
                                   23 Sáng nào Người cũng ban ân huệ mới.
                           Lòng trung tín của Người cao cả biết bao!
                                  24 Tôi tự nhủ: “ĐỨC CHÚA là phần sản nghiệp của tôi,
                           vì thế nơi Người, tôi trông cậy.”

Tết                   25 ĐỨC CHÚA xử tốt với ai tin cậy Người,
                           với ai hết lòng tìm kiếm Chúa.
                                 26 Biết thinh lặng đợi chờ,
                           đợi chờ ơn cứu độ của ĐỨC CHÚA, đó là một điều hay.
                                  27 Cũng là một điều hay cho người nào
                           phải mang ách từ khi còn trẻ.

Giốt                 28 Khi chính Chúa bắt nó phải mang,
                           nó hãy cứ ngồi im lặng một mình,
                                  29 cứ đặt miệng nó trong bụi đất
                          – may ra còn chút hy vọng nào chăng –
                                  30 nó cứ đưa má cho kẻ tát,
                          chuốc lấy cho mình đầy nỗi nhuốc nhơ.

Cáp                  31 Vì quả thật, Đức Chúa chẳng bỏ rơi mãi mãi:
                                 32 có làm khổ, Người cũng xót thương,
                          vì Người vốn từ bi cao cả;
                                 33 có hạ nhục và làm khổ người ta, Người cũng chẳng vui vẻ gì.

La-mét             34 Chà đạp dưới chân hết mọi tù nhân trong xứ sở;
                                  35 tráo trở để không tôn trọng quyền lợi kẻ khác
                          trước mặt Đấng Tối Cao;
                                 36 gây thiệt hại cho người khi kiện tụng:
                          tất cả những điều này,
                          lẽ nào Đức Chúa lại không thấy?

Mêm               37 Ai chỉ nói một lời là có mọi sự?
                         Chẳng phải Đức Chúa đã phán truyền hay sao?
                                38 Chẳng lẽ mọi điều lành điều dữ
                         không xuất hiện do miệng Đấng Tối Cao?
                               39 Sao con người cứ than thân trách phận
                        mà không sống cho ra người, tránh xa tội lỗi?

Nun                40 Mọi nẻo đường của ta, ta hãy xem đi xét lại,
                        và trở về cùng ĐỨC CHÚA.
                               41 Hãy giơ tay và hướng lòng lên Đức Chúa,
                        là Đấng ngự trên trời.
                               42 Chúng con đắc tội, chúng con phản phúc,
                        Ngài thì Ngài chẳng dung tha.

Xa-méc          43 Ngài ẩn mình trong cơn thịnh nộ,
                        đuổi bắt và tiêu diệt chúng con chẳng chút khoan hồng.
                               44 Ngài ẩn mình thật kín giữa ngàn mây thẳm,
                       khiến lời kinh không sao vọng tới.
                               45 Ngài biến chúng con thành rác rưởi,
                       thành đồ phế thải giữa chư dân.

Pê                   46 Hết mọi kẻ thù của chúng tôi
                       đều há miệng hằm hè khiêu khích.
                               47 Số phận của chúng tôi là vực thẳm và kinh hoàng,
                       là đổ nát và tan hoang.
                               48 Mắt tôi trào suốt lệ
                       thương con gái dân tôi tàn phế.

A-in                49 Mắt tôi thành suối không ngừng chảy,
                      cứ chảy mãi không ngừng,
                               50 cho đến khi, từ trời cao thẳm,
                      ĐỨC CHÚA nhìn xem và trông thấy tỏ tường.
                              51 Mắt tôi làm cho tôi nhức nhối,
                      vì cảm thương mọi thiếu nữ Thành Đô.

Xa-đê           52 Những người thù ghét tôi vô cớ
                       đuổi xua tôi như thể đuổi chim.
                              53 Chúng chôn sống tôi trong một cái hố,
                      rồi lấy đá lấp lại.
                              54 Nước dâng lên ngập đầu,
                      tôi thốt lên: “Chết mất!”

Cốp             55 Từ hố sâu, thân lạy ĐỨC CHÚA,
                     con kêu khấn danh Ngài.
                             56 Ngài đã nghe con cầu nguyện kêu van,
                     xin đừng giả điếc làm ngơ nữa!
                             57 Chúa ở bên con ngày con kêu Chúa,
                    Ngài đã phán: “Đừng sợ hãi chi!”

Rết              58 Ngài biện hộ cho con, lạy Chúa,
                   và chuộc lấy mạng con.
                           59 Con bị oan, Ngài đã thấy rõ,
                   lạy ĐỨC CHÚA, xin minh xử cho con.
                           60 Ngài đã thấy chúng căm gan giận dữ,
                   tìm mọi âm mưu chống lại con.

Sin               61 Lạy ĐỨC CHÚA, Ngài đã nghe những lời lăng nhục,
                   và mọi điều chúng mưu tính hại con,
                            62 với những lời thì thầm bàn tán
                   suốt ngày chống lại con.
                            63 Xin Ngài thấy cho: chúng ngồi hay đứng,
                   con cũng thành vè cho chúng nghêu ngao.

Tau              64 Lạy ĐỨC CHÚA, xin Ngài đáp trả
                   tuỳ theo những việc tay chúng làm.
                           65 Xin cho lòng chúng ra cứng cỏi,
                   giáng trên chúng lời nguyền rủa của Ngài.
                            66 Trong cơn thịnh nộ, xin xua đuổi và tiêu diệt chúng,
                   cho chúng khuất dạng khỏi gầm trời.

BÀI THỨ TƯ
4

A-lép               1 Làm sao vàng lại phai nhạt được?
                          Vàng tinh khiết nhất cũng biến chất rồi!
                          Đá thánh nằm vung vãi mọi đầu đường góc phố.

Bết                  2 Những người con ưu tú của Xi-on quý giá tựa vàng ròng,
                          sao lại bị coi thường như bình đất
                          do tay người thợ gốm làm ra?

Ghi-men          3 Ngay cả lũ chó rừng cũng biết chìa vú cho con bú,
                          thế mà con gái dân tôi lại dữ dằn hung bạo
                          như đà điểu chốn hoang địa khô cằn.

Đa-lét               4 Bé thơ măng sữa, vì quá khát, nên lưỡi dính với hàm;
                          còn đám trẻ nhỏ đòi ăn bánh, nhưng nào có ai cho!

Hê                     5 Những người từng thưởng thức cao lương mỹ vị
                          nay gục chết ngoài đường,
                          những kẻ được dưỡng nuôi trong nhung lụa
                          nay phải bốc phân dơ.

Vau                   6 Thiếu nữ dân tôi gian ác tầy trời
                          vượt xa cả Xơ-đôm tội lỗi;
                          thành đó bị đổ nhào trong nháy mắt,
                          chẳng cần ai phải nhúng tay vào.

Da-in                7 Đám thanh niên mới ngày nao rạng ngời hơn tuyết,
                          trắng hơn cả sữa tươi,
                         thân mình đẹp hơn san hô thắm đỏ,
                         da dẻ mịn màng tựa ngọc xanh.

Khết               8 Nay mặt chúng đen như mồ hóng,
                         ngoài đường phố không thể nhận ra,
                         chỉ còn da bọc xương, khô đét như khúc gỗ.

Tết                 9 Chết vì gươm đâm còn may mắn hơn chết vì đói lả,
                        bởi vì người chết đói
                        chẳng được ăn hoa quả ruộng đồng.

Giốt               10 Những bà mẹ vốn dịu hiền âu yếm
                        lại đang tay nấu thịt con mình,
                        biến chúng thành của ăn
                        ngày con gái dân tôi lâm cơn cùng khốn.

Cáp                  11 ĐỨC CHÚA đã đùng đùng nổi giận
                          trút hết cơn thịnh nộ xuống Xi-on,
                          khiến bùng lên ngọn lửa thiêu huỷ cả móng nền.

La-mét            12 Vua chúa trần gian cùng dân cư thế giới
                          không làm sao tin nổi
                          rằng kẻ thù cùng với quân áp bức
                          lại qua được cửa thành Giê-ru-sa-lem.

Mêm                13 Âu cũng chỉ vì ngôn sứ tội lỗi,
                           vì tư tế đồi bại quá đi thôi:
                           ngay ở giữa thành, họ ra tay đổ máu người công chính.

Nun                 14 Họ như người mù lang thang ngoài đường phố,
                           mình mẩy đầy máu me;
                           ngay cả áo xống họ, chẳng ai dám đụng tới!

Xa-méc           15 Người ta kêu: “Đồ dơ bẩn đó! Tránh đi thôi!
                           Tránh đi! Tránh đi! Đừng đụng tới chúng! “
                           Chúng có trốn, có trôi dạt đến đâu,
                           dân ngoại cũng sẽ nói: “Chúng không ở đây được.”

Pê                     16 Thánh nhan ĐỨC CHÚA phân tán chúng,
                            chẳng nhìn đến chúng nữa.
                           Tư tế không dám ngẩng mặt lên,
                            kỳ mục chẳng được ai đoái đến.

A-in                 17 Phần chúng tôi vẫn mỏi mắt mong chờ,
                            chờ mong cứu giúp cũng luống công.
                            Từ vọng canh, chúng tôi ngóng đợi,
                            đợi một dân chẳng cứu nổi ai.

Xa-đê              18 Bước chân chúng tôi, quân thù dò xét,
                            không cho bén mảng tới quảng trường.
                            Tận số rồi, đời chúng tôi đã hết,
                            quả chúng tôi đã đến ngày tàn!

Cốp                19 Những người săn đuổi chúng tôi lanh lẹ quá,
                           hơn cả đại bàng giữa trời xanh.
                           Chúng rượt đuổi chúng tôi trên đồi núi,
                           nơi hoang địa gài bẫy bắt chúng tôi.

Rết                20 Đấng được ĐỨC CHÚA xức dầu,
                           và từng là lẽ sống của chúng tôi,
                           đấng ngày xưa chúng tôi đã nói
                          “giữa chư dân, ta núp bóng người”, thì nay sa hố quân thù đào sẵn.

Sin                  21 Hãy vui lên, hãy nhảy mừng, hỡi thiếu nữ Ê-đôm
                           đang cư ngụ trong miền đất Út:
                          chén lôi đình rồi cũng đến lượt ngươi phải uống,
                          say ngất say ngư, ngươi sẽ tự lột trần.

Tau                22 Hỡi thiếu nữ Xi-on, tội vạ ngươi đã được tẩy xoá,
                          ngươi chẳng còn phải đi lưu đày nữa.
                          Còn ngươi, hỡi thiếu nữ Ê-đôm,
                         sự gian ác của ngươi, Người sẽ trừng trị,
                         tội lỗi của ngươi, Người sẽ lột trần.

BÀI THỨ NĂM
5

1 Lạy ĐỨC CHÚA, xin Ngài nhớ cho:
chúng con khổ cực biết chừng nào.
Xin đưa mắt nhìn xem
nỗi nhục nhằn chúng con phải chịu.

2 Sản nghiệp chúng con đã về tay ngoại kiều,
nhà cửa chúng con lại thuộc về kẻ khác.

3 Chúng con mồ côi cha
mẹ chúng con goá bụa.

4 Đến như nước uống còn phải trả tiền,
củi để đun cũng phải mua mới có.

5 Chúng con bị săn đuổi, cổ đeo gông nặng nề,
xác thân rời rã mà chẳng được nghỉ ngơi.

6 Chúng con ngửa tay xin Ai-cập,
chờ Át-sua cho miếng bánh độ thân.

7 Cha ông chúng con phạm tội, nhưng đã khuất,
chúng con nay gánh chịu vạ các ngài gây nên.

8 Đám tôi đòi thống trị chúng con,
chẳng ai cứu chúng con khỏi tay chúng.

9 Chúng con đánh liều vào hoang địa,
bất chấp lưỡi gươm, kiếm bánh về.

10 Da thịt nóng ran như lò lửa,
bụng dạ cồn cào vì cơn đói.

11 Tại Xi-on, chúng hãm hiếp đàn bà,
trong các thành Giu-đa, chúng làm nhục trinh nữ.

12 Chúng tra tay treo cổ các thủ lãnh chúng con,
hàng kỳ mục, chúng chẳng thèm kiêng nể.

13 Đám thanh niên phải khiêng cối đá,
còn thiếu niên lảo đảo dưới khối gỗ nặng nề.

14 Cổng thành vắng bóng hàng kỳ mục,
thanh niên hết đàn ca xướng hát.

15 Tim chúng con hết rạo rực niềm vui,
tang tóc sầu thương thay thế cho vũ điệu.

16 Triều thiên đội đầu nay đã rớt,
khốn thân chúng con: chúng con đã lỗi phạm đến Ngài.

17 Hỏi vì đâu mà lòng chúng con sầu muộn,
vì đâu mắt chúng con mù tối?

18 Âu cũng vì núi Xi-on vắng lặng điêu tàn,
trở thành nơi cho sói rừng lảng vảng.

19 Còn Ngài, lạy ĐỨC CHÚA, Ngài muôn đời tồn tại,
vương quyền Ngài bền vững thiên thu.

20 Sao Ngài đành quên chúng con mãi mãi,
đành bỏ mặc chúng con suốt chuỗi ngày dài?

21 Xin đưa chúng con về với Ngài, lạy ĐỨC CHÚA,
để chúng con trở về.
Xin đổi mới cuộc đời chúng con
cho được như thời xa xưa ấy.

22 Hay Ngài đã thực sự ruồng rẫy chúng con,
đã giận chúng con hết mức rồi?

 

SÁCH BA-RÚC

Ông Ba-rúc và cộng đồng Do-thái ở Ba-by-lon

1.  1 Đây là nội dung quyển sách của ông Ba-rúc con ông Nê-ri-gia, cháu ông Ma-a-xa-gia, cháu ba đời ông Xít-ki-gia, cháu bốn đời ông A-xa-đi-a, cháu năm đời ông Khen-ki-gia. Ông Ba-rúc đã viết sách này tại Ba-by-lon.

2 Năm thứ năm, ngày thứ bảy trong tháng thứ năm, kể từ khi quân Can-đê đánh chiếm và phóng hoả thành Giê-ru-sa-lem,3 ông Ba-rúc đã đọc sách này trước mặt vua Giơ-khon-gia, con vua nước Giu-đa là Giô-gia-kim, trước mặt toàn dân đến nghe và4 trước mặt các bậc vị vọng, hoàng thân và kỳ mục, trước mặt toàn dân, cả trẻ con lẫn người lớn, trước mặt mọi người cư ngụ tại Ba-by-lon bên sông Sút.5 Bấy giờ, trước nhan Đức Chúa, tất cả đều khóc lóc, ăn chay và cầu nguyện;6 rồi người ta đóng góp tiền bạc, mỗi người theo khả năng của mình,7 và gửi về Giê-ru-sa-lem cho tư tế Giô-gia-kim con ông Khen-ki-gia, cháu ông Sa-lom, cho các tư tế khác và toàn dân đang ở với ông ấy tại Giê-ru-sa-lem.8 Trước đó, vào ngày mồng mười tháng Siu-van, chính ông Ba-rúc đã đem trả lại xứ Giu-đa các vật dụng thuộc về Nhà Đức Chúa, xưa kia đã bị đưa đi khỏi Đền Thờ. Đó là những bình bằng bạc mà vua Xít-ki-gia-hu, con vua Giu-đa là Giô-si-gia-hu đã làm,9 sau khi Na-bu-cô-đô-nô-xo, vua Ba-by-lon, bắt vua Giơ-khon-gia rời khỏi Giê-ru-sa-lem, đưa đi đày tại Ba-by-lon, cùng với các thủ lãnh, tù nhân, các bậc vị vọng và toàn dân.

10 Họ nói: “Đây là tiền chúng tôi gửi về cho anh em, xin dùng để mua sắm lễ vật toàn thiêu, lễ vật đền tội và hương thơm; hãy chuẩn bị lễ phẩm rồi dâng trên bàn thờ Đức Chúa là Thiên Chúa chúng ta.11 Hãy cầu nguyện cho Na-bu-cô-đô-nô-xo vua Ba-by-lon, cũng như cho thái tử Bên-tát-xa được an khang trường thọ như trời cao đất dày.12 Xin Chúa ban cho chúng tôi được can đảm và sáng suốt, cho chúng tôi được núp bóng Na-bu-cô-đô-nô-xo vua Ba-by-lon và thái tử Bên-tát-xa, cho chúng tôi được phục vụ các ngài dài lâu và làm đẹp lòng các ngài mãi mãi.13 Xin anh em cũng cầu nguyện cùng Đức Chúa là Thiên Chúa chúng ta cho chính chúng ta nữa, vì chúng ta đã xúc phạm đến Đức Chúa là Thiên Chúa chúng ta, và cho đến ngày nay, trận lôi đình thịnh nộ của Đức Chúa đối với chúng ta vẫn chưa nguôi.14 Vậy sách chúng tôi gửi cho anh em đây, hãy đọc mà xưng thú tội lỗi trong Nhà Đức Chúa vào ngày lễ Lều và những ngày thuận tiện.15 Sau đây là nội dung:

I. LỜI NGUYỆN CỦA NHỮNG NGƯỜI LƯU ĐÀY

Xưng thú tội lỗi

Đức Chúa, Thiên Chúa chúng tôi, quả là Đấng công minh; còn chúng tôi, những người Giu-đa và cư dân Giê-ru-sa-lem, 16 các vua và thủ lãnh, tư tế và ngôn sứ cũng như các bậc cha ông, chúng tôi phải hổ ngươi bẽ mặt như ngày hôm nay thì cũng đáng,17 vì tất cả chúng tôi đã phạm tội trước nhan Đức Chúa,18 đã bất tuân, không nghe tiếng Đức Chúa là Thiên Chúa chúng tôi, không vâng theo các mệnh lệnh Đức Chúa đã đề ra trước mắt chúng tôi.19 Từ ngày Đức Chúa đưa cha ông chúng tôi ra khỏi đất Ai-cập cho tới ngày nay, chúng tôi vẫn bất tuân đối với Đức Chúa là Thiên Chúa chúng tôi, vẫn làm ngơ không chịu nghe tiếng Người.20 Cho nên, như sự việc xảy ra hôm nay đây, những bất hạnh và lời nguyền rủa vẫn đeo đuổi chúng tôi, đúng như Đức Chúa đã tuyên bố với ông Mô-sê tôi tớ Người, ngày Người đưa cha ông chúng tôi ra khỏi Ai-cập để ban cho chúng tôi miền đất tràn trề sữa và mật.21 Chúng tôi đã không vâng nghe tiếng Đức Chúa là Thiên Chúa chúng tôi, không tuân giữ mọi lời các ngôn sứ Người đã sai đến với chúng tôi.22 Mỗi người chúng tôi đã cứ theo lòng dạ xấu xa ngoan cố của mình mà phục dịch các thần khác, và làm điều dữ trước mặt Đức Chúa là Thiên Chúa chúng tôi.

2.

1 Vì thế Đức Chúa thi hành lời đã phán liên quan đến chúng tôi, đến các thẩm phán lãnh đạo Ít-ra-en, đến các vua và thủ lãnh của chúng tôi, đến người Ít-ra-en và Giu-đa.2 Dưới cả vòm trời này, chưa hề xảy ra điều gì giống điều Người đã thực hiện tại Giê-ru-sa-lem, như đã chép trong Luật Mô-sê:3 đến độ trong chúng tôi, kẻ ăn thịt con trai, người ăn thịt con gái của mình.4 Người còn bắt các ngài luỵ phục tất cả các vương quốc chung quanh chúng tôi, khiến các ngài nên trò ô nhục, nên đồ ghê tởm giữa mọi dân chung quanh, nơi Đức Chúa đã phân tán các ngài đến.5 Như thế các ngài là những kẻ bị trị, chứ không phải là những người cai trị, bởi vì chúng tôi đã xúc phạm đến Đức Chúa là Thiên Chúa chúng tôi, không vâng nghe tiếng Người.

6 Đức Chúa, Thiên Chúa chúng tôi quả là Đấng công minh, còn chúng tôi cũng như cha ông chúng tôi có phải hổ ngươi bẽ mặt như ngày hôm nay thì cũng đáng.7 Tất cả những tai hoạ Đức Chúa đe sẽ dùng mà trừng phạt chúng tôi, đã xảy đến cho chúng tôi rồi.8 Thế mà chúng tôi chẳng cầu xin tôn nhan Đức Chúa giúp mỗi người từ bỏ những tư tưởng xấu xa trong tâm hồn.9 Cho nên Đức Chúa đã canh chừng và đã giáng những tai hoạ ấy xuống trên chúng tôi; vì trong mọi việc Đức Chúa đã khiến xảy ra cho chúng tôi, Người thật là Đấng công minh.10 Còn chúng tôi, chúng tôi đã không nghe tiếng Người, không vâng theo các mệnh lệnh Đức Chúa đã đề ra trước mặt chúng tôi.

Lời cầu khẩn

11 Giờ đây, lạy Đức Chúa là Thiên Chúa Ít-ra-en, Người đã dang cánh tay mạnh mẽ uy quyền, dùng dấu lạ điềm thiêng, dùng sức mạnh lớn lao mà đưa dân Ngài ra khỏi đất Ai-cập, khiến cho danh Ngài rạng rỡ như hiện nay.12 Lạy Đức Chúa là Thiên Chúa chúng con, chúng con đã phạm tội, đã làm điều gian ác, đã ăn ở bất chính, ngược với mọi điều Ngài truyền dạy.13 Xin cho cơn lôi đình của Ngài rời xa chúng con, vì giữa chư dân, nơi Ngài phân tán chúng con, chúng con chỉ còn lại rất ít.14 Lạy Đức Chúa, xin lắng nghe lời chúng con cầu xin khẩn nguyện: vì danh Ngài, xin giải thoát chúng con và làm cho các kẻ đã đày ải chúng con có thiện cảm với chúng con.15 Như vậy, toàn cõi đất sẽ biết rằng Ngài là Đức Chúa, Thiên Chúa chúng con, và cũng biết rằng Ít-ra-en cùng dòng dõi ông được mang danh Ngài.16 Lạy Đức Chúa, từ thánh điện Ngài, xin đoái nhìn, xin nghĩ đến chúng con; lạy Đức Chúa, xin ghé tai nghe,17 lạy Đức Chúa, xin đưa mắt nhìn xem: vì những kẻ sẽ ca ngợi vinh quang và sự công chính của Đức Chúa không phải là những kẻ đã chết, đang ở trong âm phủ, những kẻ đã trút hơi thở cuối cùng,18 nhưng là những tâm hồn trăm bề đau khổ, thân xác lom khom rời rã, chân lê bước, mắt lờ đờ, bụng đói lả; lạy Đức Chúa, chính những tâm hồn này mới ca ngợi vinh quang và sự công chính của Ngài.

19 Vì lạy Đức Chúa là Thiên Chúa chúng con, chúng con không dựa vào công đức của cha ông và vua chúa chúng con mà giãi bày cơ sự trước nhan Ngài.20 Ngài đã trút lôi đình thịnh nộ trên chúng con, như Ngài đã dùng các ngôn sứ là các tôi tớ Ngài mà phán:21 “Đức Chúa dạy rằng: Hãy khom lưng xuống làm tôi vua Ba-by-lon, rồi các ngươi sẽ được ở lại trên đất Ta đã ban cho cha ông các ngươi.22 Còn nếu các ngươi không nghe tiếng Đức Chúa phán dạy mà làm tôi vua Ba-by-lon,23 thì Ta sẽ làm cho các thành thị Giu-đa và ngay trong Giê-ru-sa-lem im bặt tiếng hò reo tưng bừng rộn rã, tiếng cô dâu chú rể gọi nhau, cả xứ sẽ trở nên chốn hoang vu không người cư ngụ.”24 Nhưng chúng con đã không nghe theo tiếng Ngài phán bảo phải làm tôi vua Ba-by-lon, cho nên Ngài đã cứ những lời Ngài đã dùng các ngôn sứ tôi tớ Ngài mà phán, là xương cốt của các vua, cũng như xương cốt của cha ông chúng con sẽ bị lôi ra khỏi mồ.25 Các ngài đã chết vì những cực hình ghê gớm: đói khát, gươm đao, ôn dịch; và giờ đây xương cốt bị dầm sương giãi nắng đêm ngày.26 Ngôi nhà được dành riêng để cầu khẩn Thánh Danh, Ngài đã làm cho ra nông nỗi này, âu cũng vì tội ác nhà Ít-ra-en và nhà Giu-đa đã phạm.

27 Dầu vậy, lạy Đức Chúa là Thiên Chúa chúng con, Ngài đã lấy hết lượng khoan dung và lòng từ bi cao cả của Ngài mà xử với chúng con,28 như Ngài đã dùng tôi tớ Ngài là ông Mô-sê mà phán, khi truyền cho ông chép Lề Luật của Ngài trước mặt con cái Ít-ra-en, nội dung như sau:29 “Nếu các ngươi không nghe Ta, thì giữa chư dân, nơi Ta sẽ phân tán chúng, đám dân vĩ đại và đông đảo này chắc chắn sẽ trở thành nhỏ bé.30 Ta vẫn biết rằng chúng sẽ chẳng nghe Ta đâu, vì đó là một dân cứng cổ. Nhưng trên đất lưu đày, chúng sẽ hồi tâm,31 và sẽ biết rằng Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của chúng. Ta sẽ ban cho chúng một trái tim và đôi tai biết lắng nghe.32 Trên đất lưu đày, chúng sẽ ca ngợi Ta, và sẽ tưởng nhớ danh Ta.33 Chúng không còn cứng cổ nữa, cũng sẽ chẳng có những hành động xấu xa, vì chúng sẽ nhớ lại cách ăn nết ở của cha ông chúng, những kẻ đã phạm tội trước nhan Đức Chúa.34 Rồi Ta sẽ đưa chúng trở về đất Ta đã thề hứa ban cho tổ tiên chúng là Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp; chúng sẽ làm chủ đất ấy. Ta sẽ làm cho chúng gia tăng và chúng sẽ không giảm bớt nữa.35 Ta sẽ thiết lập với chúng một giao ước muôn đời, theo đó Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, còn chúng sẽ là dân của Ta. Ta sẽ không còn xua đuổi Ít-ra-en dân Ta khỏi đất Ta đã ban cho chúng nữa.”

3.

1 Lạy Đức Chúa toàn năng là Thiên Chúa Ít-ra-en, kẻ kêu cầu Ngài đây là một tâm hồn sầu muộn và một lòng trí rã rời.2 Lạy Đức Chúa, xin lắng nghe, xin thương xót, vì chúng con đã phạm tội trước nhan Ngài.3 Vì Ngài là Đấng muôn đời hiển trị; còn chúng con thì mãi mãi tiêu vong.4 Vậy, lạy Đức Chúa toàn năng là Thiên Chúa Ít-ra-en, xin nghe lời khẩn nguyện của chúng con là những tử vong Ít-ra-en, là con cháu những người xưa kia đã xúc phạm đến Ngài, đã chẳng nghe tiếng Đức Chúa là Thiên Chúa các vị ấy, để ngày nay những bất hạnh này vẫn bám sát chúng con.5 Xin đừng chấp tội cha ông chúng con, nhưng trong giờ phút này, xin nhớ đến cánh tay và thánh danh Ngài.6 Vâng, Ngài là Đức Chúa, Thiên Chúa chúng con, và lạy Đức Chúa, chúng con sẽ ca tụng Ngài.7 Sở dĩ Ngài đã ban cho chúng con lòng kính sợ Ngài là để chúng con kêu cầu Thánh Danh. Nơi lưu đày, chúng con sẽ ca tụng Ngài, vì chúng con đã loại khỏi tâm hồn chúng con mọi điều gian ác cha ông chúng con đã phạm trước nhan Ngài.8 Hôm nay đây, chúng con đang ở nơi lưu đày, nơi Ngài đã phân tán chúng con, khiến chúng con thành trò ô nhục, thành lời nguyền rủa, thành khoản bồi hoàn cho tất cả những điều gian ác của cha ông chúng con, những người đã từ bỏ Đức Chúa là Thiên Chúa chúng con.

II. ƠN KHÔN NGOAN DÀNH CHO ÍT-RA-EN

9 Nghe đi nào, hỡi Ít-ra-en,
những mệnh lệnh tặng ban sự sống,
hãy lắng tai hiểu lẽ khôn ngoan.

10 Vì đâu, Ít-ra-en hỡi, vì đâu
ngươi phải nương thân trên đất thù địch,
phải mòn hao nơi xứ lạ quê người?

11 Vì đâu ngươi bị nhiễm uế giữa đám thây ma,
phải nằm chung với những người ở trong âm phủ?

12 Âu cũng vì ngươi đã bỏ Nguồn Mạch Khôn Ngoan.

13 Nếu ngươi cứ bước đi theo đường Đức Chúa,
hẳn muôn đời ngươi đã được an vui.

14 Hãy học cho biết đâu là khôn ngoan,
đâu là sức mạnh, đâu là thông hiểu,
đâu là trường thọ và sự sống,
đâu là ánh sáng soi con mắt, và đâu là bình an.

15 Nhưng ai tìm thấy nơi cự ngụ,
và vào được kho tàng của đức khôn ngoan?

16 Đâu cả rồi, thủ lãnh các dân tộc,
kẻ bá chủ muông thú địa cầu,
17 kẻ lấy chim trời làm trò tiêu khiển?
Đâu cả rồi kẻ chuyên lo tích trữ bạc vàng,
là những thứ người đời luôn tin tưởng,
có chiếm được bao nhiêu cũng không vừa?

18 Đâu cả rồi những kẻ làm ra bạc,
nhọc lòng mà kết quả vẫn là không?

19 Tất cả đều khuất bóng, đều đi vào âm phủ,
nhường chỗ cho kẻ khác vươn lên.

20 Một lớp người trẻ hơn đã nhìn thấy ánh sáng,
đã cư ngụ trên chốn dương gian:
nhưng đường hiểu biết, chúng chẳng am tường,
21 nẻo khôn ngoan, chúng không thông hiểu.
Cả con cái chúng cũng không nắm vững,
cứ mãi ở xa đường lối khôn ngoan.

22 Tại Ca-na-an, không ai nghe nói đến,
cũng chẳng ai nhìn thấy tại Tê-man.

23 Ngay cả đám con cháu Ha-ga,
những kẻ trên đời chuyên tìm kiến thức,
bọn thương gia Me-ran và Tê-man,
những kẻ ưa kể chuyện thần thoại, chuyên tìm kiến thức:
trong bọn họ, đường nẻo khôn ngoan
chẳng ai am tường, chẳng ai nhớ đến.

24 Hỡi Ít-ra-en, nhà Thiên Chúa ngự lớn lao biết mấy,
lãnh địa của Người bát ngát dường bao,
25 lớn lao vô hạn, cao cả khôn lường!

26 Tại đó, từ nguyên thủy đã sinh ra
những kẻ khổng lồ tiếng tăm lừng lẫy,
vóc dáng to cao, thạo nghề chinh chiến.

27 Nhưng những người này, Thiên Chúa không chọn,
cũng chẳng dạy cho con đường hiểu biết.

28 Vì thiếu hiểu biết, họ đã tiêu vong,
đã tiêu vong, vì họ điên rồ.

29 Ai lên trời chiếm được khôn ngoan,
rời khỏi tầng mây mà đưa xuống?

30 Ai vượt trùng dương để mong tìm được,
rồi lấy vàng y đổi đem về?

31 Đường khôn ngoan, nào ai biết được,
nẻo khôn ngoan, mấy kẻ quan tâm?

32 Chỉ mình Đấng Toàn Tri mới biết đức khôn ngoan,
chỉ có trí tuệ Người mới thông suốt được.
Người đã thiết lập cõi đất cho bền vững muôn đời,
đã cho thú vật tràn đầy mặt đất.

33 Người sai ánh sáng, ánh sáng liền đi;
gọi ánh sáng lại, ánh sáng run rẩy vâng lời.

34 Các tinh tú, mỗi ngôi ở vị trí mình, tưng bừng chiếu sáng.

35 Người gọi chúng, chúng thưa: Có mặt,
và hân hoan chiếu sáng mừng Đấng tạo nên mình.

36 Chính Người là Thiên Chúa chúng ta,
chẳng có ai sánh được như Người.

37 Mọi nẻo đường đưa tới hiểu biết, Người đều tinh thông,
chính Người đã vạch ra cho Gia-cóp, tôi trung của Người,
cho Ít-ra-en, kẻ Người yêu quý.

38 Rồi đức khôn ngoan xuất hiện trên mặt đất
và đã sống giữa loài người.

4.

1 Đức khôn ngoan là huấn giới của Thiên Chúa ghi trong Sách Luật,
Luật tồn tại cho đến muôn đời.Ai gắn bó với Lề Luật thì sẽ được sống;
còn ai lìa bỏ ắt sẽ phải chết.

2 Hỡi Gia-cóp, hãy quay trở về đón nhận Lề Luật,
hãy dõi theo ánh sáng của Lề Luật
mà tiến bước về chốn huy hoàng!

3 Vinh quang của ngươi, chớ nhường cho người khác,
đặc ân của ngươi, đừng trao cho dân ngoại.

4 Hỡi Ít-ra-en, chúng ta có phúc dường nào,
vì được biết những gì làm đẹp lòng Thiên Chúa!

III. GIÊ-RU-SA-LEM THAN VAN VÀ HY VỌNG

5 Can đảm lên nào, hỡi dân Ta!
Hỡi những kẻ mang danh Ít-ra-en!

6 Các ngươi có bị bán cho dân ngoại,
không phải là để bị diệt vong.
Các ngươi có bị trao cho quân thù
âu cũng vì đã chọc giận Thiên Chúa.

7 Quả thật, khi tế lễ cho ma quỷ thay vì cho Thiên Chúa,
các ngươi đã khiêu khích Đấng tạo dựng nên mình.

8 Thiên Chúa vĩnh cửu, Đấng nuôi dưỡng các ngươi,
các ngươi đành quên lãng;
còn Giê-ru-sa-lem, mẹ sinh thành các ngươi,
các ngươi làm cho mẹ phải buồn sầu;
9 buồn vì chứng kiến cơn thịnh nộ của Thiên Chúa
giáng xuống trên đoàn con, và mẹ đã than thở:
Hãy nghe đây, các thành lân cận của Xi-on,
Thiên Chúa đã giáng xuống trên tôi một nỗi buồn thê thảm.

10 Vì tôi đã thấy cảnh lưu đày
Đấng Vĩnh Hằng giáng xuống trên con trai con gái của tôi.

11 Xưa tôi vui mừng nuôi dưỡng chúng,
nay đành phải buồn sầu ứa lệ để cho chúng ra đi.

12 Chớ ai vui mừng vì thấy tôi goá bụa, bị mọi người bỏ rơi;
tôi phải sống đơn độc như thế này
chỉ vì con cái tôi phạm tội, lìa bỏ Lề Luật của Thiên Chúa:

13 Chúng không hay không biết huấn lệnh Người,
chẳng đi theo đường Người chỉ dạy,
chẳng bước theo đường nẻo, chẳng sống theo kỷ cương
phù hợp với sự công chính của Thiên Chúa.

14 Đến đây, hỡi các thành lân cận của Xi-on,
và hãy nhớ lại cảnh tù đày
Đấng Vĩnh Hằng giáng xuống trên con trai, con gái của tôi.

15 Nhằm trừng phạt chúng, Đức Chúa gửi đến một dân xa lạ,
một dân ngạo ngược, nói tiếng không ai hiểu,
già không nể, trẻ không thương.

16 Những đứa con trai yêu của bà goá đã bị dẫn đi xa,
bà chỉ còn trơ trọi một mình, mất luôn cả con gái.

17 Các con ơi, làm sao mẹ giúp các con bây giờ?

18 Đấng đã giáng tai hoạ xuống các con,
chính Người sẽ cứu các con khỏi tay thù địch.

19 Đi đi các con, đi đi thôi, mẹ đành phải ở lại một mình!

20 Mẹ đã cởi áo đẹp của lúc an vui thái bình,
khoác áo thô để van xin khẩn nguyện.
Suốt chuỗi ngày còn sống,
mẹ sẽ gào lên Đấng Vĩnh Hằng.

21 Can đảm lên nào, hỡi các con,
hãy cứ kêu lên cùng Thiên Chúa.
Chính Người sẽ giải thoát các con
khỏi quân bạo tàn, khỏi tay thù địch.

22 Mẹ trông đợi Đấng Vĩnh Hằng,
sẽ ban cho chúng con ơn giải thoát,
Người là Đấng Thánh đã ban cho mẹ niềm vui;
mẹ vui vì nghĩ đến lòng thương xót,
Đấng Vĩnh Hằng, Vị Cứu Tinh của chúng con
sắp đem đến cho chúng con.

23 Nước mắt rưng rưng, lòng buồn tê tái, mẹ đành để các con ra đi.
Nhưng Thiên Chúa sẽ đưa các con về với mẹ,
mẹ con mình sẽ mãi mãi vui sướng hân hoan.

24 Hôm nay đây các thành lân cận của Xi-on
nhìn thấy các con đi lưu đày,
thì chỉ mai này thôi, cũng chính chúng
sẽ thấy các con được Thiên Chúa cứu độ.
Trong ánh sáng huy hoàng, trong vinh quang rực rỡ,
Đấng Vĩnh Hằng sẽ ban ơn cứu độ cho chúng con.

25 Các con ơi, hãy kiên tâm chịu đựng
cơn thịnh nộ Thiên Chúa đổ xuống các con.
– Ngươi đã bị quân thù khủng bố,
nhưng ngươi sẽ sớm thấy nó tan hoang,
nó sẽ bị ngươi đạp đầu đạp cổ -.

26 Những đứa con tôi nâng niu chiều chuộng
nay bước lê trên đường sỏi đá.
Chúng khác chi đàn vật
bị quân thù đánh cướp, bắt đem đi.

27 Các con ơi, can đảm lên nào!
Hãy cứ kêu lên cùng Thiên Chúa,
vì Đấng đã giáng hoạ sẽ lại nhớ đến các con.

28 Xưa các con chỉ nghĩ đến chuyện xa lìa Thiên Chúa,
thì một khi trở về,
các con phải nỗ lực gấp mười mà tìm kiếm Chúa.

29 Vì Đấng đã giáng hoạ xuống các con,
chính Người sẽ giải thoát mà ban cho các con niềm vui vĩnh cửu.

30 Giê-ru-sa-lem, can đảm lên nào:
Đấng đã đặt tên cho ngươi sẽ mang lại cho ngươi niềm an ủi.

31 Khốn cho những kẻ hành hạ ngươi,
và vui sướng vì ngươi sụp đổ!

32 Khốn cho các thành phố và đô thị
đã bắt con cái ngươi phải làm tôi!
Khốn cho thành cướp đoạt con cái ngươi!

33 Nó đã vui mừng thấy ngươi sụp đổ,
đã sung sướng vì ngươi suy vong;
cũng vậy, nó sẽ phải buồn phiền đau đớn,
khi chính nó trở nên đống hoang tàn.

34 Ta sẽ cất đi, không cho nó hưởng
niềm vui của một đô thị đông dân;
nó đã từng kiêu căng ngạo ngược,
thì rồi ra phải ủ dột buồn sầu.

35 Vì lửa của Đấng Vĩnh Hằng trút xuống
sẽ thiêu đốt nó ngày này qua ngày nọ;
và năm này qua năm khác,
nó sẽ thành sào huyệt của quỷ ma.

36 Hãy hướng về phía đông, Giê-ru-sa-lem hỡi,
và nhận ra niềm vui đang đến,
niềm vui Thiên Chúa gửi cho ngươi.

37 Những đứa con ngươi đã để ra đi, này chúng đang tiến về;
từ đông sang tây, chúng tụ họp lại,
và tiến về theo lệnh của Đấng Thánh,
hân hoan vì được vinh quang Thiên Chúa ở cùng.

5.

1 Hỡi Giê-ru-sa-lem, hãy cởi bỏ áo tang khổ nhục,
và mặc lấy ánh vinh quang vĩnh cửu Thiên Chúa ban cho ngươi;
2 hãy khoác vào mình áo choàng công chính của Thiên Chúa;
và đội lên đầu triều thiên vinh quang
Đấng Vĩnh Hằng ban tặng.

3 Vì Thiên Chúa sẽ cho khắp cả hoàn cầu
thấy hào quang rực rỡ của ngươi.

4 Mãi mãi Người sẽ gọi ngươi
là “Bình an xây dựng trên công chính”,
và “Vinh quang phát xuất từ lòng kính sợ Thiên Chúa”.

5 Vùng lên, Giê-ru-sa-lem hỡi,
hãy đứng ở nơi cao, và hướng nhìn về phía đông:
Kìa xem con cái ngươi từ đông sang tây tụ họp về
theo lời Đấng Thánh đã truyền dạy.
Được Thiên Chúa nhớ đến, chúng hớn hở mừng vui.

6 Xưa chúng bị quân thù áp giải,
phải rời ngươi, không xe không ngựa.
Nay Thiên Chúa lại đưa chúng trở về với ngươi,
chúng được kiệu đi vinh quang rực rỡ, khác chi một ngai vàng.

7 Vì Thiên Chúa đã ra lệnh phải bạt thấp núi cao
và gò nổng có tự lâu đời,
phải lấp đầy thung lũng cho mặt đất phẳng phiu,
để Ít-ra-en tiến bước an toàn
dưới ánh vinh quang của Thiên Chúa.

8 Theo lệnh của Thiên Chúa, rừng xanh và đủ loại quế trầm
sẽ toả bóng che rợp Ít-ra-en,
9 vì Thiên Chúa sẽ dẫn Ít-ra-en đi trong hoan lạc,
dưới ánh sáng vinh quang của Chúa,
cùng với lòng từ bi và sự công chính của Người.

IV. THƯ CỦA ÔNG GIÊ-RÊ-MI-A

Bản sao bức thư ông Giê-rê-mi-a gửi cho những người sắp bị vua nước Ba-by-lon phát lưu sang nước này, để loan báo cho họ những gì Thiên Chúa đã truyền cho ông.

6.  1 Vì tội lỗi anh em đã phạm trước nhan Thiên Chúa, anh em sẽ bị vua nước Ba-by-lon là Na-bu-cô-đô-nô-xo phát lưu sang nước này.2 Vậy sau khi đến Ba-by-lon, anh em sẽ phải ở lại xứ ấy nhiều năm, trong quãng thời gian dài đến bảy đời. “Nhưng, Thiên Chúa phán, sau thời gian này, Ta sẽ đưa các ngươi ra khỏi đó bình an.”3 Rồi đây tại Ba-by-lon, anh em sẽ thấy những tượng thần bằng vàng bạc hay bằng đá. Những tượng này được người ta kiệu trên vai, và đã từng làm cho các dân ngoại kinh hoàng.4 Hãy coi chừng kẻo như các dân ngoại, chính anh em cũng run sợ,5 khi thấy quần chúng kẻ trước người sau thờ lạy các tượng thần đó. Nhưng anh em hãy nói trong lòng rằng: “Lạy Chúa là Chúa Tể, chỉ mình Ngài là Đấng phải thờ lạy mà thôi! “6 “Vì, Thiên Chúa phán, thần sứ của Ta luôn ở với các ngươi, chính Người sẽ bảo vệ tính mạng các ngươi.”

7 Quả thật, các tượng thần này đã được sơn son thiếp vàng, lưỡi chúng được thợ mài nhẵn, chúng chỉ là đồ giả không biết nói.8 Người ta lấy vàng làm triều thiên đội lên đầu các tượng thần của mình như đội cho thiếu nữ ưa làm dáng.9 Đôi khi các tư tế cũng cất giấu vàng bạc đó để dùng vào việc riêng; họ còn lấy đem cho các cô điếm ở trên sân thượng nữa.10 Họ may áo mặc cho các tượng thần bằng vàng bạc hay gỗ đó, y như cho người ta vậy; nhưng các thần ấy không chống lại được rỉ sét và mối mọt.11 Mỗi khi khoác áo đỏ cho chúng, người ta phải lau mặt cho chúng vì bụi bặm trong đền thờ bám đầy.12 Thần này thì cầm phủ việt tựa như lãnh chúa, nhưng không giết được kẻ phạm đến mình;13 thần khác thì cầm trong tay phải vừa kiếm vừa rìu, nhưng không bảo vệ được mình cho khỏi địch thù hay trộm cướp.14 Vì thế, hiển nhiên, chúng không phải là thần, sợ chúng mà làm chi!

15 Như chiếc bình vỡ trở thành vô tích sự, các thần của họ được đặt trong các đền cũng thế.16 Mắt chúng đầy bụi bặm do chân những kẻ đi vào tung lên.17 Như người ta nhốt kín kẻ phạm tội khi quân, chờ lãnh án tử hình, không để nó trốn thoát, cũng vậy, các tư tế tăng cường bảo vệ các đền thờ của họ bằng cửa đóng then cài để tránh trộm cướp.18 Họ thắp đèn cho thần còn nhiều hơn cho chính mình nữa, nhưng dù một ngọn thôi, thần cũng chẳng thấy.19 Chúng có khác chi các xà nhà bên trong đã ruỗng hết, như người ta quen nói; mối từ đất xông lên đục khoét chúng cũng như áo chúng mặc, mà chúng không hề biết.20 Mặt mũi chúng lọ lem vì khói trong đền bốc lên nghi ngút.21 Trên thân mình chúng cũng như trên đầu chúng, người ta thấy bay lượn nào dơi, nào nhạn và các thứ chim khác, lại có cả mèo nữa.22 Cứ thế anh em đủ biết chúng chẳng phải là thần: sợ chúng mà làm chi!

23 Hơn nữa, vàng người ta dùng dát lên các tượng thần cho đẹp, nếu không có ai lau cho hết mờ, thì chúng cũng không làm cho vàng đó sáng lên được, vì ngay cả lúc người ta làm ra chúng, chúng cũng chẳng hay.24 Dù được mua với giá cao, các thần ấy vẫn chẳng có hơi thở.25 Chúng không có chân, nên người ta phải khiêng chúng trên vai, và như thế ai cũng nhìn thấy sự ô nhục của chúng. Bầy tôi chúng cũng phải xấu hổ, vì nếu chúng đổ xuống đất, thì cũng phải nhờ họ chúng mới đứng lên được.26 Cứ đặt chúng đứng yên một chỗ, chúng chẳng tự mình đi lại được đâu. Nếu bị nghiêng, chúng không đứng thẳng lại được. Có dâng lễ vật cho chúng thì cũng như dâng cho người chết vậy thôi.27 Của lễ hy sinh dâng cho chúng, các tư tế đem bán kiếm lời; còn phần phải đem chia cho người nghèo đói tật nguyền, thì các bà vợ của họ đem ướp muối. Những của lễ hy sinh ấy, cả đàn bà có kinh nguyệt và người ở cữ cũng cứ động vào.28 Những điều này cho anh em biết chúng không phải là thần: sợ chúng mà làm chi!

29 Làm sao gọi là thần, những pho tượng bằng vàng bạc hay bằng gỗ, vì có cả đàn bà dâng của lễ cho chúng nữa?30 Trong đền của chúng, tư tế thì ngồi, lễ phục rách rưới, đầu râu cạo nhẵn, không mũ không nón.31 Khi kêu gào trước các thần, họ rống lên như có người vẫn làm khi ăn cỗ nhà tang.32 Các tư tế lấy áo của thần cho vợ con mặc.33 Bị xử tệ hay được xử tốt, các thần ấy cũng chẳng đáp trả được. Chúng không thể đặt ai lên làm vua hay truất phế,34 cũng không thể cho ai của cải hay tiền bạc gì. Ai khấn với chúng rồi mà không giữ, chúng không đòi hỏi gì được.35 Chúng không cứu được ai khỏi chết, không giải thoát được người yếu thế khỏi tay kẻ có quyền;36 không làm cho người mù được thấy, chẳng cứu được ai khỏi cảnh khốn quẫn,37 không cảm thương kẻ goá bụa, chẳng thi ân cho trẻ mồ côi.38 Những khúc gỗ bọc vàng bọc bạc ấy cũng giống như những phiến đá đẽo lấy từ núi ra vậy; những kẻ làm tôi chúng sẽ phải xấu hổ thẹn thùng.39 Thế thì làm sao có thể nghĩ hoặc nói rằng chúng là thần được?

40 Ngay cả những người Can-đê cũng khinh dể các thần đó, vì khi thấy một người câm, họ đưa đến cho thần Ben để xin cho nó nói được, làm như thần này có thể hiểu;41 thế mà khi nghĩ lại, những người kia cũng không bỏ được các thần ấy: là vì họ không có khả năng nhận thức.42 Có những người đàn bà thắt dây thừng ngồi bên vệ đường, đốt cám làm hương;43 bà nào được một người khách chiếu cố mà đi lại với mình thì mạt sát bà bên cạnh, cho rằng bà này không xứng đáng bằng mình nên dây thừng mới không được giật đứt.44 Tất cả mọi chuyện làm cho các thần ấy đều là dối trá; thế thì sao có thể nghĩ hoặc nói rằng chúng là thần được?

45 Những người chế tạo ra chúng là các nghệ nhân và thợ kim hoàn, nên họ muốn chúng ra thế nào thì chúng chỉ là thế thôi.46 Những người chế tạo ra chúng còn chẳng sống được lâu, thì làm sao sản phẩm của họ lại là thần được?47 Cái họ để lại cho hậu thế chỉ là dối trá và ô nhục thôi.48 Khi xảy ra tai ương loạn lạc, tư tế liền hỏi nhau xem phải đem thần đi trốn chỗ nào.49 Những thứ không thể cứu nổi mình khỏi tai ương loạn lạc, những thứ đó không phải là thần: chuyện này, làm sao không hiểu được?50 Sớm muộn gì người ta cũng sẽ nhận ra rằng những khúc gỗ sơn son thiếp vàng kia chỉ là dối trá. Mọi dân tộc và vua chúa đều thấy rõ rằng chúng không phải là thần, mà chỉ là sản phẩm do tay con người làm ra, và nơi chúng không hề có một tác động thần linh nào cả.51 Vậy thì ai lại không dễ dàng biết được: chúng không phải là thần?

52 Chúng không thể đặt ai làm vua trong một nước, chẳng làm được mưa cho người ta,53 chẳng giải quyết được vụ tranh chấp nào, cũng chẳng có khả năng cứu người bị áp bức. Chúng khác chi loài quạ bay lượn giữa trời đất.54 Khi xảy ra hoả hoạn tại đền của các thần bằng gỗ sơn son thiếp vàng ấy, thì các tư tế của chúng lo chạy thoát thân; còn chúng cứ đứng trơ trơ giữa nhà như kèo cột mà chịu đốt.55 Chúng không chống nổi vua, không chống nổi kẻ thù.56 Vậy, làm sao chấp nhận hoặc nghĩ rằng chúng là thần được?

57 Các thần bằng gỗ sơn son thếp vàng đó không thoát khỏi trộm cướp to gan đánh cắp vàng bạc cũng như áo xống của chúng; chúng có tự cứu mình được đâu!58 Như vậy, thà làm một ông vua biết diệu võ dương oai, hay làm một vật dụng hữu ích cho chủ nhà sử dụng, còn hơn là làm một ông thần giả tạo như thế. Thà làm một cái cửa trong nhà để giữ gìn đồ đạc, hơn làm một ông thần giả tạo như thế. Thà làm một cây cột gỗ trong hoàng cung, còn hơn làm ông thần giả tạo như thế.59 Mặt trời, mặt trăng và các vì tinh tú có nhiệm vụ chiếu sáng và trở nên hữu ích thì đều biết vâng phục;60 ánh chớp loé lên trông rất đẹp, gió thổi khắp nơi cũng thế, tất cả đều biết vâng phục;61 các đám mây cũng vậy, khi Thiên Chúa truyền cho chúng bay khắp mặt đất, chúng đều thi hành mệnh lệnh của Người; còn lửa, khi được gửi đến từ trời cao để đốt núi rừng, cũng đều thực hiện điều đã truyền dạy.62 Thế mà về hình dáng cũng như về khả năng, những thứ thần kia lại chẳng sánh được với các vật này chút nào.63 Cho nên không thể nghĩ hoặc nói được rằng những thứ đó lại là thần, vì chúng không có khả năng giải quyết một vụ tranh chấp, chẳng làm ơn làm phúc được cho ai.64 Vậy, đã biết chúng không phải là thần thì còn sợ chúng mà làm chi!

65 Vì chúng chẳng thể giáng hoạ hay giáng phúc cho vua chúa,66 cũng chẳng cho chư dân thấy những dấu lạ trên trời; chúng chẳng chói lọi như mặt trời, không chiếu sáng như mặt trăng.67 Chúng không bằng dã thú, vì dã thú có thể tìm chỗ kín đáo mà nép mình.68 Không có cách nào chứng minh được cho ta rằng đó là những vị thần. Vậy còn sợ chúng mà làm chi!

69 Vì cũng như thằng bù nhìn trong ruộng dưa chẳng canh giữ được gì, các thần bằng gỗ sơn son thếp vàng của người ta cũng vậy.70 Các thần này ví như bụi gai trong vườn, để cho đủ thứ chim đến đậu, hay như xác chết vất trong xó tối.71 Cứ nhìn những miếng vải điều, vải gai mục nát trên mình chúng thôi, anh em cũng sẽ biết rằng chúng không phải là thần. Sau cùng chúng sẽ bị sâu bọ đục khoét và sẽ nên mối ô nhục trong cả xứ.72 Vậy đối với người công chính, tốt hơn cả là đừng có tượng thần nào hết: có thế mới tránh xa được sự nhuốc nhơ xấu hổ cho mình.

SÁCH Ê-DÊ-KI-EN

1.

1 Ngày mồng năm tháng tư năm thứ ba mươi, lúc tôi đang ở giữa những người lưu đày, bên bờ sông Cơ-va, thì trời mở ra và tôi nhìn thấy thị kiến Thiên Chúa cho xem.2 Ngày mồng năm trong tháng – vào năm thứ năm kể từ khi vua Giô-gia-khin bị đi đày -,3 có lời ĐỨC CHÚA phán với tư tế Ê-dê-ki-en, con ông Bu-di, trong xứ Can-đê, bên bờ sông Cơ-va. Ở đó, tay ĐỨC CHÚA đặt trên ông.

Thị kiến về xa giá của ĐỨC CHÚA

4 Tôi nhìn, thì kìa một cơn gió bão từ phương Bắc thổi đến; có đám mây lớn, có lửa loé ra và ánh sáng chiếu toả chung quanh; ở chính giữa như có một kim loại lấp lánh, ở chính giữa lửa.5 Ở chính giữa, có cái gì tựa như bốn sinh vật. Đây là dáng vẻ của chúng: chúng trông giống như người ta.6 Mỗi sinh vật có bốn mặt và bốn cánh.7 Còn chân của chúng thì thẳng; bàn chân tựa bàn chân con bê, lấp lánh như đồng sáng loáng.8 Bên dưới cánh, có những bàn tay giống tay người quay về bốn phía; mặt và cánh của bốn sinh vật cũng đều như thế.9 Cánh của chúng giáp vào nhau. Lúc đi, chúng không quay mặt vào nhau, nhưng cứ thẳng phía trước mặt mà tiến.10 Còn bộ mặt của chúng, thì chúng đều có mặt người, cả bốn đều có mặt sư tử bên phải, cả bốn đều có mặt bò rừng bên trái, cả bốn đều có mặt phượng hoàng.11 Đó là mặt của chúng. Còn cánh của chúng thì giương lên cao. Mỗi sinh vật có hai cánh giáp vào nhau và hai cánh khác phủ thân mình.12 Chúng cứ thẳng phía trước mặt mà đi, thần khí đẩy phía nào, chúng đi phía đó; lúc đi chúng không quay mặt vào nhau.

13 Ở giữa các sinh vật ấy, có cái gì giống như than hồng rực lửa, giống như ngọn đuốc, đang di chuyển giữa các sinh vật. Lửa phát ra ánh sáng và từ lửa phóng ra những tia chớp.14 Các sinh vật đi đi lại lại nhanh như chớp.

15 Tôi nhìn các sinh vật, thì này bên cạnh mỗi sinh vật có bốn bộ mặt có một bánh xe ở dưới đất.16 Hình thù và cấu trúc của các bánh xe lấp lánh như mã não. Đó là hình thù của chúng. Còn cấu trúc của chúng giống như một bánh xe ở giữa một bánh xe.17 Lúc di chuyển, bốn bánh xe đi về bốn phía; lúc đi, chúng không quay vào nhau.18 Các vành bánh xe rất lớn. Tôi nhìn, thì này cả bốn vành bánh xe đầy những mắt ở chung quanh.19 Khi các sinh vật đi, các bánh xe bên cạnh chúng cũng đi; và khi các sinh vật cất mình lên khỏi mặt đất, thì các bánh xe cũng lên theo.20 Thần khí đẩy đi đâu, các sinh vật đi tới đó và các bánh xe cũng cất lên theo, vì thần khí của sinh vật ở trong các bánh xe.21 Khi các sinh vật tiến đi, các bánh xe cũng tiến theo; các sinh vật dừng lại, các bánh xe cũng dừng lại; các sinh vật cất mình lên khỏi mặt đất, các bánh xe cũng cất lên theo, vì thần khí của sinh vật ở trong các bánh xe.22 Trên đầu mỗi sinh vật, có một cái vòm trông lấp lánh như pha lê che trên đầu ngay trên chúng.23 Dưới cái vòm ấy, cánh chúng giương thẳng ra, cánh nọ chạm cánh kia; mỗi sinh vật có hai cánh che phủ thân mình.

24 Khi chúng đi, tôi nghe tiếng cánh vẫy giống như tiếng nước chảy mạnh; như tiếng của Đấng Toàn Năng, tiếng ấy ồn ào như tiếng trong một doanh trại. Khi chúng dừng lại, thì cánh rủ xuống.25 Có tiếng vọng xuống từ trên cái vòm, ngay trên đầu chúng.

26 Từ trên cái vòm, ngay trên đầu chúng, có cái gì giống như đá lam ngọc, tựa như cái ngai, và trên cái gì tựa như cái ngai đó, có cái trông như hình dáng một người ở trên ngai đó, ở trên cao.27 Và tôi thấy có cái gì giống như kim loại lấp lánh, giống như một đám lửa bao quanh, từ khoảng coi như ngang lưng trở lên, còn từ khoảng coi như ngang lưng trở xuống, tôi thấy có cái gì giống như một đám lửa và ánh sáng chiếu toả chung quanh.28 Như hình cầu vồng xuất hiện trên mây một ngày mưa thế nào, thì ánh sáng chiếu toả chung quanh cũng như vậy. Đó là một cái gì trông tựa vinh quang của ĐỨC CHÚA. Vừa thấy thế, tôi liền sấp mặt xuống, và tôi nghe có tiếng đang nói.

Thị kiến về cuốn sách

2.  1 Tiếng đó bảo tôi: “Hỡi con người, hãy đứng cho vững, Ta sắp nói với ngươi đây.”2 Một thần khí đã nhập vào tôi đúng như lời Người phán với tôi và làm cho chân tôi đứng 3 Người phán với tôi: “Hỡi con người, chính Ta sai ngươi đến với con cái Ít-ra-en, đến với dân phản nghịch đang nổi loạn chống lại Ta; chúng cũng như cha ông đã nổi lên chống lại Ta mãi cho đến ngày nay.4 Những đứa con mặt dày mày dạn, lòng chai dạ đá, chính Ta sai ngươi đến với chúng: “ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán thế này.”5 Còn chúng, vốn là nòi phản loạn, chúng có thể nghe hoặc không nghe, nhưng chúng phải biết rằng có một ngôn sứ đang ở giữa chúng.6 Phần ngươi, hỡi con người, đừng sợ chúng, cũng đừng sợ những lời chúng nói, dù ngươi có bị chống đối, có gặp chông gai tư bề, hay ngồi trên bò cạp. Những lời chúng nói, ngươi đừng sợ; có phải giáp mặt chúng, cũng đừng khiếp, vì chúng là nòi phản loạn.7 Ngươi cứ nói với chúng những lời của Ta, dù chúng nghe hay không, vì chúng là quân phản loạn.

8 Còn ngươi, hỡi con người, hãy nghe điều Ta sắp nói với ngươi, đừng phản loạn như nòi phản loạn ấy! Mở miệng ra mà ăn cái Ta sắp ban cho ngươi.”9 Tôi nhìn, thì kìa có bàn tay đưa về phía tôi, bàn tay đó cầm một cuộn sách10 rồi mở ra trước mặt tôi; sách được viết cả mặt trong lẫn mặt ngoài, trong đó có viết những khúc ai ca, những lời than vãn và những câu nguyền rủa.”

3. 

1 ĐỨC CHÚA phán với tôi: “Hỡi con người, thấy gì, cứ việc ăn! Hãy ăn cuộn sách này rồi đi nói với nhà Ít-ra-en.”2 Tôi mở miệng ra, và Người cho tôi ăn cuộn sách ấy.3 Người lại phán với tôi: “Hỡi con người, hãy ăn cho no bụng và nuốt cho đầy dạ cuộn sách Ta ban cho ngươi đây.” Tôi đã ăn cuộn sách, và nó ngọt như mật trong miệng tôi.

4 Bấy giờ Người phán với tôi: “Hỡi con người, hãy đi đến với nhà Ít-ra-en và nói với chúng những lời của Ta.5 Bởi vì ngươi không được sai đến với một dân có ngôn ngữ tối tăm và miệng lưỡi khó nói, mà là đến với nhà Ít-ra-en.6 Không phải đến với nhiều dân có ngôn ngữ tối tăm, miệng lưỡi khó nói khiến ngươi không hiểu được lời chúng, – giả như Ta sai ngươi đến với chúng, thì chúng đã nghe lời ngươi!7 Nhưng nhà Ít-ra-en không muốn nghe lời ngươi, bởi vì chúng không muốn nghe lời Ta: quả thật cả nhà Ít-ra-en đều mặt dày mày dạn, lòng chai dạ đá.8 Này Ta sẽ làm cho mặt ngươi chai cứng giống như mặt chúng, làm cho trán ngươi chai cứng như trán chúng.9 Ta sẽ làm cho trán ngươi cứng như kim cương, cứng hơn đá. Ngươi đừng sợ chúng, có phải giáp mặt chúng cũng đừng khiếp, bởi vì chúng là nòi phản loạn.”

10 Người lại phán với tôi: “Hỡi con người, tất cả những lời Ta phán với ngươi, hãy ghi lòng tạc dạ và nghe cho tỏ.11 Rồi ngươi hãy đi đến với những kẻ lưu đày, đến với con cái dân ngươi và nói với chúng. Ngươi sẽ nói với chúng: “ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán thế này”, dù chúng nghe hay không.

12 Một thần khí nâng tôi lên và tôi nghe thấy đằng sau có tiếng hò la vang dội: “Chúc tụng ĐỨC CHÚA vinh hiển trong Nơi Thánh của Người! “13 Tôi lại nghe thấy tiếng cánh các sinh vật va chạm vào nhau, tiếng các bánh xe khua động cùng tiếng hò la vang dội.14 Một thần khí nâng tôi lên và nắm lấy tôi; tôi ra đi, lòng tràn ngập cay đắng và phẫn nộ. Bàn tay ĐỨC CHÚA nắm chặt lấy tôi.15 Tôi đã đến Ten A-víp gặp những người lưu đày đang định cư bên bờ sông Cơ-va. Đây là nơi họ sinh sống. Tôi lưu lại đó bảy ngày, ở giữa họ, rất đỗi sững sờ.

Ngôn sứ, người canh gác (Ed 33,1-9)

16 Vậy hết bảy ngày, có lời ĐỨC CHÚA phán với tôi rằng:17 “Hỡi con người, Ta đã đặt ngươi làm người canh gác cho nhà Ít-ra-en. Ngươi sẽ nghe lời từ miệng Ta phán ra, rồi thay Ta báo cho chúng biết.18 Nếu Ta phán với kẻ gian ác rằng: “Chắc chắn ngươi sẽ phải chết”, và nếu ngươi không báo cho kẻ gian ác đó biết, không nói để cảnh cáo nó từ bỏ lối sống xấu xa, cho nó được sống, thì chính kẻ gian ác ấy sẽ phải chết vì tội lỗi của nó, nhưng Ta sẽ đòi ngươi đền nợ máu nó.19 Ngược lại, nếu ngươi đã báo cho kẻ gian ác, mà nó không từ bỏ hành vi gian ác và lối sống xấu xa của nó, thì nó sẽ phải chết vì tội của nó; còn ngươi, ngươi sẽ cứu được mạng sống mình.20 Nếu như kẻ công chính từ bỏ lẽ công chính của mình mà làm điều bất chính, thì Ta sẽ đặt chướng ngại trước mắt nó; nó sẽ phải chết, bởi vì ngươi đã không báo cho nó. Nó sẽ phải chết vì tội lỗi của nó và người ta sẽ không còn nhớ đến việc công chính nó đã làm; nhưng Ta sẽ đòi ngươi đền nợ máu nó.21 Ngược lại, nếu ngươi đã báo cho kẻ công chính để nó không phạm tội và chính nó không phạm tội, thì chắc chắn nó sẽ được sống, vì nó đã được báo cho biết; còn ngươi, ngươi sẽ cứu được mạng sống mình.”

I. TRƯỚC KHI GIÊ-RU-SA-LEM BỊ VÂY HÃM

Ngôn sứ Ê-dê-ki-en được dành riêng để phục vụ Lời Chúa

22 Tại Ten A-víp, tay ĐỨC CHÚA đặt trên tôi. Người phán với tôi: “Ngươi hãy trỗi dậy, ra thung lũng và ở đó Ta sẽ phán với ngươi.”23 Thế là tôi trỗi dậy và đi ra thung lũng. Và kìa, vinh quang ĐỨC CHÚA đang ở đó giống như vinh quang tôi đã nhìn thấy bên bờ sông Cơ-va. Tôi liền sấp mặt xuống đất.24 Lúc ấy, thần khí nhập vào tôi, cho chân tôi đứng vững và phán với tôi.

Người phán với tôi : “Ngươi hãy đi và giam mình trong nhà ngươi. 25 Phần ngươi, hỡi con người, này có kẻ sẽ đặt dây thừng lên mình ngươi, rồi trói lại, để ngươi không xuất hiện trước mặt chúng.26 Ta sẽ làm cho lưỡi ngươi dính với hàm và ngươi sẽ bị câm, để ngươi không còn là người khiển trách chúng nữa, vì chúng là nòi phản loạn.27 Nhưng khi nào Ta phán với ngươi, Ta sẽ mở miệng cho ngươi và ngươi sẽ nói với chúng: ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán thế này: Kẻ nào muốn nghe thì cứ việc nghe; kẻ nào không muốn nghe thì cứ việc không nghe, vì chúng là nòi phản loạn.”

Báo trước cuộc vây hãm Giê-ru-sa-lem

4.  1 Còn ngươi, hỡi con người, hãy lấy một viên gạch rồi đặt trước mặt ngươi và khắc lên đó một thành, thành Giê-ru-sa-lem.2 Ngươi sẽ vẽ cuộc vây hãm thành ấy. Ngươi sẽ xây chiến luỹ, đắp ụ, đóng trại và đặt chiến cụ chung quanh để tấn công thành.3 Sau đó, hãy lấy một cái chảo sắt và đặt làm tường sắt ngăn cách ngươi và thành. Rồi ngươi hướng mặt về phía thành: thành sẽ bị bao vây và ngươi sẽ vây hãm thành. Đó là dấu chỉ cho nhà Ít-ra-en.

4 Phần ngươi, hãy nằm nghiêng bên trái và mang lấy tội lỗi nhà Ít-ra-en. Ngươi nằm như vậy bao nhiêu ngày thì ngươi cũng gánh tội chúng bấy nhiêu ngày.5 Còn Ta, Ta sẽ tính cho ngươi số năm tội lỗi của chúng theo số ngày: ba trăm chín mươi ngày ngươi phải gánh tội nhà Ít-ra-en.6 Sau khi giữ đủ số ngày ấy, ngươi lại nằm nghiêng bên phải mà gánh lấy tội lỗi nhà Giu-đa trong bốn mươi ngày. Ta tính cho ngươi mỗi ngày là một năm.7 Rồi ngươi hướng mặt và đưa cánh tay trần về phía Giê-ru-sa-lem đang bị vây hãm mà tuyên sấm để lên án nó.8 Này Ta sẽ lấy dây thừng trói ngươi lại, khiến ngươi không trở mình bên này bên kia được, cho đến khi ngươi giữ đủ số ngày ngươi nằm bất động.

9 Phần ngươi, ngươi hãy lấy lúa mì, lúa mạch, đậu tằm, đậu nâu, kê và lúa miến, rồi bỏ tất cả vào một cái vò mà làm bánh. Ngươi nằm nghiêng một bên bao nhiêu ngày – ba trăm chín mươi ngày -, thì trong bấy nhiêu ngày ngươi sẽ ăn bánh ấy.10 Lương thực ngươi dùng phải cân theo số lượng – mỗi ngày hai lạng -, ngươi sẽ ăn như thế trong một thời gian.11 Nước ngươi uống cũng phải đúng số lượng – mỗi ngày một lít -, ngươi sẽ uống như thế trong một thời gian. Ngươi sẽ ăn bánh giống như bánh tráng lúa mạch, nướng trên phân người trước mắt chúng. 13 ĐỨC CHÚA phán: Con cái Ít-ra-en sẽ ăn bánh ô uế giống như vậy, giữa đám chư dân Ta sẽ xua chúng đến.” 14 Tôi thưa: “Ôi lạy ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng, này con chưa hề bị ô uế. Từ bé đến giờ, con chưa ăn vật chết hay bị xé xác, cũng chưa có miếng thịt ôi nào lọt vào miệng con.” 15 Và Người phán với tôi: “Này Ta cho phép ngươi lấy phân bò thay phân người và ngươi sẽ nướng bánh trên phân đó.” 16 Người lại phán với tôi: “Hỡi con người, này Ta sắp làm cạn nguồn lương thực ở Giê-ru-sa-lem, chúng sẽ phải ăn bánh trong lo âu theo mức định sẵn; chúng sẽ phải uống nước trong sợ hãi theo số hạn chế 17 khiến chúng vì thiếu bánh, thiếu nước mà đâm ra kinh hoàng, rồi chết dần chết mòn vì tội lỗi của chúng.”

5.

1 Phần ngươi, hỡi con người, hãy lấy một thanh gươm sắc và dùng làm dao cạo, rồi lướt trên đầu và râu ngươi. Ngươi hãy lấy cân chia râu tóc ra làm nhiều phần.2 Ngươi sẽ đốt một phần ba trong ngọn lửa nhóm lên ở giữa thành, khi mãn hạn số ngày thành bị vây hãm. Một phần ba nữa, ngươi sẽ dùng gươm mà vằm ra ở chung quanh thành; còn một phần ba cuối cùng, ngươi sẽ vãi tung trước gió, và Ta sẽ tuốt gươm đuổi theo.3 Nhưng trong số đó, ngươi sẽ giữ lại một ít mà bỏ vào vạt áo.4 Và trong số ít này, ngươi lại lấy mà ném vào lửa mà đốt; từ đó sẽ phát ra một ngọn lửa. Rồi ngươi nói với toàn thể nhà Ít-ra-en.5 ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán thế này: Đó là Giê-ru-sa-lem. Ta đã đặt nó ở giữa chư dân và các nước láng giềng.6 Nhưng nó đã nổi loạn chống lại các phán quyết của Ta, làm điều gian ác còn hơn cả chư dân, chống lại các lệnh truyền của Ta hơn cả các nước láng giềng; quả thật, chúng đã khước từ các phán quyết của Ta và không tuân cứ các lệnh truyền của Ta.

7 Bởi vậy, ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán thế này: vì các ngươi làm loạn hơn cả chư dân ở chung quanh, các lệnh truyền của Ta, các ngươi đã không tuân cứ, và các phán quyết của Ta, các ngươi đã không thi hành; các ngươi cũng chẳng thi hành theo như tập tục của chư dân ở chung quanh.8 Vì thế, ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán như sau: Này Ta sắp giáng phạt ngươi, chính Ta sẽ thi hành án phạt ngươi trước mặt chư dân.9 Vì mọi điều ghê tởm của ngươi, Ta sẽ làm cho ngươi điều Ta chưa hề làm và chẳng bao giờ làm như thế nữa.10 Vì thế, ở giữa ngươi, cha sẽ ăn thịt con và con sẽ ăn thịt cha. Ta sẽ thi hành án phạt ngươi và tất cả số người còn sót lại của ngươi, Ta sẽ tung cho gió cuốn đi khắp tứ phương.11 Bởi vậy, Ta lấy mạng sống Ta mà thề – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng – vì ngươi đã làm ô uế thánh điện của Ta bằng mọi đồ gớm ghiếc và mọi thứ ghê tởm, nên chính Ta sẽ khai trừ chẳng chút xót thương, không còn để mắt đoái hoài.12 Một phần ba số dân của ngươi sẽ chết vì ôn dịch và bị tiêu diệt vì đói kém xảy ra nơi ngươi; còn một phần ba nữa, Ta sẽ tung cho gió cuốn đi khắp tứ phương và tuốt gươm đuổi theo.13 Ta sẽ trút cơn thịnh nộ cho hả giận để trừng phạt chúng, Ta sẽ trả thù; lúc ấy chúng sẽ nhận biết rằng Ta là ĐỨC CHÚA; Ta phán trong lúc Ta nổi cơn ghen và trút cơn lôi đình xuống để trừng phạt chúng.14 Ta sẽ làm cho ngươi ra hoang tàn, nên đồ bị sỉ nhục giữa chư dân ở chung quanh, trước mặt mọi người qua lại.15 Đối với chư dân ở chung quanh, ngươi sẽ nên trò sỉ vả và lăng nhục, nên bài học và điều kinh tởm, khi Ta thi hành án phạt ngươi, trong lúc Ta thịnh nộ nổi cơn lôi đình và giận dữ khiển trách. Chính Ta, ĐỨC CHÚA, Ta đã phán.16 Khi Ta phóng vào các ngươi những mũi tên ác độc là nạn đói kém có sức tiêu diệt – bởi vì Ta sẽ phóng tên tiêu diệt các ngươi – Ta sẽ còn gia tăng đói kém để phạt các ngươi, sẽ làm cạn nguồn lương thực,17 cho nạn đói và thú dữ hoành hành giữa các ngươi, khiến các ngươi phải mất con; các ngươi sẽ phải chết vì ôn dịch, vì máu đổ, Ta sẽ cho gươm đao đến trừng phạt các ngươi. Chính Ta, ĐỨC CHÚA, Ta đã phán.”

Hạch tội núi đồi của Ít-ra-en

6.  1 Có lời ĐỨC CHÚA phán với tôi rằng:2 Hỡi con người, hãy quay mặt về núi đồi Ít-ra-en và tuyên sấm để hạch tội chúng.3 Ngươi sẽ nói: Hỡi núi đồi Ít-ra-en, hãy nghe lời ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng. ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán như sau với núi đồi, hố sâu và thung lũng: Này Ta sẽ cho gươm đao đến trừng phạt các ngươi; Ta sẽ triệt hạ nơi cao của các ngươi.4 Bàn thờ của các ngươi sẽ bị tàn phá; hương án của các ngươi sẽ bị đập nát; thương vong của các ngươi sẽ ngã gục trước ngẫu tượng của các ngươi.5 Ta sẽ chất thây con cái Ít-ra-en trước các ngẫu tượng chúng thờ và sẽ rải xương các ngươi chung quanh bàn thờ của các ngươi.6 Trong mọi nơi các ngươi ở, các thành trì sẽ nên hoang tàn đổ nát, những nơi cao sẽ bị triệt hạ, để bàn thờ của các ngươi phải hoang tàn đổ nát và bị triệt hạ, các ngẫu tượng của các ngươi sẽ bị đập nát và tiêu huỷ, bàn thờ dâng hương của các ngươi bị đập tan tành và công trình của các ngươi sẽ bị xoá bỏ.7 Giữa các ngươi, những người bị thương vong sẽ nằm la liệt. Bấy giờ các ngươi sẽ nhận biết rằng chính Ta là ĐỨC CHÚA.

8 Nhưng khi các ngươi phải phân tán tại các nước, Ta sẽ chừa lại cho các ngươi một số sót. Số này thoát khỏi nạn gươm đao sẽ sống giữa các dân tộc.9 Bấy giờ, giữa các dân tộc, nơi chúng bị lưu đày, những kẻ thoát nạn của các ngươi sẽ nhớ đến Ta. Ta sẽ đập nát con tim ngoại tình của chúng, con tim đã lìa bỏ Ta; Ta cũng đập nát những con mắt ngoại tình của chúng, những con mắt đã theo các ngẫu tượng. Chúng sẽ kinh tởm chính bản thân mình, vì những điều gian ác chúng đã làm để kính mọi thứ đồ ghê tởm của chúng.10 Bấy giờ, chúng sẽ nhận biết rằng chính Ta là ĐỨC CHÚA. Khi Ta nói sẽ giáng tai hoạ này lên đầu chúng thì không phải là chuyện viển vông đâu!

Tội lỗi của Ít-ra-en

11 ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán thế này: Ngươi hãy đập tay, giậm chân và nói “than ôi” với tất cả đồ ghê tởm xấu xa của nhà Ít-ra-en: dân này sẽ phải ngã gục vì gươm đao, đói kém và ôn dịch.12 Ai ở xa sẽ chết vì ôn dịch, ai ở gần sẽ ngã gục vì gươm đao, người sống sót và người bị bao vây sẽ chết vì đói kém. Ta sẽ trút hết cơn lôi đình của Ta để trừng phạt chúng.13 Khi những kẻ thương vong của chúng nằm la liệt giữa các ngẫu tượng, chung quanh các bàn thờ, trên mọi ngọn đồi cao, trên mọi đỉnh núi, dưới mọi lùm cây xanh, dưới mọi cây vân hương um tùm, nơi chúng dâng hương thơm để làm vui lòng mọi ngẫu tượng của chúng, bấy giờ các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là ĐỨC CHÚA.14 Ta sẽ giương cánh tay chống lại chúng và biến xứ sở chúng từ sa mạc cho đến Ríp-la, khắp mọi nơi chúng ở, thành nơi hoang tàn đổ nát. Bấy giờ chúng sẽ nhận biết chính Ta là ĐỨC CHÚA.

Sắp đến giờ tận số

7.  1 Có lời ĐỨC CHÚA phán với tôi rằng:2 Còn ngươi, hỡi con người, hãy nói: ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán thế này với đất Ít-ra-en: Giờ tận số đã điểm, giờ tận số trên khắp bốn phương đất.3 Bây giờ, giờ tận số của ngươi cũng đã điểm. Ta sẽ trút cơn thịnh nộ của Ta xuống trên ngươi, Ta sẽ xét xử ngươi tuỳ theo việc ngươi làm. Mọi thứ ghê tởm của ngươi, Ta sẽ trút xuống trên ngươi.4 Ta sẽ không để mắt đoái hoài và cũng chẳng xót thương ngươi, bởi vì Ta sẽ lấy cách xử sự của ngươi mà trả lại cho ngươi, và ở giữa ngươi, các đồ ghê tởm sẽ mặc sức hoành hành. Bấy giờ các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là ĐỨC CHÚA.

5 ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán như sau: Này đây tai hoạ khủng khiếp đang đến.6 Giờ tận số đã điểm. Giờ tận số đã điểm rồi. Giờ tận số đã đến với ngươi; kìa nó đang đến.7 Hỡi dân cư trong xứ, ngươi đã tới số rồi. Giờ đã điểm. Ngày đã gần. Nhưng lại là nỗi kinh hoàng chứ không phải là tiếng reo vui trên núi.8 Ngay bây giờ, Ta đổ cơn thịnh nộ của Ta xuống trên ngươi, trút hết cơn lôi đình của Ta trừng phạt ngươi. Ta sẽ xét xử ngươi tuỳ theo việc ngươi làm. Mọi thứ ghê tởm của ngươi, Ta sẽ trút xuống trên ngươi.9 Ta sẽ không để mắt đoái hoài và cũng chẳng xót thương ngươi, bởi vì Ta sẽ lấy cách xử sự của ngươi mà trả lại cho ngươi, và ở giữa ngươi, các đồ ghê tởm của ngươi sẽ mặc sức hoành hành. Bấy giờ, các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là ĐỨC CHÚA, là Đấng trừng phạt.

10 Này ngày ấy đang đến, số của ngươi tới rồi. Ngạo ngược trổ hoa, kiêu căng đâm chồi.11 Bạo lực trỗi dậy trở thành côn trượng của độc ác. Không còn sống sót một mạng nào. Không còn tiếng gầm tiếng thét. Chúng chẳng còn được nghỉ ngơi yên hàn nữa.12 Giờ đã điểm, ngày đã tới: người mua đừng hí hửng, kẻ bán chớ buồn rầu, vì cơn thịnh nộ giáng xuống tất cả mọi người.13 Quả thật, người bán sẽ không chuộc lại được món hàng đã bán, cho dù còn sống sót, vì thị kiến đang đe doạ tất cả mọi người sẽ thành sự thật. Ai cũng sống theo tội lỗi của mình, nên sẽ không đứng vững.14 Người ta thổi kèn và chuẩn bị sẵn sàng, nhưng không có ai đi chiến đấu, bởi vì cơn thịnh nộ của Ta đang đe doạ mọi người.

Tội lỗi của Ít-ra-en

15 Bên ngoài thì gươm đao, bên trong thì ôn dịch, đói kém. Ai ở ngoài đồng sẽ chết vì gươm đao, ai ở trong thành sẽ bị đói kém và ôn dịch nuốt chửng.16 Những ai đi trốn sẽ thoát nạn; chúng sẽ lên núi như chim bồ câu trong thung lũng. Tất cả mọi người đều sẽ chết vì tội lỗi của mình.17 Mọi cánh tay sẽ rã rời, mọi đầu gối run lẩy bẩy.18 Mình chúng khoác vải thô, kinh hãi phủ lấp chúng; mặt nào mặt nấy cũng thẹn thùng; đầu nào đầu nấy đều cạo nhẵn.19 Bạc chúng sẽ quẳng ra đường phố; vàng sẽ biến thành đồ uế tạp. Trong ngày ĐỨC CHÚA nổi cơn thịnh nộ, bạc vàng của chúng sẽ không cứu nổi chúng. Chẳng có gì làm cho chúng no lòng thoả dạ, vì vàng bạc là cớ làm cho chúng phạm tội.20 Cậy vào các đồ trang sức lộng lẫy của mình, chúng kiêu căng tự phụ và làm ra các hình ảnh ghê tởm, các ngẫu tượng gớm ghiếc. Vì thế, đối với chúng, Ta sẽ biến những thứ đó thành đồ ô uế,21 sẽ trao cho ngoại kiều làm chiến lợi phẩm, để cho kẻ gian ác trong xứ cướp đoạt và xúc phạm.22 Ta sẽ ngoảnh mặt không nhìn chúng nữa. Thiên hạ sẽ xúc phạm kho tàng của Ta, bọn cướp sẽ vào xúc phạm nơi ấy.

23 Hãy làm một cái xiềng, vì xứ sở đầy những vụ đổ máu, và thành phố đầy bạo lực.24 Ta sẽ đưa những dân độc ác nhất đến cướp đoạt nhà cửa của chúng; Ta sẽ bẻ gãy tính kiêu hùng của những kẻ mạnh, và các nơi thờ tự của chúng sẽ bị xúc phạm.25 Lo âu ập đến. Chúng tìm kiếm hoà bình, nhưng chẳng được.26 Hết tai hoạ này đến tai hoạ kia, hết tin dữ này đến tin dữ khác. Ngôn sứ không có thị kiến; tư tế không biết Lề Luật, kỳ mục chẳng còn ý kiến.27 Nhà vua sẽ phải thọ tang, hoàng tử đắm chìm trong ngao ngán, dân trong xứ tay run lẩy bẩy. Ta sẽ xử với chúng tuỳ theo lối sống của chúng; Ta sẽ xét xử chúng tuỳ theo cách chúng xét xử. Bấy giờ, chúng sẽ nhận biết chính Ta là ĐỨC CHÚA.

Thị kiến về tội lỗi của Giê-ru-sa-lem

8.  1 Ngày mồng năm tháng sáu năm thứ sáu, khi tôi đang ngồi trong nhà và có những kỳ mục Giu-đa ngồi trước mặt tôi, thì tay ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng đặt trên tôi.

2 Tôi nhìn, thì kìa: có cái gì trông như hình dáng một người. Từ khoảng coi như ngang lưng trở xuống, đó là lửa; còn từ khoảng coi như ngang lưng trở lên, đó là cái trông như hào quang, tựa kim loại lấp lánh.3 Dáng vẻ con người ấy đưa ra một hình thù như bàn tay và nắm lấy chòm tóc trên đầu tôi. Một thần khí nâng tôi lên lơ lửng giữa đất và trời. Trong thị kiến thần linh, thần khí đưa tôi về Giê-ru-sa-lem, tới lối vào cổng bên trong, cổng quay về hướng bắc; tại đây có dựng ngẫu tượng ghen tương gây ra sự ghen tương.4 Và kìa, ở đó vinh quang Thiên Chúa Ít-ra-en xuất hiện như thị kiến tôi đã nhìn thấy ở thung lũng:5 Người phán với tôi: “Hỡi con người, hãy ngước mắt nhìn về phương bắc.” Và tôi đã ngước mắt nhìn về phương bắc: Kìa, tại phía bắc cổng, có một bàn thờ, ngẫu tượng ghen tương ấy ở ngay lối vào.6 Người phán với tôi: “Hỡi con người, ngươi có thấy chúng làm gì không? Ngươi có thấy chăng các đồ rất ghê tởm nhà Ít-ra-en làm ở đây, khiến Ta rời bỏ Thánh Điện của Ta? Nhưng ngươi sẽ còn nhìn thấy những đồ ghê tởm khủng khiếp khác nữa! “

7 Người dẫn tôi đến cửa tiền đình. Tôi nhìn: kìa có một lỗ hổng ở tường.8 Người phán với tôi: “Hỡi con người, hãy khoét tường ra! ” Tôi liền khoét tường, và kìa có một cái cửa.9 Người phán với tôi: “Hãy vào mà xem những điều xấu xa ghê tởm chúng làm ở đây.”10 Tôi vào và thấy đủ mọi thứ hình rắn rết, thú vật ô uế và tất cả các ngẫu tượng của nhà Ít-ra-en khắc ở trên tường, khắp cả bốn phía.11 Đứng trước các hình ấy có bảy mươi người trong số các kỳ mục nhà Ít-ra-en, – ông Gia-a-dan-gia-hu, con ông Sa-phan, cũng ở trong nhóm đó -, mỗi người tay cầm bình hương, hương thơm bay lên ngào ngạt.12 Người phán với tôi: “Hỡi con người, ngươi có thấy các kỳ mục nhà Ít-ra-en, mỗi người nơi căn phòng thờ kính ảnh tượng của mình, đang làm gì không? ” Chúng nói: “ĐỨC CHÚA chẳng nhìn thấy ta đâu! ĐỨC CHÚA đã bỏ đất này rồi! “13 Người phán với tôi: “Ngươi sẽ còn thấy chúng làm những đồ ghê tởm khủng khiếp hơn nữa.”

14 Rồi Người dẫn tôi đến lối vào cổng Nhà ĐỨC CHÚA, ở phía bắc. Tại đó có những phụ nữ đang ngồi khóc thần Tam-mút.15 Người phán với tôi: “Hỡi con người, ngươi có thấy không? Ngươi sẽ còn thấy những đồ ghê tởm khủng khiếp hơn thế này nữa.”

16 Người lại dẫn tôi đến tiền đình phía bên trong Nhà ĐỨC CHÚA. Và này, nơi lối vào Đền Thờ ĐỨC CHÚA, giữa tiền đường và bàn thờ, có khoảng hai mươi lăm người, lưng quay về Đền Thờ ĐỨC CHÚA, mặt hướng về phía đông. Chúng nhằm hướng đông mà sụp lạy mặt trời.17 Người phán với tôi: “Hỡi con người, ngươi có thấy không? Đối với nhà Giu-đa, làm những điều ghê tởm như chúng làm ở đây là chưa đủ hay sao mà còn gieo rắc bạo lực khắp nơi trong xứ sở nhằm chọc giận Ta? Này chúng đưa cành cây lên mũi!18 Phần Ta, Ta sẽ ra tay trong cơn phẫn nộ, sẽ không để mắt đoái hoài, cũng chẳng xót thương. Chúng có kêu lớn tiếng vào tai Ta, Ta cũng chẳng nghe chúng! “

Hình phạt

9.  1 Bấy giờ, ĐỨC CHÚA kêu lớn tiếng vào tai tôi: “Hỡi các ngươi là những kẻ có nhiệm vụ trừng phạt thành, hãy đến gần, mỗi người cầm trong tay dụng cụ tiêu diệt! “2 Và kìa từ phía Cửa Trên hướng về phương bắc, có sáu người đến, mỗi người cầm trong tay dụng cụ huỷ diệt. Ở giữa họ, có một người mặc áo vải gai đeo tráp ký lục ở ngang lưng. Họ đến đứng bên cạnh bàn thờ bằng đồng.

3 Vinh quang của Thiên Chúa Ít-ra-en bay lên khỏi thần hộ giá, nơi vinh quang Thiên Chúa ngự, mà tiến về phía thềm Đền Thờ. ĐỨC CHÚA gọi người mặc áo vải gai, đeo tráp ký lục ở ngang lưng4 và phán với người ấy: “Hãy rảo khắp thành, khắp Giê-ru-sa-lem. Hãy ghi dấu chữ thập trên trán những người đang rên siết khóc than về mọi điều ghê tởm đang xảy ra trong khắp thành.”5 Tôi lại nghe ĐỨC CHÚA phán với năm người kia: “Hãy đi theo người ấy vào thành mà chém giết. Đừng nhìn mà thương hại, đừng xót thương.6 Người già, thanh niên, thiếu nữ, cũng như đàn bà con trẻ, các ngươi hãy giết cho sạch; nhưng tất cả những ai mang dấu trên mình, các ngươi chớ đụng đến. Các ngươi sẽ bắt đầu từ Nơi Thánh của Ta.” Và họ đã bắt đầu từ đàn ông, từ người già ở trước Đền Thờ.7 Người phán với họ: “Hãy làm cho Đền Thờ ra ô uế; tại các tiền đình, hãy chất đầy xác chết, mau đi! ” Họ ra đi và chém giết trong thành.

8 Vậy, đang khi họ chém giết, tôi ở lại một mình; tôi sấp mặt xuống và kêu xin rằng: “Ôi, lạy ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng, khi Ngài trút cơn lôi đình xuống Giê-ru-sa-lem, Ngài tính tiêu diệt tất cả những người còn sót lại của Ít-ra-en sao? “9 Người phán với tôi: “Tội lỗi của nhà Ít-ra-en và nhà Giu-đa đã chồng chất nặng nề; xứ sở đầy những máu, thành tràn ngập chuyện đồi bại, vì chúng nói: “ĐỨC CHÚA đã bỏ đất này rồi, ĐỨC CHÚA chẳng nhìn thấy đâu!10 Như thế, Ta sẽ không để mắt đoái hoài và cũng chẳng xót thương. Ta sẽ căn cứ vào lối sống của chúng mà hạch tội.”11 Và kìa, người mặc áo vải gai, đeo tráp ở ngang lưng, thuật lại rằng: “Con đã thi hành như lệnh Ngài truyền cho con.”

10.

1 Tôi nhìn, thì kìa trên cái vòm, ngay trên đầu các thần hộ giá, có cái gì như đá lam ngọc, trông tựa cái ngai ở trên các thần hộ giá.2 Và Đức Chúa phán với người mặc áo vải gai rằng: “Ngươi hãy vào giữa các bánh xe, phía bên dưới các thần hộ giá, hãy lấy tay vốc đầy than rực lửa ở giữa các thần hộ giá, rồi vãi tung xuống thành.” Người ấy đi vào trước mắt tôi.

3 Khi người ấy đi vào, các thần hộ giá đứng bên phải Đền Thờ và mây che phủ đầy tiền đình phía bên trong.4 Bấy giờ vinh quang ĐỨC CHÚA bay bổng lên khỏi thần hộ giá đến thềm Đền Thờ. Đền Thờ đầy mây phủ và tiền đình tràn ngập ánh vinh quang ĐỨC CHÚA.5 Tiếng cánh của các thần hộ giá nghe vang đến tận tiền đình phía bên ngoài, như tiếng của Đấng Toàn Năng lúc Người tuyên phán.

6 Khi ĐỨC CHÚA truyền lệnh cho người mặc áo vải gai: “Ngươi hãy lấy lửa từ giữa các bánh xe, từ giữa các thần hộ giá”, thì người ấy đã đi vào và đứng bên cạnh bánh xe.7 Từ giữa các thần hộ giá, một thần hộ giá đưa tay ra về phía lửa ở khoảng giữa các thần hộ giá, rồi cầm lấy lửa và đặt vào tay người mặc áo vải gai. Người này nhận lấy lửa và ra đi.8 Lúc ấy, ở phía các thần hộ giá, bên dưới cánh, người ta nhìn thấy có một cái gì giống như bàn tay con người.9 Tôi nhìn, thì kìa có bốn bánh xe ở bên cạnh các thần hộ giá, mỗi bánh xe ở bên cạnh một thần hộ giá, các bánh xe ấy trông lấp lánh như ngọc mã não.10 Còn hình dáng của bánh xe, bốn bánh trông đều giống nhau, như thể bánh nọ ở giữa bánh kia.11 Lúc di chuyển, bốn bánh đi về bốn phía; lúc đi chúng không quay vào nhau, bởi vì đầu thần hộ giá hướng về phía nào, thì bánh xe cũng đi theo phía ấy; lúc đi chúng không quay vào nhau.12 Toàn thân, lưng, tay và cánh của các thần hộ giá cũng như các bánh xe đầy những mắt ở chung quanh, cả bốn bánh xe đều như thế.13 Tai tôi nghe người ta gọi các bánh xe ấy là “gan gan”.14 Mỗi sinh vật có bốn mặt: mặt thứ nhất là mặt thần hộ giá, mặt thứ hai là mặt người, mặt thứ ba là mặt sư tử và mặt thứ bốn là mặt phượng hoàng.15 Các thần hộ giá cất mình lên: đó là sinh vật tôi đã thấy bên sông Cơ-va.16 Khi các thần hộ giá di chuyển, các bánh xe ở bên cạnh các thần ấy cũng chuyển theo. Khi các thần hộ giá dang cánh để cất mình lên khỏi mặt đất, các bánh xe không quay nữa, nhưng vẫn ở bên cạnh các thần hộ giá.17 Khi các thần hộ giá dừng lại, các bánh xe cũng dừng lại, khi các thần hộ giá cất mình lên, các bánh xe cũng cất lên theo, bởi vì thần khí của sinh vật ở trong các bánh xe.

Vinh quang ĐỨC CHÚA rời bỏ Đền Thờ

18 Vinh quang ĐỨC CHÚA bay lên khỏi thềm Đền Thờ và dừng lại trên các thần hộ giá.19 Các thần hộ giá dang cánh và cất mình lên khỏi mặt đất trước mắt tôi khi đi ra; các bánh xe cũng chuyển theo cùng một lúc. Các thần hộ giá dừng lại ở lối vào cửa đông Nhà ĐỨC CHÚA, và vinh quang của Thiên Chúa Ít-ra-en ngự bên trên các vị ấy.20 Đó là sinh vật tôi đã thấy ở bên dưới Thiên Chúa Ít-ra-en, tại sông Cơ-va, và tôi nhận ra đó là các thần hộ giá.21 Mỗi thần hộ giá có bốn mặt và bốn cánh: có cái gì giống như bàn tay con người ở dưới cánh các vị ấy.22 Còn bộ mặt của các vị ấy thì đó là những bộ mặt tôi đã thấy bên sông Cơ-va. Mỗi thần hộ giá cứ thẳng trước mặt mình mà đi.

Tội lỗi của Giê-ru-sa-lem

11.  1 Thần khí nâng tôi lên và đưa tôi đến cổng đông Nhà ĐỨC CHÚA, cổng này quay về hướng đông. Và kìa, ở lối vào cổng có hai mươi lăm người. Ở giữa họ, tôi nhìn thấy ông Gia-a-dan-gia con ông Át-dua và ông Pơ-lát-gia-hu con ông Bơ-na-gia-hu, là những thủ lãnh của dân.2 ĐỨC CHÚA phán với tôi: “Hỡi con người, đây là những người bày ra chước độc và toan tính mưu thâm trong thành này.3 Chúng nói: “Chưa xây nhà ngay được đâu, vì thành là nồi, chúng ta là thịt.”4 Vì thế, hỡi con người, hãy tuyên sấm hạch tội chúng, hãy tuyên sấm.”5 Thần khí ĐỨC CHÚA ập xuống trên tôi; Người phán với tôi: “Ngươi hãy nói: ĐỨC CHÚA phán thế này: Hỡi nhà Ít-ra-en, các ngươi đã nói như thế, và những gì nảy sinh từ thần khí các ngươi, Ta biết hết.6 Các ngươi đã tăng số thương vong trong thành này và các ngươi chất đầy thương vong ngoài đường phố.7 Vì vậy, ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán như sau: thương vong các ngươi để ở giữa thành sẽ là thịt, và thành sẽ là nồi; còn chính các ngươi, Ta sẽ bắt các ngươi phải ra khỏi đó.8 Các ngươi sợ gươm đao, nhưng Ta sẽ khiến gươm đao đến trừng phạt các ngươi – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng.9 Ta sẽ bắt các ngươi phải ra khỏi thành và sẽ trao nộp các ngươi vào tay ngoại bang; Ta sẽ thi hành án phạt các ngươi.10 Các ngươi sẽ ngã gục vì gươm đao; Ta sẽ xét xử các ngươi ở biên giới Ít-ra-en và các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là ĐỨC CHÚA.11 Đối với các ngươi, thành sẽ không còn là nồi và các ngươi cũng sẽ không còn là thịt trong nồi nữa; Ta sẽ xét xử các ngươi ở biên giới Ít-ra-en.12 Bấy giờ các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là ĐỨC CHÚA, là Đấng ban lệnh truyền mà các ngươi không tuân theo, đã ra phán quyết mà các ngươi không thi hành, nhưng lại thi hành phán quyết của các dân tộc lân bang.

13 Khi tôi đang tuyên sấm, thì ông Pơ-lát-gia-hu con ông Bơ-na-gia chết. Tôi sấp mặt xuống và lớn tiếng kêu xin rằng: ” Ôi, lạy ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng, Ngài muốn tiêu diệt số còn sót lại của Ít-ra-en sao? “

Giao ước mới cho những kẻ lưu đày

14 Có lời ĐỨC CHÚA phán với tôi rằng:15 “Hỡi con người, dân cư Giê-ru-sa-lem nói với các anh em ngươi, những người bà con họ hàng của ngươi và tất cả nhà Ít-ra-en như sau: “Các ngươi phải ở xa ĐỨC CHÚA, còn chúng tôi mới là những người được sở hữu đất này.”16 Vì thế, ngươi hãy nói: “ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán thế này: Quả thật, Ta đã đưa chúng đi xa, đến ở giữa chư dân; Ta đã phân tán chúng đi các nước. Ta đã nên một thứ Thánh Điện cho chúng trong một thời gian, tại các nước chúng đến.17 Vì thế, ngươi hãy nói: ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán thế này: Từ muôn dân, Ta sẽ tập hợp các ngươi lại; từ muôn nước, nơi các ngươi bị phân tán, Ta sẽ quy tụ các ngươi về và Ta sẽ ban cho các ngươi đất Ít-ra-en.18 Chúng sẽ trở về đó và loại đi mọi thứ gớm ghiếc và ghê tởm.19 Ta sẽ ban cho chúng một trái tim và đặt thần khí mới vào lòng chúng. Ta sẽ lấy khỏi mình chúng trái tim chai đá và ban cho chúng một trái tim bằng thịt,20 để chúng đi theo các thánh chỉ của Ta và tuân giữ cùng thi hành các quyết định của Ta. Lúc ấy, chúng sẽ là dân của Ta và Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng.21 Còn những ai để lòng dạ đi theo các đồ gớm ghiếc và ghê tởm của chúng, Ta sẽ căn cứ vào lối sống của chúng mà hạch tội – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng.

Vinh quang ĐỨC CHÚA rời bỏ Giê-ru-sa-lem

22 Bấy giờ các thần hộ giá cất cánh lên và các bánh xe cũng cất lên theo; vinh quang của Thiên Chúa Ít-ra-en ngự bên trên các thần hộ giá.23 Vinh quang ĐỨC CHÚA đi lên khỏi thành và dừng lại trên núi ở phía đông của thành.

24 Thần khí nâng tôi lên và đưa tôi đến xứ Can-đê, đến với những người đang bị lưu đày. Điều ấy xảy ra trong một thị kiến, do tác động của thần khí Thiên Chúa. Thị kiến mà tôi thấy đã biến mất.25 Tôi đã thuật lại cho những người lưu đày tất cả những điều ĐỨC CHÚA đã cho tôi nhìn thấy.

Giả bộ làm người di cư

12.  1 Có lời ĐỨC CHÚA phán với tôi rằng:2 Hỡi con người, ngươi đang sống giữa một nòi phản loạn, giữa những kẻ có mắt để nhìn mà không thấy, những kẻ có tai để nghe mà không nghe, vì chúng là một nòi phản loạn.3 Về phần ngươi, hỡi con người, hãy chuẩn bị hành lý đi đày và hãy đi đày giữa ban ngày trước mắt chúng; ngươi sẽ đi đày, rời chỗ ngươi đang ở mà tới một chỗ khác, trước mắt chúng. May ra chúng sẽ nhận thấy mình là một nòi phản loạn.4 Ngươi hãy đem hành lý của ngươi ra ngoài như hành lý của kẻ đi đày, giữa ban ngày, trước mắt chúng. Và chiều đến, ngươi sẽ ra đi trước mắt chúng như một kẻ phải đi đày.5 Trước mắt chúng, ngươi hãy khoét tường mà đưa hành lý ra.6 Trước mắt chúng, ngươi sẽ vác hành lý lên vai và ra đi lúc trời tối; ngươi sẽ che mặt để khỏi nhìn thấy xứ sở, vì Ta đã biến ngươi nên điềm báo cho nhà Ít-ra-en.

7 Tôi đã làm y như lệnh Đức Chúa truyền cho tôi. Giữa ban ngày, tôi đã đem hành lý của tôi ra ngoài, hành lý của kẻ đi đày; và chiều đến, tôi lấy tay khoét tường. Tôi ra đi lúc trời tối và vác hành lý lên vai trước mặt họ.

8 Sáng hôm sau, có lời ĐỨC CHÚA phán với tôi rằng:9 “Hỡi con người, chẳng phải nhà Ít-ra-en, nòi phản loạn, đã nói với ngươi: “Ông làm gì thế” sao?10 Ngươi hãy nói với chúng: “ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán thế này: Sấm ngôn ấy nhằm nói về ông hoàng ở Giê-ru-sa-lem và toàn thể nhà Ít-ra-en ở trong thành.11 Ngươi hãy nói: “Tôi là điềm báo cho các ông. Tôi đã làm thế nào, thì sẽ xảy ra cho họ như vậy. Họ sẽ phải đi tù, đi đày.12 Ông hoàng đang ở giữa họ sẽ vác hành lý lên vai lúc trời tối và sẽ ra đi; họ sẽ khoét một lỗ trên tường cho ông chui qua. Ông sẽ che mặt để chính mắt khỏi nhìn thấy xứ sở.”13 Ta sẽ bủa lưới chụp trên nó và nó sẽ mắc vào lưới săn của Ta, Ta sẽ dẫn đưa nó đến Ba-by-lon, trên đất Can-đê, nhưng nó sẽ không nhìn thấy đất ấy và phải chết ở đó.14 Tất cả cận thần, cận vệ và binh lính của nó, Ta sẽ tung cho gió cuốn đi khắp tứ phương và Ta sẽ tuốt gươm đuổi theo chúng.15 Chúng sẽ nhận biết chính Ta là ĐỨC CHÚA, khi Ta phân tán chúng đi các dân và tung chúng đến các nước.16 Nhưng Ta sẽ cho một số ít người trong bọn chúng thoát khỏi gươm đao, đói kém và ôn dịch để chúng thuật lại tất cả những điều ghê tởm của chúng cho các dân mà chúng sẽ đến. Bấy giờ chúng sẽ nhận biết chính Ta là ĐỨC CHÚA.

17 Có lời ĐỨC CHÚA phán với tôi rằng:18 Hỡi con người, ngươi sẽ ăn bánh trong lo âu và uống nước trong xao xuyến sợ hãi.19 Ngươi sẽ nói với dân trong xứ: ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán thế này với dân cư Giê-ru-sa-lem đang ở đất Ít-ra-en: chúng sẽ ăn bánh trong lo âu và uống nước trong sợ hãi, vì đất Ít-ra-en sẽ ra hoang tàn và sẽ thiếu thốn mọi sự do những việc bạo hành của toàn thể dân cư trong xứ.20 Các thành đông người ở sẽ nên chốn hoang tàn, đất sẽ bị tàn phá. Bấy giờ các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là ĐỨC CHÚA.

Những câu châm ngôn bình dân

21 Có lời ĐỨC CHÚA phán với tôi rằng:22 Hỡi con người, tại sao trên đất Ít-ra-en các ngươi lại có câu châm ngôn này: Ngày tháng trôi, mọi thị kiến đều vô hiệu?23 Vì thế, ngươi hãy nói với chúng: ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán như sau: Ta sẽ làm cho câu châm ngôn này ra vô hiệu; ở trên đất Ít-ra-en, người ta sẽ không còn nói câu châm ngôn ấy nữa. Nhưng ngươi hãy nói với chúng: Sẽ đến ngày mọi thị kiến đều hiệu nghiệm.24 Thật vậy, ở giữa nhà Ít-ra-en, sẽ không có thị kiến nào là vô hiệu và cũng chẳng có lời sấm nào là dối trá đâu!25 Vì chính Ta là ĐỨC CHÚA, Ta phán điều Ta muốn và điều ấy chẳng mấy chốc sẽ xảy ra. Quả thật, chính trong đời các ngươi, hỡi nòi phản loạn, điều Ta sẽ phán, Ta sẽ thi hành – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng.

26 Có lời ĐỨC CHÚA phán với tôi rằng:27 Hỡi con người, này nhà Ít-ra-en nói: Thị kiến ông ta thấy còn lâu mới hiệu nghiệm; ông ta tuyên sấm cho một thời xa xăm.28 Vì thế, ngươi hãy nói với chúng: ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán thế này: mọi lời Ta phán chẳng mấy chốc sẽ xảy ra. Điều nào Ta phán, điều ấy sẽ được thi hành – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng.

Hạch tội các ngôn sứ giả

13.  1 Có lời ĐỨC CHÚA phán với tôi rằng:2 Hỡi con người, hãy tuyên sấm hạch tội các ngôn sứ của Ít-ra-en, hãy tuyên sấm; hãy bảo bọn ngôn sứ chỉ nói theo ý mình: Các ngươi hãy nghe lời ĐỨC CHÚA.3 ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán thế này: Khốn cho hạng ngôn sứ ngu si, chỉ theo thần khí riêng và chẳng thấy gì.4 Hỡi Ít-ra-en, các ngôn sứ của ngươi giống như bầy sói ở giữa đống hoang tàn đổ nát.

5 Các ngươi không lên lỗ hổng mà cũng chẳng xây tường bảo vệ nhà Ít-ra-en, để nó có thể cầm cự trong cuộc chiến đấu vào ngày của ĐỨC CHÚA.6 Chúng thuật lại những thị kiến hão huyền và những lời sấm dối trá, lại còn dám nói: “Sấm ngôn của ĐỨC CHÚA.” Nhưng ĐỨC CHÚA đâu có sai chúng đi; chúng mong đợi Người thực hiện lời chúng nói.7 Các ngươi đã thấy thị kiến hão huyền và nói lời sấm dối trá, lại còn bảo: “Sấm ngôn của ĐỨC CHÚA”, trong khi chính Ta chẳng tuyên phán gì cả, có phải thế không?

8 Bởi vậy, ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán thế này: Vì các ngươi nói lời hão huyền và thấy thị kiến dối trá, nên Ta đây sẽ trừng phạt các ngươi – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng.9 Ta sẽ ra tay trừng phạt hạng ngôn sứ thấy thị kiến hão huyền và nói lời sấm dối trá. Chúng sẽ không được nhận vào hàng cố vấn cho dân Ta, không được ghi tên vào sách nhà Ít-ra-en, không được vào đất Ít-ra-en. Bấy giờ các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là ĐỨC CHÚA, là Chúa Thượng.10 Bởi vì chúng đã làm cho dân Ta lạc đường khi nói rằng: “Hoà bình”, mà thực ra chẳng có hoà bình; trong khi dân xây tường thì chúng lại trát vôi lên tường.11 Hãy nói với kẻ trát vôi: Sẽ có mưa lũ, mưa đá; gió bão sẽ nổi lên,12 và này tường sẽ đổ. Bấy giờ, thiên hạ lại chẳng nói với các ngươi: Nước vôi các ngươi đã trát lên đâu rồi?13 Vì thế, ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán thế này: Khi Ta trút cơn lôi đình, Ta sẽ cho gió bão nổi lên; lúc thịnh nộ, Ta sẽ cho mưa lũ trút xuống; trong cơn lôi đình, Ta sẽ cho mưa đá đổ xuống để tiêu diệt.14 Ta sẽ triệt hạ bức tường mà các ngươi đã trát vôi, sẽ san cho bình địa, và chân móng sẽ lộ ra. Tường sẽ đổ và các ngươi sẽ bị tiêu diệt dưới bức tường đổ ấy. Bấy giờ, các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là ĐỨC CHÚA.

15 Ta sẽ trút hết cơn thịnh nộ của Ta xuống bức tường và người trát vôi lên nó. Ta sẽ phán với các ngươi: Không còn tường, cũng chẳng còn người trát vôi16 là các ngôn sứ của Ít-ra-en đã tuyên sấm về Giê-ru-sa-lem và có những thị kiến hoà bình về nó, mà chẳng có hoà bình – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng.

Các nữ ngôn sứ giả

17 Còn ngươi, hỡi con người, hãy quay mặt về phía các phụ nữ của dân ngươi, là những kẻ dám tuyên sấm theo ý mình; hãy tuyên sấm hạch tội chúng.18 Ngươi sẽ nói: ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán như sau: Khốn cho những kẻ khâu những dải băng trên mọi cổ tay và làm khăn che đầu đủ cỡ để săn bắt mạng người. Có phải các ngươi định săn bắt mạng sống của dân Ta và giữ mạng sống của các ngươi không?19 Các ngươi đã xúc phạm đến Ta nơi dân Ta chỉ vì những nắm lúa mạch, những mẩu bánh, đến nỗi các ngươi giết chết người đáng lẽ không phải chết, và cho sống những người không đáng sống, trong khi các ngươi đánh lừa dân Ta là những kẻ quen nghe lời dối trá.

20 Vì thế, ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán như sau: Này Ta chống lại các dải băng mà các ngươi dùng để săn bắt mạng người như săn bắt chim; Ta sẽ giựt chúng khỏi tay các ngươi và thả những mạng người các ngươi đã săn bắt như săn bắt chim.21 Ta sẽ xé khăn của các ngươi và sẽ giải thoát dân Ta khỏi tay các ngươi; chúng sẽ không còn là miếng mồi trong tay các ngươi nữa. Bấy giờ các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là ĐỨC CHÚA.

22 Bởi vì các ngươi đã dùng điều dối trá mà làm cho tâm hồn người chính trực phải buồn phiền, trong lúc Ta không muốn làm cho nó phải buồn phiền, bởi vì các ngươi đã tiếp tay cho kẻ gian ác đến nỗi nó không từ bỏ con đường xấu xa của mình mà được sống,23 vì thế, các ngươi sẽ không còn những thị kiến hão huyền và sẽ không còn nói những lời sấm nữa; Ta sẽ giải thoát dân Ta khỏi tay các ngươi. Bấy giờ các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là ĐỨC CHÚA.

Hạch tội thờ ngẫu tượng

14.  1 Một số người trong hàng kỳ mục Ít-ra-en đến gặp tôi và ngồi trước mặt tôi.2 Có lời ĐỨC CHÚA phán với tôi rằng:3 Hỡi con người, những kẻ này dựng các ngẫu tượng trong tâm hồn chúng và đặt chướng ngại trước mặt khiến chúng phạm tội. Ta có nên để cho chúng thỉnh vấn Ta không?4 Vì thế, ngươi hãy bảo, hãy nói với chúng: ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán như sau: Bất cứ kẻ nào thuộc nhà Ít-ra-en dựng các ngẫu tượng trong tâm hồn và đặt chướng ngại trước mặt khiến mình phạm tội, rồi đến gặp ngôn sứ, thì chính Ta, ĐỨC CHÚA, Ta sẽ trả lời cho nó vì vô vàn ngẫu tượng của nó,5 để lôi kéo nhà Ít-ra-en bằng cách đánh động lòng dạ của nó, lòng dạ đã lìa xa Ta vì các ngẫu tượng của chúng.6 Bởi thế, ngươi hãy nói với nhà Ít-ra-en: ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán thế này: Các ngươi hãy trở lại, hãy từ bỏ ngẫu tượng của các ngươi, hãy ngoảnh mặt thôi nhìn mọi đồ ghê tởm của các ngươi.7 Quả thật, bất cứ kẻ nào thuộc nhà Ít-ra-en hoặc một người di cư đang trú ngụ tại Ít-ra-en, lìa xa Ta, dựng các ngẫu tượng trong tâm hồn và đặt chướng ngại trước mặt khiến nó phạm tội, rồi đến thỉnh ý ngôn sứ, thì này chính Ta, ĐỨC CHÚA, Ta sẽ đích thân trả lời cho nó.8 Ta sẽ quay mặt lại phạt nó, khiến nó nên dấu hiệu và đề tài đàm tiếu, Ta sẽ diệt trừ nó khỏi dân Ta. Bấy giờ các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là ĐỨC CHÚA.9 Còn ngôn sứ, nếu nó để cho mình bị mê hoặc mà nói ra lời nào, thì chính Ta, ĐỨC CHÚA, Ta sẽ để cho ngôn sứ ấy bị mê hoặc. Ta sẽ dang tay trừng phạt nó và diệt trừ nó khỏi dân Ta là Ít-ra-en.10 Chúng sẽ mang lấy tội lỗi của mình: tội lỗi của kẻ thỉnh ý thế nào, thì tội lỗi của ngôn sứ cũng vậy.11 Như thế, nhà Ít-ra-en sẽ không còn lìa xa Ta nữa và sẽ không ra ô uế vì tất cả những tội phản bội của chúng. Chúng sẽ là dân của Ta và Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng.

Trách nhiệm cá nhân

12 Có lời ĐỨC CHÚA phán với tôi rằng:13 Hỡi con người, nếu một xứ đắc tội với Ta mà phạm tội bất trung, nếu Ta dang tay trừng phạt xứ ấy, làm cho nó cạn nguồn lương thực và bị đói kém, nếu Ta diệt trừ người cũng như súc vật khỏi xứ,14 và nếu trong xứ ấy có ba người này là Nô-ê, Đa-ni-ên và Gióp, thì những người ấy sẽ được thoát mạng nhờ sự công chính của mình – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng.15 Hoặc nếu Ta để cho thú dữ rảo khắp nơi, khiến xứ ấy phải mất con và trở nên chốn hoang tàn, không một người qua lại, vì nạn thú dữ.16 Giả như có ba người ấy ở trong xứ, Ta lấy mạng sống Ta mà thề – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng – chúng cũng chẳng cứu nổi con trai con gái mình, chỉ mình chúng được cứu thoát và xứ ấy sẽ trở nên chốn hoang tàn.17 Hoặc là nếu Ta đem gươm đến phạt xứ ấy và phán: Gươm đao phải rảo qua khắp xứ và Ta sẽ diệt trừ cả người lẫn súc vật khỏi xứ này.18 Giả như có ba người ấy ở trong xứ, Ta lấy mạng sống Ta mà thề – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng -, chúng cũng chẳng cứu nổi con trai con gái mình, chỉ mình chúng được cứu thoát thôi.19 Hay là nếu Ta cho ôn dịch đến giết hại xứ ấy hoặc dìm nó trong máu cho hả giận, khiến người và vật phải tiêu vong,20 dù có Nô-ê, Đa-ni-en và Gióp ở trong xứ, Ta lấy mạng sống Ta mà thề – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng -, chúng cũng chẳng cứu nổi con trai con gái mình, chỉ mình chúng được cứu thoát vì đã sống công minh chính trực.

21 Quả thật, ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán thế này: Dù Ta có cho bốn án phạt khủng khiếp là gươm đao, đói kém, thú dữ và ôn dịch đến trừng phạt Giê-ru-sa-lem, khiến người và vật phải tiêu vong,22 thì trong thành vẫn còn một số thoát nạn. Những người này đưa được con trai con gái mình đi ra; chúng đi đến với các ngươi. Các ngươi sẽ thấy cách sống cũng như hành vi của chúng. Lúc ấy các ngươi sẽ tự an ủi mình về tai hoạ Ta đã giáng xuống Giê-ru-sa-lem, về tất cả những gì Ta đã giáng xuống để trừng phạt nó.23 Chúng sẽ an ủi các ngươi, vì các ngươi chứng kiến cách sống cũng như hành vi của chúng. Bấy giờ các ngươi sẽ nhận biết rằng: tất cả những gì Ta đã làm ở Giê-ru-sa-lem không phải là vô cớ – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng.

Dụ ngôn cây nho

15.  1 Có lời ĐỨC CHÚA phán với tôi:

2 Hỡi con người, gỗ cây nho là gì mà lại tốt hơn mọi thứ gỗ;
cành của nó là chi
mà lại tốt hơn cành những cây khác trên rừng?

3 Người ta có dùng gỗ của nó vào công trình gì không,
hay lấy nó làm cọc để treo bất cứ vật gì?

4 Này nó bị quăng làm mồi cho lửa,
lửa đã liếm hai đầu của nó;
khúc giữa đã cháy, liệu còn dùng được vào việc gì chăng?

5 Khi còn nguyên vẹn, nó đã không dùng được vào công trình gì,
phương chi bây giờ nó đã bị lửa thiêu rụi,
hỏi nó còn dùng được vào công trình gì nữa?

6 Vì thế, ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán như sau:
Cũng như gỗ cây nho trong đám cây trên rừng
đã bị Ta quăng làm mồi cho lửa,
thì dân cư Giê-ru-sa-lem cũng bị Ta thiêu như thế.

7 Ta sẽ quay mặt lại phạt chúng,
chúng đã thoát khỏi lửa, nhưng sẽ bị lửa thiêu rụi.
Bấy giờ các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là ĐỨC CHÚA
khi Ta quay mặt lại phạt chúng.

8 Ta sẽ biến xứ này thành chốn hoang tàn đổ nát
bởi vì chúng đã thất tín với Ta,
sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng.

Câu chuyện tượng trưng về lịch sử Ít-ra-en

16.  1 Có lời ĐỨC CHÚA phán với tôi rằng:2 Hỡi con người, hãy cho Giê-ru-sa-lem biết các điều ghê tởm của nó.3 Ngươi sẽ nói: ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán thế này với Giê-ru-sa-lem: Gốc gác ngươi, dòng họ ngươi phát xuất từ đất Ca-na-an; cha ngươi là người E-mô-ri, mẹ ngươi là người Khết.4 Lúc chào đời, ngày mới sinh ra, ngươi không được ai cắt rốn cũng không ai lấy nước tắm rửa cho sạch, chẳng được ai xát muối và lấy tã bọc cho.5 Không người nào ái ngại đưa mắt nhìn ngươi mà làm cho ngươi chỉ một trong những điều ấy vì xót thương ngươi. Ngày mới sinh ra, ngươi bị quẳng ra giữa đồng vì ai cũng ghê tởm ngươi.

6 Ta đi ngang qua chỗ ngươi và thấy ngươi giẫy giụa trong máu. Thấy ngươi mình đầy máu me, Ta đã phán với ngươi: “Cứ việc sống! “7 Ta làm cho ngươi nẩy nở như hoa ngoài đồng. Ngươi đã nẩy nở, lớn lên và thành cô thiếu nữ với bộ ngực nở nang, mái tóc mượt mà, nhưng ngươi vẫn trần truồng, không mảnh vải che thân.8 Ta đi ngang qua chỗ ngươi và thấy ngươi. Này ngươi đã đến tuổi, tuổi yêu đương. Ta đã lấy vạt áo của Ta phủ lên để che thân thể loã lồ của ngươi. Ta đã thề nguyền và lập giao ước với ngươi – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng – và ngươi thuộc về Ta.9 Ta đã lấy nước tắm rửa, gột sạch máu me, rồi xức dầu thơm cho ngươi.10 Ta đã cho ngươi mặc đồ gấm vóc, đi giày da mềm, thắt khăn vải gai mịn và khoác toàn tơ lụa.11 Ta đã lấy đồ trang sức tô điểm cho ngươi: đeo xuyến vào tay, đeo kiềng vào cổ.12 Ta đã lấy khuyên xỏ vào mũi ngươi, đeo hoa tai cho ngươi và lấy triều thiên rực rỡ đội lên đầu ngươi.13 Đồ trang sức của ngươi đều là vàng bạc, y phục của ngươi là vải gai mịn, tơ lụa và gấm vóc. Ngươi được nuôi bằng tinh bột lúa miến, mật ong và dầu. Ngươi đã nên xinh đẹp tuyệt trần và xứng ngôi hoàng hậu.14 Giữa muôn dân nước, ngươi được nổi tiếng vì nhan sắc của ngươi; nhan sắc đó tuyệt vời nhờ ánh huy hoàng của Ta chiếu toả trên ngươi, – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng.

15 Thế mà ngươi đã cậy có nhan sắc, ỷ vào danh tiếng của ngươi để đàng điếm và hoang dâm với mọi khách qua đường: ngươi thuộc về chúng.16 Ngươi đã lấy áo của ngươi mà trang hoàng cho tế đàn nên rực rỡ và ngươi đàng điếm ở trên các tế đàn ấy.17 Ngươi đã lấy các đồ trang sức lộng lẫy bằng vàng bằng bạc Ta đã tặng ngươi mà làm các tượng ảnh đàn ông và ngươi đàng điếm với chúng.18 Ngươi đã lấy áo sặc sỡ của ngươi mà mặc cho chúng, lại lấy dầu và hương của Ta mà dâng trước mặt chúng.19 Bánh Ta đã ban cho ngươi, tinh bột lúa miến, mật ong và dầu Ta đã dùng để nuôi ngươi, thế mà ngươi lại lấy dâng trước mặt chúng làm hương thơm để làm vui lòng chúng – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA.

20 Ngươi đem các con trai con gái ngươi đã sinh cho Ta mà tế lễ làm của ăn cho chúng. Ngươi hoang dâm như thế chưa đủ sao?21 Ngươi đã giết và thiêu con cái Ta để tế chúng.22 Trong tất cả các điều ghê tởm cũng như việc hoang dâm của ngươi, ngươi đã không nhớ đến những ngày ngươi còn thơ ấu, lúc ngươi còn trần truồng, không mảnh vải che thân, khi ngươi giãy giụa trong máu.

23 Sau khi đã làm tất cả những việc xấu xa đó – thật khốn, khốn cho ngươi, sấm ngôn của ĐỨC CHÚA -,24 ngươi lại còn xây gò đắp mô ở khắp phố phường.25 Ở mọi đầu đường, ngươi xây gò và làm cho nhan sắc của ngươi ra ghê tởm; ngươi đã hiến thân cho mọi khách qua đường và gia tăng tội hoang dâm của ngươi.26 Ngươi đã hoang dâm với con cái Ai-cập, những kẻ láng giềng của ngươi có thân hình vạm vỡ; như thế là ngươi gia tăng tội hoang dâm để chọc giận Ta.27 Này Ta giương cánh tay đánh phạt ngươi; Ta cắt phần lương thực của ngươi và trao ngươi cho kẻ thù thoả lòng ham muốn, đó là con gái Phi-li-tinh, ngay cả chúng cũng phải bẽ bàng về nếp sống ô trọc của ngươi.28 Dù vậy, ngươi cũng không mãn nguyện, lại còn hoang dâm với con cái Át-sua; ngươi hoang dâm với chúng mà vẫn chẳng thoả lòng.29 Ngươi đã gia tăng tội hoang dâm trong xứ Can-đê là nơi buôn bán, và ngay cả như thế, ngươi cũng không thoả lòng.

30 Lòng ngươi mê đắm biết chừng nào – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng – khi ngươi hành động như thế, như một gái điếm cuồng si.31 Ngươi đắp mô ở mọi đầu đường và xây gò ở khắp phố phường; nhưng khác với gái điếm chuyên nghề, ngươi chẳng màng đến tiền bạc.32 Đàn bà ngoại tình, thay vì ở với chồng, lại tư thông với người khác.33 Người ta tặng quà cho gái điếm, còn ngươi, ngươi lại tặng quà cho tất cả tình nhân của ngươi. Ngươi đem quà tặng chúng để từ khắp mọi miền chung quanh, chúng đến mà đàng điếm với ngươi.34 Như thế, khi hoang dâm, ngươi làm ngược với các người đàn bà khác. Người đàng điếm không phải là kẻ chạy theo ngươi mà là chính ngươi. Người trả tiền là ngươi, chứ không phải chúng. Ngươi làm chuyện ngược đời!

35 Vì thế, hỡi con điếm, hãy nghe lời ĐỨC CHÚA.36 ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán như sau: Bởi vì ngươi đã hoàn toàn trần truồng và phô bày hết mọi phần thân thể ngươi ra trước đám tình nhân, trước tất cả các ngẫu tượng ghê tởm của ngươi, vì ngươi đã đổ máu con cái ngươi mà dâng cho chúng,37 nên Ta sắp tập hợp tất cả tình nhân của ngươi lại, những kẻ ngươi lấy làm vừa lòng, tất cả những kẻ ngươi quý yêu cũng như tất cả những kẻ ngươi ghen ghét. Ta sẽ tập hợp chúng lại từ khắp mọi miền chung quanh để trừng phạt ngươi. Ta sẽ lột trần ngươi ra trước mắt chúng và chúng sẽ thấy tất cả sự trần truồng của ngươi.38 Ta sẽ xét xử ngươi như xét xử những phụ nữ ngoại tình và những kẻ mắc tội đổ máu. Ta sẽ làm cho máu ngươi phải đổ ra vì Ta phẫn nộ và ghen tương.39 Ta sẽ trao nộp ngươi vào tay chúng, sẽ phá huỷ mô đất của ngươi, triệt hạ gò nổng của ngươi; chúng sẽ lột áo ngươi ra, lấy các đồ trang sức của ngươi; chúng sẽ bỏ ngươi lại trần truồng, không mảnh áo che thân.40 Chúng sẽ triệu tập đại hội để trừng phạt ngươi; chúng ném đá ngươi và lấy gươm tàn sát ngươi.41 Chúng sẽ phóng hoả đốt nhà ngươi và thi hành án phạt ngươi trước mắt đám đông phụ nữ. Ta sẽ khiến cho ngươi từ bỏ thói hoang dâm và ngươi sẽ không còn tặng quà cho tình nhân.42 Rồi Ta sẽ nguôi cơn thịnh nộ và thôi không còn ghen tương với ngươi nữa. Ta sẽ nguôi ngoai và không còn giận dữ.43 Bởi vì ngươi không nhớ những ngày thơ ấu và đã gây bực bội cho Ta bằng tất cả những điều đó, nên Ta sẽ tuỳ theo lối ngươi sống mà đối xử với ngươi – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng. Nào ngươi đã chẳng làm điều ô trọc cùng với tất cả những việc ghê tởm đó sao?

44 Này tất cả những kẻ làm châm ngôn sẽ nói về ngươi rằng: “Mẹ nào con nấy! “45 Ngươi đúng là đứa con gái của mẹ ngươi, kẻ chán ghét chồng con; ngươi đúng là chị em cùng một nòi với chị em ngươi, những kẻ chán ghét chồng con mình. Mẹ các ngươi là người Khết, cha các ngươi là người E-mô-ri.

46 Chị cả ngươi chính là Sa-ma-ri, cư ngụ ở bên trái ngươi cùng với các con gái mình; em gái ngươi chính là Xơ-đôm, cư ngụ ở bên phải ngươi, cùng với các con gái mình.47 Theo lối sống của chúng và làm những điều ghê tởm như chúng đã làm, ngươi cho như thế là còn quá ít, nên lại càng ra hư hỏng hơn chúng trong mọi lối sống của ngươi.48 Ta lấy mạng sống Ta mà thề – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng – Xơ-đôm, em gái ngươi, chính nó và các con gái nó cũng không làm như ngươi và các con gái ngươi đã làm.49 Đây là tội của Xơ-đôm, em gái ngươi: kiêu căng, phè phỡn; nó cùng với các con gái sống nhởn nhơ, vô tư lự, không ra tay giúp đỡ người nghèo khổ bần cùng.50 Chúng tự cao tự đại và làm điều ghê tởm trước mắt Ta nên Ta đã xua đuổi chúng đi như ngươi thấy.51 Còn Sa-ma-ri, tội nó phạm không bằng một nửa số tội ngươi phạm.

Ngươi đã làm nhiều điều ghê tởm hơn nó. Như thế, qua tất cả những điều ghê tởm ngươi đã làm, ngươi làm cho chị em ngươi ra vẻ công chính. 52 Còn ngươi, hãy mang lấy cái nhục vào thân bởi ngươi đã gỡ tội cho chị em ngươi: tội lỗi ngươi phạm làm cho ngươi ra ghê tởm hơn chúng; chúng còn công chính hơn ngươi. Vậy ngươi hãy xấu hổ và mang lấy cái nhục vào thân vì ngươi đã làm cho chị em ngươi ra vẻ công chính.

53 Ta sẽ đổi số phận của chúng, số phận của Xơ-đôm và các con gái nó, số phận của Sa-ma-ri và các con gái nó, Ta sẽ đổi số phận của chính ngươi ngay giữa chúng,54 để ngươi mang lấy cái nhục vào thân và phải xấu hổ vì tất cả những gì ngươi đã làm, để an ủi chúng.55 Chị em ngươi là Xơ-đôm và các con gái nó sẽ trở lại tình trạng cũ; Sa-ma-ri và các con gái nó sẽ trở lại tình trạng cũ; chính ngươi và các con gái ngươi cũng sẽ trở lại tình trạng cũ.56 Ngươi đã chẳng bàn tán về Xơ-đôm, em gái ngươi, vào thời ngươi kiêu ngạo,57 trước lúc ngươi bị lột trần đó sao? Y như nó, giờ đây, chính ngươi trở nên đề tài đàm tiếu cho con gái A-ram và tất cả những kẻ láng giềng cũng như con gái Phi-li-tinh, những kẻ khinh miệt ngươi ở khắp chung quanh.58 Sự ô trọc và những điều ghê tởm của ngươi, ngươi phải mang lấy vào thân – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA.

59 Quả thật, ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán thế này: Ta sẽ đối xử với ngươi theo như ngươi đã đối xử: ngươi đã khinh dể lời thề mà huỷ bỏ giao ước.60 Còn Ta, Ta sẽ nhớ lại giao ước đã lập với ngươi thời ngươi còn thanh xuân. Ta sẽ thiết lập với ngươi một giao ước vĩnh cửu.61 Ngươi sẽ nhớ lại các lối sống của ngươi mà xấu hổ khi ngươi đón các chị và các em ngươi; Ta sẽ cho chúng làm con gái ngươi, nhưng chúng không được dự phần vào giao ước giữa Ta với ngươi.62 Còn chính Ta, Ta sẽ thiết lập giao ước giữa Ta với ngươi. Bấy giờ ngươi sẽ nhận biết chính Ta là ĐỨC CHÚA,63 để ngươi nhớ lại mà lấy làm xấu hổ và, trong lúc phải tủi nhục, ngươi sẽ không còn mở miệng nói gì được nữa, khi Ta tha thứ cho ngươi tất cả những việc ngươi đã làm – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng.

Ngụ ngôn chim phượng hoàng

17.  1 Có lời ĐỨC CHÚA phán với tôi rằng:2 Hỡi con người, hãy đặt câu đố, hãy lên tiếng huấn dụ nhà Ít-ra-en.3 Ngươi sẽ nói: ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán thế này:
Con phượng hoàng to lớn
có cánh rộng, lông dài, mình đầy lông sặc sỡ;
nó đến núi Li-băng bẻ ngọn cây hương bá.

4 Nó ngắt búp ngọn cây
đưa về đất thương nghiệp
đặt vào thành con buôn.

5 Nó lấy giống cây của xứ ấy rồi đem đặt vào nơi ươm trồng
bên dòng nước mênh mông, chẳng khác gì cây liễu.

6 Giống cây ấy mọc lên thành cây nho,
cành lá sum sê, thân cây nhỏ bé.
Nhánh cây hướng về chim phượng hoàng,
dưới thân cây rễ đâm ngang dọc.
Giống cây ấy trở thành cây nho,
chồi mọc sum sê, cành ra tua tủa.

7 Lại có con phượng hoàng to lớn khác,
với đôi cánh rộng, với bộ lông dày,
khiến cây nho quay rễ và vươn nhánh
về phía chim phượng hoàng
để được tưới đẫm nước hơn tại nơi ươm trồng.

8 Trong cánh đồng màu mỡ, bên dòng nước mênh mông,
cây nho ấy được trồng để mọc cành đơm trái
thành cây nho mỹ lệ.

9 Ngươi hãy nói: ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán thế này:
Cây nho ấy có phát triển được chăng?
Hoặc chim phượng hoàng lại không nhổ rễ
và lấy hết các quả nó đi khiến mầm khô chồi héo?
Để bứng rễ nó lên
không cần tay lực lưỡng, cũng chẳng cần đông dân.

10 Này một khi được trồng, cây nho ấy có phát triển được chăng?
Khi gió đông thổi tới, nó chẳng héo rụi sao?
Nó sẽ ra khô héo trong mảnh đất nó đã đâm chồi.

11 Có lời ĐỨC CHÚA phán với tôi:
12 Ngươi hãy nói với nòi phản loạn: Các ngươi lại không biết điều ấy có nghĩa gì sao? Ngươi hãy nói: Này vua Ba-by-lon đã đến Giê-ru-sa-lem, bắt vua cũng như các thủ lãnh và điệu về cung điện của mình tại Ba-by-lon.13 Vua ấy đã chọn một người thuộc hoàng tộc, lập giao ước và bắt thề trước mặt mình; vua cũng bắt quan quyền trong xứ,14 khiến vương quốc càng suy yếu không thể nổi lên mà phải giữ giao ước với vua để được tồn tại.15 Nhưng vua Giê-ru-sa-lem đã nổi loạn chống lại vua Ba-by-lon, sai sứ giả đến Ai-cập xin cấp ngựa và nhiều binh lính. Kẻ hành động như thế, có thành công chăng? Nó đã huỷ bỏ giao ước, liệu nó có thoát nạn không?16 Ta lấy mạng sống Ta mà thề – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng -, nó sẽ phải chết ngay tại Ba-by-lon, tại chính nơi vua ấy đã phong vương cho nó và nó đã bội thề cùng huỷ bỏ giao ước với vua ấy.17 Pha-ra-ô sẽ không mang đạo quân hùng hậu và lực lượng đông đảo tới yểm trợ nó trong cuộc giao tranh, lúc quân thù đắp ụ, xây chiến luỹ để tàn sát vô số sinh linh.18 Nó đã bội thề mà huỷ bỏ giao ước. Nó đã nhúng tay vào làm tất cả những điều ấy, nó sẽ không thoát mạng.

19 Vì thế, ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán như sau: Ta lấy mạng sống Ta mà thề, lời thề của Ta nó đã bội tín, giao ước của Ta nó đã huỷ bỏ, Ta sẽ cho giáng tất cả xuống trên đầu nó.20 Ta sẽ bủa lưới chụp trên nó và nó sẽ mắc vào lưới săn của Ta; Ta sẽ cho dẫn đưa nó đến Ba-by-lon. Ở đó Ta sẽ xét xử nó vì tội bất trung nó đã phạm chống lại Ta.21 Tất cả quân tinh nhuệ trong hàng ngũ của nó sẽ ngã gục vì gươm; còn những kẻ sót lại sẽ bị gió cuốn đi khắp tứ phương. Bấy giờ các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là ĐỨC CHÚA, Ta đã phán.

22 ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán như sau:
Từ ngọn cây, từ ngọn hương bá cao chót vót,
Ta sẽ lấy, sẽ ngắt một chồi non;
chính Ta sẽ trồng nó trên đỉnh núi cao vòi vọi.

23 Ta sẽ trồng nó trên núi cao của Ít-ra-en.
Nó sẽ trổ cành và kết trái
thành một cây hương bá huy hoàng.
Muông chim đến nương mình bên nó,
và ẩn thân dưới bóng lá cành.

24 Tất cả cây cối ngoài đồng ruộng
sẽ nhận biết chính Ta là ĐỨC CHÚA.
Ta hạ thấp cây cao và nâng cao cây thấp,
Ta làm cho cây xanh tươi phải khô héo
và cây khô héo được xanh tươi.
Chính Ta là ĐỨC CHÚA, Ta đã phán là Ta thực hiện.

Trách nhiệm cá nhân

18.  1 Có lời ĐỨC CHÚA phán với tôi rằng:2 Sao các ngươi cứ truyền cho nhau câu ngạn ngữ này trong khắp đất Ít-ra-en: Đời cha ăn nho xanh, đời con phải ê răng.

3 Ta lấy mạng sống Ta mà thề – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng -, các ngươi sẽ không còn truyền cho nhau câu ngạn ngữ đó trong Ít-ra-en nữa.4 Này, mạng sống nào cũng thuộc về Ta; mạng sống của cha cũng như mạng sống của con đều thuộc về Ta. Ai phạm tội, kẻ ấy phải chết.

5 Người nào ăn ở công chính, thi hành điều công minh chính trực,6 không dự tiệc trên núi, không ngước mắt nhìn các ngẫu tượng của nhà Ít-ra-en, không làm cho vợ người đồng loại ra ô uế, không gần gũi phụ nữ đang thời kỳ ô uế,7 không bóc lột ai, trả của cầm cho người cầm của, không cướp của ai, cho kẻ đói bánh ăn, lấy áo che thân kẻ mình trần,8 không cho vay ăn lời, không lấy lãi quá nặng, không nhúng tay vào chuyện bất công, xét xử công minh giữa người với người,9 sống theo những quy tắc của Ta và tuân giữ các quyết định của Ta mà thể hiện lòng trung tín của mình, người ấy mới là người công chính. Chắc chắn nó sẽ được sống – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng.

10 Nhưng nếu nó sinh ra một đứa con hung dữ, khát máu, phạm một trong những tội trên,11 mà chính nó không phạm bất cứ tội nào trong những tội đó như: dự tiệc trên núi, làm cho vợ người đồng loại ra ô uế,12 ngược đãi kẻ bần cùng nghèo khó, cướp của kẻ khác, không trả của cầm, ngước mắt nhìn các ngẫu tượng, làm điều ghê tởm,13 cho vay ăn lời và lấy lãi nặng, thì hỏi đứa con ấy có được sống không. Không! Kẻ nào làm tất cả những điều ấy chắc chắn sẽ phải chết, máu nó sẽ đổ trên mình nó.

14 Và này có người sinh một đứa con. Đứa con ấy thấy tất cả tội lỗi của cha mình; nó đã thấy và không làm như thế:15 không dự tiệc trên núi, không ngước mắt nhìn các ngẫu tượng của nhà Ít-ra-en, không làm cho vợ người đồng loại ra ô uế,16 không bóc lột ai, không cầm giữ của cầm đồ, không cướp của ai, cho kẻ đói bánh ăn, lấy áo che thân kẻ mình trần;17 nó không nhúng tay vào việc bất công, không ăn lời lấy lãi, tuân giữ các quyết định của Ta và sống theo những quy tắc của Ta, nó sẽ không chết vì tội của cha nó, chắc chắn nó sẽ sống;18 còn cha nó, vì đã bóc lột người khác, lại cướp giật của người anh em và làm điều không tốt trong dân, nên sẽ phải chết vì tội lỗi của mình.19 Nhưng các ngươi nói: “Tại sao con không mang lấy tội của cha? ” Đứa con một khi đã thi hành điều chính trực công minh, đã tuân giữ cùng thi hành mọi quy tắc của Ta, chắc chắn nó sẽ sống.20 Ai phạm tội, kẻ ấy phải chết; con không mang lấy tội của cha; cha cũng không mang lấy tội của con. Sự công chính của người công chính ở với người công chính. Còn điều dữ của kẻ gian ác ở với kẻ gian ác.

21 Nhưng nếu kẻ gian ác từ bỏ mọi tội lỗi mình đã phạm mà tuân giữ mọi quy tắc của Ta, cùng thi hành điều chính trực công minh, thì chắc chắn nó sẽ sống, nó không phải chết.22 Mọi tội phản nghịch nó phạm, người ta sẽ không còn nhớ đến; nó sẽ được sống vì đã thi hành lẽ công minh.23 Chẳng lẽ Ta lại vui thích vì kẻ gian ác phải chết – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng – Ta lại không muốn cho nó từ bỏ đường lối của nó mà được sống sao?

24 Nhưng nếu người công chính từ bỏ lẽ công chính của mình mà theo đòi kẻ gian ác làm mọi điều ghê tởm: nó làm thế mà được sống sao? Tất cả những việc công chính nó đã làm sẽ không còn được nhắc đến; vì tội bất trung và tội lỗi nó đã phạm, nó sẽ phải chết.25 Các ngươi lại nói: “Đường lối của Chúa Thượng không ngay thẳng.” Vậy hỡi nhà Ít-ra-en, hãy nghe đây: Phải chăng đường lối của Ta không ngay thẳng hay đường lối của các ngươi mới không ngay thẳng?26 Khi người công chính từ bỏ lẽ công chính của mình và làm điều bất chính mà chết, thì chính vì điều bất chính nó đã làm mà nó phải chết.27 Còn nếu kẻ gian ác từ bỏ điều dữ nó đã làm, mà thi hành điều chính trực công minh, thì nó sẽ cứu được mạng sống mình.28 Nó đã thấy và từ bỏ mọi tội phản nghịch nó phạm, thì chắc chắn nó sẽ sống, nó không phải chết.29 Vậy mà nhà Ít-ra-en lại dám nói: “Đường lối của Chúa Thượng không ngay thẳng.” Hỡi nhà Ít-ra-en, có phải đường lối của Ta không ngay thẳng hay đường lối của các ngươi lại không ngay thẳng?30 Vì thế, hỡi nhà Ít-ra-en, Ta sẽ xét xử các ngươi: ai nấy theo đường lối của mình – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng. Hãy trở lại, hãy từ bỏ mọi tội phản nghịch của các ngươi, chẳng còn chướng ngại nào làm các ngươi phạm tội nữa.31 Hãy quẳng khỏi các ngươi mọi tội phản nghịch các ngươi đã phạm. Hãy tạo cho mình một trái tim mới và một thần khí mới. Hỡi nhà Ít-ra-en, tại sao các ngươi lại muốn chết?32 Quả thật, Ta không vui thích gì về cái chết của kẻ phải chết – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng. Vậy hãy trở lại và hãy sống.

Bài ca khóc các ông hoàng Ít-ra-en

19.  1 Phần ngươi, hãy cất lên khúc ai ca khóc thương các ông hoàng Ít-ra-en.2 Ngươi sẽ nói:
Mẹ của ngươi là ai?
Nó như sư tử cái cạnh bầy sư tử đực,
giữa đám sư tử con nuôi nấng đàn con nhỏ.

3 Trong đàn con ấy, nó huấn luyện một con thành một sư tử con,
biết xé mồi và ăn thịt thiên hạ.

4 Các dân tộc đã nghe nói về con sư tử đó;
nó sa vào bẫy của chúng và bị bắt.
Người ta lấy móc xích nó lại đem đi, đưa về đất Ai-cập.

5 Thấy hy vọng của mình tiêu tan,
niềm cậy trông của mình tan vỡ,
sư tử mẹ lại huấn luyện một con nhỏ khác thành một sư tử non.

6 Con này đi giữa bầy sư tử đực,
thành một sư tử non biết xé mồi và ăn thịt thiên hạ.

7 Nó triệt hạ các lâu đài của chư dân
và tàn phá các thành trì của chúng;
xứ sở và dân cư kinh hoàng vì tiếng gầm của nó.

8 Từ khắp các tỉnh ở chung quanh
các dân tộc nổi lên chống lại nó;
chúng bủa lưới bao vây, nó sa vào bẫy của chúng và bị bắt.

9 Chúng bắt nó đeo gông, lấy móc xiềng nó lại,
điệu đến vua Ba-by-lon và tống giam vào ngục,
để tiếng nó, người ta không còn nghe thấy nữa
trên núi đồi Ít-ra-en.

10 Mẹ ngươi giống cây nho được trồng bên dòng nước
quả trĩu nặng, lá sum sê, nhờ mạch nước dồi dào.

11 Nó trổ ra những cành vững chắc
thành những cây vương trượng;
thân của nó vươn cao lên tới tầng mây thẳm.
Người ta nhìn thấy nó vì thân nó cao, cành lá um tùm.

12 Nhưng trong cơn thịnh nộ,
nó đã bị nhổ lên, và bị quăng xuống đất;
một cơn gió đông thổi làm quả nó héo khô,
lìa cây rơi rụng xuống;
cành chắc đã héo khô và bị lửa thiêu rụi.

13 Giờ đây nó bị trồng trong sa mạc cằn cỗi nơi đất khô thiếu nước.

14 Tự cành, lửa phát ra thiêu rụi cành và quả.
Không còn cành vững chắc để dùng làm vương trượng.
Đó là lời than vãn đã trở thành khúc ai ca.

Chuyện bất trung của Ít-ra-en

20.  1 Ngày mồng mười tháng thứ năm năm thứ bảy, một số người trong hàng kỳ mục Ít-ra-en đến thỉnh ý ĐỨC CHÚA. Họ ngồi trước mặt tôi.2 Có lời ĐỨC CHÚA phán với tôi rằng:3 Hỡi con người, hãy nói với các kỳ mục Ít-ra-en; ngươi sẽ nói với chúng: ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán như sau: Có phải các ngươi đến để thỉnh ý Ta chăng? Ta lấy mạng sống Ta mà thề, Ta sẽ không để cho các ngươi thỉnh ý Ta – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng.4 Hỡi con người, ngươi có xét xử chúng, có xét xử chúng không? Hãy cho chúng biết các điều ghê tởm cha ông chúng đã làm.5 Ngươi sẽ nói với chúng: ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán như sau: Vào ngày Ta tuyển chọn Ít-ra-en, Ta đã giơ tay lên thề với dòng dõi nhà Gia-cóp, và Ta đã tỏ cho chúng biết tại đất Ai-cập; Ta đã giơ tay lên thề với chúng rằng: Chính Ta là ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của các ngươi.6 Ngày ấy, Ta đã giơ tay lên thề với chúng là sẽ dẫn đưa chúng ra khỏi đất Ai-cập, đến đất Ta đã tìm ra cho chúng, một vùng đất tràn trề sữa và mật, nơi huy hoàng nhất trong các xứ sở.7 Ta đã phán với chúng: Ai nấy hãy quăng các thần ghê tởm mà lòng vẫn khăng khít; đừng để mình ra ô uế vì các ngẫu tượng của Ai-cập. Chính Ta là ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của các ngươi.8 Nhưng chúng đã nổi loạn chống lại Ta và chẳng thèm nghe Ta: chẳng ai chịu quăng các thần ghê tởm mà lòng vẫn khăng khít, cũng không chịu bỏ các ngẫu tượng của Ai-cập. Bấy giờ, Ta tính trút cơn thịnh nộ của Ta xuống phạt chúng, trút hết cơn lôi đình của Ta đánh phạt chúng giữa đất Ai-cập.9 Tuy nhiên, Ta đã hành động vì danh Ta, để danh Ta không bị xúc phạm trước mắt các dân tộc, nơi chúng đang chung sống; trước mắt các dân tộc ấy, Ta đã tỏ cho chúng biết là sẽ dẫn đưa chúng ra khỏi đất Ai-cập.10 Vậy Ta đã đưa chúng ra khỏi đất Ai-cập và đưa vào sa mạc.11 Ta đã ban cho chúng các quy tắc và tỏ cho chúng biết các phán quyết của Ta là những điều con người phải thi hành mới được sống.12 Ta cũng ban cho chúng các ngày sa-bát của Ta làm dấu chỉ giữa Ta với chúng, khiến thiên hạ nhận biết rằng chính Ta là ĐỨC CHÚA, Đấng thánh hoá chúng.13 Nhưng nhà Ít-ra-en đã nổi loạn chống lại Ta trong sa mạc. Chúng đã không tuân theo các quy tắc, đã khinh thường các phán quyết của Ta là những điều con người phải thi hành mới được sống. Chúng lại còn vi phạm các ngày sa-bát của Ta nữa. Bấy giờ Ta tính trút cơn thịnh nộ của Ta xuống phạt chúng trong sa mạc để tiêu diệt chúng.14 Tuy nhiên, Ta đã hành động vì danh Ta, để danh Ta không bị xúc phạm trước mắt các dân tộc; trước mắt các dân ấy, Ta đã dẫn chúng ra đi.15 Ta cũng còn giơ tay lên thề với chúng trong sa mạc là không cho chúng vào đất Ta đã ban: một vùng đất tràn trề sữa và mật, nơi huy hoàng nhất trong các xứ sở,16 vì chúng đã khinh thường các phán quyết, lại không tuân theo các quy tắc và vi phạm các ngày sa-bát của Ta, vì lòng chúng chạy theo các ngẫu tượng của chúng.17 Nhưng Ta đã ghé mắt nhìn đến chúng, không nỡ tàn sát cũng không muốn tận diệt chúng trong sa mạc.

18 Ta đã nói với con cái chúng trong sa mạc: các ngươi đừng tuân theo quy tắc của cha ông các ngươi, cũng đừng tuân giữ các phán quyết của chúng và đừng để mình ra ô uế vì các ngẫu tượng của chúng.19 Chính Ta là ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của các ngươi; các ngươi hãy tuân theo các quy tắc, hãy tuân giữ và thi hành các phán quyết của Ta.20 Hãy thánh hiến các ngày sa-bát của Ta; những ngày ấy phải là dấu hiệu giữa Ta với các ngươi cho thiên hạ nhận biết rằng chính Ta là ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của các ngươi.21 Nhưng con cái chúng đã nổi loạn chống lại Ta, không tuân theo các quy tắc, không giữ và đem ra thực hành các phán quyết của Ta là những điều con người phải thi hành mới được sống; chúng còn vi phạm các ngày sa-bát của Ta. Vì thế Ta tính trút cơn thịnh nộ, nổi trận lôi đình xuống trừng phạt chúng trong sa mạc.22 Tuy nhiên Ta rút tay lại và hành động vì danh Ta, để danh Ta không bị xúc phạm trước mắt các dân tộc; trước mắt các dân ấy, Ta đã dẫn chúng ra đi.23 Ta lại giơ tay lên thề với chúng trong sa mạc là sẽ phân tán chúng vào các dân và tung chúng đến các nước,24 vì chúng đã không thi hành các phán quyết, lại khinh thường các quy tắc, vi phạm các ngày sa-bát của Ta; chúng mải mê nhìn theo các ngẫu tượng của cha ông chúng.25 Hơn nữa, chính Ta cũng ban cho chúng các quy tắc bất hảo và những phán quyết khiến chúng không thể dựa vào đó mà sống được.26 Ta làm cho chúng ra ô uế vì các của lễ chúng dâng lúc thiêu các con đầu lòng, để chúng phải kinh hoàng mà nhận biết rằng chính Ta là ĐỨC CHÚA.

27 Vì thế, hỡi con người, hãy nói với nhà Ít-ra-en, hãy nói với chúng: ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán như sau: Còn điều này nữa, cha ông các ngươi xúc phạm đến Ta khi phạm tội bất trung với Ta.28 Ta đã dẫn chúng vào đất mà Ta đã giơ tay thề là sẽ ban cho chúng. Thế mà hễ thấy đồi nào cao, cây nào rậm là chúng liền dâng lễ tế, dâng lễ tiến tại đó để chọc giận Ta, dâng hương thơm tại đó để làm vui lòng các ngẫu tượng và tưới rượu tế xuống nơi ấy.29 Ta đã nói với chúng: Nơi cao là gì mà các ngươi đến đó? Người ta đã gọi nơi ấy là Ba-ma (nơi cao) cho đến ngày nay.30 Vì thế, ngươi hãy nói với nhà Ít-ra-en: ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán thế này: Các ngươi đã ra ô uế khi theo đường lối của cha ông các ngươi và đàng điếm theo các thần ghê tởm của chúng.31 Khi dâng của lễ, khi chuyền con cái các ngươi qua lửa, các ngươi đã ra ô uế vì tất cả các ngẫu tượng của các ngươi cho tới ngày nay. Như thế mà Ta lại còn để cho các ngươi thỉnh ý sao, hỡi nhà Ít-ra-en? Ta lấy mạng sống Ta mà thề – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng – Ta sẽ không để cho các ngươi thỉnh ý Ta.32 Sẽ chẳng bao giờ xảy ra như các ngươi vẫn nghĩ và nói: “Chúng tôi cũng sẽ như các dân tộc, các bộ lạc trong các nước, khi thờ đá, thờ gỗ mà thôi! “33 Ta lấy mạng sống Ta mà thề – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng -, Ta sẽ đưa bàn tay mạnh mẽ, giương cánh tay dài rộng và trút cơn thịnh nộ xuống mà trừng phạt các ngươi.34 Ta sẽ đưa bàn tay mạnh mẽ, giương cánh tay dài rộng, và nổi cơn lôi đình mà dẫn các ngươi ra khỏi các dân và tập hợp các ngươi từ các miền đất nơi Ta đã phân tán các ngươi đến.35 Ta sẽ đưa các ngươi vào sa mạc của các dân, và tại đó, Ta sẽ xét xử các ngươi, mặt đối mặt.36 Như Ta đã xét xử cha ông các ngươi tại sa mạc đất Ai-cập thế nào, thì Ta cũng xét xử các ngươi như vậy – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng.37 Ta sẽ buộc các ngươi phải theo sự hướng dẫn của Ta và tôn trọng giao ước.38 Ta sẽ loại khỏi các ngươi những kẻ nổi loạn và phản nghịch chống lại Ta. Ta sẽ đưa chúng ra khỏi xứ chúng đang trú ngụ, nhưng chúng sẽ không được vào đất Ít-ra-en. Bấy giờ các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là ĐỨC CHÚA.39 Phần các ngươi, hỡi nhà Ít-ra-en, ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán thế này: Nếu không nghe Ta thì ai nấy cứ việc đi mà thờ ngẫu tượng của mình, nhưng các ngươi không được xúc phạm đến danh thánh của Ta vì lễ tế và ngẫu tượng của các ngươi nữa.40 Quả thật, trên núi thánh của Ta, trên núi cao vòi vọi của Ít-ra-en, – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng -, ở đó, toàn thể nhà Ít-ra-en, mọi nhà trong xứ, sẽ phụng thờ Ta. Ở đó Ta sẽ đón tiếp chúng, ở đó Ta sẽ đòi phần trích dâng và lễ tế tuyệt hảo cùng với tất cả của thánh các ngươi dâng.41 Ta sẽ tiếp đón các ngươi như hương thơm làm Ta ưa thích, khi Ta dẫn các ngươi ra khỏi các dân và tập hợp các ngươi từ các xứ, nơi Ta đã phân tán các ngươi. Qua các ngươi, Ta sẽ biểu dương sự thánh thiện của Ta trước mắt các dân tộc.42 Các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là ĐỨC CHÚA khi Ta dẫn các ngươi vào đất Ít-ra-en, vào đất mà Ta đã giơ tay lên thề là sẽ ban cho cha ông các ngươi.43 Tại đó, các ngươi sẽ nhớ lại lối sống của các ngươi và tất cả các hành vi khiến các ngươi ra ô uế; các ngươi sẽ kinh tởm chính bản thân mình, vì mọi điều gian ác các ngươi đã làm.44 Các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là ĐỨC CHÚA, khi Ta đối xử với các ngươi vì danh Ta, chứ không phải vì lối sống xấu xa và các hành vi đốn mạt của các ngươi, hỡi nhà Ít-ra-en, – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng.

Thanh gươm của ĐỨC CHÚA

21.  1 Có lời ĐỨC CHÚA phán với tôi rằng:2 Hỡi con người, hãy quay mặt hướng về phía Nam, hãy nói tiên tri hạch tội phương Nam và tuyên sấm hạch tội khu rừng trong đồng bằng Ne-ghép.3 Ngươi sẽ nói với rừng Ne-ghép: Hãy nghe lời ĐỨC CHÚA, ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán như sau: Này Ta sắp nhóm lên một ngọn lửa ở nơi ngươi; lửa ấy sẽ thiêu rụi tất cả cây xanh tươi cũng như cây khô héo nơi ngươi. Ngọn lửa cháy rực sẽ không tắt; mọi khuôn mặt đều bị cháy sém, từ nam chí bắc.4 Mọi xác phàm sẽ thấy rằng, chính Ta, ĐỨC CHÚA, Ta đã nhóm ngọn lửa ấy và nó sẽ không tắt.5 Và tôi thưa: Ôi, lạy ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng, chúng nói về con: “Ông ấy không phải là người làm ra các câu châm ngôn đó sao? “6 Có lời ĐỨC CHÚA phán với tôi rằng:7 Hỡi con người, hãy quay mặt về phía Giê-ru-sa-lem, hãy nói tiên tri hạch tội các thánh điện, hãy tuyên sấm hạch tội đất Ít-ra-en.8 Ngươi sẽ nói với đất Ít-ra-en: ĐỨC CHÚA phán như sau: Này Ta trừng phạt ngươi. Ta sẽ rút gươm ra khỏi bao và sẽ tiêu diệt người công chính lẫn kẻ gian tà cho biệt tăm.9 Bởi vì Ta tiêu diệt người công chính lẫn kẻ gian tà cho khuất dạng, nên gươm của Ta sẽ rút ra khỏi bao để trừng phạt mọi xác phàm, từ nam chí bắc.10 Bấy giờ, mọi xác phàm sẽ nhận biết rằng chính Ta, ĐỨC CHÚA, Ta đã rút gươm khỏi bao và nó sẽ không chui vào bao nữa.

11 Còn ngươi, hỡi con người, tâm hồn tan nát, ngươi hãy rên rỉ, lòng tràn ngập đắng cay, ngươi hãy rên rỉ trước mắt chúng.12 Khi chúng nói với ngươi: “Sao ông rên rỉ? ” Ngươi sẽ nói: “Vì chuyện sắp xảy ra khiến cho mọi tâm hồn sẽ tan nát, mọi bàn tay rã rời, mọi tinh thần suy sụp, mọi đầu gối run lẩy bẩy. Này chuyện đó sắp xảy ra và đang thành sự thật, – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng.

13 Có lời ĐỨC CHÚA phán với tôi rằng:14 Hỡi con người, hãy tuyên sấm và ngươi sẽ nói: Chúa Thượng phán thế này: Hãy nói:
Gươm đây, gươm đây, gươm đã mài, đã liếc,
15 mài để sát hại, liếc để phóng ra những tia chớp.

16 Người ta trao lưỡi gươm ấy để liếc, để cầm trong tay.
Đó là lưỡi gươm đã mài, đã liếc, để trao vào tay kẻ sát hại.

17 Hỡi con người, hãy kêu gào, hãy rú lên,
vì lưỡi gươm ấy được dành cho dân Ta,
cho tất cả các ông hoàng Ít-ra-en;
cùng với dân Ta, chúng đã bị trao cho gươm giáo.
Vì thế, người hãy đấm ngực.

18 ….
…..
sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng.

19 Phần ngươi, hỡi con người, hãy tuyên sấm, hãy vỗ tay.
Gươm sẽ tàn sát gấp hai, ba lần;
đó là lưỡi gươm gây chết chóc,
lưỡi gươm to lớn giết hại bao người, đe doạ khắp chung quanh,
20 để cho hồn xiêu phách lạc, để tăng thêm số người gục ngã.
Nơi các cổng thành của chúng, Ta để cho lưỡi gươm sát hại.
Lưỡi gươm được đúc để phóng ra tia chớp, được liếc để sát hại.

21 Hãy chém bên phải, diệt bên trái,
tại khắp nơi ngươi phải đương đầu.

22 Cả Ta nữa, Ta cũng sẽ vỗ tay, sẽ trút cơn lôi đình thịnh nộ.
Ta là ĐỨC CHÚA, chính Ta đã phán.

Vua Ba-by-lon ở ngã ba đường

23 Có lời ĐỨC CHÚA phán với tôi rằng:24 Phần ngươi, hỡi con người, hãy vạch hai con đường cho gươm của vua Ba-by-lon đến. Hai con đường ấy đều phát xuất từ cùng một xứ. Tại mỗi đầu đường, ngươi hãy đặt bảng chỉ lối vào thành.25 Ngươi sẽ vạch một con đường để cho lưỡi gươm đến đánh Ráp-ba của con cái Am-mon và đánh xứ Giu-đa có pháo đài tại Giê-ru-sa-lem.26 Vì vua Ba-by-lon dừng lại ở ngã ba, tại nơi phát xuất hai con đường để bói quẻ. Vua lắc tên, thỉnh ý các tượng thần, quan sát lá gan.27 Trong tay phải vua là quẻ bói về Giê-ru-sa-lem, bảo phải đặt chiến cụ, ra lệnh tàn sát, cất tiếng hò la xung trận, đặt chiến cụ trước các cổng thành, đắp ụ và xây chiến luỹ.28 Trước mắt dân chúng Giê-ru-sa-lem, đó chỉ là quẻ bói vô hiệu. Người ta đã long trọng thề là sẽ bảo vệ chúng. Nhưng quẻ bói ấy làm cho chúng nhớ lại các tội đã phạm khiến chúng sẽ bị bắt.29 Bởi thế, ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán thế này: Vì các ngươi nhớ lại các tội đã phạm, khi tội phản nghịch của các ngươi bị lột trần, để các ngươi nhìn rõ tội lỗi mình trong mọi hành động, và vì người ta nhớ đến tội các ngươi, nên các ngươi sẽ bị bắt.30 Còn ngươi, hỡi ông hoàng tội lỗi và gian ác của Ít-ra-en, ngày đời của ngươi sẽ đến, khi tội lỗi tới mức cuối cùng.31 ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán: mũ tế sẽ bị lột, vương miện sẽ bị tước. Mọi sự đều thay đổi: cái thấp được nâng cao, cái cao bị hạ thấp.32 Đổ nát, đổ nát, đổ nát, Ta sẽ làm như vậy; điều ấy chưa bao giờ xảy ra cho đến khi xuất hiện người được Ta trao quyền xét xử.

Trừng phạt dân Am-mon

33 Còn ngươi, hỡi con người, hãy tuyên sấm. Ngươi sẽ nói: ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán như sau về con cái Am-mon và về những lời nhạo báng của chúng. Ngươi sẽ nói: Gươm đây, gươm tuốt trần để tàn sát, được liếc để nuốt trửng, để phóng ra những tia chớp.34 Đang lúc người ta cho ngươi thấy những thị kiến vô hiệu và nghe những lời sấm dối trá, thì gươm sẽ lướt trên cổ những kẻ tội lỗi gian ác, mà ngày đời của chúng sẽ đến, khi tội lỗi tới mức cuối cùng.35 Hãy xỏ gươm vào bao. Ta sẽ xét xử ngươi tại chỗ ngươi được tạo dựng, tại xứ ngươi được sinh ra.36 Ta sẽ trút cơn giận của Ta xuống trên ngươi, sẽ thổi cơn thịnh nộ phừng phừng như lửa trên ngươi, sẽ trao ngươi vào tay những kẻ ngu đần, là những tên đồ tể.37 Ngươi sẽ làm mồi cho lửa; máu của ngươi sẽ đổ ra giữa xứ sở; không còn ai nhớ đến ngươi, vì chính Ta là ĐỨC CHÚA, Ta đã phán.

Tội ác của Giê-ru-sa-lem

22.  1 Có lời ĐỨC CHÚA phán với tôi rằng:2 Hỡi con người, ngươi có xét xử, có xét xử cái thành vấy máu đó không? Hãy cho nó biết tất cả những việc ghê tởm của nó.3 Ngươi sẽ nói: ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán thế này: Hỡi cái thành đã làm cho khắp nơi trong thành vấy máu khiến ngày của mình xảy đến, đã làm các ngẫu tượng khiến mình ra ô uế.4 Vì ngươi đã gây đổ máu, nên ngươi thật đắc tội; vì các ngẫu tượng ngươi đã làm, nên ngươi ra ô uế. Ngươi đã làm cho những ngày của đời ngươi đến gần và đi tới những năm cuối cùng của đời ngươi. Vì thế, Ta đã làm cho ngươi thành đồ sỉ nhục giữa chư dân, thành trò chế nhạo cho muôn nước.5 Những kẻ ở gần cũng như những kẻ ở xa đều chế nhạo ngươi vì ngươi đã bị ô danh và nơi ngươi có quá nhiều hỗn loạn.6 Này, các ông hoàng của Ít-ra-en ở nơi ngươi, ai nấy tha hồ gây đổ máu.7 Ở giữa ngươi, cha mẹ bị khinh dể, ngoại kiều bị áp bức, mẹ goá con côi bị ngược đãi.8 Ngươi đã khinh thường các đồ thánh và vi phạm các ngày sa-bát của Ta.9 Nơi ngươi có những người vu khống nhằm gây đổ máu. Ở giữa ngươi, người ta dự tiệc trên núi và gây tội ác tày trời.10 Ở giữa ngươi, người cha bị lột trần truồng, phụ nữ đang thời kỳ ô uế bị hãm hiếp.11 Ở giữa ngươi, kẻ thì làm điều ghê tởm với vợ người đồng loại; kẻ thì làm chuyện ô uế tày trời với con dâu; kẻ thì hiếp cả em gái, tức là con gái của cha mình.12 Ở giữa ngươi, người ta nhận quà hối lộ nhằm gây đổ máu; ngươi cho vay để ăn lời, để lấy lãi quá nặng, bóc lột người đồng chủng nhằm trục lợi; còn Ta thì ngươi lại lãng quên – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng.

13 Nhưng này, Ta đập tay khi thấy ngươi ham lợi, khi thấy ngươi gây đổ máu giữa nơi ngươi.14 Tinh thần ngươi có vững, tay ngươi có chắc vào ngày Ta xét xử ngươi không? Chính Ta là ĐỨC CHÚA, Ta đã phán là Ta thực hiện.15 Ta sẽ phân tán ngươi vào giữa các dân tộc, tung ngươi ra các nước và tẩy ngươi cho sạch mọi ô uế.16 Ngươi sẽ bị hạ nhục trước mắt chư dân. Bấy giờ ngươi sẽ nhận biết chính Ta là ĐỨC CHÚA.

17 Có lời ĐỨC CHÚA phán với tôi rằng:18 Hỡi con người, đối với Ta, nhà Ít-ra-en đã trở thành rỉ sắt; tất cả bọn chúng là đồng, thiếc, sắt, chì ở giữa lò; chúng là rỉ sắt ở trong lò.19 Vì thế ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán như sau: Vì tất cả các ngươi chỉ là rỉ sắt, nên Ta sẽ gom các ngươi vào giữa Giê-ru-sa-lem.20 Như người ta gom đồng, sắt, chì, thiếc vào giữa lò, rồi thổi lửa cho chảy tan ra thế nào, thì Ta cũng sẽ nổi cơn lôi đình thịnh nộ, gom các ngươi lại, rồi làm cho các ngươi chảy tan ra ở giữa thành như thế.21 Ta sẽ quy tụ các ngươi, rồi thổi lửa phẫn nộ của Ta vào đó. Các ngươi sẽ phải chảy tan ra ở giữa thành.22 Như bạc chảy ra trong lò thế nào, các ngươi cũng sẽ chảy tan ra ở giữa thành như vậy; bấy giờ các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là ĐỨC CHÚA, Ta đã trút cơn thịnh nộ của Ta xuống phạt các ngươi.

23 Có lời ĐỨC CHÚA phán với tôi rằng:24 Hỡi con người, hãy nói với nó: Ngươi là đất không được hưởng mưa thuận gió hoà trong ngày thịnh nộ.25 Các ngôn sứ trong xứ này âm mưu phản loạn. Tựa như con sư tử rống lên xé mồi, chúng đã nuốt trửng sinh mạng, cướp đoạt kho tàng, chiếm hữu đồ quý báu và tăng thêm số các goá phụ trong thành.26 Các tư tế đã vi phạm lề luật của Ta, xúc phạm đến các nơi thánh của Ta, không phân biệt thánh thiêng với phàm tục và không dạy người ta nhận ra sự khác biệt giữa ô uế với thanh sạch. Chúng đã nhắm mắt lại để khỏi thấy các ngày sa-bát của Ta. Ta đã bị xúc phạm giữa chúng.27 Các thủ lãnh trong xứ này tựa bầy sói xé mồi; chúng gây ra đổ máu, giết người để trục lợi.28 Các ngôn sứ trong xứ này tô vôi trát phấn lên chúng, cho thấy những thị kiến hão huyền và nói các lời sấm dối trá. Chúng dám nói: “ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán thế này”, nhưng thực ra ĐỨC CHÚA đã không phán.29 Dân trong xứ đã bóc lột người khác, cướp giật của người ta, ngược đãi kẻ bần cùng nghèo đói, bóc lột ngoại kiều, không đếm xỉa gì đến lẽ chính trực.30 Ta đã tìm kiếm trong bọn chúng một người xây tường và đứng trước nhan Ta, nơi lỗ hổng, để bảo vệ xứ sở, nhằm ngăn cản Ta phá thành, nhưng Ta không tìm ra.31 Ta sẽ trút cơn thịnh nộ của Ta để trừng phạt và tiêu diệt chúng trong cơn lửa giận của Ta. Ta sẽ theo cách cư xử của chúng mà xử lại với chúng – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng.

Câu chuyện tượng trưng cho Giê-ru-sa-lem và Sa-ma-ri

23.  1 Có lời ĐỨC CHÚA phán với tôi rằng:2 Hỡi con người, xưa có hai người đàn bà là con cùng một mẹ.3 Chúng đã đàng điếm ở Ai-cập; ngay từ thời thơ ấu, chúng đã đàng điếm. Ở đó, chúng đã bị bóp vú, bị nắn ngực còn trinh.4 Tên của chúng: chị là O-ho-la, em là O-ho-li-va. Chúng đã thuộc về Ta và sinh được một bầy con trai con gái. Đây là tên của chúng: O-ho-la là Sa-ma-ri và O-ho-li-va là Giê-ru-sa-lem.5 O-ho-la đã làm điếm thay vì ở với Ta. Nó si mê các tình nhân của nó: với Át-sua là những binh sĩ6 mặc áo đỏ tía, với các quan thái thú và khâm sai trẻ trung hấp dẫn, với những kỵ binh cỡi ngựa.7 Nó đã bằng lòng đàng điếm với chúng. Tất cả bọn chúng đều là anh tài của con cái Át-sua. Nó đã ra ô uế vì tất cả những kẻ đã cùng nó thông dâm, vì các ngẫu tượng của chúng.8 Nhưng nó không bỏ được thói đàng điếm của mình từ Ai-cập, bởi vì chúng đã tư thông với nó ngay từ thời thơ ấu của nó; chúng đã nắn ngực còn trinh của nó và đã đổ tính dâm dục của chúng lên người nó.9 Vì thế Ta đã trao nó vào tay các tình nhân của nó, vào tay con cái Át-sua, những kẻ nó đã si mê.10 Chúng đã lột nó trần truồng, bắt các con trai con gái của nó. Chúng đã dùng gươm giết chết nó. Nó đã thành người nổi danh trong giới phụ nữ và người ta đã thi hành án phạt nó.

11 O-ho-li-va, em nó, thấy thế, nhưng còn hư hỏng, phóng đãng hơn nó, và còn đàng điếm tội lỗi hơn chị nó.12 Nó si mê con cái Át-sua, các quan thái thú, các tổng trấn, các binh sĩ mặc nhung phục đắt tiền, những kỵ binh cỡi ngựa; tất cả đều trẻ trung hấp dẫn.13 Và Ta thấy nó đã ra ô uế. Cả hai chị em đều cùng một lối sống như nhau.14 Nó còn thêm vào chuyện đàng điếm của mình: nó nhìn những hình đàn ông khắc trên tường, ảnh quân Can-đê vẽ bằng sơn đỏ,15 đai thắt ngang lưng, khăn quấn lên đầu buông thõng xuống; tất cả trông như những kỵ sĩ có dáng dấp con cái Ba-by-lon, nguyên quán tại Can-đê.16 Vừa nhìn thấy thế, nó đã si mê nên sai sứ giả đến gặp chúng tại Can-đê.17 Bấy giờ, con cái Ba-by-lon đến tình tự với nó; chúng đã làm cho nó ra ô uế vì thói đàng điếm của chúng. Nhưng khi nó đã ra ô uế vì chúng rồi, nó không còn quyến luyến chúng nữa.18 Nó ngang nhiên để lộ thói đàng điếm và phơi bày sự trần truồng của nó ra; bấy giờ Ta không lưu luyến nó như đã thôi lưu luyến chị nó.19 Nhưng nó đã gia tăng các việc đàng điếm của nó để nhớ lại thời thơ ấu nó đã đàng điếm bên đất Ai-cập.20 Nó đã si mê hạng trác táng. Mình chúng như mình lừa, chúng cuồng loạn như giống ngựa.

21 Ngươi tìm kiếm tội ác tày trời thời thơ ấu khi người Ai-cập bóp vú, nắn ngực còn con gái của ngươi.22 Vì thế, hỡi O-ho-li-va, ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán như sau: Này Ta xúi các tình nhân của ngươi chống lại ngươi; chúng không còn lưu luyến ngươi nữa; Ta sẽ dẫn chúng tới đánh ngươi từ khắp tứ phía.23 Con cái Ba-by-lon và tất cả người Can-đê, Pơ-cốt, Sô-a, Cô-a, tất cả con cái Át-sua cùng với chúng, tất cả những thanh niên trẻ trung hấp dẫn, các quan thái thú, các khâm sai, tất cả các sĩ quan và binh lính, tất cả đều là kỵ binh cỡi ngựa.24 Chúng sẽ từ phương Bắc đến đánh ngươi đem theo chiến mã, chiến xa cùng với các dân liên minh với nhau; chúng cho đặt thuẫn, khiên, mũ chiến chung quanh ngươi để đánh ngươi; Ta sẽ trao quyền xét xử cho chúng và chúng sẽ xét xử ngươi tuỳ theo phán quyết của chúng.25 Ta sẽ nổi ghen đánh phạt ngươi; chúng sẽ nổi giận trừng phạt ngươi. Chúng xẻo mũi, cắt tai ngươi; con cháu ngươi sẽ phải ngã gục vì gươm. Chúng sẽ bắt con trai con gái ngươi; con cháu ngươi sẽ bị lửa nuốt chửng.26 Chúng sẽ lột quần áo và đoạt các đồ trang sức của ngươi.27 Ta sẽ cho chấm dứt tội ác tày trời và thói đàng điếm của ngươi từ đất Ai-cập; ngươi sẽ không ngước mắt nhìn lên chúng và sẽ không còn nhớ đến quân Ai-cập nữa.28 Quả thật, ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán như sau: Này Ta trao nộp ngươi vào tay những kẻ ngươi ghét, vào tay những kẻ ngươi không còn lưu luyến.29 Chúng sẽ hành hạ ngươi vì thù ghét; chúng sẽ chiếm lấy tất cả lợi tức của ngươi. Chúng sẽ bỏ ngươi trần truồng không mảnh vải che thân, phơi bày sự trần truồng và thói đàng điếm của ngươi ra. Chính tội ác tày trời, thói đàng điếm của ngươi30 đã gây nên cho ngươi các điều ấy, bởi ngươi đàng điếm chạy theo các dân tộc, nên ngươi đã ra ô uế vì các ngẫu tượng của chúng.31 Ngươi đi theo đường lối của chị ngươi. Ta cũng sẽ trao chén của nó vào tay ngươi.32 ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán thế này:
Ngươi sẽ uống chén của chị ngươi;
chén ấy vừa sâu lại vừa rộng.
Ngươi nên trò cười, thành đề tài nhạo báng,
vì chén ấy chứa được quá nhiều.

33 Ngươi sẽ đầy ứ say sưa và phiền muộn.
Đó là chén đựng hoang tàn và đổ nát,
chén của Sa-ma-ri, chị ngươi.

34 Ngươi sẽ uống, sẽ dốc cạn chén ấy
rồi gặm những mảnh sành,
rạch nát cả đôi vú của ngươi.
Quả thật, chính Ta đã phán – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng.

35 Vì thế, ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán thế này: Vì ngươi đã lãng quên và vứt bỏ Ta ra đàng sau lưng, nên đến lượt ngươi, hãy mang lấy ô nhục và tính đàng điếm của ngươi.36 ĐỨC CHÚA phán với tôi: Hỡi con người, ngươi có muốn xét xử O-ho-la và O-ho-li-va không? Hãy nói cho chúng biết những điều ghê tởm của chúng.37 Quả thật, chúng đã ngoại tình, tay chúng vấy đầy máu. Chúng đã ngoại tình với các ngẫu tượng của chúng; và ngay cả con cái chúng đã sinh ra cho Ta, chúng cũng thiêu làm mồi cho các ngẫu tượng đó.38 Chúng còn xử với Ta như thế này nữa là làm ô uế thánh điện của Ta trong ngày đó và vi phạm các ngày sa-bát của Ta.39 Khi đã tàn sát con cái mình để kính các ngẫu tượng của chúng, chúng còn dám vào thánh điện của Ta trong ngày đó, khiến cho thánh điện của Ta bị xúc phạm. Chúng đã làm như thế đó ở giữa Nhà của Ta.

40 Hơn nữa, chúng đã cử người đi tìm những kẻ từ xa; một sứ giả đã được sai đến với những kẻ đó. Này chúng đến. Vì chúng mà ngươi tắm rửa, vẽ mắt và đeo các đồ trang sức.41 Rồi ngươi ngồi trên một cái giường lộng lẫy, phía trước có kê sẵn một cái bàn, trên đó ngươi bày ra hương và dầu của Ta.42 Người ta nghe thấy tiếng một đám đông ồn ào vô tư lự. Thêm vào đó, còn có nhiều người từ khắp nơi trong sa mạc đến vây quanh; chúng đeo kiềng vào tay, đội triều thiên rực rỡ lên đầu các phụ nữ.43 Bấy giờ tôi nói về người phụ nữ đã rạc đi vì ngoại tình: bây giờ chính nó vẫn còn miệt mài trong các cuộc truy hoan.44 Người ta đến với nó như đến với một con điếm. Chúng đã đến với O-ho-la và O-ho-li-va là những thứ đàn bà hư hỏng.45 Nhưng những người công chính sẽ xét xử chúng theo phán quyết về những kẻ ngoại tình và những kẻ gây đổ máu, vì chúng ngoại tình và tay chúng vấy đầy máu.

46 Quả thật, ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán thế này: Hãy triệu tập đại hội để trừng phạt chúng; hãy để mặc cho chúng phải kinh hãi và bị cướp bóc.47 Đại hội sẽ ném đá trị tội chúng và dùng gươm vằm nát chúng. Người ta sẽ tàn sát con trai con gái chúng và phóng hoả đốt nhà chúng.48 Ta sẽ chấm dứt cảnh ô nhục trong xứ. Tất cả phụ nữ sẽ được sửa dạy và không còn hành động theo vết ô nhục của các ngươi nữa.49 Người ta sẽ giáng trả trên các ngươi sự ô nhục của các ngươi; các ngươi sẽ phải gánh lấy các tội thờ ngẫu tượng của mình. Bấy giờ các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là ĐỨC CHÚA, là Chúa Thượng.

Báo trước cuộc vây hãm Giê-ru-sa-lem

24.  1 Ngày mồng mười tháng mười năm thứ chín, có lời ĐỨC CHÚA phán với tôi rằng:2 Hỡi con người, hãy ghi cho kỹ ngày hôm nay, chính ngày hôm nay; vua Ba-by-lon tấn công Giê-ru-sa-lem vào chính ngày này.3 Hãy dùng dụ ngôn mà nói với nòi phản loạn. Ngươi sẽ nói với chúng: ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán thế này:
Bắc nồi, bắc nồi lên, đổ nước vào,
4 rồi bỏ thịt vào đó
bỏ những miếng ngon lành: thịt đùi, thịt vai;
nhét cho đầy nồi những khúc xương bổ béo.

5 Hãy bắt con nào mập trong bầy chiên dê, rồi bên dưới chất củi,
nấu thịt cho thật chín, hầm kỹ xương trong nồi.

6 Vì thế, ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán thế này:
Khốn cho thành vấy máu là cái nồi han rỉ;
vết han rỉ không sao chùi sạch.
Hãy lấy từng miếng một ra khỏi nồi,
không cần phải bốc thăm chọn lựa.

7 Vì máu đổ ra vẫn còn ở giữa thành.
Nó đổ máu trên tảng đá trọc,
mà không đổ trên đất cho cát bụi lấp đi.

8 Để sục sôi giận dữ và ra tay báo thù,
Ta đã cho máu nó đổ trên tảng đá trọc,
không có gì che phủ.

9 Vì thế, ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán như sau:
Khốn cho thành vấy máu,
chính Ta sẽ dựng lên một lò lửa thật lớn.

10 Hãy chất đầy củi rồi nhóm lửa lên,
nấu thịt cho thật nhừ, chế thêm đồ gia vị,
cho xương cốt cháy tan.

11 Rồi đặt nồi không trên than củi
cho nồi nóng lên, cho đồng đỏ rực,
cho nhơ bẩn tiêu tan và han rỉ biến sạch.

12 Nhưng vất vả bao nhiêu cũng vô ích! Khối han rỉ vẫn không bong ra khỏi nồi, dù đã bị lửa thiêu.13 Vì tội ô uế của ngươi tày trời; Ta muốn thanh tẩy ngươi, nhưng ngươi lại không để cho thanh tẩy sạch mọi ô uế. Ngươi sẽ không được thanh tẩy cho đến khi Ta trút hết cơn thịnh nộ xuống trừng phạt ngươi.14 Chính Ta là ĐỨC CHÚA. Ta đã phán thì điều ấy phải xảy ra; Ta sẽ hành động chẳng chút nương tay, không chút xót thương và chẳng chạnh lòng. Ta sẽ xét xử ngươi tuỳ theo lối sống và các công việc của ngươi, – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng.

Ngôn sứ gặp thử thách

15 Có lời ĐỨC CHÚA phán với tôi rằng:16 Hỡi con người, này Ta sẽ bất thần cất khỏi ngươi niềm vui của mắt ngươi. Nhưng ngươi không được thương tiếc người chết, không được khóc lóc, không được để nước mắt trào ra.17 Hãy rên rỉ âm thầm, đừng làm đám tang cho người chết; hãy đội khăn, đi dép; không được che râu ria; không được ăn bánh người ta đưa đến.18 Tôi nói với dân chúng ban sáng, thì đến chiều vợ tôi chết. Sáng hôm sau, tôi làm như lệnh ĐỨC CHÚA đã truyền cho tôi.19 Dân chúng bảo tôi: “Ông không cắt nghĩa cho chúng tôi hiểu những gì ông đã làm sao?”20 Tôi nói với họ: “Có lời ĐỨC CHÚA phán với tôi rằng:21 Hãy nói với nhà Ít-ra-en: ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán như sau: Này Ta sẽ làm cho Nơi Thánh của Ta ra ô uế; nơi thánh đó là sức mạnh làm cho các ngươi hãnh diện, là niềm vui của đôi mắt các ngươi, là nơi các ngươi hằng quan tâm. Con trai con gái các ngươi đã bỏ lại sẽ ngã gục vì gươm.22 Các ngươi cứ làm như tôi đã làm. Các ngươi đừng che râu ria, đừng ăn bánh người ta đưa đến.23 Đầu đội khăn, chân đi dép; các ngươi sẽ không được thương tiếc người chết, không được khóc lóc. Các ngươi sẽ chết dần chết mòn vì lỗi lầm của các ngươi; các ngươi sẽ nhìn nhau mà rên siết.24 Ê-dê-ki-en sẽ nên điềm báo cho các ngươi. Các ngươi sẽ làm y như nó đã làm. Khi sự việc xảy ra, các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là ĐỨC CHÚA, là Chúa Thượng.

25 Còn ngươi, hỡi con người, vào ngày Ta cất đi sức mạnh của chúng, cũng như niềm hân hoan vì đồ trang sức, niềm vui của đôi mắt chúng, niềm hạnh phúc của tâm hồn chúng, con trai con gái của chúng.26 Ngày ấy sẽ có một người thoát nạn đến báo tin cho ngươi.27 Ngày ấy ngươi sẽ mở miệng ra nói với người thoát nạn; ngươi sẽ nói được và không còn câm nữa. Ngươi sẽ là điềm báo cho chúng. Bấy giờ, chúng sẽ nhận biết chính Ta là ĐỨC CHÚA.

II. CÁC SẤM NGÔN HẠCH TỘI CHƯ DÂN

Hạch tội dân Am-mon

25.  1 Có lời ĐỨC CHÚA phán với tôi rằng:2 Hỡi con người, hãy quay mặt về phía con cái Am-mon mà tuyên sấm hạch tội chúng.3 Ngươi hãy bảo con cái Am-mon: Hãy nghe lời của Chúa Thượng là ĐỨC CHÚA. Chúa Thượng là ĐỨC CHÚA phán thế này:

Vì ngươi đã nói “A ha !” về thánh điện của Ta, khi nó bị xúc phạm, về đất Ít-ra-en khi nó bị tàn phá, và về nhà Giu-đa khi chúng phải đi đày, 4 nên Ta sẽ trao ngươi cho con cái Phương Đông làm sở hữu; chúng sẽ lập trại và dựng nhà của chúng ở giữa ngươi. Chính chúng sẽ hưởng dùng hoa trái, sẽ uống sữa của ngươi.5 Ta sẽ biến Ráp-ba thành đồng cỏ nuôi lạc đà và xứ sở của con cái Am-mon thành chuồng giữ chiên dê; bấy giờ các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là ĐỨC CHÚA.

6 Quả vậy, Chúa Thượng là ĐỨC CHÚA phán thế này:
 Vì ngươi đã đập tay, giậm chân, đã vui mừng, lòng đầy khinh bỉ đối với đất Ít-ra-en, 7 nên Ta sẽ dang tay trừng phạt ngươi, sẽ để cho các dân tộc cướp phá, sẽ loại bỏ ngươi khỏi chư dân, sẽ xoá tên ngươi khỏi các nước và huỷ diệt ngươi; bấy giờ, ngươi sẽ nhận biết chính Ta là ĐỨC CHÚA.

Hạch tội Mô-áp

8 Chúa Thượng là ĐỨC CHÚA phán thế này:
Vì Mô-áp và Xê-ia đã nói : “Nhà Giu-đa nào có khác gì chư dân”, 9 nên Ta sẽ làm cho mọi thành trên các triền đồi Mô-áp hoàn toàn biến dạng; Bết Ha Giơ-si-mốt, Ba-an Mơ-ôn và Kia-gia-tha-gim không còn là những thành huy hoàng của xứ sở nữa.10 Ta sẽ trao các thành ấy cùng với con cái Am-mon cho con cái Phương Đông làm sở hữu, khiến chẳng còn ai trong các dân tộc nhớ đến con cái Am-mon nữa.11 Ta sẽ thi hành án phạt Mô-áp; bấy giờ chúng sẽ nhận biết chính Ta là ĐỨC CHÚA.

Hạch tội Ê-đôm

12 Chúa Thượng là ĐỨC CHÚA phán thế này:
Vì cách xử sự của Ê-đôm khi báo oán nhà Giu-đa, và vì những sai lỗi nặng nề khi báo oán nhà ấy, 13 nên Chúa Thượng là ĐỨC CHÚA phán như sau: Ta sẽ dang tay trừng phạt Ê-đôm, sẽ diệt trừ người cũng như súc vật khỏi xứ, sẽ làm cho Ê-đôm ra hoang tàn; từ Tê-man tới Đơ-đan, người ta sẽ phải ngã gục vì gươm.14 Ta quyết định dùng tay dân Ta là Ít-ra-en để báo oán Ê-đôm; dân ấy sẽ xử với Ê-đôm theo cơn lôi đình thịnh nộ của Ta; bấy giờ chúng sẽ nhận biết sự báo oán của Ta, – sấm ngôn của Chúa Thượng là ĐỨC CHÚA.

Hạch tội Phi-li-tinh

15 Chúa Thượng là ĐỨC CHÚA phán thế này:
 Vì dân Phi-li-tinh đã hành động do lòng thù oán và vì chúng đã báo oán do mối thù thiên thu, lòng đầy khinh bỉ, nhằm tận diệt, 16 nên Chúa Thượng là ĐỨC CHÚA phán thế này: Ta sẽ dang tay trừng phạt dân Phi-li-tinh; Ta sẽ loại trừ những người Cơ-rê-thi và tiêu diệt số dân cư miền duyên hải còn sót lại.17 Ta sẽ giáng xuống trên chúng những hình phạt hết sức nặng nề để báo oán; bấy giờ, khi Ta thi hành sự báo oán, chúng sẽ nhận biết chính Ta là ĐỨC CHÚA.

Hạch tội Tia

26.  1 Năm thứ mười một, ngày đầu tháng, có lời ĐỨC CHÚA phán với tôi rằng:
2 Hỡi con người, vì Tia đã nói chống lại Giê-ru-sa-lem:
“A ha! Cửa của các dân đã tan nát;
đến lượt ta phú túc, còn nó phải tan hoang”,
3 nên Chúa Thượng là ĐỨC CHÚA phán thế này:
Ta sẽ trừng phạt ngươi, hỡi Tia,
sẽ làm cho nhiều dân tộc nổi lên chống lại ngươi
như biển khơi dậy sóng.

4 Chúng sẽ triệt hạ tường luỹ thành Tia, sẽ phá huỷ các tháp;
còn Ta sẽ quét bụi khỏi thành và biến nó ra núi đá trọc.

5 Nó sẽ thành chỗ phơi lưới, giữa biển khơi,
bởi vì chính Ta đã phán,
– sấm ngôn của Chúa Thượng là ĐỨC CHÚA.
Nó sẽ là mồi ngon cho các dân tộc.

6 Các con gái của nó đang ở ngoài đồng sẽ bị gươm tàn sát;
bấy giờ, chúng sẽ nhận biết chính Ta là ĐỨC CHÚA.

7 Quả vậy, Chúa Thượng là ĐỨC CHÚA phán thế này:
Đây, từ phương Bắc, Ta sắp dẫn đến Tia
Na-bu-cô-đô-nô-xo, vua Ba-by-lon, vua các vua,
cùng với ngựa, chiến xa và kỵ mã,
một đoàn lũ và một đám dân đông đảo.

8 Các con gái của ngươi đang ở ngoài đồng,
nó sẽ dùng gươm tàn sát.
Nó sẽ đắp chiến luỹ, đắp ụ, và dựng thuẫn chống lại ngươi.

9 Nhắm vào các tường luỹ của ngươi, nó sẽ đặt máy phá
và dùng máy móc triệt hạ các tháp canh.

10 Ngựa của nó hàng hàng lớp lớp tung bụi che phủ ngươi;
nghe tiếng vó câu, tiếng xe và xe trận,
các tường luỹ của ngươi rung chuyển
khi nó tràn vào các cửa thành ngươi,
giống như người ta vào thành đã bị chọc thủng.

11 Nó cho vó ngựa giẫm nát mọi đường phố của ngươi,
dân của ngươi, nó dùng gươm sát hại;
các bia đá oai hùng của ngươi, nó quăng xuống đất.

12 Của cải ngươi sẽ bị cưỡng đoạt,
hàng hoá của ngươi, thiên hạ lấy đem đi;
tường luỹ của ngươi sẽ bị phá huỷ,
nhà cửa sang trọng của ngươi, người ta phá tan hoang,
đá, gỗ, bụi của ngươi đều bị quăng xuống biển.

13 Ta sẽ làm cho im bặt tiếng ca vang của ngươi,
tiếng đàn của ngươi cũng không còn nghe thấy nữa.

14 Ta sẽ biến ngươi thành núi đá trọc;
ngươi sẽ thành chỗ phơi lưới,
ngươi chẳng còn được tái thiết nữa,
vì chính Ta, ĐỨC CHÚA, Ta đã phán,
– sấm ngôn của Chúa Thượng là ĐỨC CHÚA.

Bài ai ca khóc thành Tia

15 Chúa Thượng là ĐỨC CHÚA phán thế này với Tia: Nghe tiếng ngươi sụp đổ, cùng với tiếng rên la của đám thương vong và cảnh tàn sát rợn rùng xảy ra ở giữa ngươi, chẳng lẽ các hải đảo không run sợ?16 Bấy giờ, mọi thủ lãnh hải đảo sẽ xuống khỏi ngai, vứt áo choàng, bỏ y phục sặc sỡ và mặc lấy hãi hùng; chúng sẽ ngồi bệt xuống đất, kinh hãi liên hồi và sửng sốt về số phận của ngươi.

17 Chúng sẽ cất lên khúc ai ca khóc thương ngươi và nói với ngươi rằng:
Sao ngươi bị huỷ diệt, biến mất khỏi biển khơi,
hỡi thành đô danh tiếng,
thành đô hùng cường trên biển cả, cả thành lẫn dân cư đã từng gieo kinh hãi cho mọi dân trong miền.

18 Giờ đây, các hải đảo khiếp kinh vào ngày ngươi sụp đổ;
các hải đảo hoảng hốt vì thấy ngươi suy tàn.

19 Vì Chúa Thượng là ĐỨC CHÚA phán như sau:
Khi Ta biến ngươi nên thành phố hoang tàn, giống như các thành không có người ở, khi Ta cho vực thẳm và ba đào biển cả nổi lên phủ lấp ngươi, 20 Ta hạ ngươi xuống với những người đã xuống vực sâu, về với dân đã thành người thiên cổ. Ta sẽ cho ngươi định cư trong miền đất thẳm sâu giống như chốn điêu tàn vạn cổ, với những người đã xuống vực sâu, để ngươi không còn được Ta cho về cư ngụ và hưởng ánh huy hoàng rực rỡ trong cõi nhân sinh.21 Ta sẽ biến ngươi thành đồ kinh tởm; ngươi sẽ không còn tồn tại. Người ta sẽ tìm kiếm ngươi, nhưng chẳng bao giờ còn thấy ngươi nữa, – sấm ngôn của Chúa Thượng là ĐỨC CHÚA.

Bài ai ca thứ hai khóc thành Tia sụp đổ

27.  1 Có lời ĐỨC CHÚA phán với tôi rằng:2 Phần ngươi, hỡi con người, hãy cất bài ai ca khóc thành Tia.3 Hãy nói với thành Tia nằm nơi cửa biển, nơi các dân giao thương với nhiều hải đảo: Chúa Thượng là ĐỨC CHÚA phán thế này:
Hỡi Tia, chính ngươi đã từng nói: “Ta xinh đẹp tuyệt trần! “

4 Lãnh thổ của ngươi trải rộng khắp trùng dương.
Nhờ những tay thợ lành nghề,
sắc đẹp của ngươi thêm lộng lẫy.

5 Họ lấy gỗ trắc Xơ-nia đóng cho ngươi toàn bộ mạn sườn;
lấy gỗ bá hương Li-băng làm cột buồm,
6 dùng gỗ sồi Ba-san làm mái chèo.
Họ lấy gỗ bá hương từ các đảo Kít-tim
khảm ngà voi làm mái che ngươi.

7 Buồm của ngươi làm bằng vải gai sặc sỡ
đưa từ Ai-cập về, trông giống như cờ hiệu;
bạt che ngươi bằng vải tía vải điều của các hải đảo Ê-li-sa.

8 Hỡi Tia, những tay chèo thuyền cho ngươi
là các dân Xi-đôn và Ác-vát;
các thủy thủ của ngươi là những tay khéo léo lanh lợi;
9 còn những người trét các lỗ rò là các kỳ mục Gơ-van,
là những bậc khôn ngoan từng trải.

Mọi tàu biển và thuỷ thủ của chúng đến với ngươi để giao thương buôn bán. 10 Người Ba-tư, người Lút và Pút làm chiến binh phục vụ trong quân đội của ngươi. Họ treo khiên mộc và mũ chiến ở nơi ngươi, làm cho ngươi được vinh hiển.11 Con cái Ác-vát cùng với quân đội của chúng đóng trên các tường luỹ của ngươi, khắp chung quanh; còn quân Gam-mát thì ở trên các ngọn tháp của ngươi. Chúng treo thuẫn trên các tường luỹ của ngươi, khắp chung quanh, làm cho vẻ đẹp của ngươi thêm lộng lẫy.12 Tác-sít giao thương với ngươi vì ngươi có đủ mọi thứ hàng hoá. Chúng đưa bạc, sắt, kẽm, chì cho ngươi, để đổi lấy hàng hoá.13 Gia-van, Tu-van và Me-séc cũng giao thương với ngươi. Chúng đem nô lệ và các vật dụng bằng đồng cho ngươi để đổi lấy thực phẩm.14 Từ Bết Tô-gác-ma, người ta trao ngựa tải, ngựa chiến và lừa cho ngươi để đổi lấy hàng hoá.15 Con cái Đơ-đan cũng buôn bán với ngươi; nhiều hải đảo là khách hàng của ngươi; chúng nộp cho ngươi ngà voi và gỗ mun.16 A-ram cũng giao thương với ngươi, vì ngươi có nhiều sản phẩm; họ trả cho ngươi hồng ngọc, vải điều, nhiễu điều, hàng mịn, san hô, ngọc tía, để đổi lấy hàng hoá.17 Cả Giu-đa và đất Ít-ra-en cũng là những khách hàng của ngươi, họ trả cho ngươi lúa mì Min-nít, sáp với mật ong, dầu và nhựa thơm để đổi lấy thực phẩm của ngươi.18 Đa-mát giao thương với ngươi vì ngươi có nhiều sản phẩm và đủ loại hàng hoá: nó cung cấp cho ngươi rượu Khen-bôn và len Xa-kha.19 Từ U-dan, Đan và Gia-van đem sắt đã luyện, quế bì, quế thanh để đổi lấy hàng hoá của ngươi.20 Đơ-đan đem thảm làm yên ngựa đến buôn bán với ngươi.21 Ả-rập và các ông hoàng Kê-đa cũng giao thương với ngươi; họ đem chiên, cừu, dê đến buôn bán với ngươi.22 Khách buôn Sơ-va và Ra-ơ-ma cũng giao thương với ngươi; họ trao cho ngươi mọi thứ hương thơm hảo hạng, mọi thứ đá quý cùng với vàng để đổi lấy hàng hoá.23 Kha-ran, Căn-nê và E-đen; các khách buôn Sơ-va, Át-sua và Kin-mát giao thương với ngươi;24 họ buôn bán với ngươi, đem đến các chợ của ngươi nào y phục lộng lẫy, áo choàng vải điều vải tía, nào hàng dệt nhiều màu, dây thừng bện chắc.

25 Tàu bè Tác-sít chuyển chở hàng hoá cho ngươi.
Giữa trùng dương,
ngươi đã được chất đầy và chở nặng.

26 Các tay chèo của ngươi đưa ngươi ra biển cả.
Cơn gió đông làm ngươi vỡ tan tành giữa trùng dương.

27 Tài sản, hàng hoá cùng thực phẩm,
thủy thủ, các tay chèo, thợ trét lỗ rò,
khách buôn và mọi chiến binh phục vụ ngươi,
cũng như mọi hành khách trên tàu,
tất cả đều chìm xuống biển sâu, vào ngày ngươi sụp đổ.

28 Nghe tiếng các thủy thủ của ngươi kêu la,
dân chúng trên bờ đều rúng động.

29 Bấy giờ, mọi kẻ cầm mái chèo đều xuống khỏi tàu;
các thủy thủ, mọi người đi biển, tất cả đều lên đất.

30 Họ sẽ kể lể về chuyện của ngươi
mà kêu gào xót xa và rắc bụi lên đầu, rồi lăn mình trên đống tro;
31 vì ngươi, họ cạo đầu, và mặc áo vải thô;
họ khóc thương ngươi, lòng đầy cay đắng.

32 Họ cất lên một khúc ai ca, khóc thương ngươi, não nùng ai oán:
“Nào ai giống như Tia, lặng lẽ chìm sâu trong biển cả.

33 Trước kia, khi ngươi dùng đường biển
đưa hàng đi khắp chốn, bao dân nước đã được mãn nguyện;
vì lắm của lại nhiều hàng,
ngươi đã làm giàu cho vua chúa trên mặt đất.

34 Giờ đây, ngươi bị sóng đánh tan tành, chìm sâu trong biển cả;
hàng hoá cùng với mọi hành khách đã chìm xuống theo ngươi.

35 Mọi dân cư trên các hải đảo đều kinh ngạc về chuyện của ngươi.
Vua chúa của họ rụng rời kinh hãi và thất vọng ra mặt.

36 Khách hàng các nước cười nhạo ngươi
vì ngươi đã hoá ra đồ kinh tởm;
ngươi sẽ chẳng còn tồn tại đến mãi mãi muôn đời.”

Hạch tội vua Tia

28.  1 Có lời ĐỨC CHÚA phán với tôi rằng: 2 Hỡi con người, hãy nói với thủ lãnh của Tia: Chúa Thượng là ĐỨC CHÚA phán thế này:
Vì ngươi đem lòng tự cao tự đại nên ngươi đã nói: “Ta là thần,
ta ngự trên ngai các thần, giữa trùng dương.”
Ngươi chỉ là người, chứ không phải là thần
mà lại dám cho mình ngang hàng với thần thánh.

3 Này, ngươi khôn ngoan hơn Đa-ni-ên!
Không bí mật nào giấu được ngươi.

4 Nhờ khôn ngoan hiểu biết,
ngươi đã làm ra của cải và thu tích vàng bạc trong kho.

5 Vì ngươi rất khôn ngoan và có tài buôn bán,
nên của cải ngươi đã tăng lên
và ngươi sinh lòng tự cao vì lắm của.

6 Bởi vậy, Chúa Thượng là ĐỨC CHÚA phán thế này:
Vì ngươi dám cho mình ngang hàng với thần thánh,
7 nên, này Ta sẽ đưa
những người ngoại bang hung dữ nhất trong các dân tộc
đến đánh phá ngươi.
Chúng sẽ tuốt gươm đối lại sự khôn ngoan tuyệt vời của ngươi,
làm cho vẻ huy hoàng của ngươi ra ô trọc.

8 Chúng sẽ xô ngươi xuống hố,
và ngươi sẽ chết thê thảm giữa trùng dương.

9 Trước mặt những kẻ sắp giết ngươi đó,
liệu ngươi còn nói được: “Ta là thần” nữa chăng,
đang khi ở trong tay những kẻ sắp đâm ngươi
ngươi chỉ là người chứ không phải là thần thánh?

10 Ngươi sẽ chết như những kẻ không cắt bì,
bởi tay quân ngoại bang, vì Ta đây, Ta đã phán,
sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng.

Vua Tia bị lật nhào

11 Có lời ĐỨC CHÚA phán với tôi rằng:12 Hỡi con người, hãy cất lên khúc ai ca thương khóc vua Tia. Ngươi hãy nói: Chúa Thượng là ĐỨC CHÚA phán thế này:
Ngươi là mẫu người tuyệt hảo
đầy khôn ngoan và xinh đẹp tuyệt vời.

13 Ngươi cư ngụ tại Ê-đen, thửa vườn của Thiên Chúa
áo của ngươi đính toàn đá quý:
xích não, hoàng ngọc, kim cương,
kim lục thạch, mã não có vân, vân thạch
lam ngọc, hồng ngọc, bích ngọc;
còn trống cơm và sáo của ngươi thì được dát vàng.
Tất cả đều sẵn sàng, ngày ngươi được sáng tạo.

14 Ta đặt ngươi làm Kê-rúp chở che;
ngươi ở trên núi thánh của Thiên Chúa,
đi đi lại lại giữa than hồng rực lửa.

15 Đường lối của ngươi chẳng có gì đáng trách
từ ngày ngươi được sáng tạo
cho tới khi tìm thấy sự bất công ở nơi ngươi.

16 Vì làm ăn buôn bán thịnh đạt
nên ngươi chất đầy mình bạo lực và tội lỗi.
Bởi thế, Ta làm cho ngươi ra phàm tục,
không cho ở trên núi của Thiên Chúa.
Hỡi Kê-rúp chở che,
Ta tiêu diệt ngươi khỏi chốn than hồng rực lửa.

17 Ngươi đem lòng tự cao vì vẻ đẹp của mình,
ngươi đã để cho vẻ huy hoàng rực rỡ
làm hư hỏng sự khôn ngoan của ngươi.
Ta quẳng ngươi xuống đất,
Ta biến ngươi thành trò diễu cợt cho các vua.

18 Vì ngươi chồng chất tội, vì ngươi buôn bán bất lương,
nên các thánh điện của ngươi đã ra ô uế.
Bởi thế, từ nơi ngươi,
Ta cho phát ra một ngọn lửa thiêu rụi ngươi;
Ta biến ngươi thành tro bụi trên mặt đất
trước mắt mọi kẻ đang nhìn ngươi.

19 Bất kỳ ai giữa muôn dân muôn nước xưa kia từng biết ngươi,
đều lấy làm kinh ngạc về chuyện đã xảy ra cho ngươi;
ngươi đã hoá ra đồ ghê tởm, mãi mãi ngươi sẽ không còn tồn tại.

Hạch tội Xi-đôn

20 Có lời ĐỨC CHÚA phán với tôi:21 Hỡi con người, hãy quay mặt về phía Xi-đôn mà tuyên sấm hạch tội nó.22 Ngươi hãy nói: Chúa Thượng là ĐỨC CHÚA phán thế này:
Này Ta chống lại ngươi, hỡi Xi-đôn,
Ta sắp được vẻ vang ở giữa ngươi.
Bấy giờ, thiên hạ sẽ nhận biết chính Ta là ĐỨC CHÚA,
khi Ta thi hành án xử đối với nó
và biểu dương nơi nó sự thánh thiện của Ta.

23 Ta sẽ cho ôn dịch giáng xuống trên nó,
cho máu me ngập khắp phố phường,
đám tử vong nằm la liệt giữa nó, vì gươm đao đe doạ nó tư bề.
Bấy giờ, thiên hạ sẽ nhận biết chính Ta là ĐỨC CHÚA.

Ít-ra-en được giải thoát khỏi ách dân ngoại

24 Nhà Ít-ra-en sẽ không còn bị gai đâm dằm xước bởi các dân lân bang vẫn từng khinh khi chúng. Bấy giờ chúng sẽ nhận biết chính Ta là ĐỨC CHÚA.

25 Chúa Thượng là ĐỨC CHÚA phán thế này: Khi Ta tập hợp nhà Ít-ra-en từ giữa chư dân là nơi chúng bị phân tán; nơi chúng, Ta sẽ biểu dương sự thánh thiện của Ta trước mắt các dân ấy. Chúng sẽ định cư trên phần đất mà Ta ban cho tôi tớ Ta là Gia-cóp.26 Ở đó, chúng sẽ an cư lạc nghiệp, sẽ xây nhà và trồng nho; chúng sẽ an cư lạc nghiệp khi Ta thi hành án xử đối với những kẻ lân bang đã từng khinh dể chúng. Bấy giờ chúng sẽ nhận biết chính Ta là ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của chúng.

Hạch tội Ai-cập

29.  1 Ngày mười hai tháng mười năm thứ mười, có lời ĐỨC CHÚA phán với tôi rằng:2 Hỡi con người, hãy quay mặt về phía Pha-ra-ô, vua Ai-cập, mà tuyên sấm hạch tội nó và toàn cõi Ai-cập.3 Hãy nói, hãy bảo: ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán thế này:
Này Ta chống lại ngươi, hỡi Pha-ra-ô, vua Ai-cập,
con cá sấu vĩ đại đang nằm giữa các dòng sông Nin của mình.
Ngươi dám bảo: “Sông Nin là của ta,
chính ta đã làm ra con sông ấy.”

4 Ta sẽ tra hàm thiếc vào hàm ngươi,
sẽ làm cho cá mú sông Nin bám chặt vào vảy ngươi.

5 Ta sẽ ném ngươi vào sa mạc cùng với hết mọi cá mú sông Nin.
Ngươi sẽ gục ngã trên cánh đồng,
không được gom lại, không được chôn cất.
Ta sẽ biến ngươi thành mồi
cho cầm thú dưới đất, cho muông chim trên trời.

6 Bấy giờ, mọi dân cư Ai-cập sẽ nhận biết chính Ta là ĐỨC CHÚA.
Vì đối với nhà Ít-ra-en, ngươi chỉ là cây gậy lau.

7 Khi chúng nắm lấy ngươi, ngươi nát tan trong bàn tay chúng,
và ngươi làm chúng rách cả vai.
Khi chúng tựa vào ngươi, ngươi gãy nát
ngươi làm chúng sụm lưng.

8 Vì thế, ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán thế này: Đây Ta cho gươm đao đến trừng phạt ngươi, và Ta sẽ diệt trừ khỏi ngươi cả người lẫn vật.9 Đất Ai-cập sẽ nên chốn hoang tàn đổ nát; bấy giờ thiên hạ sẽ nhận biết chính Ta là ĐỨC CHÚA. Vì ngươi dám nói: “Sông Nin là của ta; chính ta đã làm ra nó”,10 thì này, Ta chống lại ngươi và dòng sông Nin của ngươi. Ta sẽ biến đất Ai-cập nên chốn hoang tàn đổ nát, từ Mích-đôn tới Xơ-vê-nê, đến tận biên giới xứ Cút.11 Không còn người nào, cũng chẳng còn vật nào đặt chân qua đó nữa; tại đây, sẽ không có người cư ngụ trong bốn mươi năm.12 Ta sẽ biến đất Ai-cập nên chốn hoang tàn giữa các miền đổ nát; trong bốn mươi năm, thành thị của nó sẽ trở nên chốn hoang tàn giữa các thành bị tàn phá. Ta sẽ phân tán người Ai-cập vào các dân và tung chúng đi các nước.13 Vì ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán thế này: mãn hạn bốn mươi năm, Ta sẽ tập hợp những người Ai-cập từ các dân, nơi chúng đã bị phân tán.14 Ta sẽ đổi số phận dân Ai-cập và sẽ đưa chúng về đất Pát-rốt, về nơi chôn nhau cắt rốn của chúng. Tại đó, chúng sẽ thành một vương quốc bé nhỏ.15 Ai-cập sẽ là một vương quốc nhỏ bé nhất trong các vương quốc và sẽ không còn trổi vượt hơn các dân tộc. Ta sẽ làm cho dân số nó sút giảm khiến nó không còn thống trị các dân tộc nữa.16 Đối với nhà Ít-ra-en, nó sẽ không còn là nơi đáng tin cậy nữa, vì nó nhắc cho Ít-ra-en nhớ đến tội mình là đã quay đầu về với nó. Bấy giờ thiên hạ sẽ nhận biết Ta là ĐỨC CHÚA.

17 Ngày mồng một tháng thứ nhất, năm thứ hai mươi bảy, có lời ĐỨC CHÚA phán với tôi rằng:
18 Hỡi con người, Na-bu-cô-đô-nô-xo, vua Ba-by-lon, đã bắt quân mình phải vất vả khổ cực để tấn công thành Tia: đầu ai cũng tróc, vai ai cũng trầy. Nhưng nó chẳng được lợi lộc gì từ phía Tia, cả quân đội của nó cũng vậy, dù đã ra công vất vả đánh thành.19 Vì thế, ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán như sau: Này, Ta sẽ trao đất Ai-cập cho Na-bu-cô-đô-nô-xo, vua Ba-by-lon, nó sẽ lấy của cải mang đi, sẽ đoạt chiến lợi phẩm và cướp sạch xứ ấy; đó sẽ là lợi lộc trả cho quân của nó.20 Bù lại công khó nó đã bỏ ra để đánh Ai-cập, Ta sẽ trao cho nó đất ấy, vì nó đã hành động cho Ta – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng.

21 Ngày ấy, Ta sẽ cho nhà Ít-ra-en hùng cường; còn phần ngươi, Ta sẽ cho ngươi được mở miệng nói năng giữa chúng. Bấy giờ, chúng sẽ nhận biết chính Ta là ĐỨC CHÚA.

Ngày ĐỨC CHÚA trừng phạt Ai-cập

30.  1 Có lời ĐỨC CHÚA phán với tôi rằng:2 Hỡi con người, hãy tuyên sấm; ngươi hãy nói: ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán thế này: Các ngươi hãy rên siết: “Ôi! Ngày ấy! “3 Vì ngày ấy gần kề. Ngày của ĐỨC CHÚA đã gần kề; đó sẽ là ngày u ám, là thời của các dân tộc.

4 Nạn gươm đao sẽ xảy đến cho Ai-cập, lo âu tràn vào Cút: đám tử vong nằm la liệt ở Ai-cập, khi của cải nó bị lấy mang đi, nền móng của nó bị phá huỷ.5 Cút, Pút và Lút cùng tất cả đám dân Cút ô hợp cũng như con cái của đất giao ước sẽ gục ngã vì gươm.

6 ĐỨC CHÚA phán thế này:
Các nơi nương tựa của Ai-cập sẽ sụp đổ; sự kiêu hùng của nó sẽ bị lật nhào: từ Mích-đôn đến Xơ-vê-nê, người ta sẽ phải gục ngã vì gươm – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng.

7 Chúng sẽ ra hoang tàn giữa các miền đổ nát, và thành thị của nó sẽ trở nên chốn hoang tàn giữa các thành bị tàn phá.8 Bấy giờ chúng sẽ nhận biết chính Ta là ĐỨC CHÚA, khi Ta châm lửa đốt Ai-cập và khi mọi nguồn tiếp viện của nó bị tiêu huỷ.

9 Ngày ấy, các sứ giả sẽ theo lệnh Ta xuống tàu ra đi, khiến cho xứ Cút đang yên hàn phải lo lắng, và sợ hãi sẽ ập xuống vào ngày của Ai-cập – vì đây ngày ấy đang đến!

10 ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán thế này: Ta sẽ dùng bàn tay của Na-bu-cô-đô-nô-xo, vua Ba-by-lon, mà tiêu diệt đám đông quân Ai-cập.11 Nó cùng với dân nó, dân hung dữ nhất trong các dân tộc, sẽ được dẫn tới để tiêu diệt xứ này. Chúng sẽ tuốt gươm đánh Ai-cập, làm cho xứ ngập đầy xác chết.12 Ta sẽ làm cho dòng sông Nin khô cạn, sẽ bán xứ này cho phường gian ác. Ta sẽ dùng tay ngoại bang tàn phá xứ sở cùng mọi sự trong đó. Chính Ta, ĐỨC CHÚA, Ta đã phán.

13 ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán thế này: Ta sẽ huỷ diệt các ngẫu tượng, sẽ loại trừ khỏi Nốp các tà thần. Đất Ai-cập sẽ không còn ông hoàng nữa. Ta sẽ làm cho Ai-cập đắm chìm trong sợ hãi.14 Ta sẽ tàn phá Pát-rốt, sẽ châm lửa đốt Xô-an, sẽ thi hành án phạt dành cho Nô.15 Ta sẽ trút cơn thịnh nộ của Ta xuống Xin, đồn luỹ kiên cố của Ai-cập. Ta sẽ huỷ diệt đám đông quân Nô.16 Ta sẽ châm lửa đốt Ai-cập; Xin sẽ quằn quại trong đau đớn; Nô sẽ bị chọc thủng và Nốp bị tấn công giữa ban ngày.17 Thanh niên Ôn và Pi Ve-xét sẽ phải ngã gục vì gươm, còn phụ nữ phải đi đày.18 Tại Tác-pan-khết, bóng tối bao phủ giữa ban ngày, khi Ta bẻ gãy cái ách của Ai-cập tại đó, và khi sự kiêu hùng của nó phải tiêu tan. Một đám mây sẽ bao phủ nó và các con gái của nó phải đi đày.19 Ta sẽ thi hành án phạt dành cho Ai-cập và thiên hạ sẽ nhận biết chính Ta là ĐỨC CHÚA.

20 Ngày mồng bảy tháng thứ nhất năm thứ mười một, có lời ĐỨC CHÚA phán với tôi rằng:21 Hỡi con người, Ta đã bẻ gãy cánh tay của Pha-ra-ô, vua Ai-cập; và này, chẳng có ai băng bó, tìm phương trị liệu và cuốn băng cho nó để nó có sức cầm gươm.22 Vì thế, ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán thế này: Đây, Ta chống lại Pha-ra-ô, vua Ai-cập; Ta sẽ bẻ gãy các cánh tay của nó, cánh tay còn khoẻ cũng như cánh tay đã gãy và Ta sẽ khiến cho gươm nó đang cầm rơi khỏi tay nó.23 Ta sẽ phân tán người Ai-cập vào các dân và tung chúng đi các nước.24 Ta sẽ làm cho các cánh tay của vua Ba-by-lon nên mạnh mẽ, và Ta sẽ trao gươm của Ta vào tay nó. Ta sẽ bẻ gãy các cánh tay của Pha-ra-ô và trước mặt kẻ thù của nó, nó sẽ thốt ra những tiếng rên la như người bị tử thương.25 Ta sẽ làm cho các cánh tay của vua Ba-by-lon nên mạnh mẽ, còn các cánh tay của Pha-ra-ô sẽ phải buông xuống. Bấy giờ, thiên hạ sẽ nhận biết chính Ta là ĐỨC CHÚA, khi Ta trao gươm của Ta vào tay vua Ba-by-lon. Nó sẽ quay gươm chống lại Ai-cập.26 Ta sẽ phân tán người Ai-cập vào các dân và tung chúng đi các nước. Bấy giờ, thiên hạ sẽ nhận biết chính Ta là ĐỨC CHÚA.

Cây hương bá

31.  1 Ngày mồng một tháng thứ ba, năm thứ mười một, có lời ĐỨC CHÚA phán với tôi rằng:2 Hỡi con người, hãy nói với Pha-ra-ô, vua Ai-cập, và với đám dân đông đảo của nó:
Ngươi so sánh sự vĩ đại của ngươi với ai?

3 Với cây trắc bá, cây hương nam núi Li-băng,
cành to, lá rườm rà, thân cao lớn
ngọn vút lên giữa các tầng mây?

4 Nước đã nuôi cho nó lớn, vực thẳm làm cho nó cao,
khi cho những dòng sông mình
chảy chung quanh chỗ nó được trồng;
khi đưa những khe suối len lỏi vào mọi cây cối trong cánh đồng.

5 Vì thế, nhờ có nhiều nước
thân nó cao lớn hơn mọi cây cối trong cánh đồng, chồi lộc ra nhiều, cành lá vươn rộng.

6 Trên cành cây, mọi giống chim trời đến làm tổ,
dưới bóng lá cành, mọi dã thú nẩy nở sinh sôi,
và dưới bóng nó, vô số dân tộc đến cư ngụ.

7 Đó là một cây xinh đẹp tuyệt vời, thân to lớn, cành lá vươn rộng
và đâm rễ xuống tận nguồn nước dồi dào.

8 Các cây hương bá trong vườn của Thiên Chúa
không sao bằng nó,
so với cành nó, các cây trắc bá cũng chẳng sánh bằng.
Các cây tiêu huyền không có lá cành giống như nó.
Trong vườn của Thiên Chúa, chẳng thứ cây nào
sánh được với vẻ đẹp của nó.

9 Ta đã làm cho nó nên xinh đẹp, cành lá um tùm,
đến nỗi mọi thứ cây ở Ê-đen, tức là trong vườn của Thiên Chúa
đều phải ghen tị với nó.

10 Vì thế, ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán thế này:
Nó tự cao tự đại vì có thân to lớn, ngọn vươn lên trên các tầng mây, nó cậy mình cao rồi sinh lòng kiêu ngạo, 11 nên Ta sẽ trao nó vào tay kẻ thống lãnh các dân, để xử với nó theo sự gian ác của nó. Ta sẽ loại trừ nó.12 Những kẻ ngoại bang, những kẻ hung dữ nhất trong các dân tộc, sẽ đốn ngã và bỏ mặc nó. Cành của nó ngổn ngang khắp núi đồi và thung lũng; lá nó bị giập nát phủ đầy mọi khe rãnh trong xứ; mọi dân trong xứ đi khỏi bóng mát của nó và bỏ mặc nó.13 Trên đống đổ nát của nó, mọi thứ chim trời đến ở; nơi lá cành của nó, mọi dã thú đến nương mình.

14 Như thế, mọi thứ cây mọc bên dòng nước không còn tự cao vì có thân to lớn, không còn vươn ngọn lên trên các tầng mây; mọi thứ cây được tưới đẫm nước không còn tự cao vì thân hình cao lớn, bởi vì tất cả đều bị phó mặc cho sự chết, cho miền đất thẳm sâu, giữa con cái loài người, bên cạnh những người đã sa xuống hố sâu.

15 ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán thế này: Vào ngày nó xuống âm phủ, Ta đã bắt mọi loài phải để tang; vì nó, Ta đã che kín vực thẳm, đã khiến cho các con sông ngừng chảy và các dòng nước lũ ngưng lại. Vì nó, Ta đã làm cho Li-băng ra ảm đạm và mọi cây cối trong cánh đồng phải tàn úa.16 Ta đã làm cho các dân tộc rúng động, khi nghe tin nó bị sụp đổ, vì Ta đã xô nó xuống âm phủ, bên cạnh những người đã sa xuống hố. Bấy giờ, trong miền đất thẳm sâu, mọi cây cối ở Ê-đen, những cây đẹp nhất, tốt nhất của Li-băng, mọi thứ cây được tưới đẫm nước, tất cả đều lấy làm vui thích.17 Cả chúng cũng đi xuống âm phủ cùng với nó, đến với những kẻ bị gươm đâm, cũng như những người trước kia đã trợ giúp và núp bóng nó giữa các dân tộc.

18 Cây nào trong số các cây ở Ê-đen vinh hiển và vĩ đại sánh được như ngươi? Thế mà ngươi đã bị đưa xuống miền đất thẳm sâu, cùng với các cây cối Ê-đen! Giữa những kẻ không được cắt bì, ngươi phải nằm phơi thây giữa những kẻ bị gươm đâm. Đó là số phận dành cho Pha-ra-ô và tất cả đoàn dân của nó, sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng.

Con cá sấu

32.  1 Ngày mồng một tháng mười hai, năm thứ mười hai, có lời ĐỨC CHÚA phán với tôi rằng:2 Hỡi con người, hãy cất lên khúc ai ca khóc thương Pha-ra-ô, vua Ai-cập; ngươi hãy nói:
Hỡi sư tử của các dân, ngươi bị diệt rồi!
Ngươi có khác gì con cá sấu trên biển cả,
ngươi làm vọt lên những dòng sông
và dùng chân quậy nước,
làm cho các dòng sông đục ngầu.

3 ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán như sau:
Ta bủa lưới bắt ngươi, đang khi nhiều dân nước họp đại hội;
chúng sẽ khiến ngươi rơi vào bẫy của Ta.

4 Ta sẽ bỏ mặc ngươi trên đất,
sẽ quăng ngươi lên mặt cánh đồng cho mọi thứ chim trời đến ở,
và mọi dã thú sẽ nhờ ngươi mà được no lòng.

5 Ta sẽ để thịt ngươi ở trên núi,
và thây rữa nát của ngươi, Ta sẽ lấp đầy thung lũng.

6 Máu của ngươi chảy ra trên núi đồi Ta đem tưới trên mặt đất.
Và xác chết của ngươi, Ta sẽ chất đầy khe suối.

7 Khi ngươi lịm tắt, Ta sẽ che phủ bầu trời
và làm cho các vì sao ra tăm tối.
Ta sẽ kéo mây che phủ mặt trời,
mặt trăng sẽ không còn chiếu sáng.

8 Vì ngươi, mọi tinh tú trên trời, Ta sẽ làm cho ra tăm tối,
và cho bóng tối lan tràn trên khắp xứ sở ngươi,
– sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng.

9 Ta sẽ khiến cho lòng nhiều dân phải buồn sầu, khi Ta để cho ngươi phải tan nát giữa chư dân, tại các miền đất ngươi không biết.

10 Ta sẽ làm cho nhiều dân phải sững sờ trước tình cảnh của ngươi; vua chúa của chúng phải rụng rời kinh hãi về chuyện của ngươi, khi Ta vung gươm trước mặt chúng. Chúng run khiếp liên hồi, ai nấy đều lo sợ cho mạng sống mình vào ngày ngươi sụp đổ.11 Vì ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán như sau: Gươm của vua Ba-by-lon sắp ập xuống ngươi.12 Ta sẽ quật ngã đoàn dân đông đảo của ngươi nhờ gươm của các dũng sĩ là những kẻ hung dữ nhất trong các dân tộc. Chúng sẽ triệt hạ thói kiêu căng của Ai-cập và toàn dân của nó sẽ bị tiêu diệt.13 Ta sẽ diệt trừ tất cả súc vật của nó, đưa đi khỏi các nguồn nước dồi dào. Chân người không còn khuấy nước nữa và móng súc vật cũng vậy.14 Bấy giờ, Ta sẽ làm cho các dòng nước của chúng khô cạn và khiến các dòng sông của chúng chảy như dầu, sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng.

15 Khi Ta biến đất Ai-cập nên hoang tàn và làm cho xứ sở ra trống rỗng, không còn gì nữa, khi Ta đánh mọi dân cư ở đó, bấy giờ chúng sẽ nhận biết chính Ta là ĐỨC CHÚA.

16 Đó là khúc ai ca người ta sẽ cất lên; con gái các dân tộc sẽ cất lên, chúng sẽ cất lên bài ca đó khóc thương Ai-cập và toàn dân của nó, sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng.

Vua Pha-ra-ô xuống âm phủ

17 Ngày mười lăm tháng thứ nhất năm thứ mười hai, có lời ĐỨC CHÚA phán với tôi rằng:18 Hỡi con người, hãy than khóc cho số phận của toàn dân Ai-cập và hãy xô nó cùng với con gái các dân tộc xuống vực thẳm. Dù có oai hùng, chúng cũng bị đẩy vào miền đất thẳm sâu cùng với những kẻ đã sa xuống hố.

19 Phải chăng ngươi đẹp đẽ hơn ai? Hãy xuống mà nằm chung với những kẻ không cắt bì,20 giữa những kẻ đã gục ngã vì gươm. Gươm được trao rồi, hãy lôi Ai-cập đi cùng với toàn dân của nó.21 Giữa nơi âm phủ, các thủ lãnh của các dũng sĩ và các thuộc hạ sẽ bảo nó: “Những kẻ không cắt bì, những kẻ bị gươm đâm đã xuống đây rồi, chúng đang nằm ở đó! “

22 Đó là Át-sua cùng với đoàn người của nó tụ tập chung quanh mồ nó; tất cả đều gục ngã vì gươm.23 Người ta đã đặt mồ của nó ở đáy vực sâu và đoàn người của nó ở chung quanh mồ, tất cả đều gục ngã vì gươm, chúng là những kẻ đã gieo kinh hoàng trên cõi nhân sinh.

24 Đó là Ê-lam cùng với đoàn người của nó tụ tập chung quanh mồ nó; tất cả đều gục ngã vì gươm; chúng là những kẻ không cắt bì, những kẻ đã gieo kinh hoàng trên cõi nhân sinh, đã đi xuống miền đất thẳm sâu. Chúng mang lấy ô nhục cùng với những người đã sa xuống hố.25 Người ta đã kê giường cho nó ngủ giữa các tử thi, giữa tất cả đoàn người của nó tụ tập chung quanh mồ nó. Tất cả bọn chúng đều là những kẻ không cắt bì, những kẻ bị gươm đâm vì đã gieo kinh hoàng trên cõi nhân sinh. Chúng mang lấy ô nhục cùng với những người đã sa xuống hố. Người ta đã đặt chúng nằm giữa các tử thi đó.

26 Đó là Me-séc, Tu-van cùng với toàn dân của nó tụ tập chung quanh mồ nó; tất cả đều là những kẻ không cắt bì, những kẻ bị gươm đâm vì đã gieo kinh hoàng trên cõi nhân sinh.27 Chúng không được nằm chung với những dũng sĩ xưa kia đã ngã xuống, những người đi xuống âm phủ mang theo binh khí: gươm gối đầu, thuẫn để trên xương cốt, vì nỗi kinh hoàng các dũng sĩ đó đã gây ra trên cõi nhân sinh.28 Phần ngươi, ngươi sẽ bị đập tan giữa những kẻ không cắt bì, và sẽ phải nằm chung với những kẻ bị gươm đâm.

29 Đó là Ê-đôm, vua chúa và tất cả các ông hoàng của nó, tuy dũng cảm nhưng vẫn bị đặt vào số những kẻ bị gươm đâm. Chúng sẽ nằm chung với những kẻ không cắt bì và với những kẻ đã sa xuống hố.

30 Đó là tất cả các tướng lãnh phương Bắc và mọi người Xi-đôn đã đi xuống cùng với đám thương vong. Dù đã làm cho thiên hạ phải kinh khiếp vì sức mạnh của mình, chúng vẫn phải xấu hổ, vẫn là những kẻ không cắt bì và phải nằm chung với những kẻ bị gươm đâm. Chúng mang lấy ô nhục cùng với những kẻ đã sa xuống hố.

31 Pha-ra-ô sẽ nhìn thấy chúng và lấy làm an ủi vì tất cả đoàn người đông đảo đã bị đâm chết do Pha-ra-ô và toàn thể quân đội của nó, – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng.32 Thật vậy, Ta đã để Pha-ra-ô gieo kinh hoàng trên cõi nhân sinh, nhưng nó sẽ phải nằm giữa những kẻ không cắt bì, giữa những kẻ bị gươm đâm, – Pha-ra-ô và toàn thể đoàn người của nó -, sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng.

III. GIÊ-RU-SA-LEM BỊ BAO VÂY

Ngôn sứ, người canh gác (Ed 3:16-21)

33.  1 Có lời ĐỨC CHÚA phán với tôi rằng:2 Hỡi con người, ngươi hãy nói với con cái dân ngươi; ngươi hãy bảo: Khi Ta cho gươm đến trừng phạt xứ nào, thì dân xứ ấy sẽ chọn một người trong số họ và đặt làm kẻ canh gác cho mình.3 Hễ thấy gươm đến trừng phạt xứ mình, thì người ấy thổi kèn và báo cho dân biết.4 Nếu ai nghe tiếng kèn báo mà không kể chi và để gươm đến làm cho mình phải chết, thì máu nó sẽ đổ trên chính đầu nó.5 Nó đã nghe thấy tiếng kèn mà không kể chi, máu nó sẽ đổ xuống trên mình nó. Còn người lo cảnh giác nó sẽ cứu được mạng sống mình.

6 Nhưng nếu người canh gác thấy gươm đến mà không thổi kèn, khiến dân không được báo, và gươm đến làm cho người nào phải thiệt mạng, thì kẻ ấy chết vì tội của mình, nhưng máu người ấy, Ta sẽ đòi người canh phải trả.

7 Phần ngươi, hỡi con người, Ta đã đặt ngươi làm người canh gác cho nhà Ít-ra-en. Ngươi sẽ nghe lời từ miệng Ta phán ra, rồi thay Ta báo cho chúng biết.8 Nếu Ta phán với kẻ gian ác rằng: “Hỡi tên gian ác, chắc chắn ngươi phải chết”, mà ngươi không chịu nói để cảnh cáo nó từ bỏ con đường xấu xa, thì chính kẻ gian ác ấy sẽ phải chết vì tội của nó, nhưng Ta sẽ đòi ngươi đền nợ máu nó.9 Ngược lại, nếu ngươi đã báo cho kẻ gian ác phải từ bỏ con đường của nó mà trở lại, nhưng nó không trở lại, thì nó sẽ phải chết vì tội của nó; còn ngươi, ngươi sẽ cứu được mạng sống mình.

Sa đọa và hối cải

10 Phần ngươi, hỡi con người, hãy nói với nhà Ít-ra-en: Các ngươi nói rằng: “Các tội phản nghịch và tội lỗi chúng tôi đã phạm đè nặng trên chúng tôi; chính vì vậy mà chúng tôi phải chết. Chúng tôi còn sống làm sao được? “11 Ngươi hãy nói với chúng: “Ta lấy mạng sống Ta mà thề -sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng- Ta chẳng vui gì khi kẻ gian ác phải chết, nhưng vui khi nó thay đổi đường lối để được sống. Hãy trở lại, hãy từ bỏ đường lối xấu xa của các ngươi mà trở lại. Sao các ngươi lại muốn chết, hỡi nhà Ít-ra-en? “

12 Phần ngươi, hỡi con người, hãy nói với con cái dân ngươi: Sự công chính của người công chính sẽ không cứu được nó vào ngày nó phản nghịch; và sự gian ác của người gian ác sẽ không làm cho nó nghiêng ngửa vào ngày nó từ bỏ sự gian ác mà trở lại. Người công chính không thể sống nhờ sự công chính của mình vào ngày nó phạm tội.13 Giả như Ta nói với người công chính rằng chắc chắn nó sẽ sống, nhưng nếu nó lại ỷ vào sự công chính của mình mà làm điều bất công, thì chẳng việc công chính nào của nó còn được nhớ đến nữa; nhưng chính vì mọi điều bất công nó đã làm nên nó sẽ phải chết.14 Hoặc giả Ta nói với kẻ gian ác: “Chắc chắn ngươi phải chết”, nhưng nếu nó từ bỏ tội lỗi mà trở lại và thực hành điều công minh chính trực,15 nếu nó trả lại của cầm, đền của lấy cắp, sống theo những lề luật đưa tới sự sống và không làm điều bất công thì chắc chắn nó sẽ được sống và không phải chết.16 Mọi tội lỗi nó đã phạm, người ta sẽ không còn nhớ đến nữa: nó đã thi hành lẽ công minh, nó sẽ được sống.

17 Con cái dân ngươi nói: “Đường lối của Chúa Thượng không ngay thẳng! ” Chính đường lối các ngươi mới không ngay thẳng!18 Khi người công chính từ bỏ đường công chính mà làm điều bất chính, nó sẽ phải chết.19 Còn khi kẻ gian ác từ bỏ sự gian ác mà thi hành điều công minh chính trực, nó sẽ được sống.20 Thế mà các ngươi lại bảo: “Đường lối của Chúa Thượng không ngay thẳng! ” Hỡi nhà Ít-ra-en, Ta sẽ xét xử các ngươi, ai nấy theo đường lối của mình.

Giê-ru-sa-lem thất thủ

21 Ngày mồng năm tháng mười, năm thứ mười hai kể từ khi chúng tôi bị lưu đày, có một người thoát khỏi Giê-ru-sa-lem đến báo cho tôi: “Thành mất rồi! “22 Vào buổi chiều trước hôm người ấy đến, tay ĐỨC CHÚA đặt trên tôi. Và lúc người ấy đến vào buổi sáng, Người đã mở miệng cho tôi; miệng tôi đã mở ra, tôi không còn câm nữa.

Xứ sở bị tàn phá

23 Có lời ĐỨC CHÚA phán với tôi rằng:24 Hỡi con người, những kẻ đang cư ngụ ở chốn hoang tàn ấy, trên đất Ít-ra-en, dám nói rằng: “Tổ phụ Áp-ra-ham chỉ có một mình mà cũng được sở hữu đất này; còn chúng ta đông như thế chắc phải được đất này làm sở hữu.”

25 Vì thế, ngươi hãy bảo chúng: ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán thế này: Các ngươi ăn cả phần máu, ngước mắt nhìn các ngẫu tượng, phạm tội đổ máu, thế mà lại đòi quyền sở hữu đất này!

26 Các ngươi cậy vào gươm đao, làm điều ghê tởm, ai nấy làm cho vợ người đồng loại ra ô uế, thế mà lại đòi quyền sở hữu đất này!27 Ngươi hãy bảo chúng như sau: ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán rằng: Ta lấy mạng sống Ta mà thề, những người đang ở chốn hoang tàn ấy sẽ ngã gục vì gươm; những người đang ở ngoài đồng, Ta sẽ đem làm mồi cho thú dữ; những người đang ở trong các hốc đá và hang động sẽ phải chết vì ôn dịch.28 Ta sẽ biến đất ấy thành chốn hoang tàn đổ nát, sức kiêu hùng của nó sẽ tàn lụi. Núi non Ít-ra-en sẽ ra hoang tàn, không một bóng người qua lại.29 Người ta sẽ nhận biết chính Ta là ĐỨC CHÚA, khi Ta biến đất ấy thành chốn hoang tàn đổ nát vì mọi điều ghê tởm chúng đã làm.

Hiệu quả của lời giảng

30 Phần ngươi, hỡi con người, con cái dân ngươi bàn tán về ngươi dọc theo các bức tường và trước các cửa nhà. Chúng bảo nhau, người nọ nói với người kia: “Nào chúng ta đến nghe xem ĐỨC CHÚA phán thế nào! “31 Chúng đến với ngươi đông như trẩy hội. Dân Ta ngồi trước mặt ngươi; chúng nghe các lời ngươi nói nhưng lại không đem ra thực hành, bởi vì miệng chúng phỉnh phờ, lòng chúng hám lợi.32 Đối với chúng, ngươi như là một bài ca êm ái với giọng hát ngọt ngào và nhạc đệm du dương. Chúng nghe các lời ngươi nói, nhưng không ai trong bọn chúng đem ra thực hành.33 Khi nào điều ấy xảy ra – và này nó đang xảy ra -, chúng sẽ nhận biết là có một ngôn sứ ở giữa chúng.

Các mục tử Ít-ra-en

34.  1 Có lời ĐỨC CHÚA phán với tôi rằng:2 Hỡi con người, hãy tuyên sấm hạch tội các mục tử chăn dắt Ít-ra-en, hãy tuyên sấm. Hãy nói với chúng, với các mục tử đó: ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán thế này: Khốn cho các mục tử Ít-ra-en, những kẻ chỉ biết lo cho mình! Nào mục tử không phải chăn dắt đàn chiên sao?3 Sữa các ngươi uống, len các ngươi mặc, chiên béo tốt thì các ngươi giết, còn đàn chiên lại không lo chăn dắt.4 Chiên đau yếu, các ngươi không làm cho mạnh; chiên bệnh tật, các ngươi không chữa cho lành; chiên bị thương, các ngươi không băng bó; chiên đi lạc, các ngươi không đưa về; chiên bị mất, các ngươi không chịu đi tìm. Các ngươi thống trị chúng một cách tàn bạo và hà khắc.5 Chiên của Ta tán loạn vì thiếu mục tử và biến thành mồi cho mọi dã thú, chúng tán loạn.6 Chiên của Ta tản mác trên các ngọn núi, trên mọi đỉnh đồi. Chiên của Ta tản mác trên khắp mặt đất, thế mà chẳng ai chăm sóc, chẳng ai kiếm tìm.

7 Vì thế, hỡi các mục tử, hãy nghe lời ĐỨC CHÚA.8 Ta lấy mạng sống Ta mà thề – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng -, bởi chiên của Ta bị cướp phá và biến thành mồi cho mọi dã thú vì thiếu mục tử, bởi các mục tử chỉ biết lo cho mình mà không chăn dắt đàn chiên của Ta,9 nên hỡi các mục tử, hãy nghe lời ĐỨC CHÚA:10 ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán thế này: Đây Ta chống lại các mục tử. Ta sẽ đòi lại chiên của Ta; Ta sẽ không để chúng chăn dắt chiên, và các mục tử sẽ không còn lo cho mình. Ta sẽ giải thoát các chiên của Ta khỏi miệng chúng, để chiên của Ta không còn làm mồi cho chúng nữa.

11 Quả thật, ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán thế này: Đây, chính Ta sẽ chăm sóc chiên của Ta và thân hành kiểm điểm.12 Như mục tử kiểm điểm đàn vật của mình vào ngày nó ở giữa đàn chiên bị tản mác thế nào, thì Ta cũng sẽ kiểm điểm chiên của Ta như vậy. Ta sẽ kéo chúng ra khỏi mọi nơi chúng đã bị tản mác, vào ngày mây đen mù mịt.13 Ta sẽ đem chúng ra khỏi các dân, tập hợp chúng lại từ các nước và đưa chúng vào đất của chúng. Ta sẽ chăn dắt chúng trên các núi Ít-ra-en, trong các thung lũng và tại mọi nơi trong xứ có thể ở được.14 Ta sẽ chăn dắt chúng trong đồng cỏ tốt tươi và chuồng của chúng sẽ ở trên các núi cao Ít-ra-en. Tại đó chúng sẽ nằm nghỉ trong chuồng êm ái, sẽ đi ăn trong đồng cỏ mầu mỡ trên núi non Ít-ra-en.15 Chính Ta sẽ chăn dắt chiên của Ta, chính Ta sẽ cho chúng nằm nghỉ – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng.16 Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm; con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về; con nào bị thương, Ta sẽ băng bó; con nào bệnh tật, Ta sẽ làm cho mạnh; con nào béo mập, con nào khoẻ mạnh, Ta sẽ canh chừng. Ta sẽ theo lẽ chính trực mà chăn dắt chúng.

17 Phần các ngươi, hỡi chiên của Ta, ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán. Này Ta sẽ xét xử giữa chiên với chiên, giữa cừu với dê.18 Được chăn trong đồng cỏ tốt tươi đối với các ngươi phải chăng còn quá ít, mà các ngươi lại lấy chân giày đạp phần đồng cỏ còn lại của các ngươi, được uống nước trong mà các ngươi lại lấy chân quậy đục phần còn lại?19 Vì thế, đàn chiên của Ta phải gặm phần cỏ chân các ngươi đã giày đạp, phải uống phần nước chân các ngươi đã quậy đục.20 Bởi vậy, ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán với chúng như sau: Này Ta sẽ xét xử giữa chiên béo với chiên gầy.21 Vì các ngươi thúc vào sườn, vào vai và lấy sừng mà húc vào mọi con chiên đau yếu đến độ các ngươi làm cho chúng phải tản mác ra ngoài,22 nên Ta sẽ cứu thoát chiên của Ta để chúng không còn bị cướp phá, Ta sẽ xét xử giữa chiên với chiên.

23 Ta sẽ cho xuất hiện một mục tử để chăn dắt chúng; nó sẽ chăn dắt chúng, đó là Đa-vít, tôi tớ của Ta: chính nó sẽ chăn dắt chúng; chính nó sẽ là mục tử của chúng.24 Chính Ta, ĐỨC CHÚA, Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, và Đa-vít, tôi tớ của Ta, sẽ là ông hoàng ở giữa chúng. Chính Ta, ĐỨC CHÚA, Ta đã phán.25 Ta sẽ thiết lập với chúng một giao ước bình an, Ta sẽ đuổi thú dữ ra khỏi xứ. Chúng sẽ cư ngụ trong sa mạc an toàn, sẽ nằm ngủ trong rừng.26 Ta sẽ đặt chúng ở các vùng chung quanh ngọn đồi của Ta; Ta sẽ cho mưa xuống đúng mùa, đó là những trận mưa phúc lành.27 Cây cối trên đồng sẽ trổ sinh hoa trái, đất đai sản sinh hoa lợi. Chúng sẽ sống an toàn trên đất của chúng. Bấy giờ, chúng sẽ nhận biết chính Ta là ĐỨC CHÚA khi Ta bẻ gãy ách sắt đè lên chúng và khi Ta cứu thoát chúng khỏi tay những kẻ hà hiếp chúng.28 Chúng không còn bị chư dân cướp phá cũng không còn bị thú vật trong xứ cắn xé. Chúng sẽ được an cư lạc nghiệp, không bị ai quấy phá.29 Ta sẽ thiết lập cho chúng một khu vườn danh tiếng; chúng sẽ không còn phải chết vì nạn đói kém trong xứ, cũng không còn bị chư dân lăng nhục.

30 Bấy giờ, chúng sẽ nhận biết chính Ta là ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của chúng. Ta ở với chúng, còn chúng, nhà Ít-ra-en, chúng là dân của Ta, – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng.31 Phần các ngươi, hỡi các chiên của Ta, các ngươi là đàn chiên trong đồng cỏ của Ta. Các ngươi là phàm nhân, còn Ta là Thiên Chúa các ngươi, – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng.

Hạch tội các núi Ê-đôm

35.  1 Có lời ĐỨC CHÚA phán với tôi rằng:2 Hỡi con người, hãy quay mặt về phía núi Xê-ia và hãy tuyên sấm hạch tội nó.3 Ngươi hãy bảo nó: ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán như sau: Này Ta trừng phạt ngươi, hỡi núi Xê-ia. Ta dang tay ra để trừng phạt ngươi. Ta sẽ biến ngươi thành chốn hoang tàn đổ nát;4 Ta sẽ làm cho các thành thị của ngươi ra điêu linh. Ngươi sẽ ra hoang tàn và ngươi sẽ nhận biết chính Ta là ĐỨC CHÚA.5 Vì ngươi mang mối thù truyền kiếp và trao con cái Ít-ra-en cho gươm đao tàn sát, vào ngày chúng lâm nạn, vào lúc tội ác tới mức cuối cùng.6 Vì thế, Ta lấy mạng sống Ta mà thề -sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng- Ta sẽ làm cho ngươi vấy máu và máu sẽ đuổi theo ngươi. Ta lấy mạng sống Ta mà thề, ngươi đã không ngần ngại đổ máu thì máu sẽ theo đuổi ngươi.7 Ta sẽ biến núi Xê-ia thành chốn hoang tàn đổ nát, Ta sẽ khiến cho nơi đó không còn ai qua lại nữa.8 Ta sẽ cho núi non của nó đầy những xác chết; trên nương đồi, thung lũng, khe suối của nó sẽ có những người ngã gục vì bị gươm đâm.9 Ta sẽ biến ngươi thành chốn điêu tàn vạn cổ, các thành thị của ngươi không người cư ngụ. Bấy giờ, các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là ĐỨC CHÚA.

10 Vì ngươi đã nói: “Hai dân tộc đó, hai miền đất đó thuộc về ta, chúng ta hãy chiếm làm sở hữu”, đang khi ĐỨC CHÚA vẫn ngự ở đó,11 nên Ta lấy mạng sống Ta mà thề – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng – Ta sẽ xử sự theo cơn giận và lòng ghen ghét của ngươi như ngươi đã xử sự khi ngươi ghét chúng. Qua chúng, Ta sẽ cho ngươi biết Ta là ai, khi Ta xét xử ngươi.12 Bấy giờ, ngươi sẽ nhận biết chính Ta là ĐỨC CHÚA; Ta đã nghe thấy hết mọi lời thoá mạ ngươi đã thốt ra để hạch tội núi non Ít-ra-en, khi nói rằng: “Núi non đó đã ra hoang tàn, chúng bị trao cho ta cắn xé! “13 Các ngươi ăn nói thật xấc láo đối với Ta. Các ngươi đã nói nhiều lời hỗn xược chống lại Ta. Ta đã nghe thấy cả!14 ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán như sau: Toàn cõi đất này hân hoan vì Ta làm cho ngươi ra hoang tàn.15 Cũng như ngươi đã hân hoan khi thấy phần sản nghiệp nhà Ít-ra-en ra hoang tàn thế nào, thì Ta cũng sẽ xử với ngươi như vậy. Hỡi núi Xê-ia, ngươi sẽ ra hoang tàn, và toàn thể Ê-đôm cũng vậy. Bấy giờ, thiên hạ sẽ nhận biết chính Ta là ĐỨC CHÚA.

Các lời sấm về núi non Ít-ra-en

36.  1 Phần ngươi, hỡi con người, hãy tuyên sấm về núi non Ít-ra-en; hãy nói: Hỡi núi non Ít-ra-en, này nghe lời ĐỨC CHÚA.2 ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán như sau: Bởi vì kẻ thù đã nói chống lại các ngươi: “A ha! Những chốn cao vời thuở xưa, nay đã nên phần sở hữu của chúng ta”,3 ngươi hãy tuyên sấm; hãy nói: ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán thế này: Vì người ta đã làm cho ngươi ra hoang tàn và tấn công các ngươi từ tứ phía, đến nỗi các ngươi đã thành sở hữu của các nước, và nên đề tài cho các dân bàn tán và chế nhạo.4 Này hỡi núi non Ít-ra-en, hãy nghe lời ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng. ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán thế này với núi non, nương đồi và khe suối, với các nơi đổ nát và các thành thị hoang phế bị cướp phá và nên trò cười cho các nước chung quanh.5 Này, ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán như sau: Ta thề như thế trong cơn thịnh nộ của Ta, Ta sẽ hỏi tội các nước chung quanh và toàn thể Ê-đôm vì chúng đã chiếm đất của Ta làm phần sở hữu của mình. Chúng hân hoan, lòng đầy khinh bỉ vì các đồng cỏ trong xứ thành nơi cho chúng cướp phá.

6 Vì thế, ngươi hãy tuyên sấm về đất Ít-ra-en; hãy nói với núi non, nương đồi, thung lũng và khe suối: ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán như sau: Này Ta phán trong lúc nổi cơn lôi đình thịnh nộ: Vì các ngươi đã phải chuốc lấy lời thoá mạ của chư dân,7 nên ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán thế này: Ta đưa tay Ta lên – Ta lấy mạng sống Ta mà thề – chư dân ở chung quanh các ngươi, chính chúng phải chuốc lấy các lời thoá mạ cho mình.

8 Này các ngươi, hỡi núi non Ít-ra-en, các ngươi sẽ trổ cành, đơm trái cho dân Ta là Ít-ra-en, bởi vì nó sắp trở lại.9 Này Ta đến với các ngươi, Ta quay mặt lại với các ngươi; các ngươi sẽ được trồng cấy và gieo hạt.10 Ta sẽ tăng số dân cho các ngươi, hỡi toàn thể Ít-ra-en. Các thành thị sẽ có người cư ngụ và các nơi điêu tàn sẽ được tái thiết.11 Ta sẽ tăng số người và súc vật cho các ngươi. Chúng sẽ nên đông đúc và sinh sôi nẩy nở. Ta sẽ cho các ngươi được cư ngụ như ngày trước, sẽ ban cho các ngươi nhiều ân huệ hơn thuở xưa. Bấy giờ các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là ĐỨC CHÚA.12 Ta sẽ cho có người, tức là Ít-ra-en dân Ta, đạp chân trên đất của ngươi; ngươi sẽ là sở hữu, sẽ nên phần sản nghiệp của nó và sẽ không còn để nó phải thiếu con cái.

13 ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán thế này: Vì người ta đã nói về ngươi: “Ngươi là kẻ nuốt trửng người và làm dân tộc ngươi thiếu con cái”,14 này, ngươi sẽ không còn nuốt trửng người, không còn làm cho dân tộc ngươi lảo đảo nữa, – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng.15 Ta sẽ không còn để cho ngươi phải nghe lời thoá mạ của các dân, phải hứng lấy những lời sỉ nhục của các nước; ngươi sẽ không còn làm cho dân tộc ngươi lảo đảo nữa, – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng.

16 Có lời ĐỨC CHÚA phán với tôi rằng:17 Hỡi con người, con cái nhà Ít-ra-en đang cư ngụ trên đất của chúng, đã làm cho đất ấy ra ô uế vì lối sống và các hành vi của chúng; lối sống của chúng trước mặt Ta cũng ô uế như người đàn bà trong thời kinh nguyệt.18 Ta đã trút xuống trên chúng cơn thịnh nộ của Ta vì máu chúng đã đổ ra trên đất ấy và làm cho đất ấy ra ô uế vì các việc ô uế của chúng.19 Ta đã tung chúng đi các dân và gieo chúng vào các nước. Ta đã căn cứ vào lối sống và các hành vi của chúng mà xét xử.20 Chúng đã làm cho danh Ta bị xúc phạm giữa các dân mà chúng đi đến, khiến người ta nói về chúng rằng: “Đó là dân của ĐỨC CHÚA, chúng đã phải ra khỏi xứ của Người.”21 Nhưng Ta ái ngại cho thánh danh Ta đã bị nhà Ít-ra-en xúc phạm giữa các dân mà chúng đi đến.22 Vì thế, ngươi hãy nói với nhà Ít-ra-en: ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán thế này: Hỡi nhà Ít-ra-en, không phải vì các ngươi mà Ta hành động, mà vì danh thánh của Ta đã bị các ngươi xúc phạm giữa các dân các ngươi đã đi đến.23 Ta sẽ biểu dương danh thánh thiện vĩ đại của Ta đã bị xúc phạm giữa chư dân, danh mà các ngươi đã xúc phạm ở giữa chúng. Bấy giờ chư dân sẽ nhận biết chính Ta là ĐỨC CHÚA – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng – khi Ta biểu dương sự thánh thiện của Ta nơi các ngươi ngay trước mắt chúng.24 Bấy giờ, Ta sẽ đem các ngươi ra khỏi các dân tộc, sẽ quy tụ các ngươi lại từ khắp các nước, và sẽ dẫn các ngươi về đất của các ngươi.25 Rồi Ta sẽ rảy nước thanh sạch trên các ngươi và các ngươi sẽ được thanh sạch, các ngươi sẽ được sạch mọi ô uế và mọi tà thần.26 Ta sẽ ban tặng các ngươi một quả tim mới, sẽ đặt thần khí mới vào lòng các ngươi. Ta sẽ bỏ đi quả tim bằng đá khỏi thân mình các ngươi và sẽ ban tặng các ngươi một quả tim bằng thịt.27 Chính thần trí của Ta, Ta sẽ đặt vào lòng các ngươi, Ta sẽ làm cho các ngươi đi theo thánh chỉ, tuân giữ các phán quyết của Ta và đem ra thi hành.28 Các ngươi sẽ cư ngụ trong đất Ta đã ban cho tổ tiên các ngươi. Các ngươi sẽ là dân của Ta. Còn Ta, Ta sẽ là Thiên Chúa các ngươi.29 Ta sẽ cứu các ngươi khỏi mọi ô uế. Ta sẽ gọi lúa mì tới và cho nó tăng thêm nhiều. Ta sẽ không để các ngươi phải chịu cảnh đói kém.30 Ta sẽ cho trái cây và hoa màu đồng ruộng tăng thêm nhiều, để các ngươi không còn bị ô nhục trước mặt chư dân về nạn đói kém nữa.31 Bấy giờ, các ngươi sẽ nhớ lại lối sống xấu xa và hành vi bất hảo của các ngươi. Các ngươi sẽ kinh tởm chính bản thân mình, vì các tội lỗi và những điều ghê tởm của các ngươi.32 Không phải vì các ngươi mà Ta hành động – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng – hãy biết rõ như thế. Các ngươi phải lấy làm thẹn thùng xấu hổ về lối sống của các ngươi, hỡi nhà Ít-ra-en.

33 ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán thế này: Vào ngày Ta thanh tẩy các ngươi sạch mọi tội lỗi, Ta sẽ cho các thành thị có người cư ngụ và các chốn điêu tàn sẽ được tái thiết.34 Xứ sở hoang tàn sẽ được cày cấy, sau khi đã là chốn hoang tàn trước mắt mọi người qua lại.35 Người ta sẽ nói: “Đất này mới đây bị tan hoang, nay đã nên như thửa vườn Ê-đen; các thành thị đổ nát, hoang tàn, bị phá huỷ, nay trở nên những pháo đài có người cư ngụ.”36 Bấy giờ chư dân còn sống sót ở chung quanh các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là ĐỨC CHÚA, Đấng tái thiết những gì đã bị tàn phá và dựng lại những gì đã bị phá đổ. Chính Ta, ĐỨC CHÚA, Ta đã phán là Ta làm.

37 ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán như sau: Ta sẽ cho nhà Ít-ra-en ơn này nữa là được tìm kiếm Ta; Ta sẽ cho chúng thành một đoàn người đông đảo.38 Như bầy chiên người ta đưa vào thánh điện, như bầy chiên ở Giê-ru-sa-lem vào các dịp lễ, các thành thị đổ nát cũng sẽ đầy ắp những đoàn người như vậy. Bấy giờ người ta sẽ nhận biết chính Ta là ĐỨC CHÚA.

Những bộ xương khô

37.  1 Tay ĐỨC CHÚA đặt trên tôi. ĐỨC CHÚA dùng thần khí đem tôi ra, đặt tôi giữa thung lũng; thung lũng ấy đầy xương cốt.2 Người đưa tôi đi ngang, đi dọc giữa chúng. Những xương ấy nằm la liệt trên mặt thung lũng và đã khô đét.3 Người bảo tôi: “Hỡi con người, liệu các xương này có hồi sinh được không? ” Tôi thưa: “Lạy ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng, chính Ngài mới biết điều đó.”4 Bấy giờ, Người bảo tôi: “Ngươi hãy tuyên sấm trên các xương ấy; ngươi hãy bảo chúng: Các xương khô kia ơi, hãy nghe lời ĐỨC CHÚA.5 ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán thế này với các xương ấy: Đây Ta sắp cho thần khí nhập vào các ngươi và các ngươi sẽ được sống.6 Ta sẽ đặt gân trên các ngươi, sẽ khiến thịt mọc trên các ngươi, sẽ trải da bọc lấy các ngươi. Ta sẽ đặt thần khí vào trong các ngươi và các ngươi sẽ được sống. Bấy giờ, các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là ĐỨC CHÚA.”7 Tôi đã tuyên sấm như tôi được lệnh. Vậy có tiếng động khi tôi đang tuyên sấm; có sự rung chuyển và các xương xích lại gần, ăn khớp với nhau.8 Tôi nhìn thì thấy trên chúng đã có gân; thịt đã mọc lên và da đã trải ra ở bên trên, nhưng thần khí chưa có ở nơi chúng.9 Người lại bảo tôi: “Ngươi hãy tuyên sấm gọi thần khí; tuyên sấm đi, hỡi con người! Ngươi hãy nói với thần khí: ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán thế này: Từ bốn phương trời, hỡi thần khí, hãy đến thổi vào những người đã chết này cho chúng được hồi sinh.”10 Tôi tuyên sấm như Người đã truyền cho tôi. Thần khí liền nhập vào những người đã chết; chúng được hồi sinh và đứng thẳng lên: Đó là cả một đạo quân lớn, đông vô kể.

11 Bấy giờ, Người phán với tôi: Hỡi con người, các xương đó chính là toàn thể nhà Ít-ra-en. Này chúng vẫn nói: “Xương cốt chúng tôi đã khô, hy vọng của chúng tôi đã tiêu tan, chúng tôi đã rồi đời! “12 Chính vì thế, ngươi hãy tuyên sấm, hãy nói với chúng: ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán như sau: Hỡi dân Ta, này chính Ta mở huyệt cho các ngươi, Ta sẽ đưa các ngươi lên khỏi huyệt và đem các ngươi về đất Ít-ra-en.13 Các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là ĐỨC CHÚA, khi Ta mở huyệt cho các ngươi và đưa các ngươi lên khỏi huyệt, hỡi dân Ta.14 Ta sẽ đặt thần khí của Ta vào trong các ngươi và các ngươi sẽ được hồi sinh. Ta sẽ cho các ngươi định cư trên đất của các ngươi. Bấy giờ, các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là ĐỨC CHÚA, Ta đã phán là Ta làm. Đó là sấm ngôn của ĐỨC CHÚA.

Giu-đa và Ít-ra-en thành một vương quốc thống nhất

15 Có lời ĐỨC CHÚA phán với tôi rằng:16 “Phần ngươi, hỡi con người, hãy lấy một miếng gỗ và viết lên đó: “Giu-đa và con cái Ít-ra-en liên minh với nó. Rồi ngươi lại lấy một miếng gỗ khác và viết lên đó: “Giu-se – cây gỗ của Ép-ra-im – và toàn thể nhà Ít-ra-en liên minh với nó.17 Đoạn ngươi ráp hai miếng lại với nhau cho thành một miếng duy nhất; chúng chỉ còn là một trong tay ngươi.18 Khi con cái của dân ngươi hỏi ngươi rằng: “Ông không cho chúng tôi biết ông muốn ám chỉ cái gì sao? ,19 ngươi hãy bảo chúng: ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán như sau: Này chính Ta sẽ lấy miếng gỗ của Giu-se – đang ở trong tay Ép-ra-im – và các chi tộc Ít-ra-en liên minh với nó, sẽ đặt dựa vào miếng gỗ của Giu-đa; Ta sẽ làm cho chúng thành một miếng gỗ duy nhất và chúng sẽ chỉ là một trong tay Ta.

20 Ngươi hãy cầm lên cho chúng thấy những miếng gỗ mà ngươi đã viết lên đó21 và bảo chúng: ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán như sau: Này chính Ta sẽ lấy con cái Ít-ra-en từ giữa các dân tộc chúng đã đi tới. Ta sẽ quy tụ chúng lại từ bốn phương và đưa chúng về đất của chúng.22 Ta sẽ làm cho chúng thành một dân tộc duy nhất trong xứ, trên các núi Ít-ra-en; tất cả chúng chỉ có một vua duy nhất; chúng sẽ không còn là hai dân tộc, không còn chia thành hai vương quốc.23 Chúng sẽ không còn ra ô uế vì những ngẫu tượng, những đồ gớm ghiếc và mọi tội ác của chúng nữa. Ta sẽ cứu chúng thoát khỏi mọi nơi chúng đã ở và đã phạm tội; Ta sẽ thanh tẩy chúng. Chúng sẽ là dân của Ta; còn Ta, Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng.24 Đa-vít, tôi tớ Ta, sẽ làm vua cai trị chúng; sẽ chỉ có một mục tử duy nhất cho chúng hết thảy. Chúng sẽ sống theo các phán quyết của Ta, sẽ tuân giữ các thánh chỉ của Ta và đem ra thực hành.25 Chúng sẽ định cư trên đất Ta đã ban cho tôi tớ Ta là Gia-cóp, phần đất mà tổ tiên các ngươi đã cư ngụ. Chính chúng và con cháu chúng sẽ định cư mãi mãi trên đó. Đa-vít, tôi tớ Ta, sẽ là ông hoàng lãnh đạo chúng cho đến muôn đời.26 Ta sẽ lập với chúng một giao ước bình an; đó sẽ là giao ước vĩnh cửu đối với chúng, Ta sẽ định cư chúng, cho chúng sinh sôi nảy nở ra nhiều và đặt thánh điện của Ta ở giữa chúng cho đến muôn đời.27 Nhà của Ta sẽ ở giữa chúng; Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng và chúng sẽ là dân của Ta.28 Bấy giờ, các dân tộc sẽ nhận biết chính Ta là ĐỨC CHÚA, Đấng thánh hoá Ít-ra-en, khi Ta đặt thánh điện của Ta ở giữa chúng cho đến muôn đời.

Hạch tội Gốc, vua của Ma-gốc

38.  1 Có lời ĐỨC CHÚA phán với tôi rằng:2 Hỡi con người, hãy quay mặt về phía Gốc, phía đất của Ma-gốc là thủ lãnh tối cao của Me-séc và Tu-van, và hãy tuyên sấm hạch tội nó.3 Ngươi hãy nói: ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán như sau: Này, Ta hạch tội ngươi, hỡi Gốc, thủ lãnh tối cao của Me-séc và Tu-van.4 Ta sẽ bắt ngươi quay trở lại; Ta sẽ tra hàm thiếc vào hàm ngươi và sẽ cho ngươi xuất trận cùng với toàn thể quân đội của ngươi, ngựa tải và ngựa chiến, tất cả đều được trang bị đầy đủ thành một đoàn quân đông đảo, tất cả đều mang khiên thuẫn và sử dụng gươm thành thạo.5 Ba-tư, Cút và Pút cùng đi với chúng, ai nấy đều mang khiên và đội mũ chiến.6 Gô-me và tất cả các đoàn quân của nó, Bết Tô-gác-ma ở mạn cực bắc và tất cả các đoàn quân của nó: một đoàn gồm nhiều dân cùng đi với ngươi.7 Hãy sẵn sàng, ngươi cùng với tất cả đoàn quân của ngươi và những người được quy tụ chung quanh ngươi; hãy ở trong tư thế sẵn sàng, hãy chuẩn bị để phục vụ chúng.

8 Sau nhiều ngày, ngươi sẽ nhận được lệnh. Sau nhiều năm, ngươi sẽ tiến đến xứ có những dân cư đã thoát nạn sau cảnh gươm đao và đã từ nhiều nước được quy tụ về núi đồi Ít-ra-en, nơi trước kia vẫn là chốn điêu tàn. Từ khi được đưa ra khỏi các nước đó, hết thảy chúng đều sống trong cảnh yên hàn.9 Ngươi sẽ tiến lên, sẽ tràn vào như vũ bão; ngươi sẽ như đám mây che phủ đất ấy, chính ngươi và toàn thể quân lực của ngươi cùng nhiều dân nước đi với ngươi.

10 ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán thế này: Trong ngày ấy, ngươi sẽ nảy ra những tư tưởng, trong lòng ngươi mưu đồ kế hoạch độc ác.11 Ngươi nói: “Ta sẽ tiến đánh một xứ không phòng bị, sẽ xông đánh những con người hiền hoà, đang sống yên ổn: hết thảy đang cư ngụ trong những thành không tường luỹ chở che, không cửa đóng then cài.”12 Ngươi cướp phá, cưỡng đoạt, ngươi đưa tay đánh phá những chốn xưa điêu tàn nay có người cư ngụ và đánh một dân đã được quy tụ về từ các nước, một dân đã gây lại đàn vật và tậu được tài sản, đang cư ngụ ở trung tâm cõi đất.13 Sơ-va, Đơ-đan, những thương nhân Tác-sít và mọi sư tử con của nó sẽ nói với ngươi: “Phải chăng ông đến để cướp phá? Phải chăng ông tập hợp đoàn quân đông đảo của ông để cướp đoạt, để cướp đi bạc vàng, để chiếm lấy đàn vật, tài sản và cướp phá vô số của cải? “

14 Vì thế, hãy tuyên sấm, hỡi con người, hãy nói với Gốc: “ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán thế này: Ngày đó, lúc Ít-ra-en, dân Ta, đang sống yên ổn, nào không phải ngươi sẽ động binh hay sao?15 Ngươi bỏ nơi đang cư ngụ ở mạn cực bắc mà đến, chính ngươi cùng với nhiều dân nước đi theo ngươi, hết thảy đều cỡi ngựa, một đoàn quân vĩ đại, một lực lượng đông đảo.16 Ngươi tiến đánh Ít-ra-en, dân Ta, tựa như đám mây che phủ đất ấy. Điều ấy sẽ xảy ra vào lúc cuối thời: Ta cho ngươi xông đánh xứ sở của Ta, để làm cho các dân tộc nhận biết Ta, khi Ta dùng ngươi, hỡi Gốc, mà biểu dương sự thánh thiện của Ta trước mắt chúng.

17 ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán thế này: Nào không phải chính ngươi là kẻ đã được Ta nói đến, từ những ngày xa xưa, qua trung gian các tôi tớ của Ta là các ngôn sứ Ít-ra-en, khi họ tuyên sấm, vào những ngày ấy, năm ấy, là Ta sẽ cho ngươi đến đánh chúng?18 Trong ngày ấy, ngày Gốc xâm chiếm đất Ít-ra-en – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng – cơn lôi đình của Ta bốc lên phừng phực.19 Trong cơn ghen, trong lúc lửa giận cháy bừng, Ta đã phán: Ta thề, trong ngày ấy, sẽ có sự rung chuyển dữ dội trên đất Ít-ra-en.20 Khi đó, trước mặt Ta, cá biển, chim trời, dã thú cùng mọi loài bò sát trên đất và hết mọi người đang sống trên mặt đất sẽ run rẩy; núi non vỡ lở, vách núi sập xuống và mọi tường luỹ đổ nhào xuống đất.21 Ta sẽ gọi cả rừng gươm đao đến để trừng phạt nó – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng -, mỗi người sẽ quay gươm giết bạn mình.22 Ta sẽ phạt nó phải chịu ôn dịch và đổ máu, Ta sẽ khiến mưa như thác đổ, mưa đá, lửa và diêm sinh ập xuống trên nó, trên cả đoàn quân của nó và trên biết bao dân nước đi theo nó.23 Ta sẽ biểu dương sự vĩ đại của Ta. Ta sẽ biểu dương sự thánh thiện của Ta. Ta sẽ tỏ mình ra trước mắt bao dân tộc và chúng sẽ nhận biết chính Ta là ĐỨC CHÚA.

39. 

1 Phần ngươi, hỡi con người, hãy tuyên sấm hạch tội Gốc. Ngươi hãy nói: ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán thế này: Đây Ta hạch tội ngươi, hỡi Gốc, thủ lãnh tối cao của Me-séc và Tu-van.2 Ta sẽ bắt ngươi quay trở lại, Ta sẽ dẫn dắt ngươi, Ta sẽ cho ngươi từ cực bắc tiến lên và cho ngươi xông đánh núi non Ít-ra-en.3 Ta sẽ bẻ gãy cây cung ở tay trái ngươi; còn những mũi tên trên tay mặt ngươi, Ta sẽ cho rơi xuống.4 Chính ngươi cùng với các đoàn quân của ngươi và các dân nước đi theo ngươi sẽ phải gục ngã trên núi non Ít-ra-en. Ta sẽ biến ngươi thành mồi ngon cho mọi giống ác điểu và dã thú:5 Ngươi sẽ gục ngã trên mặt cánh đồng, vì chính Ta đã phán, sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng.6 Ta sẽ phóng hoả đốt Ma-gốc và dân cư trên các hải đảo đang sống yên hàn. Bấy giờ chúng sẽ nhận biết chính Ta là ĐỨC CHÚA.7 Ta sẽ làm cho danh thánh Ta được nhận biết giữa dân Ta và sẽ không để cho danh thánh của Ta bị xúc phạm nữa. Bấy giờ các dân tộc sẽ nhận biết chính Ta là ĐỨC CHÚA, Đấng Thánh của Ít-ra-en.

8 Này, chuyện ấy đang đến, chuyện ấy sắp xảy ra – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA – đó chính là ngày Ta đã nói đến.

9 Bấy giờ, dân cư các thành thị Ít-ra-en sẽ ùa ra đốt và quăng vào lửa các vũ khí, khiên thuẫn, cung tên, giáo mác; họ đốt những thứ ấy suốt bảy năm trời.10 Họ chẳng cần kiếm củi ngoài đồng, cũng không cần chặt cây trong rừng, nhưng chỉ lấy vũ khí mà nhóm lửa. Họ sẽ cướp phá những người cướp phá họ, họ sẽ cưỡng đoạt những kẻ cưỡng đoạt họ. Đó là sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng.

11 Trong ngày ấy, Ta sẽ cho Gốc một nơi làm mồ chôn, ở Ít-ra-en, tại thung lũng Ô-vơ-rim, bên phía đông Biển Chết, thung lũng khiến người qua kẻ lại phải dừng bước. Người ta sẽ chôn Gốc và toàn thể đoàn lũ của nó tại đó, và sẽ gọi đó là thung lũng Ha-môn Gốc.12 Nhà Ít-ra-en sẽ chôn chúng để thanh tẩy xứ sở trong bảy tháng.13 Toàn dân trong xứ sẽ làm công việc mai táng và đó sẽ là một vinh dự cho Ít-ra-en vào ngày Ta biểu lộ vinh quang của Ta, sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng.14 Người ta sẽ dành riêng những người có bổn phận thường xuyên rảo khắp xứ để lo việc mai táng những kẻ còn nằm lại trên mặt đất, hầu thanh tẩy xứ sở: Họ làm công việc tìm kiếm suốt bảy tháng.15 Khi những người ấy rảo khắp xứ và nếu có ai trong số họ thấy xương người, thì kẻ ấy sẽ dựng một cột mốc bên cạnh, cho tới khi những người đào huyệt chôn các xương ấy đi trong thung lũng Ha-môn Gốc –16 Ha-mô-na cũng sẽ là tên của một thành phố – và họ đã làm như thế để thanh tẩy xứ sở.

17 Phần ngươi, hỡi con người, ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán thế này: Ngươi hãy bảo mọi loài chim trời và mọi dã thú: Các ngươi hãy họp nhau lại, hãy đến, từ khắp nơi hãy quy tụ lại để hưởng hy tế của Ta, vì Ta sắp hiến các ngươi một hy tế trọng thể trên núi non Ít-ra-en; các ngươi sẽ có thịt để ăn và có máu để uống.18 Các ngươi sẽ ăn thịt các dũng sĩ, sẽ uống máu các ông hoàng trong xứ: Cả bọn chúng là chiên, cừu, dê và bò mộng béo xứ Ba-san.19 Các ngươi sẽ ăn mỡ đến phát ngấy và sẽ uống máu đến say sưa trong hy tế Ta sắp hiến các ngươi.20 Nơi bàn tiệc của Ta, các ngươi sẽ được no nê ngựa chiến, ngựa tải, dũng sĩ và mọi chiến binh. Đó là sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng.

Lời kết

21 Ta sẽ biểu lộ vinh quang của Ta giữa các dân tộc; mọi dân tộc sẽ thấy bản án Ta sắp thực hiện, và sẽ thấy tay Ta giáng xuống chúng.22 Từ ngày đó về sau, nhà Ít-ra-en sẽ nhận biết chính Ta là ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của chúng.23 Các dân tộc cũng sẽ nhận biết điều này: chính vì các tội chúng đã phạm đến Ta, mà nhà Ít-ra-en đã phải đi đày; chính vì chúng không trung thành với Ta, nên Ta đã ẩn mặt đi, đã trao chúng vào tay quân thù và tất cả đã bị ngã gục dưới lưỡi gươm.24 Ta đã xử với chúng tương xứng với những điều ô uế, những tội ác của chúng và Ta đã ẩn mặt đi.25 Chính vì thế, ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán thế này: Giờ đây, Ta sắp đổi số phận của Gia-cóp và xót thương toàn thể nhà Ít-ra-en. Ta sẽ nổi ghen cho danh thánh của Ta.

26 Chúng sẽ quên đi những nỗi nhục nhằn đã phải chịu cũng như mọi tội bất trung đã phạm đến Ta, khi chúng sống yên hàn trên đất của chúng, mà không còn ai làm cho chúng phải lo sợ nữa.27 Khi Ta đem chúng từ các nước trở về và quy tụ chúng lại từ các xứ thù địch với chúng, khi Ta biểu dương sự thánh thiện của Ta trước mắt nhiều dân tộc,28 bấy giờ chúng sẽ nhận biết chính Ta là ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của chúng, Đấng đã bắt chúng phải lưu đày trong các dân tộc, rồi lại quy tụ chúng về đất của chúng và không để một ai trong chúng phải ở lại đó.29 Ta sẽ không còn ẩn mặt đi, vì Ta sẽ đổ tràn thần khí của Ta xuống nhà Ít-ra-en – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng.

IV. “LUẬT” CỦA NGÔN SỨ Ê-DÊ-KI-EN

Đền Thờ tương lai

40.  1 Năm thứ hai mươi lăm kể từ khi chúng tôi bị lưu đày, đầu năm ấy, ngày mồng mười trong tháng, mười bốn năm sau khi thành thất thủ, chính ngày ấy, tay ĐỨC CHÚA đặt trên tôi. Người đưa tôi tới đó:2 nhờ những thị kiến Người cho xem, Người dẫn tôi về đất Ít-ra-en và đặt tôi trên một ngọn núi cao chót vót, trên đó dường như có một thành đã được xây cất, ở phía nam.3 Người dẫn tôi tới đó, và này có một người hình dạng trông như đồng đỏ. Người ấy cầm trong tay một sợi dây vải và một cây trượng đo. Người ấy đứng ở cổng4 và bảo tôi: “Hỡi con người, hãy nhìn cho kỹ, hãy nghe cho tỏ và hãy chú tâm vào mọi điều tôi sắp cho ông thấy; chính vì muốn tỏ cho ông thấy điều đó mà ông đã được đưa tới đây. Ông hãy cho nhà Ít-ra-en biết mọi điều chính ông sắp được thấy.”

Tường bên ngoài

5 Này có một bức tường bên ngoài bao bọc khắp chung quanh Đền Thờ. Người ấy cầm trong tay một cây trượng để đo dài ba thước – tính bằng loại thước mà cứ nửa thước thì thêm một tấc. Người ấy đo bề dầy của công trình kiến trúc: một trượng, chiều cao: một trượng.

Cổng đông

6 Người ấy đi tới cổng quay về phía đông, bước lên bậc và đo thềm cổng: bề rộng một trượng.7 Phòng thị vệ: dài một trượng, rộng một trượng; trụ giữa các phòng thị vệ: cao hai thước rưỡi, và thêm cổng mạn tiền đình cổng về phía trong: rộng một trượng. 9 Người ấy đo tiền đình cổng: rộng bốn thước; các trụ của nó: cao một thước – tiền đình cổng nằm ở phía trong -. 10 Các phòng thị vệ nơi cổng quay về hướng đông: mỗi bên có ba; cả ba cùng một kích thước. Các trụ mỗi bên cùng một kích thước. 11 Người ấy đo chiều rộng lối vào cổng: năm thước, chiều dài cổng: sáu thước rưỡi. 12 Rào cản trước các phòng thị vệ, bên này rộng nửa thước, bên kia rộng nửa thước; còn phòng thị vệ: mỗi chiều ba thước. 13 Người ấy đo cổng, từ mái phòng thị vệ bên này tới mái phòng thị vệ bên kia: rộng mười hai thước rưỡi; hai lối ra vào đối diện nhau. 14 Người ấy đo tiền đình: rộng mười thước; bốn phía cổng đều có sân bao quanh. 15 Từ mặt tiền cổng, ở lối vào, cho đến mặt tiền của tiền đình bên trong cổng: rộng hai mươi lăm thước. 16 Các phòng thị vệ và các trụ của nó đều có những cửa sổ chấn song quay về phía bên trong cổng, khắp chung quanh; các tiền đình cũng thế, có cửa sổ khắp chung quanh; trên các trụ có hình cây chà là.

Sân ngoài

17 Người ấy dẫn tôi đến sân ngoài; tại đây người ta đã làm những căn phòng và một cái nền đá bao quanh sân. Có ba mươi căn phòng trên nền đá ấy.18 Mỗi bên cổng đều có nền đá, tương ứng với chiều dài các cổng; đó là nền đá dưới.19 Người ấy đo chiều rộng sân, từ mặt tiền cổng dưới cho tới mặt tiền phía ngoài của sân trong: năm mươi thước về phía đông và về phía bắc.

Cổng bắc

20 Còn cổng quay về phía bắc trên sân ngoài, thì người ấy đo chiều dài và chiều rộng.21 Các phòng thị vệ ở cổng này: mỗi bên có ba cái; các trụ và tiền đình của nó có cùng một kích thước như các trụ và tiền đình của cổng đông: dài hai mươi lăm thước, rộng mười hai thước rưỡi.22 Các cửa sổ, tiền đình và các hình cây chà là có cùng một kích thước như cửa sổ, tiền đình và hình cây chà là của cổng quay về phía đông. Người ta phải bước bảy bậc mới lên được tới đó và tiền đình của nó nằm ngay ở trước mặt.23 Có một cái cổng phía sân trong, đối diện với cổng bắc, về phía đông. Người ấy đo khoảng cách từ cổng này đến cổng kia là năm mươi thước.

Cổng nam

24 Người ấy dẫn tôi xuống phía nam; tại đây có một cái cổng quay về phía nam. Người ấy đo các phòng thị vệ ở cổng này và các trụ cũng như tiền đình của cổng: tất cả đều có cùng một kích thước như tại các cổng khác.25 Cổng cũng như tiền đình đều có cửa sổ khắp chung quanh, giống như các cửa sổ khác: cổng dài hai mươi lăm thước, rộng mười hai thước rưỡi.26 Cầu thang của nó có bảy bậc; tiền đình của nó ở phía trong và mỗi bên đều có các hình cây chà là trên các trụ.27 Có một cái cổng ở phía sân trong về phía nam; người ấy đo khoảng cách từ cổng này đến cổng kia, về phía nam, là năm mươi thước.

Sân trong. Cổng nam.

28 Rồi người ấy dẫn tôi đi qua cổng nam đến sân trong và đo cổng này: cổng có cùng một kích thước như những cổng khác;29 các phòng thị vệ, các trụ và tiền đình của cổng có cùng một kích thước như những cái trước. Cổng cũng như tiền đình đều có cửa sổ khắp chung quanh; cổng dài hai mươi lăm thước, rộng mười hai thước rưỡi.30 Các tiền đình của nó ở chung quanh: dài mười hai thước rưỡi, rộng hai thước rưỡi.31 Tiền đình của nó quay ra sân ngoài. Các trụ đều có các hình cây chà là; cầu thang của nó có tám bậc.

Cổng đông

32 Người ấy dẫn tôi đến sân trong, về phía đông, và đo cổng; cổng có cùng một kích thước như các cổng trước;33 các phòng thị vệ, các trụ và tiền đình của cổng có cùng một kích thước như những cái trước. Cổng cũng như tiền đình đều có cửa sổ khắp chung quanh; cổng dài hai mươi lăm thước, rộng mười hai thước rưỡi.34 Tiền đình của nó quay ra sân ngoài. Mỗi bên trụ đều có hình cây chà là và cầu thang của nó có tám bậc.

Cổng bắc

35 Rồi người ấy dẫn tôi về phía cổng bắc và đo cổng ấy; cổng có cùng một kích thước như các cổng khác.36 Các phòng thị vệ, các trụ và tiền đình của cổng có cùng một kích thước như những cái trước. Cổng cũng như tiền đình đều có cửa sổ khắp chung quanh; cổng dài hai mươi lăm thước, rộng mười hai thước rưỡi.37 Tiền đình của cổng quay ra sân ngoài. Mỗi bên trụ đều có các hình cây chà là và cầu thang của nó có tám bậc.

Phần phụ của các cổng

38 Có một căn phòng ăn thông với các trụ, các cổng. Tại đây, người ta rửa các lễ vật toàn thiêu.39 Còn trong tiền đình cổng, mỗi bên có hai cái bàn để sát tế lễ vật toàn thiêu, lễ vật tạ tội và lễ vật đền tội trên đó.40 Còn phía bên ngoài ở lối lên cổng, về phía bắc, có hai cái bàn, và phía bên kia, về phía tiền đình, có hai cái bàn nữa.41 Mỗi bên cổng có bốn cái bàn, như vậy là cả thảy có tám cái bàn dùng để sát tế.42 Ngoài ra, còn có bốn cái bàn để dâng lễ toàn thiêu, bằng đá đẽo, dài bảy tấc rưỡi, rộng bảy tấc rưỡi và cao nửa thước, trên đó người ta đặt những dụng cụ dùng để sát tế lễ toàn thiêu và hy lễ.43 Có hai cái rãnh rộng một tấc, được đào chung quanh, ở bên trong. Trên các bàn này, người ta đặt thịt để dâng lễ tiến.

44 Rồi người ấy dẫn tôi vào cổng trong, nơi có hai phòng, một ở bên cạnh cổng bắc và quay về phía nam, một ở bên cạnh cổng nam và quay về phía bắc.45 Người ấy bảo tôi: “Phòng quay về phía nam này dành cho các tư tế chuyên lo phục vụ Đền Thờ.46 Còn phòng quay về phía bắc thì dành cho các tư tế chuyên lo phục vụ bàn thờ. Họ là con cái ông Xa-đốc thuộc dòng họ ông Lê-vi, những kẻ được đến gần ĐỨC CHÚA để phục vụ Người.

Sân trong

47 Người ấy đo sân: sân dài năm mươi thước, rộng năm mươi thước, hình vuông. Còn bàn thờ thì ở trước Đền Thờ.

Đền Thờ. Tiền đình.

48 Người ấy dẫn tôi đến tiền đình của Đền Thờ và đo các trụ của tiền đình: mỗi bên hai thước rưỡi; còn chiều rộng của cổng, mỗi bên một thước rưỡi.49 Tiền đình dài mười thước và rộng sáu thước. Đi lên đó phải qua mười bậc. Bên cạnh các trụ có cột, mỗi bên trụ một cột.

Cung thánh

41.  1 Người ấy dẫn tôi về phía cung thánh và đo các trụ: mỗi bên rộng ba thước.2 Cửa vào rộng năm thước và các tường chống đỡ cửa vào, mỗi bên hai thước rưỡi. Người ấy đo cung thánh: cung thánh dài hai mươi thước và rộng mười thước.

Nơi Cực Thánh

3 Người ấy đi sâu vào bên trong và đo trụ của cửa vào: trụ rộng một thước; rồi lại đo cửa vào: cửa rộng ba thước, và các tường chống đỡ cửa vào rộng ba thước rưỡi.4 Người ấy đo Nơi Cực Thánh: nơi này dài mười thước và rộng mười thước, giáp với cung thánh. Rồi người ấy bảo tôi: “Đây là Nơi Cực Thánh.”

Dãy nhà phụ của Đền Thờ

5 Rồi người ấy đo tường Đền Thờ: tường dày ba thước; chiều rộng của nhà phụ ở khắp chung quanh Đền Thờ là hai thước.6 Các nhà phụ chồng lên nhau thành ba tầng, mỗi tầng có ba mươi nhà phụ. Các nhà phụ ăn sâu vào tường ngoài khắp chung quanh, làm thành những chỗ thụt vào, nhưng không đụng vào tường trong của Đền Thờ.7 Các nhà phụ càng lên cao càng rộng, vì tường càng lên cao càng hẹp, khắp chung quanh Đền Thờ.

8 Và tôi thấy khắp chung quanh Đền Thờ có một dải đất cao đúng một trượng tức là ba thước, đó là nền của các nhà phụ.9 Bức tường bên ngoài của các nhà phụ dày hai thước rưỡi. Giữa các nhà phụ của Đền Thờ10 và các phòng, có một khoảng trống rộng mười thước, khắp chung quanh Đền Thờ.11 Để vào các nhà phụ ở giữa khoảng trống, thì có một cửa ở phía bắc và một cửa ở phía nam. Bức tường bao quanh khoảng trống rộng hai thước rưỡi.

Toà nhà phía đông

12 Toà nhà bọc sân phía đông rộng ba mươi lăm thước, tường nhà khắp chung quanh dày hai thước rưỡi và dài bốn mươi lăm thước. Người ấy đo Đền Thờ: đền dài năm mươi thước. Sân cộng với toà nhà và các bức tường dài năm mươi thước. 14 Chiều rộng của mặt tiền Đền Thờ cộng với sân phía đông là năm mươi thước. 15 Người ấy đo chiều dài của toà nhà, dọc theo sân phía sau, cùng với hành lang, cả hai bên là năm mươi thước.

Trần thiết bên trong

Bên trong cung thánh và các tiền đình của sân, 16 các thềm, các cửa sổ chấn song, các hành lang ở ba mặt đối diện với thềm đều được ghép gỗ khắp chung quanh, từ đất lên tới cửa sổ, và các cửa sổ đều được đóng chấn song.17 Từ cửa vào cho đến tận bên trong cũng như bên ngoài Đền Thờ, trên mọi bức tường khắp chung quanh, cả trong lẫn ngoài,18 đều có chạm trổ những hình Kê-ru-bim và hình cây chà là, một cây chà là ở giữa hai Kê-ru-bim; mỗi Kê-ru-bim có hai mặt:19 mặt người quay về cây chà là phía bên này và mặt sư tử quay về cây chà là phía bên kia, trên cả Đền Thờ, khắp chung quanh.20 Các Kê-ru-bim và các hình cây chà là được chạm trổ trên tường cung thánh, từ đất lên đến tận bên trên cửa vào.21 Các cánh cửa cung thánh đều vuông vức.

Bàn thờ bằng gỗ

Trước thánh điện, có cái gì giống như 22 một bàn thờ bằng gỗ, cao một thước rưỡi, dài một thước và rộng một thước. Bàn thờ có các góc, bệ và các cạnh bằng gỗ. Người ấy bảo tôi: “Đây là cái bàn ở trước nhan ĐỨC CHÚA.”

Các cửa

23 Cung thánh có một cửa kép và Nơi Cực Thánh cũng có24 một cửa kép. Đó là những cửa có cánh xoay: mỗi cửa có hai cánh.25 Người ta đã chạm trổ lên trên đó, trên các cửa cung thánh, các hình Kê-ru-bim và hình cây chà là, như đã chạm trổ trên các tường vậy. Có một mái hiên bằng gỗ trước tiền đình, phía bên ngoài.26 Có các cửa sổ chấn song và các hình cây chà là ở hai bên các tường chống đỡ tiền đình, trên các nhà phụ của Đền Thờ và trên các mái hiên.

Các phòng của Đền Thờ

42.  1 Người ấy đưa tôi ra phía sân ngoài, về phía bắc, và dẫn tôi tới căn phòng đối diện với sân, tức là đối diện với toà nhà, về hướng bắc.2 Phía mặt tiền, nhà dài năm mươi thước, về phía bắc, và rộng hai mươi lăm thước.3 Đối diện với các cửa sân trong và đối diện với nền đá sân ngoài, có những hành lang chạy dài trên cả ba tầng.4 Trước các phòng, có một lối đi rộng năm thước về phía trong, và dài năm mươi thước; các cửa đều quay về phía bắc.5 Các phòng bên trên thì hẹp hơn các phòng dưới và phòng giữa của toà nhà, vì bị hành lang choán chỗ.6 Thật vậy, các phòng ấy chiếm ba tầng và không có cột như cột của sân, vì thế hẹp hơn các phòng dưới và phòng giữa, tính từ đất lên.7 Tường bên ngoài, song song với các phòng, quay về phía sân ngoài, đối diện với các phòng, dài hai mươi lăm thước.8 Chiều dài các phòng của sân ngoài là hai mươi lăm thước, trong khi các phòng ở phía trước cung thánh dài những năm mươi thước.9 Bên dưới các phòng này, có một lối vào từ hướng đông, dành cho người từ sân ngoài đi vô.

10 Ở đầu bức tường của sân, về phía nam, đối diện với sân và đối diện với toà nhà, cũng có những căn phòng.11 Có một lối đi đằng trước những phòng đó, cũng giống như lối đi ở trước những phòng phía bắc; các phòng ấy dài như nhau, rộng như nhau, lối ra, lối vào và cách sắp đặt cũng như nhau.12 Cũng như các cửa phòng quay về phía nam, ở đầu mỗi lối đi đều có một cửa dành cho người ở ngoài đi vô; cửa này đối diện với bức tường bao bọc quay về phía đông.13 Người ấy bảo tôi: “Các phòng phía bắc và các phòng phía nam đối diện với sân, đó là các phòng của thánh điện, tại đây, các tư tế đến gần ĐỨC CHÚA sẽ ăn những của rất thánh. Cũng chính tại đây, người ta đặt các của rất thánh, lễ phẩm, lễ vật tạ tội và lễ vật đền tội, vì đây là Nơi Thánh.14 Khi các tư tế đi vào rồi, các ông không được rời khỏi Nơi Thánh mà ra phía sân ngoài, nhưng phải để lại y phục tế lễ của mình ở đó, vì các y phục ấy là đồ thánh; sau đó các ông sẽ mặc y phục khác để tới gần nơi dành cho dân chúng.

Kích thước của sân

15 Sau khi đã đo bên trong Đền Thờ, người ấy đưa tôi ra phía cổng quay về hướng đông và đo khắp chung quanh sân.16 Người ấy lấy cây trượng đo mà đo cạnh phía đông: hai trăm năm mươi thước, bằng cây trượng đo, khắp chung quanh.17 Rồi người ấy đo cạnh phía bắc: hai trăm năm mươi thước, bằng cây trượng đo, khắp chung quanh.18 Người ấy lại đo cạnh phía nam: hai trăm năm mươi thước, bằng cây trượng đo,19 khắp chung quanh. Còn cạnh phía tây, người ấy đo được hai trăm năm mươi thước, bằng cây trượng đo.20 Ở cả bốn cạnh, người ấy đều đo bức tường bao bọc khắp chung quanh: chiều dài hai trăm năm mươi và chiều rộng hai trăm năm mươi; bức tường đó dùng để phân cách nơi thánh thiêng với nơi phàm tục.

ĐỨC CHÚA trở lại Đền Thờ

43.  1 Người ấy đưa tôi đi tới cổng, cổng quay về phía đông,2 và này, vinh quang của Thiên Chúa Ít-ra-en từ phía đông tiến vào. Bấy giờ có tiếng như tiếng nước lũ và đất rạng ngời vinh quang ĐỨC CHÚA.3 Thị kiến này giống như thị kiến tôi đã thấy khi Người đến để huỷ diệt thành, đồng thời cũng giống như thị kiến tôi đã thấy bên sông Cơ-va. Bấy giờ, tôi sấp mặt xuống đất.

4 Vinh quang ĐỨC CHÚA tiến vào Đền Thờ qua cổng quay về phía đông.5 Thần khí đưa tôi lên và dẫn tôi vào sân trong, và này vinh quang ĐỨC CHÚA tràn ngập Đền Thờ.6 Tôi nghe có Đấng phán với tôi từ Đền Thờ, trong khi người kia vẫn đứng bên tôi.7 Đấng ấy phán với tôi: “Hỡi con người, đây là nơi Ta đặt ngai của Ta, đây là nơi Ta đặt các bàn chân của Ta. Ta sẽ ngự tại đây, giữa con cái Ít-ra-en, cho đến muôn đời. Nhà Ít-ra-en, cả chúng lẫn các vua của chúng, sẽ không còn làm ô uế danh thánh của Ta vì những sự đàng điếm và xác chết các vua của chúng nữa,8 khi chúng dám đặt thềm của chúng sát thềm của Ta, cánh cửa của chúng sát cánh cửa của Ta với một bức tường giữa Ta với chúng mà thôi. Chúng đã làm ô uế danh thánh của Ta bằng những điều ghê tởm của chúng, nên Ta đã tận diệt chúng trong cơn thịnh nộ của Ta.9 Giờ đây, chúng phải đem đi cho khuất mắt Ta những sự đàng điếm của chúng cũng như xác chết các vua của chúng, rồi Ta sẽ ngự ở giữa chúng cho đến muôn đời.

10 Phần ngươi, hỡi con người, ngươi hãy mô tả cho nhà Ít-ra-en biết Đền Thờ này, để chúng phải xấu hổ vì tội lỗi chúng đã phạm. Chúng phải đo cái mô hình này.11 Và nếu chúng xấu hổ vì mọi điều ghê tởm chúng đã làm, thì ngươi hãy mô tả cho chúng đồ án Đền Thờ, cách sắp đặt, các lối ra lối vào, mọi đồ án và mọi quy tắc, mọi đồ án và mọi luật lệ của Đền Thờ. Hãy viết ra cho chúng thấy, để chúng tuân theo mọi đồ án và mọi quy tắc của Đền Thờ mà đem ra thi hành.12 Đây là bộ luật về Đền Thờ: Ở trên đỉnh núi này, toàn lãnh thổ chung quanh là nơi rất thánh. Đó là bộ luật về Đền Thờ.

Bàn thờ

13 Đây là kích thước bàn thờ tính bằng loại thước mà cứ nửa thước thì thêm một tấc: rãnh chung quanh sâu nửa thước, rộng nửa thước; gờ chung quanh rãnh: một gang. Đây là chiều cao của bàn thờ:14 từ rãnh dưới đất cho đến bệ dưới: một thước, rộng nửa thước; từ bệ nhỏ tới bệ lớn: hai thước, rộng nửa thước.15 Lò lửa cao hai thước; phía trên lò, có bốn góc cong.16 Lò dài sáu thước, rộng sáu thước: bốn cạnh vuông vức.17 Bệ dài bảy thước, rộng bảy thước, hình vuông. Gờ chung quanh bệ: hai tấc rưỡi; còn rãnh chung quanh bệ: nửa thước. Các bậc quay về phía đông.

Thánh hiến bàn thờ

18 Người ấy bảo tôi: Hỡi con người, ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán thế này: Đây là các quy tắc liên quan đến bàn thờ, vào ngày bàn thờ được dựng lên để tiến dâng lễ toàn thiêu và rảy máu lên trên đó.19 Ngươi hãy trao một con bò tơ làm hy lễ tạ tội cho các tư tế Lê-vi, thuộc dòng họ Xa-đốc, là những người đến gần Ta để phục vụ Ta, sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng.20 Ngươi hãy lấy máu nó bôi lên bốn góc cong, bốn góc bệ và gờ chung quanh bệ. Như vậy, ngươi sẽ tạ tội và xá tội cho bàn thờ.21 Rồi ngươi hãy lấy con bò dùng để dâng hy lễ tạ tội: nó sẽ được thiêu ở một chỗ riêng trong Đền Thờ, bên ngoài thánh điện.22 Đến ngày thứ hai, ngươi sẽ tiến dâng một con dê đực toàn vẹn làm lễ tạ tội và người ta sẽ tạ tội cho bàn thờ như đã tạ tội cho nó bằng con bò vậy.23 Khi đã làm lễ tạ tội xong, ngươi hãy tiến dâng một con bò tơ toàn vẹn và một con cừu đực toàn vẹn lấy trong đàn chiên dê.24 Ngươi hãy tiến dâng chúng trước nhan ĐỨC CHÚA, các tư tế sẽ rắc muối lên trên chúng và dâng chúng làm lễ toàn thiêu kính ĐỨC CHÚA.25 Trong bảy ngày, ngày nào ngươi cũng phải dâng một con dê đực làm lễ tạ tội, và người ta sẽ dâng một con bò tơ toàn vẹn và một con cừu đực toàn vẹn lấy trong đàn chiên dê.26 Trong bảy ngày, người ta sẽ làm lễ xá tội cho bàn thờ, thanh tẩy và thánh hiến bàn thờ.27 Khi những ngày ấy mãn hạn, đến ngày thứ tám và những ngày tiếp theo, các tư tế sẽ dâng hy lễ toàn thiêu và hy lễ kỳ an của các ngươi trên bàn thờ đó. Như vậy, Ta sẽ ưu ái các ngươi, sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng.

Sử dụng cổng đông

44.  1 Người ấy dẫn tôi trở lại cổng ngoài thánh điện, cổng quay về phía đông. Bấy giờ cổng đóng.2 ĐỨC CHÚA phán với tôi: Cổng này sẽ đóng; người ta sẽ không mở và không ai được vào, qua cổng này, vì ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa Ít-ra-en, đã tiến vào qua cổng ấy. Vì thế cổng này đóng.3 Nhưng ông hoàng, chính ông hoàng, sẽ được ngồi đó để dùng bữa trước nhan ĐỨC CHÚA. Ông sẽ vào qua tiền đình của cổng và sẽ ra bằng lối ấy.

Quy tắc để được vào Đền Thờ

4 Người ấy dẫn tôi vào phía cổng bắc, đối diện với Đền Thờ. Tôi nhìn, và này vinh quang ĐỨC CHÚA tràn ngập Đền Thờ ĐỨC CHÚA, và tôi sấp mặt xuống đất.5 ĐỨC CHÚA phán với tôi: Hỡi con người, hãy chú tâm, hãy nhìn cho kỹ và hãy nghe cho tỏ mọi điều Ta sắp phán với ngươi về mọi quy tắc liên quan đến Đền Thờ ĐỨC CHÚA và về mọi luật lệ của Đền Thờ. Hãy chú tâm đến những kẻ vào Đền Thờ cũng như những người ra khỏi thánh điện.6 Ngươi hãy nói với quân phản nghịch, với nhà Ít-ra-en: ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán thế này: Hỡi nhà Ít-ra-en, các ngươi đã làm biết bao điều ghê tởm,7 khi các ngươi đưa những người ngoại bang, lòng không cắt bì, xác cũng chẳng cắt bì, vào ở trong thánh điện của Ta mà làm ô uế Đền Thờ của Ta, khi các ngươi tiến dâng lương thực cho Ta là mỡ và máu mà lại huỷ bỏ giao ước của Ta. Thật các ngươi đã làm biết bao điều ghê tởm!8 Các ngươi không chịu đảm trách các việc thánh của Ta, mà lại đặt những kẻ đó làm người đảm trách việc phục vụ Ta trong thánh điện, thay cho các ngươi.9 ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán thế này: Chẳng một người ngoại bang nào, lòng không cắt bì, xác không cắt bì, được vào thánh điện của Ta; chẳng một người ngoại bang nào đang cư ngụ giữa con cái Ít-ra-en được làm như thế.

Các thầy Lê-vi

10 Còn các thầy Lê-vi đã lìa xa Ta, vào thời Ít-ra-en lạc xa Ta mà chạy theo các ngẫu tượng, thì sẽ phải gánh lấy tội mình.11 Trong thánh điện của Ta, chúng sẽ đảm trách việc canh các cổng Đền Thờ và phục vụ Đền Thờ. Chính chúng sẽ sát tế lễ vật toàn thiêu và hy lễ cho dân; chính chúng sẽ đứng trước mặt dân mà phục vụ dân.12 Vì chúng đã giúp dân phục vụ các ngẫu tượng và đã làm cớ cho nhà Ít-ra-en phạm tội, nên Ta sẽ giơ tay trừng phạt chúng – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng. Chúng sẽ phải gánh lấy tội mình.13 Chúng sẽ không được lại gần Ta để làm tư tế cho Ta, không được đụng chạm tới bất cứ vật thánh nào, vật rất thánh nào, nhưng chúng phải mang ô nhục và gánh lấy những điều ghê tởm chúng đã gây ra.14 Ta sẽ cho chúng đảm trách việc phục vụ Đền Thờ và mọi việc của Đền Thờ cũng như mọi việc phải làm ở đó.

Các tư tế

15 Còn các thầy tư tế Lê-vi, con cái Xa-đốc, đảm trách việc phục vụ trong thánh điện của Ta vào thời con cái Ít-ra-en lạc xa Ta, chính chúng sẽ đứng trước nhan Ta để phục vụ Ta; chúng sẽ đứng trước nhan Ta để tiến dâng lên Ta mỡ và máu, sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng.16 Chính chúng sẽ vào thánh điện của Ta, sẽ lại gần bàn của Ta để phục vụ Ta; chúng sẽ đảm trách việc phục vụ Ta.17 Khi tiến vào các cổng của sân trong, chúng sẽ mặc y phục bằng vải gai; chúng sẽ không mặc đồ len khi phục vụ tại các cổng của sân trong và tại Đền Thờ.18 Chúng sẽ đội mũ tế bằng vải gai trên đầu và mặc quần đùi bằng vải gai ngang lưng, chúng sẽ không thắt gì có thể làm đổ mồ hôi.19 Khi ra sân ngoài để tới gần dân, chúng sẽ cởi bỏ y phục đã mặc khi thi hành công việc phục vụ và để lại trong phòng thánh; chúng sẽ mặc y phục khác, để khỏi chuyển sự thánh thiêng cho dân qua y phục dùng để tế lễ.20 Chúng không được cạo đầu, cũng không được để tóc mọc tự nhiên, nhưng phải cắt tỉa cẩn thận.21 Không tư tế nào được uống rượu khi vào sân trong.22 Chúng không được lấy bà goá hoặc lấy người bị chồng bỏ làm vợ, mà chỉ được lấy trinh nữ thuộc dòng dõi Ít-ra-en; nhưng nếu là bà goá, vợ của một tư tế đã chết, thì lấy được.23 Nó sẽ chỉ cho dân Ta biết phân biệt điều thánh thiêng với điều phàm tục, và sẽ dạy cho họ biết phân biệt điều ô uế với điều thanh sạch.24 Trong các vụ kiện cáo, chính chúng sẽ đứng ra làm thẩm phán. Chúng sẽ xét xử theo phán quyết của Ta. Chúng sẽ giữ các lề luật và quy tắc của Ta liên quan đến các ngày lễ; chúng phải coi các ngày sa-bát của Ta là thánh.25 Chúng không được đến gần người chết, kẻo ra ô uế, nhưng có thể để cho mình ra ô uế vì đến gần cha, mẹ, con trai, con gái, anh em hay chị em chưa chồng, khi những người này chết.26 Sau khi tư tế đó được thanh tẩy, người ta còn phải tính cho nó bảy ngày nữa,27 rồi đến ngày vào thánh điện, vào sân trong để phục vụ trong thánh điện, nó mới được tiến dâng lễ tạ tội cho mình – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng.28 Chúng không có phần gia nghiệp, chính Ta sẽ là phần gia nghiệp của chúng. Các ngươi không được cho chúng phần sở hữu ở Ít-ra-en, chính Ta sẽ là phần sở hữu của chúng.29 Chính chúng sẽ được ăn lễ phẩm, lễ vật tạ tội và lễ vật xá tội. Tất cả những gì là của biệt hiến trong Ít-ra-en đều thuộc về chúng.30 Phần tuyệt hảo trong mọi thứ của đầu mùa và mọi phần trích dâng lấy từ những phần các ngươi trích dâng, đều thuộc về các tư tế; bột thượng hạng của các ngươi, các ngươi phải dâng cho tư tế, hầu phúc lành ở lại trong nhà các ngươi.31 Các tư tế không được ăn thịt con vật chết hoặc bị thú dữ cắn xé, bất kể chim chóc hay súc vật.

Phân chia xứ sở. Phần của ĐỨC CHÚA.

45.  1 Khi rút thăm để phân chia xứ sở thành những phần gia nghiệp, các ngươi hãy trích ra một phần để dâng kính ĐỨC CHÚA; đây là phần đất thánh lấy trong xứ sở: dài mười hai ngàn năm trăm thước, rộng mười ngàn thước. Tất cả diện tích của phần đất này phải là thánh.2 Trong phần đất này, sẽ dành cho thánh điện một chiều hai trăm năm mươi thước và chiều kia hai trăm năm mươi thước, vuông vức, với một đường biên hai mươi lăm thước, khắp chung quanh.3 Trong phần đất đã trích dâng, ngươi hãy đo lấy một chiều dài mười hai ngàn năm trăm thước, rộng năm ngàn thước. Đó sẽ là thánh điện, Nơi Cực Thánh.4 Đó là phần đất thánh trong xứ thuộc về các tư tế phục vụ thánh điện, những người đến gần ĐỨC CHÚA để phục vụ Người. Tại đây, họ có chỗ để cất nhà và một nơi thánh để làm thánh điện.5 Một phần dài mười hai ngàn năm trăm thước, rộng năm ngàn thước, sẽ được dành cho các thầy Lê-vi phục vụ Đền Thờ làm sở hữu, cùng với các thành để cư ngụ.6 Các ngươi sẽ dành ra một phần đất để xây thành, rộng hai ngàn năm trăm thước, dài mười hai ngàn năm trăm thước, dọc theo phần trích dâng làm phần đất thánh: đó là phần thuộc về toàn thể nhà Ít-ra-en.

Phần của ông hoàng

7 Còn ông hoàng, người ta sẽ dành cho ông phần đất ở hai bên phần được trích dâng làm phần đất thánh và phần đất để xây thành. Phần đất ấy nằm dọc theo hai bên phần được trích dâng làm phần đất thánh và dọc theo phần đất để xây thành; cạnh phía tây chạy đến tận phía tây và cạnh phía đông chạy đến tận phía đông. Chiều dài dải đất từ ranh giới phía tây tới ranh giới phía đông của xứ cũng bằng chiều dài các phần chia cho các chi tộc.8 Đó là phần của nó ở Ít-ra-en. Như thế, các ông hoàng của Ta sẽ không còn áp bức dân Ta nữa; chúng sẽ trao xứ sở cho nhà Ít-ra-en, cho các chi tộc của chúng.

9 ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán như sau: Thế là quá lắm rồi, hỡi các ông hoàng Ít-ra-en! Hãy đẩy xa bạo lực và tàn phá, hãy thi hành chính trực công minh và cất đi khỏi dân Ta những hành vi quấy nhiễu của các ngươi – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng.10 Các ngươi phải dùng cán cân đúng, ê-pha đúng, bát đúng: bát bằng một phần mười kho-me và ê-pha bằng một phần mười kho-me. Cứ theo kho-me mà quy định việc đo lường. 12 Một sê-ken bằng hai mươi ghê-ra. Hai mươi sê-ken, hai mươi lăm sê-ken và mười lăm sê-ken sẽ bằng một min.

Các lễ phẩm dùng vào việc phụng tự

13 Đây là phần trích dâng các ngươi phải trích ra: cứ hai mươi thùng lúa mì thì một phần ba thùng, và cứ hai mươi thùng lúa mạch, thì một phần ba thùng.14 Đây là quy định đối với dầu: cứ mười thùng dầu thì trích ra một thùng; mà hai mươi thùng thì bằng một co hoặc một kho-me.15 Từ đồng cỏ tươi tốt của Ít-ra-en, cứ một đàn vật hai trăm con thì lấy ra một con chiên, để làm lễ phẩm, lễ toàn thiêu và lễ kỳ an mà xá tội cho dân – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng.16 Toàn dân trong xứ phải nộp phần trích dâng đó cho ông hoàng Ít-ra-en.17 Trách nhiệm của ông hoàng là liệu cho có các lễ toàn thiêu, lễ phẩm và lễ tưới vào các ngày lễ, các ngày sóc, các ngày sa-bát và các ngày đại hội của nhà Ít-ra-en. Chính nó sẽ cung cấp lễ vật tạ tội, lễ phẩm, lễ toàn thiêu và các lễ kỳ an để xá tội cho nhà Ít-ra-en.

Lễ Vượt Qua (Xh 12:1-20 )

18 ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán như sau: Ngày mồng một tháng thứ nhất, ngươi hãy bắt một con bò tơ toàn vẹn để làm lễ tạ tội cho thánh điện.19 Vị tư tế sẽ lấy máu của lễ vật tạ tội mà bôi lên cánh cửa Đền Thờ, lên bốn góc bệ của bàn thờ và các cánh cổng của sân trong.20 Vào ngày mồng bảy trong tháng, ngươi cũng hãy làm như thế cho người nào vì vô ý hay thiếu suy nghĩ mà phạm tội. Như thế, các ngươi sẽ làm lễ xá tội cho Đền Thờ.21 Ngày mười bốn tháng thứ nhất sẽ là ngày lễ Vượt Qua cho các ngươi; trong bảy ngày, người ta sẽ ăn bánh không men.22 Vào chính ngày ấy, ông hoàng sẽ dâng một con bò làm lễ tạ tội cho mình và cho toàn dân trong xứ.23 Trong bảy ngày cử hành lễ ấy, nó sẽ dâng bảy con bò, bảy con cừu đực toàn vẹn làm lễ toàn thiêu kính ĐỨC CHÚA, ngày nào cũng như ngày nào, và dâng mỗi ngày một con dê đực làm lễ tạ tội.24 Về lễ phẩm, thì cứ mỗi con bò, nó sẽ dâng hai thùng lúa và cứ mỗi con cừu đực, hai thùng; còn về dầu, thì cứ hai thùng, nó sẽ dâng bảy lít.

Lễ Lều

25 Ngày mười lăm tháng thứ bảy, vào ngày Lễ, nó sẽ dâng y như thế trong bảy ngày, nghĩa là cũng ngần ấy lễ tạ tội, lễ toàn thiêu, lễ phẩm và dầu.

Các quy tắc khác

46.  1 ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán thế này: Cổng của tiền đình bên trong, cổng quay về phía đông, sẽ đóng trong sáu ngày làm việc, nhưng đến ngày sa-bát sẽ được mở ra; và ngày sóc cũng sẽ được mở ra như vậy.2 Từ bên ngoài, ông hoàng sẽ đi vào, qua lối tiền đình của cổng, và đứng quay về các cánh cổng. Bấy giờ, các tư tế sẽ dâng lễ toàn thiêu và lễ kỳ an của nó. Nó sẽ sụp xuống thềm cổng rồi đi ra. Cổng sẽ không đóng cho đến tối.3 Dân trong xứ cũng sụp xuống trước nhan ĐỨC CHÚA ở lối vào cổng trong các ngày sa-bát và các ngày sóc.4 Vào ngày sa-bát, lễ toàn thiêu ông hoàng dâng kính ĐỨC CHÚA, sẽ là sáu con chiên toàn vẹn và một con cừu đực toàn vẹn;5 lễ phẩm thì cứ mỗi con cừu dâng hai thùng; còn đối với chiên, thì tuỳ sức; dầu thì cứ hai thùng dâng bảy lít.6 Vào ngày sóc, ông hoàng sẽ dâng một con bò tơ toàn vẹn, sáu con chiên và một con cừu đực toàn vẹn làm lễ toàn thiêu.7 Nó cũng sẽ dâng lễ phẩm: cứ mỗi con bò dâng hai thùng, và cứ mỗi con cừu dâng hai thùng; còn đối với chiên, thì tuỳ theo khả năng; dầu thì cứ hai thùng dâng bảy lít.

8 Khi ông hoàng vào, thì sẽ vào theo lối tiền đình của cổng và cũng sẽ đi ra theo lối đó.

9 Khi dân trong xứ vào trước nhan ĐỨC CHÚA trong các dịp đại lễ, thì ai vào lối cổng bắc mà sụp lạy, sẽ ra lối cổng nam; còn ai đã vào lối cổng nam thì sẽ ra lối cổng bắc, không ai được ra lối cổng mà mình đã vào; nó sẽ ra lối cổng đối diện.10 Ông hoàng sẽ đứng ở giữa chúng: khi chúng vào, nó sẽ vào; khi chúng ra, nó cũng ra.

11 Trong các ngày lễ và đại lễ, lễ phẩm sẽ là: cứ mỗi con bò, dâng hai thùng lúa và cứ mỗi con cừu, dâng hai thùng; còn đối với chiên, thì tuỳ sức; dầu thì cứ hai thùng dâng bảy lít.12 Khi ông hoàng dâng kính ĐỨC CHÚA lễ toàn thiêu tự nguyện hoặc lễ kỳ an tự nguyện, thì người ta sẽ mở cổng quay về phía đông cho nó, và nó sẽ dâng lễ toàn thiêu và lễ kỳ an của nó giống như nó đã dâng vào ngày sa-bát, đoạn nó đi ra và người ta sẽ đóng cổng lại sau khi nó đã đi ra.13 Mỗi ngày, ngươi sẽ dâng một con chiên một tuổi và toàn vẹn để làm lễ toàn thiêu kính ĐỨC CHÚA, ngươi sẽ dâng vào mỗi buổi sáng.14 Mỗi buổi sáng ngươi cũng sẽ dâng lễ phẩm là một phần ba thùng bột và hai lít rưỡi dầu để nhào bột làm lễ phẩm dâng kính ĐỨC CHÚA. Đó là quy tắc vĩnh viễn, cho đến muôn đời.15 Mỗi buổi sáng, người ta sẽ dâng chiên, lễ phẩm và dầu làm lễ toàn thiêu cho đến muôn đời.

16 ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán thế này: Nếu ông hoàng lấy một phần trong gia nghiệp của mình mà tặng cho một trong các con, thì phần ấy sẽ thuộc về người con; đó sẽ là phần chúng được sở hữu do thừa tự.17 Nhưng nếu nó lấy một phần trong gia nghiệp của mình mà cho một trong các tôi tớ, thì phần ấy sẽ thuộc về người tôi tớ cho tới năm ân xá; sau đó, phần ấy lại thuộc về ông hoàng. Chỉ con cái nó mới được quyền sở hữu vĩnh viễn phần gia nghiệp.18 Ông hoàng sẽ không được lấy gì trong phần gia nghiệp của dân, không được tước đoạt phần sở hữu của họ. Nó phải lấy phần sở hữu của mình mà cho con cái, ngõ hầu không người nào trong dân Ta buộc phải lìa bỏ phần sở hữu của mình.

19 Người ấy đưa tôi vào, qua lối bên cổng, gần các phòng thánh quay về phía bắc, dành cho các tư tế. Và này, tại đây có một nơi, ở tận cùng, về phía tây.20 Người ấy bảo tôi: “Đây là nơi các tư tế luộc lễ vật đền tội và lễ vật tạ tội, nơi họ nấu lễ phẩm, để khỏi phải đem ra sân ngoài kẻo chuyển sự thánh thiêng cho dân.”21 Rồi người ấy dẫn tôi ra sân ngoài và đưa tôi tới gần chỗ bốn góc sân ấy. Này: ở mỗi góc sân đều có một cái sân nhỏ;22 ở bốn góc, có những cái sân nhỏ dài hai mươi thước rộng mười lăm thước. Cả bốn sân đều có cùng một kích thước.23 Có một bức tường bao quanh cả bốn sân và có những cái lò được xây ở khắp chung quanh chân tường.24 Người ấy bảo tôi: “Đây là nhà bếp, nơi những người phục vụ Đền Thờ luộc các lễ vật của dân.”

Con suối từ Đền Thờ chảy ra

47.  1 Người ấy dẫn tôi trở lại phía cửa Đền Thờ, và này: có nước vọt ra từ dưới ngưỡng cửa Đền Thờ và chảy về phía đông, vì mặt tiền Đền Thờ quay về phía đông. Nước từ phía dưới bên phải Đền Thờ chảy xuống phía nam bàn thờ.2 Người ấy đưa tôi ra theo lối cổng bắc và dẫn tôi đi vòng quanh theo lối bên ngoài, đến cổng ngoài quay mặt về phía đông, và này: nước từ phía bên phải chảy ra.3 Người ấy đi ra phía đông, tay cầm dây đo, đo năm trăm thước rồi dẫn tôi đi qua nước: nước ngập đến mắt cá chân.4 Người ấy đo năm trăm thước nữa rồi dẫn tôi đi qua nước: nước ngập đến đầu gối. Người ấy lại đo năm trăm thước nữa rồi dẫn tôi đi qua nước: nước ngập đến ngang lưng.5 Người ấy còn đo năm trăm thước nữa: đó là một con sông, tôi không thể đi qua được vì nước đã dâng cao, khiến không thể đi qua mà chỉ bơi mới được thôi.6 Người ấy bảo tôi: “Ngươi có thấy không, hỡi con người? ” Rồi người ấy dẫn tôi trở lại bờ sông.7 Khi tôi trở lại, thì này: có rất nhiều cây cối ở hai bên bờ sông.8 Người ấy bảo tôi: “Nước này chảy về miền đất phía đông, xuống vùng A-ra-ba, rồi đổ ra biển Chết và làm cho nước biển hoá lành.9 Sông chảy đến đâu thì mọi sinh vật lúc nhúc ở đó sẽ được sống. Sẽ có rất nhiều cá, vì nước này chảy tới đâu, thì nó chữa lành; sông này chảy đến đâu, thì ở đó có sự sống.10 Sẽ có nhiều ngư phủ sinh sống ở trên bờ. Từ Ên Ghe-đi cho tới Ên Éc-la-gim sẽ toàn là bãi phơi lưới. Cá ở đây cũng nhiều và đủ loại như cá ở Biển Lớn.11 Nhưng đầm lầy của nó sẽ không hoá ra lành mà chỉ dùng để lấy muối.12 Trên hai bờ sông sẽ mọc lên mọi giống cây ăn trái, lá không bao giờ tàn, trái không bao giờ hết: mỗi tháng các cây đó sẽ sinh trái mới nhờ có nước chảy ra từ thánh điện. Trái dùng làm lương thực còn lá để làm thuốc.”

Ranh giới của xứ

13 ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán như sau: Đây là ranh giới để các ngươi theo đó mà chia nhau xứ sở làm phần gia nghiệp cho mười hai chi tộc Ít-ra-en; Giu-se được hai phần.14 Ai trong các ngươi cũng đều được chia xứ sở làm phần gia nghiệp, vì Ta đã giơ tay thề là ban đất ấy cho tổ tiên các ngươi. Đất này phải rơi vào tay các ngươi làm phần gia nghiệp.15 Đây là ranh giới của xứ này. Phía bắc: từ Biển Lớn, theo hướng Khét-lôn, cho đến Cửa ải Kha-mát, Xơ-đát,16 Bê-rô-tha, Xíp-ra-gim nằm giữa lãnh thổ Đa-mát và lãnh thổ Kha-mát, Kha-xa Ha Ti-khôn nằm về phía ranh giới Khau-ran;17 ranh giới sẽ chạy dài từ Biển cho tới Kha-xa Ê-nan, phía bắc là lãnh thổ của Đa-mát và của Kha-mát: đó là ranh giới phía bắc.18 Phía đông: từ giữa Khau-ran và Đa-mát, sông Gio-đan được dùng làm ranh giới giữa Ga-la-át và xứ Ít-ra-en, cho đến tận Biển Đông, về phía Ta-ma: đó là ranh giới phía đông.19 Phía nam: từ Ta-ma cho tới dòng nước Mơ-ri-va ở Ca-đê, dọc theo con sông đến tận Biển Lớn: đó là ranh giới phía nam.20 Còn phía tây: Biển Lớn được dùng làm ranh giới cho tới trước mặt Cửa Ải Kha-mát: đó là ranh giới phía tây.21 Các ngươi hãy chia nhau xứ này, theo số các chi tộc Ít-ra-en.22 Các ngươi hãy bắt thăm để chia nhau đất này làm phần gia nghiệp cho các ngươi, cũng như cho các ngoại kiều đang cư ngụ giữa các ngươi và đã sinh con cái ở giữa các ngươi. Các ngươi phải coi chúng như người bản xứ. Chúng cũng sẽ bắt thăm như các ngươi để được phần gia nghiệp ở giữa các chi tộc Ít-ra-en.23 Người ngoại kiều cư ngụ trong chi tộc nào, thì các ngươi phải cho nó phần gia nghiệp của nó trong chi tộc ấy, – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng.

Phân chia xứ sở

48.  1 Đây là danh sách các chi tộc. Phần của Đan: ở cực bắc, về phía Khét-lôn, phía Cửa ải Kha-mát và Kha-xa Ê-nan, lãnh thổ của Đa-mát, ở phía bắc, dọc theo Kha-mát, từ ranh giới phía đông sang ranh giới phía tây.2 Phần của A-se: dọc theo biên giới của Đan, từ ranh giới phía đông sang ranh giới phía tây.3 Phần của Náp-ta-li: dọc theo biên giới của A-se, từ ranh giới phía đông sang ranh giới phía tây.4 Phần của Mơ-na-se: dọc theo biên giới của Náp-ta-li, từ ranh giới phía đông sang ranh giới phía tây.5 Phần của Ép-ra-im: dọc theo biên giới của Mơ-na-se, từ ranh giới phía đông sang ranh giới phía tây.6 Phần của Rưu-vên: dọc theo biên giới Ép-ra-im, từ ranh giới phía đông sang ranh giới phía tây.7 Phần của Giu-đa: dọc theo biên giới của Rưu-vên, từ ranh giới phía đông sang ranh giới phía tây.8 Dọc theo biên giới của Giu-đa, từ ranh giới phía đông sang ranh giới phía tây, các ngươi sẽ trích ra một phần rộng mười hai ngàn năm trăm thước và dài bằng phần của mỗi chi tộc, từ ranh giới phía đông sang ranh giới phía tây. Thánh điện sẽ nằm ở giữa.

9 Các ngươi sẽ trích ra một phần để dâng kính ĐỨC CHÚA: dài mười hai ngàn năm trăm thước và rộng mười ngàn thước.10 Đây sẽ là phần trích dâng làm đất thánh dành cho các tư tế: phía bắc dài mười hai ngàn năm trăm thước; phía tây rộng năm ngàn thước; phía đông rộng năm ngàn thước; phía nam dài mười hai ngàn năm trăm thước. Thánh điện của ĐỨC CHÚA sẽ nằm ở giữa.11 Đó là phần dành cho các tư tế đã được thánh hiến, thuộc dòng dõi Xa-đốc, những người đảm trách việc phục vụ Ta; chúng đã không lầm lạc vào lúc con cái Ít-ra-en lầm lạc cũng như các thầy Lê-vi lầm lạc.12 Sẽ thuộc về chúng một phần lấy từ phần trích dâng rất thánh trong xứ, gần lãnh thổ các thầy Lê-vi.13 Còn thuộc về các thầy Lê-vi một phần tương ứng với lãnh thổ của các tư tế, dài mười hai ngàn năm trăm thước, rộng năm ngàn thước. Tất cả dài mười hai ngàn năm trăm thước, rộng mười ngàn thước.14 Không được đem đất ấy bán hay đổi chác, không được chuyển nhượng phần đất tuyệt hảo của xứ, vì đó là của thánh dâng kính ĐỨC CHÚA.15 Phần còn lại rộng hai ngàn năm trăm thước, dài mười hai ngàn năm trăm thước, đó là đất phàm tục, dùng để làm thành, làm nhà ở và làm đồng cỏ. Thành sẽ nằm ở giữa.16 Đây là kích thước của thành: phía bắc: hai ngàn hai trăm năm mươi thước; phía nam: hai ngàn hai trăm năm mươi thước; phía đông: hai ngàn hai trăm năm mươi thước; phía tây: hai ngàn hai trăm năm mươi thước.17 Đồng cỏ dành cho thành: phía bắc: một trăm hai mươi lăm thước; phía nam: một trăm hai mươi lăm thước; phía đông: một trăm hai mươi lăm thước; phía tây: một trăm hai mươi lăm thước.18 Phần còn lại có chiều dài chạy dọc theo phần trích dâng thánh: năm ngàn thước về phía đông và năm ngàn thước về phía tây; lợi tức của phần đất này sẽ dùng làm lương thực nuôi những người lao động trong thành.19 Những người lao động trong thành, thuộc mọi chi tộc Ít-ra-en, sẽ canh tác phần đất này.20 Toàn bộ phần đất ấy là mười hai ngàn năm trăm thước trên mười hai ngàn năm trăm thước: đó là phần đất vuông; các ngươi sẽ trích ra một phần làm phần trích dâng thánh và phần sở hữu của thành.21 Phần còn lại thuộc về ông hoàng thì ở hai bên phần trích dâng thánh và phần sở hữu của thành: từ cạnh phía đông của phần trích dâng – dài mười hai ngàn năm trăm thước – cho đến ranh giới phía đông; từ cạnh phía tây của phần trích dâng – dài mười hai ngàn năm trăm thước – cho đến ranh giới phía tây. Đó là phần của ông hoàng tương ứng với những phần khác. Phần trích dâng thánh và thánh điện của Đền Thờ sẽ nằm ở giữa phần đất ấy.22 Như thế, phần của ông hoàng sẽ nằm ở giữa lãnh thổ Giu-đa và lãnh thổ Ben-gia-min. Còn phần sở hữu của các thầy Lê-vi và phần sở hữu của thành thì nằm giữa hai phần của ông hoàng.

23 Đây là các chi tộc còn lại: phần của Ben-gia-min: từ ranh giới phía đông sang ranh giới phía tây.24 Phần của Si-mê-ôn: dọc theo biên giới của Ben-gia-min, từ ranh giới phía đông sang ranh giới phía tây.25 Phần của Ít-xa-kha: dọc theo biên giới của Si-mê-ôn, từ ranh giới phía đông sang ranh giới phía tây.26 Phần của Dơ-vu-lun: dọc theo biên giới của Ít-xa-kha, từ ranh giới phía đông sang ranh giới phía tây.27 Phần của Gát: dọc theo biên giới của Dơ-vu-lun, từ ranh giới phía đông sang ranh giới phía tây.28 Còn biên giới phía nam của Gát, về mạn nam: biên giới này sẽ chạy từ Ta-ma cho tới dòng nước Mơ-ri-va ở Ca-đê, dọc theo con sông, đến tận Biển Lớn.29 Đó là xứ các ngươi sẽ bắt thăm để chia làm phần gia nghiệp cho các chi tộc Ít-ra-en; đó sẽ là phần của chúng – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng.

Các cổng thành Giê-ru-sa-lem

30 Còn đây là các lối ra của thành. Cạnh phía bắc: hai ngàn hai trăm năm mươi thước.31 Các cổng thành sẽ mang tên các chi tộc Ít-ra-en. Ba cổng ở phía bắc: một cổng mang tên Rưu-vên; một cổng mang tên Giu-đa; một cổng mang tên Lê-vi.32 Phía đông, hai ngàn hai trăm năm mươi thước và ba cổng: một cổng mang tên Giu-se; một cổng mang tên Ben-gia-min; một cổng mang tên Đan.33 Phía nam, hai ngàn hai trăm năm mươi thước và ba cổng: một cổng mang tên Si-mê-ôn; một cổng mang tên Ít-xa-kha; một cổng mang tên Dơ-vu-lun.34 Phía tây, hai ngàn hai trăm năm mươi thước và ba cổng: một cổng mang tên Gát; một cổng mang tên A-se; một cổng mang tên Náp-ta-li.35 Chu vi là chín ngàn thước.

Và từ nay trở đi, tên của thành sẽ là: “ĐỨC-CHÚA-ngự-ở-đó.”

SÁCH ĐA-NI-EN

I. CÁC TRÌNH THUẬT

1. TRẺ EM DO-THÁI TẠI TRIỀU ĐÌNH VUA NA-BU-CÔ-ĐÔ-NÔ-XO

1.  1 Năm thứ ba, đời vua Giơ-hô-gia-kim cai trị xứ Giu-đa, vua xứ Ba-by-lon là Na-bu-cô-đô-nô-xo đến bao vây thành Giê-ru-sa-lem.2 Chúa trao vua xứ Giu-đa là Giơ-hô-gia-kim cùng với tất cả đồ dùng của Nhà Chúa vào tay vua Na-bu-cô-đô-nô-xo. Ông này mang những thứ ấy về đền thờ các thần của ông ta ở xứ Sin-a và bỏ vào nhà kho của các thần.

3 Nhà vua truyền cho quan đứng đầu các thái giám là Át-pơ-nát chọn trong số con cái Ít-ra-en một vài đứa trẻ thuộc dòng dõi hoàng gia và hàng quý tộc mà dẫn về.4 Những đứa trẻ này phải là những đứa không khuyết tật, diện mạo khôi ngô, đã được học mọi lẽ khôn ngoan, hiểu rộng biết nhiều, trí khôn sắc sảo, có khả năng đứng chầu trong điện vua. Ông Át-pơ-nát còn phải dạy cho chúng biết chữ viết và tiếng nói của người Can-đê.5 Nhà vua dành cho chúng khẩu phần hằng ngày trong thức ăn rượu uống của nhà vua. Chúng phải được nuôi dạy ba năm, và sau thời hạn đó, phải ra mắt nhà vua.6 Trong số các trẻ ấy có Đa-ni-en, Kha-na-ni-a, Mi-sa-ên và A-da-ri-a là những người Giu-đa.7 Quan đứng đầu các thái giám đổi tên cho chúng: Đa-ni-en thành Bên-tơ-sát-xa, Kha-na-ni-a thành Sát-rác, Mi-sa-ên thành Mê-sác và A-da-ri-a thành A-vết Nơ-gô.8 Phần Đa-ni-en, vì quyết tâm không để mình bị ô uế do thức ăn rượu uống của nhà vua, nên đã xin quan cho mình khỏi bị ô uế.9 Chúa đã khiến cho Đa-ni-en được cảm tình của quan đứng đầu các thái giám.10 Nhưng quan này nói với Đa-ni-en rằng: “Ta sợ đức vua; vua đã chỉ định đồ ăn thức uống cho các ngươi. Vua mà thấy mặt mũi các ngươi gầy ốm hơn các bạn cùng tuổi thì chính các ngươi sẽ khiến ta mang tội trước mặt vua.”11 Đa-ni-en thưa với người được quan đứng đầu các thái giám chỉ định để trông coi Đa-ni-en, Kha-na-ni-a, Mi-sa-ên và A-da-ri-a:12 “Xin quan cứ thử các tôi tớ của quan đây trong mười ngày: cứ cho chúng tôi ăn rau uống nước,13 rồi quan nhìn sắc mặt chúng tôi và sắc mặt những đứa dùng thức ăn của nhà vua. Lúc đó quan thấy thế nào thì cứ xử với các tôi tớ của quan như vậy.”14 Quan chấp nhận lời các cậu ấy xin và thử trong mười ngày.15 Hết mười ngày, quan thấy các cậu sắc mặt hồng hào, da thịt đầy đặn hơn tất cả những đứa đã dùng thức ăn của nhà vua.16 Thế là quan giám thị cất phần thức ăn rượu uống của các cậu đi và cứ cho ăn rau.17 Bốn cậu bé này đều được Chúa ban ơn hiểu rộng biết nhiều về tất cả chữ nghĩa và lẽ khôn ngoan. Riêng Đa-ni-en còn được hiểu biết mọi thị kiến và điềm báo mộng.18 Khi đến thời hạn phải đưa bọn trẻ ra như vua đã truyền, thì quan đứng đầu các thái giám đem chúng ra trước mặt vua Na-bu-cô-đô-nô-xo.19 Nhà vua nói chuyện với chúng, và trong số các trẻ ấy không có đứa nào được như Đa-ni-en, Kha-na-ni-a, Mi-sa-ên và A-da-ri-a. Thế là bốn cậu này được đứng chầu vua,20 và khi vua hỏi các cậu về bất cứ điều gì cần đến sự khôn ngoan và tài trí, thì đều thấy các cậu trổi vượt gấp mười lần hơn tất cả các thầy phù thủy và pháp sư trong toàn vương quốc.21 Đa-ni-en ở lại đó cho đến năm thứ nhất triều vua Ky-rô.

2. VUA NA-BU-CÔ-ĐÔ-NÔ-XO CHIÊM BAO: PHO TƯỢNG KỲ QUÁI

Nhà vua hỏi các thầy pháp sư

2.  1 Năm thứ hai triều vua Na-bu-cô-đô-nô-xo, vua đã thấy chiêm bao khiến vua bối rối trong tâm hồn, không sao ngủ được.2 Vua cho vời tất cả những thầy phù thuỷ, pháp sư, đồng bóng và chiêm tinh đến nói cho vua biết vua đã thấy gì trong giấc chiêm bao. Họ vào chầu vua.3 Vua nói với họ: “Ta đã thấy chiêm bao, và tâm hồn ta bối rối vì muốn biết mình đã thấy gì trong giấc chiêm bao.”4 Và những nhà chiêm tinh ấy tâu vua bằng tiếng A-ram: “Thánh thượng vạn tuế. Xin thánh thượng kể cho các tôi tớ ngài giấc chiêm bao và bầy tôi sẽ giải nghĩa.”5 Nhà vua trả lời họ rằng: “Các ngươi phải hiểu rõ lệnh ta. Nếu các ngươi không nói được cho ta biết ta đã thấy gì trong giấc chiêm bao và không giải nghĩa được cho ta, thì các ngươi sẽ bị xử lăng trì và nhà các ngươi sẽ trở thành đống bùn.6 Còn nếu các ngươi cho ta biết ta đã thấy gì trong giấc chiêm bao và giải nghĩa được cho ta, thì các ngươi sẽ được ta ban quà, ban tặng vật và chức trọng quyền cao. Vậy các ngươi hãy nói cho ta biết ta đã thấy gì trong giấc chiêm bao và ý nghĩa của nó là thế nào.”7 Họ lại đáp rằng: “Xin đức vua kể giấc chiêm bao cho các tôi tớ nghe, rồi chúng thần sẽ trình bày ý nghĩa giấc chiêm bao.”8 Nhà vua đáp lại rằng: “Ta biết chắc chắn các ngươi đang tìm cách kéo dài thời gian vì biết lệnh ta đã ra là9 nếu các ngươi không cho ta biết được giấc chiêm bao thì tất cả các ngươi sẽ chịu chung một án lệnh, nên các ngươi đã đem lời dối trá quanh co mà tâu trước mặt ta cho qua thời giờ. Vậy các ngươi hãy nói cho ta nghe giấc chiêm bao và như thế ta sẽ biết các ngươi có thể giải nghĩa cho ta được.”10 Những nhà chiêm tinh đáp lời vua và tâu rằng: “Không có người nào trên mặt đất này có thể tỏ bày chuyện của nhà vua, bởi vì không có vị vua nào, dù cao cả quyền uy mấy đi nữa, lại đem một chuyện như thế ra hỏi nhà phù thuỷ, pháp sư và nhà chiêm tinh.11 Chuyện vua hỏi đó là chuyện khó khăn và không ai có thể trình bày trước mặt vua ngoài các bậc thần linh, mà các bậc ấy thì không ở chung với người phàm.”12 Nghe thế, nhà vua nổi cơn lôi đình và truyền tiêu diệt tất cả các người thông thái ở Ba-by-lon.13 Thế là lệnh được ban ra truyền giết các nhà thông thái. Và người ta tìm Đa-ni-en với các bạn để đem đi giết.

Ông Đa-ni-en can thiệp

14 Bấy giờ ông Đa-ni-en đem lời khôn khéo nói với quan A-ri-ốc là người chỉ huy đám thị vệ đang trên đường đi giết các nhà thông thái của Ba-by-lon.15 Ông Đa-ni-en thưa với viên sĩ quan của nhà vua là A-ri-ốc rằng: “Tại sao vua lại ra lệnh vội vã thế? ” Bấy giờ quan A-ri-ốc nói cho ông Đa-ni-en biết sự việc.16 Ông Đa-ni-en liền vào xin vua cho triển hạn để ông tìm ra lời giải thích cho vua.17 Rồi ông Đa-ni-en về nhà kể cho các bạn là Kha-na-ni-a, Mi-sa-ên và A-da-ri-a biết sự việc,18 và bảo họ kêu xin Đức Chúa Trời dủ lòng thương cho biết điều bí nhiệm này, để Đa-ni-en và các bạn khỏi bị tiêu diệt cùng với các nhà thông thái của Ba-by-lon.19 Bấy giờ ông Đa-ni-en được mặc khải điều bí nhiệm ấy trong giấc chiêm bao ban đêm. Ông Đa-ni-en liền chúc tụng Đức Chúa Trời 20 bằng những lời sau đây:

“Chúc tụng danh Chúa muôn muôn đời,
vì Người là Đấng khôn ngoan và quyền năng.

21 Người là Đấng làm cho tứ thời bát tiết chuyển vần,
Người phế lập các vua,
Người ban sự khôn ngoan cho các nhà thông thái,
ban tri thức cho người hiểu rộng biết nhiều.

22 Người mặc khải điều thẳm sâu và bí ẩn:
Người biết những gì ở trong cõi tối tăm,
và ánh sáng ở với Người.

23 Lạy Ngài là Chúa của tổ tiên chúng con,
con cảm tạ và ngợi khen Ngài,
vì Ngài đã cho con sự khôn ngoan và sức mạnh.
Và giờ đây, Ngài đã cho con biết điều chúng con xin Ngài:
vì Ngài đã cho con biết chuyện của nhà vua.”

24 Thế rồi ông Đa-ni-en vào gặp quan A-ri-ốc là người đã nhận lệnh vua để tiêu diệt các nhà thông thái của Ba-by-lon. Ông Đa-ni-en đến và nói với ông ta thế này: “Đừng tiêu diệt các nhà thông thái của Ba-by-lon. Hãy đưa tôi vào bệ kiến nhà vua và tôi sẽ trình bày cho vua lời giải thích.”25 Bấy giờ quan A-ri-ốc vội vã đưa ông Đa-ni-en vào chầu vua và tâu vua thế này: “Trong số con cái Giu-đa bị lưu đày, thần đã tìm thấy một người để trình bày cho bệ hạ lời giải mộng.”26 Nhà vua đáp và nói với ông Đa-ni-en, cũng gọi là Bên-tơ-sát-xa: “Liệu ngươi có thể cho ta biết giấc chiêm bao ta đã thấy và ý nghĩa giấc chiêm bao ấy không? “27 Ông Đa-ni-en đáp lời vua và nói: “Điều bí nhiệm mà đức vua hỏi thì các nhà thông thái, các pháp sư, các thầy phù thủy và các thầy bói không thể nào trình bày cho đức vua được.28 Nhưng có Đức Chúa Trời là Đấng mặc khải những điều bí nhiệm, chính Người cho đức vua Na-bu-cô-đô-nô-xo biết điều gì sẽ xảy ra sau này. Đang khi nằm trên giường, ngài đã chiêm bao và thấy trong đầu như thế này:

29 Tâu đức vua, khi nằm trên giường, ngài đã để trí suy nghĩ về những gì sẽ xảy ra sau này; và Đấng mặc khải các điều bí nhiệm đã cho ngài biết điều gì sẽ xảy ra.30 Còn thần đây, dù chẳng thông thái hơn ai, nhưng điều bí nhiệm này đã được mặc khải cho thần, để thần trình bày cho đức vua lời giải nghĩa, ngõ hầu đức vua biết những ý nghĩ trong lòng đức vua.

31 Tâu bệ hạ, ngài đã có một giấc chiêm bao. Giấc chiêm bao ấy như thế này: một pho tượng, một pho tượng lớn, sáng chói, đứng sừng sững trước mặt ngài, coi thật dễ sợ.32 Đầu pho tượng ấy bằng vàng ròng, ngực và hai cánh tay bằng bạc, bụng và hai bắp đùi bằng đồng,33 hai bắp chân bằng sắt, hai bàn chân nửa sắt nửa sành.34 Ngài đang mải nhìn thì bỗng có một tảng đá tách ra, dù không có bàn tay nào đụng tới, nó đập vào pho tượng trúng hai chân nửa sắt nửa sành, khiến hai bàn chân vỡ tan ra.35 Bấy giờ tất cả cùng vỡ tan: cả sắt, sành, đồng, bạc lẫn vàng, giống như rơm rác trên sân phơi lúa mùa hè bị gió cuốn đi không để lại dấu vết gì. Còn tảng đá làm vỡ pho tượng thì trở thành một hòn núi lớn choán hết mặt đất.36 Đó là giấc chiêm bao, còn ý nghĩa của nó thì xin tâu trước bệ hạ.37 Tâu bệ hạ, ngài là vua các vua, Đức Chúa Trời đã ban cho ngài vương quốc, quyền hành, thế lực và vinh quang.38 Con cái loài người, thú vật ngoài đồng, chim chóc trên trời, dù chúng ở đâu thì Đức Chúa Trời cũng giao vào tay ngài và đặt ngài làm chủ tể mọi loài. Cái đầu bằng vàng chính là ngài vậy.39 Sau triều đại ngài, sẽ xuất hiện một vương quốc khác kém hơn ngài. Rồi một vương quốc thứ ba nữa, vương quốc bằng đồng, sẽ thống trị cả mặt đất.40 Còn vương quốc thứ tư vững như sắt. Cũng như sắt nghiền nát và đập tan tất cả vương quốc đó – khác nào sắt phá vỡ – cũng sẽ nghiền nát và phá vỡ tất cả.41 Bàn chân và các ngón chân mà ngài thấy nửa bằng đất sét, nửa bằng sắt là một vương quốc sẽ bị phân chia, nhưng sẽ có một phần sức mạnh của sắt, vì ngài thấy sắt pha lẫn với đất sét.42 Các ngón chân phần bằng sắt, phần bằng đất sét là một vương quốc nửa mạnh nửa yếu.43 Việc ngài thấy sắt pha với đất sét nghĩa là các vương quốc sẽ làm cho các chủng tộc pha lẫn với nhau, nhưng không gắn bó với nhau được, cũng như sắt không hoà lẫn được với đất sét.44 Trong thời đại các vua này, Đức Chúa Trời sẽ lập một vương quốc không bao giờ bị tiêu diệt, vương quốc ấy không bị giao cho một dân khác, nhưng nó sẽ đập tan và tiêu diệt tất cả mọi vương quốc này, đến muôn đời nó sẽ đứng vững;45 cũng như ngài đã thấy tảng đá bị tách khỏi núi dù không có bàn tay nào đụng tới, tảng đá ấy đập tan cả sắt, đồng, đất sét, bạc và vàng. Thiên Chúa cao cả đã cho đức vua biết chuyện gì sẽ xảy ra sau này. Giấc chiêm bao đúng là như thế và ý nghĩa chắc chắn là như vậy.”

Vua tuyên xưng lòng tin

46 Bấy giờ vua Na-bu-cô-đô-nô-xo sấp mình phủ phục trước mặt ông Đa-ni-en rồi truyền dâng lễ phẩm và hương thơm cho ông.47 Vua đáp lời ông Đa-ni-en và nói: “Thiên Chúa của ngươi quả là Thần các thần, là Chúa Tể các vua, và là Đấng mặc khải những điều bí ẩn; nhờ thế ngươi mới có thể tỏ lộ điều bí ẩn này.”48 Vua liền đặt ông Đa-ni-en lên chức cao và ban cho ông nhiều món quà lớn. Vua đặt ông làm người cai quản toàn tỉnh Ba-by-lon và làm người đứng đầu các nhà thông thái của Ba-by-lon.49 Ông Đa-ni-en xin nhà vua đặt các ông Sát-rác, Mê-sác và A-vết Nơ-gô lên trông coi tỉnh Ba-by-lon. Còn ông Đa-ni-en thì túc trực trong đền vua.

3. THỜ LẠY TƯỢNG VÀNG

Vua Na-bu-cô-đô-nô-xo dựng tượng vàng

3.  1 Vua Na-bu-cô-đô-nô-xo làm một pho tượng bằng vàng cao sáu mươi thước, ngang sáu thước, dựng trong cánh đồng Đu-ra thuộc tỉnh Ba-by-lon.2 Rồi vua Na-bu-cô-đô-nô-xo sai người triệu tập các thống đốc, thủ lãnh, tổng trấn, các cố vấn, các quan coi ngân khố, các luật sĩ, thẩm phán và tất cả các quan chức hàng tỉnh đến khánh thành pho tượng vua Na-bu-cô-đô-nô-xo đã dựng.3 Bấy giờ các thống đốc, thủ lãnh, tổng trấn, các cố vấn, các quan coi ngân khố, các luật sĩ, thẩm phán và tất cả các quan chức hàng tỉnh tập họp để khánh thành pho tượng vua Na-bu-cô-đô-nô-xo đã dựng, và họ đứng trước pho tượng vua Na-bu-cô-đô-nô-xo đã dựng.4 Người đọc lệnh hô to: “Lệnh cho các ngươi, hỡi mọi người thuộc mọi dân tộc, giống nòi và ngôn ngữ:5 Khi nghe tiếng tù và, tiếng sáo, tiếng đàn giây, đàn sắt, đàn cầm, tiếng kèn và đủ thứ nhạc cụ, các ngươi phải sấp mình thờ lạy pho tượng vàng vua Na-bu-cô-đô-nô-xo đã dựng.6 Kẻ nào không sấp mình thờ lạy thì tức khắc sẽ bị ném vào đống lửa đang cháy phừng phực.”7 Bởi vậy, khi các dân tộc vừa nghe tiếng tù và, tiếng sáo, tiếng đàn giây, đàn sắt, đàn cầm, tiếng kèn và đủ thứ nhạc cụ, thì mọi người thuộc mọi dân tộc, giống nòi và ngôn ngữ đều sấp mình thờ lạy pho tượng vàng vua Na-bu-cô-đô-nô-xo đã dựng.

Người Do-thái bị tố cáo và kết án

8 Bấy giờ có những người Can-đê đến tố cáo người Do-thái.9 Họ tâu vua Na-bu-cô-đô-nô-xo: “Đức vua vạn tuế!10 Chính đức vua đã truyền rằng khi nghe tiếng tù và, tiếng sáo, tiếng đàn giây, đàn sắt, đàn cầm, tiếng kèn và đủ thứ nhạc cụ, mọi người phải sấp mình thờ lạy pho tượng vàng,11 và kẻ nào không sấp mình thờ lạy sẽ bị ném vào đống lửa đang cháy phừng phực.12 Vậy mà có mấy người Do-thái đức vua đã đặt lên trông coi tỉnh Ba-by-lon là Sát-rác, Mê-sác và A-vết Nơ-gô, tâu đức vua, mấy người này đã không để tâm đến ngài, chúng không phụng sự các thần của ngài, cũng không thờ lạy pho tượng vàng ngài đã dựng.”13 Bấy giờ vua Na-bu-cô-đô-nô-xo thịnh nộ truyền điệu Sát-rác, Mê-sác và A-vết Nơ-gô tới. Họ liền điệu những người này ra trước mặt vua.14 Vua Na-bu-cô-đô-nô-xo cất tiếng nói với họ: “Này Sát-rác, Mê-sác và A-vết Nơ-gô, các ngươi không phụng sự các thần của ta và không thờ lạy pho tượng vàng ta đã dựng nên, có đúng như vậy không?15 Bây giờ khi nghe tiếng tù và, tiếng sáo, tiếng đàn giây, đàn sắt, đàn cầm, tiếng kèn và đủ thứ nhạc cụ, các ngươi có sẵn sàng sấp mình thờ lạy pho tượng ta đã làm không? Nếu các ngươi không thờ lạy thì tức khắc các ngươi sẽ bị ném vào lò lửa đang cháy phừng phực, liệu có Thiên Chúa nào cứu được các ngươi khỏi tay ta chăng? “16 Sát-rác, Mê-sác và A-vết Nơ-gô trả lời vua Na-bu-cô-đô-nô-xo rằng: “Chúng tôi không cần trả lời ngài về chuyện này.17 Nếu Thiên Chúa chúng tôi thờ có sức cứu chúng tôi thì tâu đức vua, Người sẽ cứu chúng tôi khỏi lò lửa đang cháy phừng phực và khỏi tay ngài.18 Còn nếu Người không cứu, thì xin đức vua biết cho rằng chúng tôi cũng không phụng sự các thần của ngài, và cũng không thờ lạy pho tượng vàng ngài đã dựng đâu! “19 Bấy giờ vua Na-bu-cô-đô-nô-xo đổi sắt mặt, nổi cơn lôi đình với Sát-rác, Mê-sác và A-vết Nơ-gô. Vua lên tiếng truyền đốt lò lửa mạnh hơn mọi khi gấp bảy lần.20 Rồi vua ra lệnh cho những người lực lưỡng nhất trong quân đội của vua trói Sát-rác, Mê-sác và A-vết Nơ-gô và quăng họ vào lò lửa đang cháy phừng phực.21 Bấy giờ những người này bị trói lại, vẫn mặc nguyên cả áo ngoài, áo trong, mũ nón, giày dép và bị quăng vào lò lửa đang cháy phừng phực.22 Lệnh vua thúc bách, lửa bốc quá cao nên ngọn lửa giết chết chính những người đem Sát-rác, Mê-sác và A-vết Nơ-gô lên miệng lò.23 Còn ba người ấy là Sát-rác, Mê-sác và A-vết Nơ-gô rơi xuống lò lửa đang cháy phừng phực, mình vẫn bị trói.

Thánh ca của A-da-ri-a trong lò lửa

(24) Rồi giữa ngọn lửa, họ vừa đi lại, vừa ngợi khen chúc tụng Thiên Chúa.
(25) A-da-ri-a đứng giữa đám lửa và cất tiếng cầu nguyện rằng :
(26) Lạy Chúa là Thiên Chúa tổ tiên chúng con, xin chúc tụng và ca ngợi Chúa, cùng tôn vinh Danh Thánh mãi muôn đời,
(27) vì trong hết mọi việc Chúa làm cho chúng con, Chúa đã xử công minh chính trực. Mọi việc Chúa làm đều đáng cậy tin, đường lối Chúa quả là ngay thẳng, mọi phán quyết của Ngài thật công minh.
(28) Ngài đã tuyên án theo công lý, qua mọi điều Ngài bắt chúng con phải chịu, chúng con cũng như Giê-ru-sa-lem là thành thánh của cha ông chúng con. Phải, Chúa đã phán quyết thật công minh khi bắt chúng con phải chịu mọi điều ấy, bởi vì chúng con đã phạm tội.
(29) Quả chúng con đã phạm tội, đã làm điều gian ác khi dám lìa xa Ngài. Trong mọi sự, chúng con đã nặng nề sai lỗi, đã chẳng tuân theo mệnh lệnh Ngài.
(30) Chúng con đã bất tuân, đã không hành động theo lệnh Ngài truyền, nên không được hưởng nhờ ơn phúc.
(31) Phải, mọi sự Ngài đã bắt chúng con phải chịu, mọi sự Ngài đã làm cho chúng con, Ngài đã làm tất cả thật chính trực công minh.
(32) Ngài đã nộp chúng con vào tay bọn địch thù gian ác là những kẻ ngoại giáo ác ôn. Ngài đã nộp chúng con cho một vua bất chính xấu xa nhất trên đời.
(33) Bây giờ, chúng con đâu còn dám mở miệng, vì phải cùng chịu nhục nhằn xấu hổ với những ai phục vụ và phụng thờ Ngài.
(34) Ôi ! Vì danh thánh Chúa, xin đừng mãi mãi bỏ rơi chúng con, đừng huỷ bỏ giao ước của Ngài !
(35) Vì tình nghĩa với bạn thân Ngài là Áp-ra-ham, với tôi tớ Ngài là I-xa-ác, và kẻ Ngài thánh hoá là Ít-ra-en, xin Ngài đừng rút lại lòng thương xót đã dành cho chúng con.
(36) Ngài đã hứa làm cho dòng dõi họ đông đảo như sao trên bầu trời, như cát ngoài bãi biển.
(37) Thế mà hôm nay, lạy Chúa, vì tội lỗi chúng con, chúng con đã thành dân nhỏ nhất, đã nếm mùi ô nhục trên khắp hoàn cầu.
(38) Ngày nay chẳng còn vị thủ lãnh, chẳng còn bậc ngôn sứ, chẳng còn người chỉ huy. Lễ toàn thiêu, lễ hy sinh đã hết, lễ tiến, lễ hương cũng chẳng còn, chẳng còn nơi dâng của đầu mùa lên Chúa để chúng con được Chúa xót thương.
(39) Nhưng xin nhận tâm hồn thống hối và tinh thần khiêm nhượng của chúng con, thay của lễ toàn thiêu chiên bò, và ngàn vạn cừu non béo tốt.
(40) Ước gì hy lễ chúng con thượng tiến Ngài hôm nay cũng làm đẹp ý Ngài như vậy. Ước gì chúng con theo Ngài mãi đến cùng, vì những ai tin cậy vào Ngài, đâu có phải ê chề thất vọng.
(41) Và giờ đây, chúng con hết lòng đi theo Chúa, kính sợ Ngài và tìm kiếm Thánh Nhan. Xin đừng để chúng con phải thẹn thùng xấu hổ.
(42) Nhưng xin Ngài tỏ lòng nhân hậu và lòng thương xót vô biên của Ngài khi Ngài đối xử với chúng con.
(43) Xin làm những việc lạ lùng kỳ diệu mà giải thoát chúng con và tôn vinh danh Ngài, lạy Chúa.
(44) Ước gì những kẻ gây tai hoạ cho các tôi tớ Ngài phải bẽ mặt hổ ngươi. Ước gì chúng phải xấu hổ thẹn thùng, mất hết mọi uy thế và quyền thống trị, và ước gì sức mạnh của chúng bị đập tan.
(45) Ước gì chúng nhận biết Ngài chính là Chúa Tể, là Thiên Chúa duy nhất quang vinh trên khắp cõi trần gian.
(46) Sau khi quăng ba thanh niên vào lò, các thuộc hạ của vua không ngừng đốt lò bằng dầu, nhựa, xơ gai và cành nho.
(47) Ngọn lửa bốc lên trên lò hai mươi bốn thước rưỡi,
(48) rồi lan ra, đốt cháy những người Can-đê đứng xung quanh lò.
(49) Nhưng thiên sứ của ĐỨC CHÚA trước đây đã xuống trong lò cùng lúc với A-da-ri-a và các bạn, nay đẩy ngọn lửa ra khỏi lò.
(50) Thiên sứ làm cho trung tâm lò thành nơi mát mẻ như có một làn gió nhẹ rì rào, khiến cho lửa không hề đụng tới họ và chẳng gây phiền hà đau đớn gì cho họ cả.

Thánh ca của ba thanh niên trong lò lửa

(51) Bấy giờ trong lò lửa, cả ba người đều đồng thanh ca ngợi, tôn vinh và chúc tụng Thiên Chúa rằng :
(52) “Lạy Chúa, chúc tụng Ngài là Thiên Chúa tổ tiên chúng con, xin dâng lời khen ngợi suy tôn muôn đời. Chúc tụng danh thánh Ngài vinh hiển, xin dâng lời khen ngợi suy tôn muôn đời.
(53) Chúc tụng Chúa trong thánh điện vinh quang, xin dâng lời ca tụng tôn vinh muôn đời.
(54) Chúc tụng Chúa trên ngôi báu cửu trùng, xin dâng lời ca tụng suy tôn muôn đời.
(55) Chúc tụng Chúa, Đấng ngự trên các thần hộ giá mà thấu nhìn vực thẳm, xin dâng lời khen ngợi suy tôn muôn đời.
(56) Chúc tụng Chúa trên vòm trời tận chốn cao xanh, xin dâng lời ca tụng tôn vinh muôn đời.
(57) Chúc tụng Chúa đi, mọi công trình của Chúa, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn.
(58) Chúc tụng Chúa đi, các thiên sứ của Người, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn.
(59) Chúc tụng Chúa đi, chín tầng trời thăm thẳm, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn.
(60) Chúc tụng Chúa đi, nguồn nước tận cao xanh, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn.
(61) Chúc tụng Chúa đi, mọi cơ binh thượng giới, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn.
(62) Chúc tụng Chúa đi, mặt trời với mặt trăng, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn.
(63) Chúc tụng Chúa đi, hỡi tinh tú trên trời, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn.
(64) Chúc tụng Chúa đi, nào mưa sương tất cả, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn.
(65) Chúc tụng Chúa đi, mọi luồng gió cơn dông, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn.
(66) Chúc tụng Chúa đi, sức nóng với lửa hồng, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn.
(67) Chúc tụng Chúa đi, trời nồng và khí lạnh, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn.
(68) Chúc tụng Chúa đi, nào sương đọng mưa tuôn, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn.
(69) Chúc tụng Chúa đi, kìa thời đông tiết giá, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn.
(70) Chúc tụng Chúa đi, này băng phủ tuyết rơi, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn.
(71) Chúc tụng Chúa đi, hỡi đêm ngày đắp đổi, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn.
(72) Chúc tụng Chúa đi, ánh sáng và bóng tối, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn.
(73) Chúc tụng Chúa đi, chớp giật với mây trôi, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn.
(74) Chúc tụng Chúa đi, tất cả mười phương đất, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn.
(75) Chúc tụng Chúa đi, này đồi xanh núi biếc, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn.
(76) Chúc tụng Chúa đi, kìa hoa lá cỏ cây, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn.
(77) Chúc tụng Chúa đi, hỡi suối nước tràn đầy, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn.
(78) Chúc tụng Chúa đi, nào sông sâu biển cả, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn.
(79) Chúc tụng Chúa đi, kình ngư cùng thủy tộc, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn.
(80) Chúc tụng Chúa đi, hết mọi loài chim chóc, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn.
(81) Chúc tụng Chúa đi, gia súc lẫn thú rừng, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn.
(82) Chúc tụng Chúa đi, hỡi phàm nhân dương thế, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn.
(83) Chúc tụng Chúa đi, dòng dõi Ít-ra-en, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn.
(84) Chúc tụng Chúa đi, tư tế phụng thờ Chúa, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn.
(85) Chúc tụng Chúa đi, tôi tớ phục vụ Người, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn.
(86) Chúc tụng Chúa đi, hồn thiêng hàng công chính, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn.
(87) Chúc tụng Chúa đi, người thánh kẻ khiêm nhường, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn.
(88) Chúc tụng Chúa đi, này Kha-na-ni-a, A-da-ri-a và Mi-sa-ên hỡi, muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn. Vì Người đã kéo ta ra khỏi âm phủ, đã cứu ta khỏi tay tử thần, và đã giải thoát ta khỏi lò lửa nóng bừng, khỏi lửa hồng đốt cháy.
(89) Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.
(90) Hỡi tất cả những ai kính sợ Chúa, hãy chúc tụng Chúa là Thần các thần, hãy dâng lời tạ ơn và ca tụng, vì muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.”

Vua nhìn nhận phép lạ

24 Vua Na-bu-cô-đô-nô-xo ngạc nhiên đứng bật dậy và cất tiếng nói với các quan cố vấn: “Chẳng phải chúng ta đã quăng ba người bị trói vào lửa sao? ” Họ đáp rằng: “Tâu đức vua, đúng thế! “25 Vua cất tiếng nói: “Nhưng ta thấy có bốn người đang tự do đi lại trong lò lửa mà không hề hấn gì, và dáng vẻ người thứ tư giống như con của thần minh.”26 Bấy giờ vua Na-bu-cô-đô-nô-xo tới gần cửa lò đang cháy phừng phực, vua lên tiếng nói: “Hỡi Sát-rác, Mê-sác và A-vết Nơ-gô là tôi tớ của Thiên Chúa Tối Cao, hãy bước ra và tới đây.” Sát-rác, Mê-sác và A-vết Nơ-gô liền bước ra khỏi lò lửa.27 Các thống đốc, thủ lãnh, tổng trấn và các cận thần của nhà vua xúm lại xem những người này, thấy lửa không làm gì được thân thể họ, sợi tóc trên đầu họ cũng không bị cháy sém, áo xống không hư hại, thậm chí mùi lửa cũng không bám vào họ.28 Vua Na-bu-cô-đô-nô-xo cất tiếng nói: “Chúc tụng Thiên Chúa của Sát-rác, Mê-sác và A-vết Nơ-gô, Người đã sai thiên sứ đến giải thoát các tôi tớ của Người là những kẻ đã tin tưởng vào Người. Họ đã cưỡng lại lời vua, hy sinh tính mạng để khỏi phụng sự và thờ lạy một thần nào khác ngoài Thiên Chúa của họ.29 Vậy ta truyền rằng bất cứ người nào thuộc bất cứ dân tộc, giống nòi, ngôn ngữ nào dám nói điều gì sai quấy, phạm đến Thiên Chúa của Sát-rác, Mê-sác và A-vết Nơ-gô, sẽ bị xử lăng trì, và nhà chúng sẽ trở thành đống bùn, bởi vì không có thần nào khác có thể cứu được như thế.”30 Rồi vua thăng chức cho Sát-rác, Mê-sác và A-vết Nơ-gô trong tỉnh Ba-by-lon.

4. ĐIỀM BÁO MỘNG VÀ CƠN ĐIÊN CỦA VUA NA-BU-CÔ-ĐÔ-NÔ-XO

31 Vua Na-bu-cô-đô-nô-xo gửi cho những người thuộc mọi dân tộc, mọi giống nòi, mọi ngôn ngữ, đang sống trên khắp mặt đất: Chúc các ngươi vạn sự bình an!32 Những điềm thiêng dấu lạ mà Thiên Chúa Tối Cao đã làm cho ta, thì nay ta thấy nên công bố:

33 Những điềm thiêng dấu lạ của Người thật lớn lao!
Những dấu lạ của Người thật kỳ diệu!
Vương quốc của Người là vương quốc vĩnh cửu!
Quyền thống trị của Người bền vững muôn đời!

Vua Na-bu-cô-đô-nô-xo kể lại giấc chiêm bao

4.  1 Ta là Na-bu-cô-đô-nô-xo, đang lúc hưởng bình an dưới mái nhà, và thịnh vượng trong cung điện,2 thì ta đã có một giấc chiêm bao khiến ta phải kinh hoàng; những nỗi lo âu trên giường nằm và những thị kiến trong đầu làm ta khiếp sợ.3 Và ta đã truyền lệnh phải đưa tất cả các nhà thông thái của Ba-by-lon đến trước mặt ta, để họ cho ta biết ý nghĩa của giấc chiêm bao.4 Bấy giờ tất cả các thầy phù thuỷ, pháp sư, những nhà chiêm tinh và các thầy bói vào chầu. Ta đã kể cho họ nghe giấc chiêm bao của ta, nhưng họ không thể cho ta biết được ý nghĩa của giấc chiêm bao ấy.5 Sau hết có Đa-ni-en vào chầu, người này mang tên vị thần của ta là Bên-tơ-sát-xa, và cũng là người có thần khí của Thiên Chúa ở nơi mình. Ta đã kể cho người ấy giấc chiêm bao của ta:

6 “Hỡi Bên-tơ-sát-xa là người đứng đầu các thầy phù thuỷ, ta biết rằng có thần khí của các bậc thần thánh ở nơi ngươi, và không có điều bí ẩn nào làm cho ngươi phải lúng túng. Đây là những điều ta đã thấy trong chiêm bao. Hãy giải nghĩa cho ta.

7 “Nằm trên giường, ta đã thấy trong đầu ta như thế này:
“Ta đang nhìn,
bỗng thấy một cây ở giữa mặt đất, một cây cao lắm.

8 Cây ấy lớn lên và vững mạnh, ngọn cây chạm tới trời,
và ở tận cùng mặt đất cũng thấy được.

9 Lá đẹp, trái nhiều, nó cung cấp thức ăn cho mọi loài.
Thú vật ngoài đồng tìm bóng mát dưới gốc,
chim trời trú ngụ trên cành.
Mọi loài có xương thịt đều lấy nó làm thức ăn.

10 Nằm trên giường, ta đang nhìn xem thị kiến trong đầu,
bỗng có một vị Canh thức, một vị thánh từ trời xuống.

11 Vị ấy kêu lớn tiếng và nói thế này:
“Đốn cây xuống, chặt cành đi, giũ cho trụi lá, quăng trái nó đi;
thú vật hãy rời xa bóng nó, và chim trời hãy lìa bỏ cành nó.

12 Nhưng gốc rễ nó, hãy để lại dưới đất,
lấy đai sắt, đai đồng mà xiềng giữa cỏ xanh đồng nội.
Nó phải chịu dầm sương và ăn cỏ chung với thú vật ngoài đồng.

13 Hãy lấy đi quả tim con người của nó,
và thay vào đó một quả tim thú vật,
cứ để nó như vậy suốt bảy thời.

14 Án phạt này là do lệnh của các vị Canh thức,
quyết định này là do lời của các bậc thánh nhân,
cốt cho mọi sinh linh biết rằng:
Đấng Tối Cao cai trị vương quốc loài người
và trao vương quốc ấy cho kẻ nào Người muốn.
Người đặt kẻ hèn mọn nhất lên cầm đầu.

15 Ta, Na-bu-cô-đô-nô-xo, ta đã thấy giấc chiêm bao ấy. Còn ngươi, hỡi Bên-tơ-sát-xa, hãy công bố lời giải mộng, vì tất cả các nhà thông thái trong nước không giải được cho ta. Nhưng ngươi giải được, vì thần khí của các bậc thần linh ở nơi ngươi! “

Ông Đa-ni-en giải mộng

16 Bấy giờ ông Đa-ni-en, cũng gọi là Bên-tơ-sát-xa, lặng người đi một lúc, tâm trí ông bàng hoàng. Nhà vua lên tiếng nói: “Hỡi Bên-tơ-sát-xa, đừng để giấc chiêm bao và lời giải mộng làm ngươi bàng hoàng.” Bên-tơ-sát-xa đáp: “Tâu chúa thượng, mong cho giấc chiêm bao ấy là của những kẻ ghét ngài, và lời giải mộng dành cho kẻ thù của ngài.17 Cây ngài đã thấy lớn lên và vững mạnh, ngọn chạm tới trời, và cả mặt đất đều thấy được,18 lá đẹp, trái nhiều, cung cấp thức ăn cho mọi loài, thú đồng núp dưới bóng, và chim trời đậu trên cành,19 tâu đức vua, cây ấy chính là ngài. Ngài đã lớn lên và vững mạnh: sự cao cả của ngài chạm tới trời và quyền thống trị của ngài trải rộng đến tận cùng cõi đất.

20 “Sau đó ngài đã thấy một vị Canh thức, cũng là một vị thánh từ trời xuống, nói rằng: “Đốn cây xuống, huỷ nó đi, nhưng gốc rễ nó thì để lại dưới đất, lấy đai sắt đai đồng mà xiềng giữa cỏ xanh đồng nội; nó phải chịu dầm sương và ăn cỏ chung với thú vật ngoài đồng. Nó phải chịu như vậy bảy thời.”21 Tâu đức vua, đây là lời giải mộng và cũng là lệnh Đấng Tối Cao ban xuống cho ngài, chúa công của thần.

22 “Ngài sẽ bị đuổi, không được chung sống với người ta,
nhưng phải sống chung với thú vật ngoài đồng,
phải ăn cỏ như bò, và dầm sương suốt bảy năm ròng rã,
cho tới lúc ngài chịu nhận ra
rằng Đấng Tối Cao cai trị vương quốc loài người,
và Người trao cho kẻ nào Người muốn.

23 “Còn lệnh phải để gốc rễ lại có nghĩa như sau: Vương quốc của ngài sẽ vẫn là của ngài, sau khi ngài chịu công nhận quyền cai trị của Trời.24 Vì thế, tâu đức vua, xin vui lòng nghe theo lời thần đề nghị mà đái tội lập công, bằng cách làm việc nghĩa, là tỏ lòng từ bi đối với người nghèo, may ra thời thịnh vượng của ngài sẽ được kéo dài thêm chăng.”

Giấc mơ thành hiện thực

25 Tất cả những điều trên đây đã xảy ra cho vua Na-bu-cô-đô-nô-xo đúng như vậy.26 Mười hai tháng trôi qua, nhân lúc đi dạo trên sân thượng hoàng cung ở Ba-by-lon,27 nhà vua lên tiếng nói: “Đây chẳng phải là Ba-by-lon vĩ đại, thành ta đã dùng quyền lực lớn lao mà xây dựng làm hoàng cung, để ta được vinh quang rạng rỡ đó sao?”28 Vua còn đang nói thì có tiếng từ trời vọng xuống:

“Nghe đây, hỡi vua Na-bu-cô-đô-nô-xo:
Vương quyền ngươi nắm giữ đã vuột khỏi tay ngươi,

29 ngươi sẽ bị đuổi, không được chung sống với người ta,
nhưng phải sống chung với thú vật ngoài đồng,
phải ăn cỏ như bò.
Ngươi phải chịu như thế suốt bảy thời ròng rã,
cho tới lúc ngươi chịu nhận ra
rằng Đấng Tối Cao cai trị vương quốc loài người,
và Người trao cho kẻ nào Người muốn.”

30 Ngay lúc đó, những lời trên đây liên quan đến vua Na-bu-cô-đô-nô-xo đã nên ứng nghiệm. Ông bị đuổi, không được chung sống với người ta, phải ăn cỏ như bò, mình mẩy ướt đẫm sương trời, và rồi tóc tai dài dần ra như lông đại bàng, móng tay móng chân như thể móng chim.

31 “Khi mãn hạn, ta là Na-bu-cô-đô-nô-xo, ta ngước mắt lên trời; cùng lúc, ta tỉnh trí lại và chúc tụng Đấng Tối Cao. Ta ca ngợi, tôn vinh Đấng Hằng Sống:
Người nắm quyền thống trị muôn đời,
vương quốc của Người tồn tại thiên thu.

32 Trước nhan Người, dân cư trên mặt đất đều bị kể như không.
Theo ý muốn của Người,
Người điều khiển cả đạo binh trên trời, lẫn cư dân dưới đất.
Chẳng có ai cản được tay Người,
và dám hỏi rằng: Ngài làm gì thế? “

33 Cùng lúc ấy, ta tỉnh trí lại. Ta tìm lại được vinh quang huy hoàng thuở trước, nhờ đó, vương quốc của ta cũng sẽ vẻ vang rạng rỡ. Các cố vấn và đại thần đến thăm viếng ta. Ta phục hồi được quyền bính trên vương quốc, nhờ vậy, uy thế vốn lớn lao của ta càng gia tăng gấp bội.34 Giờ đây, ta, Na-bu-cô-đô-nô-xo,
ta ca ngợi, tán dương và tôn vinh Vua Trời,
vì mọi việc Người làm đều chân thật,
đường lối của Người vốn công minh.
Người có quyền hạ bệ kẻ quen thói kiêu căng hống hách.”

5. BỮA TIỆC CỦA VUA BÊN-SÁT-XA

5.  1 Vua Bên-sát-xa mở tiệc lớn khoản đãi một ngàn đại thần. Trước mặt những người này, vua uống rượu.2 Khi đã thấm hơi men, vua truyền mang ly mang chén bằng vàng bằng bạc mà vua cha là Na-bu-cô-đô-nô-xo đã lấy ở đền thờ Giê-ru-sa-lem. Vua Bên-sát-xa định dùng những ly chén này để uống rượu cùng với các đại thần, cung phi và cung nữ.3 Bấy giờ người ta mang ly chén bằng vàng đã lấy từ cung thánh Đền Thờ Thiên Chúa ở Giê-ru-sa-lem; vua và các đại thần, cung phi và cung nữ đều dùng mà uống.4 Họ vừa uống rượu vừa ca ngợi các thần bằng vàng, bạc, đồng, sắt, gỗ và đá.5 Ngay lúc ấy, những ngón tay người xuất hiện, viết lên vách tường quét vôi của hoàng cung ở phía sau trụ đèn. Vua nhìn thấy phần bàn tay đang viết.6 Bấy giờ mặt vua biến sắc, tâm trí bàng hoàng, ruột gan đòi đoạn, gối run cầm cập.7 Vua lên tiếng ra lệnh cho triệu các pháp sư, các nhà chiêm tinh và thầy bói. Rồi vua ngỏ lời với các nhà thông thái Ba-by-lon rằng: “Phàm ai đọc nổi hàng chữ ấy và giải thích được cho ta nghe, ta sẽ cho mặc cẩm bào đỏ thẫm, đeo vòng vàng vào cổ; người ấy sẽ là nhân vật thứ ba trong vương quốc.”8 Lúc đó, tất cả các nhà thông thái của vua tiến vào, nhưng họ chẳng đọc được hàng chữ ấy, cũng không giải thích nổi cho vua hiểu.9 Bấy giờ vua Bên-sát-xa hết sức bàng hoàng, mặt vua biến sắc. Các đại thần cũng hốt hoảng.10 Nghe tiếng nói của vua và các đại thần, hoàng thái hậu đi vào phòng tiệc. Bà lên tiếng nói: “Thánh thượng vạn tuế! Xin thánh thượng đừng để cho tâm trí ra bàng hoàng, đừng để dung nhan ngài phải biến sắc!11 Trong vương quốc của ngài, có một nhân vật mang nơi mình thần khí của các bậc thần thánh. Dưới thời phụ vương của ngài, người ta gặp thấy nơi nhân vật ấy sự sáng suốt, thông hiểu và khôn ngoan sánh được với sự khôn ngoan của các thần. Phụ vương của ngài là Na-bu-cô-đô-nô-xo đã đặt ông ấy đứng đầu các thầy phù thuỷ, pháp sư, chiêm tinh và thầy bói.12 Bởi vì nơi ông ấy, tức là ông Đa-ni-en mà phụ vương đã đặt tên là Bên-tơ-sát-xa, người ta gặp thấy thần khí siêu phàm, tri thức, hiểu biết, tài giải mộng, tài cắt nghĩa điều bí nhiệm, tài tháo gỡ khó khăn, nên xin cho gọi ông ấy đến; ông ấy sẽ giải thích được.”

13 Bấy giờ ông Đa-ni-en được dẫn vào chầu vua. Vua ngỏ lời với ông rằng: “Ngươi có phải là Đa-ni-en, một người trong nhóm Giu-đa đi lưu đày mà phụ vương ta đã đưa từ Giu-đa về không?14 Ta đã nghe đồn rằng thần khí của các bậc thần minh ở nơi ngươi, nên ngươi mới có sự sáng suốt, thông hiểu và khôn ngoan xuất chúng.15 Người ta đã dẫn các nhà thông thái và pháp sư đến để đọc và giải thích hàng chữ kia cho ta; nhưng họ đều không giải thích được ý nghĩa.16 Còn về ngươi, ta nghe nói rằng ngươi có tài giải thích và tháo gỡ khó khăn. Vậy, nếu ngươi đọc và giải thích được hàng chữ đó cho ta, thì ngươi sẽ được mặc cẩm bào đỏ thẫm, đeo vòng vàng vào cổ, và sẽ là nhân vật thứ ba trong vương quốc.”

17 Bấy giờ ông Đa-ni-en lên tiếng nói trước mặt vua: “Tâu đức vua, lộc vua ban, xin giữ lại cho ngài; quà vua tặng, xin dành cho người khác. Nhưng hàng chữ kia, thần xin đọc và giải thích hầu đức vua.18 Thiên Chúa là Đấng Tối Cao, đã ban cho Na-bu-cô-đô-nô-xo, phụ vương ngài, vương quốc với chức cao quyền trọng, vinh dự và oai phong.19 Chính vì chức cao quyền trọng Thiên Chúa ban cho phụ vương mà mọi dân tộc, quốc gia và ngôn ngữ đều run rẩy kính sợ trước mặt phụ vương. Người bắt ai phải chết hay cho ai được sống là tuỳ ý, người nâng ai lên hay hạ ai xuống cũng tuỳ ý.20 Nhưng khi trở nên tự cao tự đại và sinh lòng kiêu căng quá mức, người đã bị truất ngôi và mất hết vinh dự.21 Người đã bị đuổi, không được chung sống với người ta, bị mất trí, trở nên giống thú vật, phải chung sống với lừa hoang và ăn cỏ như bò, mình mẩy ướt đẫm sương trời, cho tới khi người nhận ra Thiên Chúa, Đấng Tối Cao, là Đấng cai trị vương quốc loài người, và Thiên Chúa ban quyền cai trị này cho ai là tuỳ ý.22 Còn ngài, tâu đức vua Bên-sát-xa, ngài là con của phụ vương, dầu đã biết tất cả những điều trên, ngài vẫn không chịu hạ mình xuống.23 Trái lại ngài đã tự cao tự đại, đã chống lại Chúa Tể trời cao: ly chén trong Đền Thờ của Chúa, người ta đã mang đến trước mặt ngài; ngài đã dùng các ly chén ấy mà uống cùng với các đại thần, cung phi và cung nữ. Ngài đã ngợi khen các thần bằng bạc, vàng, đồng, sắt, gỗ và đá là những vật không thấy, không nghe, không biết. Còn Thiên Chúa là Đấng nắm trong tay sinh khí của ngài và điều khiển mọi đường đi nước bước của ngài, ngài lại chẳng tôn vinh!24 Vì thế, Thiên Chúa đã cho phần bàn tay ấy đến viết hàng chữ kia.25 Đây là những chữ đã được viết ra: MƠ-NÊ, MƠ-NÊ, TƠ-KÊN, PÁC-XIN;26 và đây là lời giải thích: MƠ-NÊ – có nghĩa là đếm -: Thiên Chúa đã đếm và chấm dứt những ngày của triều đại ngài;27 TƠ-KÊN – có nghĩa là cân -: ngài đã bị đặt trên bàn cân và thấy là không đủ;28 PƠ-RẾT – có nghĩa là phân chia -: vương quốc của ngài đã bị phân chia và trao cho các dân Mê-đi và Ba-tư.”

29 Bấy giờ vua Bên-sát-xa truyền mặc cẩm bào đỏ thẫm cho ông Đa-ni-en, đeo vòng vàng vào cổ ông và tuyên bố rằng, trong vương quốc, ông là nhân vật thứ ba.

30 Ngay đêm ấy, Bên-sát-xa, vua dân Can-đê, bị giết chết.

6.  

1 Sau đó, ông Đa-ri-ô, người Mê-đi, lên ngôi vua năm sáu mươi hai tuổi.

6. ÔNG ĐA-NI-EN TRONG HẦM SƯ TỬ

Lòng ganh tị của các thống đốc

2 Vua Đa-ri-ô quyết định đặt trên vương quốc của ông một trăm hai mươi thống đốc, để họ cai trị toàn vương quốc3 dưới quyền ba tể tướng trong đó có ông Đa-ni-en. Họ phải phúc trình mọi việc cho ba vị này, để nhà vua khỏi bị thiệt hại.4 Ông Đa-ni-en này vượt hẳn các tể tướng và thống đốc, nhờ có một thần khí siêu phàm, nên vua có ý định đặt ông đứng đầu cả vương quốc.5 Do đó, các tể tướng và thống đốc cố tìm cách bắt lỗi ông Đa-ni-en về việc triều chính. Nhưng họ đã không thể tìm được một cớ hay một thiếu sót nào để bắt lỗi, vì ông Đa-ni-en vốn là người trung tín; họ đã không tìm được điều gì sơ suất hay thiếu sót nơi ông.6 Vì thế, những người ấy mới nói với nhau: “Chúng ta sẽ chẳng tìm được một cớ nào để bắt lỗi tên Đa-ni-en này đâu, trừ phi tìm lý do tôn giáo để hại y.”7 Bấy giờ các tể tướng và thống đốc ấy kéo nhau đến gặp vua và tâu rằng: “Đức vua Đa-ri-ô, vạn vạn tuế!8 Tất cả các vị tể tướng của vương quốc, các thủ lãnh, thống đốc, cận thần và tổng trấn đều nhất trí thảo ra sắc chỉ và xin đức vua phê chuẩn lệnh cấm sau đây: Trong ba mươi ngày sắp tới, bất cứ ai cầu xin thần nào hay người nào ngoài đức vua thì sẽ bị quăng vào hầm sư tử.9 Bấy giờ, tâu đức vua, xin ngài hạ lệnh cấm và châu phê văn kiện, để chiếu theo luật không thể huỷ bỏ của dân Mê-đi và Ba-tư, lệnh cấm này trở nên bất di bất dịch.”10 Do đó, vua Đa-ri-ô đã châu phê văn kiện và lệnh cấm.

Ông Đa-ni-en cầu nguyện

11 Khi biết là văn kiện đã được châu phê, ông Đa-ni-en về nhà. Cửa sổ phòng trên nhà ông quay về hướng Giê-ru-sa-lem. Mỗi ngày ba lần, ông quỳ gối, cầu nguyện và ngợi khen Thiên Chúa của ông, y như ông đã làm từ trước đến nay.12 Bấy giờ những người ấy đổ xô lại và bắt gặp ông Đa-ni-en đang cầu nguyện và thống thiết nài van Thiên Chúa của ông.13 Rồi họ tới yết kiến vua và nhắc đến lệnh cấm của vua: “Đức vua đã chẳng châu phê lệnh cấm đó sao? Theo lệnh cấm này, trong ba mươi ngày sắp tới, bất cứ ai cầu xin thần nào hay người nào ngoài đức vua thì sẽ bị quăng vào hầm sư tử.” Vua đáp lại rằng: “Đúng vậy, chiếu theo luật không thể huỷ bỏ của dân Mê-đi và Ba-tư thì đúng như vậy.”14 Bấy giờ họ thưa với vua rằng: “Tâu đức vua, trong đám dân Giu-đa lưu đày, có tên Đa-ni-en không đếm xỉa gì tới đức vua cũng như tới giới lệnh đức vua đã châu phê. Ngày nào y cũng cầu nguyện đến ba lần.”15 Nghe lời ấy, vua rất đau lòng và để tâm tìm cách cứu ông Đa-ni-en. Vua cố sức giải cứu ông Đa-ni-en mãi cho đến lúc mặt trời lặn.16 Bấy giờ những người kia lại kéo nhau đến gặp vua và tâu rằng: “Tâu đức vua, xin đức vua biết cho rằng theo luật của dân Mê-đi và dân Ba-tư, thì mọi giới lệnh và sắc chỉ nhà vua đã ban đều bất di bất dịch.”

Ông Đa-ni-en bị quăng vào hầm sư tử

17 Bấy giờ vua đành hạ lệnh, và người ta đưa ông Đa-ni-en đi quăng vào hầm sư tử. Vua lên tiếng nói với ông Đa-ni-en: “Vị thần mà ngươi bền lòng phụng sự, chính vị ấy sẽ cứu ngươi! “18 Người ta đem một phiến đá tới đặt trên miệng hầm. Vua lấy ấn của mình và ấn của các đại thần niêm phiến đá lại để không còn thay đổi gì được nữa về vụ ông Đa-ni-en.19 Rồi vua về cung, suốt đêm không ăn không uống, cũng chẳng cho các cung phi vào hầu. Vua không tài nào chợp mắt được.20 Sáng sớm tinh sương, vua đã trỗi dậy, vội vã đi ra hầm sư tử.21 Vừa tới gần, vua cất giọng đau đớn gọi vọng xuống ông Đa-ni-en. Vua lên tiếng nói với ông rằng: “Hỡi Đa-ni-en, người tôi tớ của Thần hằng sống, vị Thần mà ngươi bền lòng phụng sự, có cứu được ngươi thoát hàm sư tử không? “22 Bấy giờ ông Đa-ni-en đáp lại: “Hoàng thượng, vạn vạn tuế!23 Thiên Chúa của thần đã sai thiên sứ đến khoá hàm sư tử khiến chúng không hại được thần, bởi vì trước mặt Người, thần đã được nhìn nhận là vô tội, và, tâu đức vua, ngay trước nhan ngài, thần cũng chẳng làm điều gì ác.”24 Lúc ấy, vua rất vui mừng, truyền kéo ông Đa-ni-en lên khỏi hầm. Và ông được kéo lên, không một vết thương trên mình, bởi vì ông đã tin cậy vào Thiên Chúa của ông.25 Vua liền truyền điệu những người kia đến, họ là những kẻ đã vu khống cho ông Đa-ni-en; rồi vua ra lệnh quăng họ cùng với vợ con vào hầm sư tử. Những người này chưa đụng tới nền hầm, thì sư tử đã vồ lấy chúng mà nghiền nát xương.

Lời tuyên xưng đức tin của vua Đa-ri-ô

26 Bấy giờ vua Đa-ri-ô viết cho tất cả những người thuộc các dân tộc, quốc gia và ngôn ngữ trên khắp cõi đất: “Chúc các ngươi vạn sự bình an!27 Đây là lệnh ta truyền: trên toàn lãnh thổ vương quốc ta, mọi người phải run rẩy kính sợ trước mặt vị Thần của Đa-ni-en:
bởi vì Người là vị Thần hằng sống và tồn tại muôn đời;
vương quốc của Người sẽ chẳng hề suy vong,
quyền thống trị của Người vô cùng vô tận.

28 Người giải thoát, giữ gìn,
Người làm những dấu lạ điềm thiêng trên trời cùng dưới đất.
Người đã giải cứu Đa-ni-en khỏi móng vuốt sư tử.”

29 Còn ông Đa-ni-en thì thành công rực rỡ dưới triều vua Đa-ri-ô cũng như dưới triều vua Ky-rô, người Ba-tư.

II. CÁC THỊ KIẾN

1. GIẤC MỘNG CỦA ÔNG ĐA-NI-EN: BỐN CON THÚ

Thị kiến về các con thú

7.  1 Năm thứ nhất đời Bên-sát-xa làm vua xứ Ba-by-lon, trong một giấc chiêm bao, khi đang nằm trên giường, ông Đa-ni-en thấy trong trí thị kiến sau đây. Ông đã viết lại giấc chiêm bao đó. Câu chuyện bắt đầu như sau,2 theo như chính lời ông kể lại: Ban đêm, trong một thị kiến, tôi đang mải nhìn thì kìa: gió bốn phương trời khuấy động biển cả;3 bốn con thú lớn từ biển lên, mỗi con mỗi khác:4 Con thứ nhất giống như sư tử, lại mang cánh đại bàng. Tôi nhìn theo cho đến khi đôi cánh của nó bị giựt mất; nó được nhấc lên khỏi mặt đất và đặt đứng trên hai chân như một người; nó được ban cho một quả tim người.5 Và này một con thú khác, con thứ hai, giống như con gấu. Nó được đặt trong tư thế chỉ đứng một bên, mõm ngậm ba khúc xương sườn giữa hai hàm răng. Người ta bảo nó như thế này: “Đứng lên, ăn thịt cho nhiều đi! “6 Sau đó, tôi đang nhìn, thì kìa: một con thú khác giống như con beo; hai bên mình nó, có bốn cánh như cánh chim. Nó có bốn đầu, và được trao quyền thống trị.7 Rồi vẫn trong thị kiến ban đêm, tôi đang nhìn thì kìa: con thú thứ tư đáng kinh đáng sợ và mạnh mẽ vô song; răng của nó bằng sắt và rất to. Nó ăn, nó nghiền, rồi lấy chân chà đạp những gì còn sót lại. Nó khác hẳn tất cả các con thú trước. Nó có những mười sừng.

8 Tôi đang chăm chú nhìn các sừng, thì kìa: giữa các sừng này, một sừng khác, nhỏ hơn, mọc lên; và ba cái trong các sừng trước bị nhổ đi trước mặt cái nhỏ. Và kìa: có những con mắt như mắt người trên sừng ấy, và có một cái mồm nói những điều quái gở.

Thị kiến về Đấng Lão Thành và về Con Người

9 Tôi đang nhìn thì thấy đặt những chiếc ngai
và một Đấng Lão Thành an toạ.
Áo Người trắng như tuyết,
tóc trên đầu Người tựa lông chiên tinh tuyền.
Ngai của Người toàn là ngọn lửa, bánh xe của ngai cũng rừng rực lửa hồng.

10 Từ trước nhan Người, một sông lửa cuồn cuộn chảy ra.
Ngàn ngàn hầu hạ Người,
vạn vạn túc trực trước Thánh Nhan.
Toà bắt đầu xử, sổ sách được mở ra.

11 Bấy giờ tôi mải nhìn vì có tiếng ồn ào của cái sừng thốt ra những lời quái gở; tôi vẫn mải nhìn khi con thú bị giết, thây nó bị huỷ diệt và làm mồi cho lửa.12 Những con thú còn lại bị tước mất quyền thống trị, nhưng đời chúng được kéo dài thêm một thời và một kỳ hạn.

13 Trong những thị kiến ban đêm, tôi mải nhìn thì kìa:
có ai như một Con Người đang ngự giá mây trời mà đến.
Người tiến lại gần bên Đấng Lão Thành
và được dẫn đưa tới trình diện.

14 Đấng Lão Thành trao cho Người
quyền thống trị, vinh quang và vương vị;
muôn người thuộc mọi dân tộc, quốc gia và ngôn ngữ
đều phải phụng sự Người.
Quyền thống trị của Người là quyền vĩnh cửu,
không bao giờ mai một;
vương quốc của Người sẽ chẳng hề suy vong.

Giải thích thị kiến

15 Tôi là Đa-ni-en, tâm trí tôi hoang mang vì những điều ấy, và những thị kiến trong đầu làm tôi xao xuyến.16 Tôi đến gần một trong những vị đứng túc trực và xin vị ấy cho biết sự thực chắc chắn về tất cả những điều ấy. Người đã nói với tôi và giải thích cho tôi ý nghĩa các sự việc:17 “Bốn con thú to lớn ấy tức là bốn ông vua, từ đất trỗi dậy.18 Rồi chư thánh của Đấng Tối Cao sẽ lãnh nhận vương quyền và nắm giữ vương quyền ấy mãi mãi muôn đời.”19 Bấy giờ tôi muốn biết chắc chắn về con thú thứ tư là con thú khác hẳn với tất cả các con khác, nó rất đáng sợ, có răng bằng sắt và vuốt bằng đồng. Nó ăn, nó nghiền, rồi lấy chân chà đạp những gì còn sót lại.20 Tôi cũng muốn biết chắc về mười cái sừng trên đầu nó và về cái sừng khác đã mọc lên, và ba cái đã rụng đi trước mặt cái sừng ấy; cái sừng này là cái sừng có mắt, và mồm nói những lời quái gở; nó có vẻ lớn hơn các sừng khác.21 Tôi đang nhìn, thì cái sừng này đã giao chiến với chư thánh và đã thắng được các ngài,22 cho tới khi Đấng Lão Thành đến và có cuộc xét xử nhằm bênh vực chư thánh của Đấng Tối Cao, cho tới khi thời đến, thời mà chư thánh nắm được vương quyền.23 Vị đứng túc trực ấy lại nói với tôi thế này:
“Con thú thứ tư
là vương quốc thứ tư sẽ xuất hiện trên mặt đất,
khác hẳn với mọi vương quốc.
Nó sẽ ăn hết toàn cõi đất, sẽ dẫm nát và nghiền tan.

24 Còn mười cái sừng kia là mười ông vua
từ vương quốc ấy trỗi dậy.
Rồi một ông vua khác sẽ trỗi dậy sau mười ông kia.
Vua này sẽ khác hẳn các vua trước và sẽ hạ ba vua.

25 Vua này sẽ thốt ra những lời phạm đến Đấng Tối Cao
và ngược đãi chư thánh của Người.
Vua định thay đổi lịch và Lề Luật.
Chư thánh sẽ bị nộp vào tay vua
một thời, hai thời và nửa thời.

26 Rồi sẽ có cuộc xét xử
và người ta sẽ tước quyền thống trị của vua
nhằm vĩnh viễn huỷ bỏ và tiêu diệt quyền ấy.

27 Còn vương quốc với quyền thống trị
cũng như địa vị cao cả của các vương quốc khắp thiên hạ
sẽ được trao cho dân thánh của Đấng Tối Cao.
Vương quyền của dân ấy là vương quyền vĩnh cửu,
và mọi quyền thống trị sẽ phụng sự và vâng phục dân ấy.”

28 Đến đây câu truyện kết thúc.
Các tư tưởng của tôi, Đa-ni-en, làm tôi rất xao xuyến; mặt tôi biến sắc. Nhưng tôi giữ những sự ấy trong lòng.

2. THỊ KIẾN CỦA ÔNG ĐA-NI-EN: CỪU ĐỰC VÀ DÊ ĐỰC

Thị kiến

8.  1 Năm thứ ba triều vua Bên-sát-xa, tôi là Đa-ni-en đã được một thị kiến sau một thị kiến khác trước đây.2 Tôi nhìn vào cảnh thị kiến ấy, và đang nhìn thì bỗng thấy mình ở Su-san, một thành trong tỉnh Ê-lam. Tôi vẫn nhìn vào cảnh thị kiến ấy và thấy mình đang ở gần cổng U-lai.3 Tôi ngước mắt lên nhìn thì này: một con cừu đực đứng trước cổng. Nó có hai sừng, hai sừng đều cao, nhưng sừng nọ cao hơn sừng kia; sừng cao hơn lại mọc lên sau.4 Tôi thấy con cừu đực lấy sừng húc về phía tây, phía bắc và phía nam. Không loài thú nào chống lại nó được, và không ai cứu được chúng khỏi tay nó; nó tung hoành thoả thích và ngày càng lớn mạnh.

5 Tôi đang mải nhìn, thì này một con dê đực từ phía mặt trời lặn đi đến; nó rảo khắp mặt đất mà chân không hề chạm đất. Con dê giương một cái sừng lớn giữa hai mắt.6 Nó đến tận chỗ con cừu đực có hai sừng; con cừu này, tôi đã thấy đứng trước cổng. Con dê hùng hổ xông vào con cừu.7 Tôi thấy nó đến sát bên con cừu. Nó hầm hầm nổi giận húc một cái làm con cừu gãy luôn hai sừng. Con cừu không đủ sức chống cự. Con dê quật con cừu xuống đất, rồi lấy chân đạp lên. Không ai cứu nổi con cừu khỏi tay nó.8 Con dê đực trở nên cực kỳ lớn mạnh. Nhưng khi nó đang sung sức, thì cái sừng lớn lại bị gãy. Thay vào đó liền có bốn sừng khác mọc lên, theo hướng gió bốn phương trời.

9 Từ một trong các sừng ấy, một cái sừng rất nhỏ nhú ra, rồi lớn nhanh về phía nam, về phía đông và về phía xứ Huy Hoàng.10 Nó vươn cao tới tận các đạo binh trên trời, làm cho một phần đạo binh đó và một phần các tinh tú phải nhào xuống đất, rồi nó đạp chân lên.11 Nó còn vươn lên tận vị Thống Lãnh đạo binh, và của lễ thường tiến dâng lên Người bị tước đoạt, thánh điện của Người bị phá đổ.12 Do tội ác mà đạo binh bị trao nộp cùng với của lễ thường tiến; cái sừng ấy đã quăng sự thật xuống đất. Nó đã làm và đã thành công.

13 Tôi đã nghe một vị thánh lên tiếng và một vị thánh khác bảo vị đã lên tiếng kia: “Thị kiến này còn kéo dài đến bao giờ: của lễ thường tiến bị tước đoạt, tội ác tàn phá hoành hành, nơi thánh và đạo binh bị chà đạp dưới chân? “14 Vị ấy nói với tôi: “Cho đến hai nghìn ba trăm chiều và sáng; khi đó, thánh điện sẽ được phục hồi.”

Thiên sứ Gáp-ri-en giải thích thị kiến

15 Trong lúc tôi là Đa-ni-en nhìn thị kiến và tìm hiểu, thì này: có ai đứng trước mặt tôi, trông như một người đàn ông.16 Và tôi nghe có tiếng người từ giữa hai cánh cổng U-lai kêu lên rằng: “Gáp-ri-en, hãy cho người này hiểu thị kiến.”17 Người đến sát nơi tôi đứng. Thấy người đến, tôi kinh hãi, ngã sấp mặt xuống. Người bảo tôi: “Hỡi con người, hãy hiểu là thị kiến này nói về thời cùng tận.”18 Người còn đang nói thì tôi đã ngất xỉu, mặt chúi xuống đất. Người đụng vào tôi và dựng tôi đứng thẳng lên;19 rồi người nói: “Này ta cho ngươi biết điều sẽ xảy ra vào cuối thời thịnh nộ, vì ngày cùng tận của thời ấy đã được ấn định rồi.20 Con cừu đực có hai sừng mà ngươi đã thấy, đó là các vua Mê-đi và Ba-tư.21 Con dê đực lông lá là vua xứ Gia-van; cái sừng lớn giữa hai mắt, đó là vua đầu tiên.22 Sừng đó bị gãy, có bốn sừng mọc lên thay thế: đó là bốn vương quốc nổi lên từ dân nước ấy, nhưng không có sức mạnh của nước ấy.

23 Vào cuối triều đại chúng, khi tội lỗi chúng lên tới tột đỉnh
sẽ xuất hiện một vua mặt mày cứng cỏi, thạo nghề nói dối.

24 Mãnh lực của nó gia tăng,
nhưng không bởi sức riêng của mình.
Nó sẽ gây nên những cuộc tiêu diệt khủng khiếp,
sẽ thành công trong việc nó làm,
sẽ tiêu diệt những kẻ hùng mạnh, cùng với đoàn dân thánh.

25 Nhờ khôn khéo, nó đủ khả năng
làm cho xảo kế được thành công.
Nó sinh lòng tự cao tự đại, và bất ngờ tiêu diệt một số đông.
Nó sẽ vươn lên chống lại vị Thủ Lãnh tối cao,
nhưng nó sẽ bị bẻ gãy, dầu không phải do tay người phàm.

26 Thị kiến về buổi chiều và buổi sáng
đã nói đến ở trên, quả đúng là sự thật.
Phần ngươi, hãy giữ kín thị kiến, vì còn phải đợi nhiều ngày.

27 Phần tôi, Đa-ni-en, tôi đuối sức và ốm đau nhiều ngày. Sau đó, tôi đứng dậy lo việc cho vua. Tôi bỡ ngỡ kinh hoàng vì thị kiến ấy và vẫn không hiểu.

3. LỜI TIÊN TRI VỀ BẢY MƯƠI TUẦN

Lời kinh của ông Đa-ni-en

9.  1 Năm thứ nhất đời vua Đa-ri-ô, con ông A-suê-rô, thuộc dòng giống Mê-đi, cai trị nước Can-đê,2 năm thứ nhất triều vua này, tôi, Đa-ni-en, tôi đọc Sách Thánh để tìm hiểu ý nghĩa con số những năm phải trôi qua trước khi mãn thời kỳ Giê-ru-sa-lem phải chịu cảnh điêu tàn, tức là bảy mươi năm, theo lời ĐỨC CHÚA phán với ngôn sứ Giê-rê-mi-a.3 Tôi ăn chay, mặc áo vải thô và rắc tro lên đầu rồi ngẩng mặt lên Chúa Thượng là Thiên Chúa, để dâng lời khẩn nguyện nài van.4 Tôi đã cầu xin ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa của tôi, đã thú nhận và thưa Người rằng:

“Ôi, lạy Chúa Thượng, Thiên Chúa cao cả và đáng sợ, Đấng giữ giao ước và tỏ lòng nhân nghĩa với những kẻ yêu mến Ngài và tuân giữ các mệnh lệnh của Ngài, 5 chúng con đã phạm tội, đã lỗi lầm, đã làm điều gian ác, chúng con đã phản nghịch và lìa xa các mệnh lệnh, phán quyết của Ngài.6 Chúng con đã không nghe lời các tôi tớ Chúa là các ngôn sứ. Các ngài đã nhân danh Chúa mà nói với vua chúa quan quyền, với cha ông chúng con và toàn dân trong xứ.7 Lạy Chúa Thượng, Chúa là Đấng Công Chính; còn chúng con thì đáng phải hổ mặt hổ mày như ngày hôm nay – chúng con là những người Giu-đa, cư dân thành Giê-ru-sa-lem và toàn thể Ít-ra-en, những người ở gần cũng như ở xa, trong mọi xứ Ngài đã đuổi đến vì tội bất trung đã phạm chống lại Ngài.8 Lạy Đức Chúa, chúng con đáng phải hổ mặt hổ mày, cũng như vua chúa quan quyền và tổ tiên chúng con, vì chúng con đã đắc tội với Ngài.9 Chúa Thượng là Thiên Chúa chúng con có lòng xót thương và hay tha thứ, vì chúng con đã phản nghịch cùng Ngài.10 Chúng con đã không nghe tiếng của ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa chúng con, để sống theo các luật lệ Ngài đã ban cho chúng con nhờ các tôi tớ Ngài là các vị ngôn sứ.11 Toàn thể Ít-ra-en đã vi phạm Lề Luật của Ngài và đã rời xa không chịu nghe tiếng Ngài. Bấy giờ lời nguyền rủa và lời thề ghi trong luật Mô-sê, tôi trung của Thiên Chúa, đã trút xuống chúng con vì chúng con đã đắc tội với Ngài.12 Ngài thực hiện những lời Ngài đã răn đe chúng con và những thủ lãnh cai trị chúng con, khi giáng xuống chúng con tại Giê-ru-sa-lem một đại hoạ chưa hề xảy ra dưới gầm trời.13 Tất cả những tai hoạ này đã giáng xuống chúng con đúng như đã chép trong Luật Mô-sê. Thế mà chúng con vẫn không chịu lìa bỏ lỗi lầm để trở lại và chú tâm suy niệm về lòng thành tín của ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa chúng con, hầu làm cho nét mặt của Ngài dịu lại.14 ĐỨC CHÚA đã tỉnh thức trông chừng, đã giáng tai hoạ xuống trên chúng con, vì ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa chúng con, là Đấng công minh chính trực trong mọi việc Ngài làm, và chúng con đã không nghe tiếng Ngài.15 Giờ đây, lạy Chúa là Thiên Chúa chúng con, Đấng đã dùng cánh tay mạnh mẽ đem dân Ngài ra khỏi xứ Ai-cập và đã làm cho danh Ngài lừng lẫy như ngày nay, chúng con đã phạm tội, chúng con đã làm điều gian ác.16 Lạy Chúa, chiếu theo mọi hành động chính trực của Ngài, xin nguôi cơn giận, xin ngừng cơn thịnh nộ đối với Giê-ru-sa-lem là thành đô, là núi thánh của Ngài, bởi vì tội của chúng con và lỗi của cha ông chúng con đã khiến Giê-ru-sa-lem và dân Ngài trở thành mối sỉ nhục đối với hết mọi kẻ sống chung quanh chúng con.17 Giờ đây, lạy Thiên Chúa chúng con, xin nghe lời tôi tớ Ngài khẩn nguyện nài van. Lạy Chúa, vì danh Ngài, xin toả ánh Tôn Nhan trên thánh điện của Ngài đang phải tan hoang.18 Lạy Thiên Chúa của con, xin lắng tai nghe, xin ghé mắt nhìn cảnh hoang tàn của chúng con và thành đô đã được thánh hiến cho Ngài. Chúng con không dựa vào những hành động chính trực của chúng con, nhưng dựa vào lượng hải hà của Ngài mà dâng lời khẩn nguyện lên trước Tôn Nhan.19 Lạy Chúa, xin khấng nghe! Lạy Chúa, xin tha thứ! Lạy Chúa, xin đoái thương! Vì danh Ngài, xin ra tay và đừng trì hoãn, lạy Thiên Chúa của con, bởi vì thành và dân của Ngài đã được thánh hiến cho Ngài.”

Thiên sứ Gáp-ri-en cắt nghĩa lời tiên tri

20 Bấy giờ tôi đang nói, đang cầu nguyện và thú nhận tội lỗi của tôi cũng như tội lỗi của Ít-ra-en, dân tôi, đang giãi bày trước nhan ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa của tôi, lời khẩn nguyện cho núi thánh của Người.21 Tôi còn đang dâng lời cầu nguyện, thì Gáp-ri-en, nhân vật tôi đã thấy trong thị kiến ban đầu, bay sà xuống sát bên tôi vào lúc dâng hiến lễ ban chiều.22 Ngài đến ngỏ lời với tôi và nói: “Này Đa-ni-en, nay ta đi ra để giúp ngươi được am tường.23 Khi ngươi vừa bắt đầu khẩn nguyện, thì lời đã ban ra và ta đến đây để loan báo, vì ngươi là người được quý mến. Hãy thấu triệt lời ấy, hãy am hiểu thị kiến:

24 Bảy mươi tuần đã được ấn định
cho dân và thành thánh của ngươi,
để chấm dứt gian tà, xoá sạch tội ác, đền xong lỗi lầm,
để đem lại sự công chính vĩnh cửu,
để thị kiến và lời ngôn sứ được ứng nghiệm,
và để xức dầu Nơi Cực Thánh.

25 Vậy ngươi hãy biết và hiểu: từ khi lời được ban ra
nhằm xây dựng lại Giê-ru-sa-lem
cho tới khi vị thủ lãnh được xức dầu xuất hiện, thì có bảy tuần.
Trong sáu mươi hai tuần, phố xá và thành luỹ sẽ được tái thiết,
nhưng được tái thiết trong thời buổi cùng quẫn.

26 Sau sáu mươi hai tuần, một vị được xức dầu sẽ bị thủ tiêu;
vị ấy sẽ không có. ..
Thành đô và thánh điện
sẽ bị dân của một thủ lãnh đến phá tan.
Nhưng thủ lãnh này sẽ bị cuốn đi mất.
Cho đến cùng, sẽ diễn ra
chiến tranh và những cảnh tàn phá đã được quyết định.

27 Nội một tuần, nó sẽ củng cố minh ước với số người đông đảo.
Trong nửa tuần, nó bắt phải ngưng hy lễ và hiến lễ,
nó đặt bên cánh Đền Thờ đồ ghê tởm khốc hại
cho đến khi lệnh tiêu huỷ đã được quyết định
giáng xuống kẻ tàn phá.”

4. THỊ KIẾN LỚN
A. THỜI THỊNH NỘ

Thị kiến về người mặc áo vải gai

10.  1 Năm thứ ba đời vua Ky-rô nước Ba-tư, có lời mặc khải cho ông Đa-ni-en cũng gọi là Bên-tơ-sát-xa: đó là lời chân thật loan báo một cuộc chiến lớn. Ông đã hiểu lời ấy; ông đã được ơn am hiểu như vậy là nhờ thị kiến.

2 Trong những ngày ấy, tôi là Đa-ni-en, đã ăn chay đền tội suốt ba tuần như thể chịu tang:3 tôi không ăn đồ cao lương mỹ vị; thịt và rượu, tôi không hề nếm chút nào; tôi cũng chẳng xức dầu thơm trong suốt ba tuần đó.4 Ngày hai mươi bốn tháng giêng, đang ở ven sông Cả, tức là sông Tích-ra,5 tôi ngước mắt nhìn lên, thì này:

Một người mặc áo vải gai, lưng thắt đai vàng U-phát,
6 thân mình giống kim lục thạch, dung mạo ví như ánh chớp,
đôi mắt tựa ngọn đuốc hồng, cánh tay và đôi chân
trông như đồng đánh bóng,
tiếng người vang dội như tiếng đám đông.

7 Tôi là Đa-ni-en, người duy nhất đã thấy thị kiến, còn những người ở bên tôi thì không. Dầu vậy, họ vẫn khiếp đảm kinh hồn chạy trốn tìm chỗ ẩn.8 Chỉ còn lại có một mình tôi, và tôi đã thấy thị kiến lớn ấy. Tôi không còn sức nữa. Thể lực tôi giảm sút thảm hại. Tôi đã kiệt sức rồi.

Thiên sứ hiện ra

9 Tôi nghe tiếng người vang dội. Vừa nghe thấy, tôi liền ngất xỉu, chúi mặt xuống đất.10 Này đây một bàn tay đụng đến tôi, nâng tôi dậy đang khi đầu gối và tay tôi run rẩy.11 Người nói với tôi: “Hỡi Đa-ni-en là người được quý mến, hãy hiểu rõ các lời ta sắp nói với ngươi. Hãy đứng yên tại chỗ ngươi đang đứng, vì giờ đây ta được sai đến với ngươi.” Trong lúc người nói với tôi điều ấy, thì tôi đứng run cầm cập.12 Người còn bảo tôi: “Đa-ni-en, đừng sợ, bởi vì ngay từ hôm đầu, khi ngươi đem hết lòng tìm hiểu và ăn chay hãm mình trước nhan Thiên Chúa của ngươi, thì Thiên Chúa đã nghe những lời ngươi nói, và chính vì những lời ấy mà ta đến.13 Thiên sứ lãnh đạo vương quốc Ba-tư đứng chống lại ta hai mươi mốt ngày. Và này Mi-ca-en, một trong các thiên sứ lãnh đạo cao cấp, đã đến trợ lực ta. Ta để người ở đó, bên cạnh các vua Ba-tư,14 và ta đến cho ngươi hiểu rõ sự việc sẽ xảy ra nơi dân ngươi vào thời sau hết, bởi vì đây còn là một thị kiến về thời đó.”

15 Nghe những lời người nói đó, tôi cúi mặt xuống đất, không nói nên lời.16 Và này có cái gì đó giống như một người trong con cái loài người chạm vào môi tôi. Tôi liền mở miệng và nói được. Tôi thưa với vị đứng trước mặt tôi: “Thưa ngài, thị kiến đã làm cho tôi phải quằn quại đớn đau khiến tôi kiệt sức.17 Tôi tớ của ngài đây sẽ ăn nói làm sao với ngài, khi mà từ nay tôi chẳng còn hơi còn sức nào nữa? “18 Bấy giờ đấng giống như con người lại đụng đến tôi một lần nữa và làm cho tôi nên can đảm.19 Người nói: “Hỡi người được quý mến, đừng sợ. Cứ an tâm. Can đảm lên! Can đảm nữa lên! ” Trong khi người nói với tôi như thế, tôi lấy lại được can đảm và đáp lại rằng: “Xin ngài cứ nói, vì ngài đã làm cho tôi nên can đảm.”

Lời báo trước

20 Bấy giờ người nói: “Ngươi có biết tại sao ta đến cùng ngươi không? Bây giờ ta phải quay lại nghênh chiến với thiên sứ lãnh đạo Ba-tư. Ta vừa đi ra thì thiên sứ lãnh đạo Gia-van đến.21 Nhưng ta sắp báo cho ngươi biết điều đã ghi chép trong sách sự thật. Không một ai hiệp lực với ta chống lại các vị đó, ngoại trừ thiên sứ Mi-ca-en, tướng lãnh của các ngươi.

11. 

1 Phần ta, năm thứ nhất đời vua Đa-ri-ô, người Mê-đi, ta đứng để trợ lực và bảo vệ người.2 Này ta sắp báo cho ngươi biết sự thật.

Những cuộc chiến đầu tiên giữa nhà Xê-lêu-cô và nhà La-gô

“Này đây sẽ còn có ba vua xuất hiện ở Ba-tư. Vua thứ tư sẽ trở nên giàu có, nhiều của cải hơn mọi người. Và khi của cải đã làm cho ông nên mạnh thì ông sẽ xúi giục mọi người chống lại vương quốc Gia-van. 3 Một vị vua hùng mạnh sẽ đứng lên thống trị một vương quốc rộng lớn, và sẽ mặc sức tung hoành.4 Nhưng ông vừa đứng lên thì vương quốc của ông đã bị tan vỡ và phân chia theo hướng gió bốn phương trời, song không phải cho dòng dõi ông, và cũng không rộng lớn như khi ông cai trị, vì vương quốc của ông sẽ bị nhổ tận rễ mà trao cho những người khác không thuộc dòng dõi ông.

5 Vua Phương Nam sẽ nên hùng mạnh. Nhưng một trong số các tướng lãnh của ông sẽ hùng mạnh hơn ông và thống trị một vương quốc rộng lớn hơn vương quốc của ông.6 Ít năm sau, họ kết ước với nhau. Và để thi hành hiệp ước, công chúa Phương Nam được gả cho vua Phương Bắc. Nhưng công chúa sẽ không giữ vững được quyền lực, và cả dòng dõi nàng cũng sẽ không đứng vững. Chính nàng sẽ bị trao nộp cùng với những người đã đưa nàng tới, cả vua cha và chồng nàng nữa. Khi đến thời đến buổi,7 một mầm non cùng gốc với nàng sẽ mọc lên thay thế vua cha. Nó sẽ tiến đánh đạo binh, vào thành trì kiên cố của vua Phương Bắc. Nó sẽ tấn công họ và chiến thắng.8 Ngay cả các thần của họ, nó cũng bắt làm tù binh đem về Ai-cập cùng với các tượng đúc và những đồ vàng, bạc quý giá. Nó sẽ đứng xa vua Phương Bắc, án binh bất động vài năm.9 Vua này sẽ đến vương quốc của vua Phương Nam, rồi trở về xứ mình.10 Các con ông sẽ chuẩn bị lâm chiến: họ chiêu mộ nhiều đoàn quân đông đúc. Một trong những người con đó sẽ kéo quân tràn xuống như nước lũ, dìm ngập hết, rồi quay trở lại. Và họ sẽ tấn công vào tận thành trì kiên cố của vua Phương Nam.11 Bấy giờ vua Phương Nam phẫn nộ, xông ra giao chiến với vua Phương Bắc. Vua Phương Bắc chiêu mộ một đoàn quân đông đúc. Nhưng đám đông này lại rơi vào tay vua Phương Nam12 và bị tiêu diệt. Vua Phương Nam sẽ sinh lòng kiêu ngạo. Ông hạ được hàng ngàn hàng vạn địch quân, nhưng không chiến thắng.13 Vua Phương Bắc lại chiêu mộ một đoàn quân đông đúc hơn trước. Sau đó vài năm, ông đến, kéo theo một đạo binh lớn cùng với thật nhiều quân trang.14 Vào thời ấy, nhiều người đứng lên chống lại vua Phương Nam. Những kẻ bạo động trong dân ngươi sẽ nổi lên để làm ứng nghiệm thị kiến, nhưng sẽ thất bại.15 Vua Phương Bắc sẽ đến; ông sẽ xây tường đắp luỹ và chiếm được một thành kiên cố. Các lực lượng Phương Nam sẽ không đương đầu nổi, đoàn quân tinh nhuệ cũng chẳng có sức đương đầu.16 Vua Phương Bắc đến đánh sẽ mặc sức tung hoành; không có ai đương đầu nổi với ông. Ông sẽ dừng lại ở Xứ Huy Hoàng và nắm quyền sinh sát trong tay.17 Ông có ý định dùng võ lực chiếm toàn vương quốc ấy, nên mới ký hoà ước với vua Phương Nam và gả công chúa cho vua này nhằm huỷ diệt vương quốc ấy. Nhưng chuyện đó sẽ không thành, sẽ không xảy ra cho ông.18 Ông sẽ quay mặt hướng về miền duyên hải và sẽ chiếm được nhiều vùng. Nhưng một tướng lãnh sẽ chấm dứt hành động xấc xược của ông mà không để cho ông trả đũa.

19 Ông sẽ quay mặt hướng về các thành trì kiên cố của xứ ông, nhưng ông sẽ lảo đảo, rồi té nhào, người ta không còn gặp thấy ông nữa.20 Sẽ có người đứng lên thay ông. Người ấy sẽ phái kẻ thu thuế đến nơi vinh quang của vương quốc. Nhưng một vài ngày sau, người ấy sẽ bị bẻ gãy, không phải vì giận dữ cũng không phải vì chiến trận.

An-ti-ô-khô Ê-pi-pha-nê

21 “Kẻ đứng lên thay ông là một tên bỉ ổi. Người ta sẽ không trao vương quyền cho y, nhưng y sẽ đến bất ngờ và dùng xảo kế đoạt ngai vua.22 Quân xâm lăng như nước lũ tràn vào lại bị cuốn trôi đi trước mặt y và bị tan rã; ngay cả người đứng đầu giao ước cũng chịu chung một số phận.23 Nhờ những cuộc liên minh với y, y sẽ dùng mưu mà hành động, và ngày càng mạnh thêm dù chỉ có ít thuộc hạ.24 Y sẽ bất ngờ đi đến những vùng phì nhiêu trong tỉnh và làm những gì mà cha ông và tổ tiên chẳng hề làm. Chiến lợi phẩm, của đã chiếm đoạt và tài sản, y sẽ đem phân phát cho các thuộc hạ; y mưu tính đánh các thành trì, nhưng chỉ được một thời gian thôi.

25 Y dốc toàn tâm toàn lực, đem một đạo quân lớn chống lại vua Phương Nam. Vua này cũng sẽ dẫn một đạo quân lớn, hết sức hùng hậu, sẵn sàng lâm chiến, nhưng không đương đầu nổi, vì người ta mưu tính chống lại ông.26 Những kẻ hưởng lộc của ông lại hại ông. Đạo quân của ông sẽ bị đè bẹp. Những kẻ bị thương vong nằm la liệt ngổn ngang.

27 Cả hai vua đều tính chuyện gian ác trong lòng, nên tuy đồng bàn, họ cứ nói những lời dối trá với nhau. Nhưng chuyện đó sẽ không thành, vì còn phải chờ thời cùng tận vào lúc ấn định.28 Vua Phương Bắc sẽ trở về xứ, mang theo một tài sản lớn, nhưng lòng y thì chống lại Giao Ước thánh. Y tung hoành, rồi trở về xứ.29 Đến thời đến buổi, y sẽ trở lại Phương Nam. Nhưng thời cuối sẽ không như thời đầu.30 Tàu bè từ Kít-tim sẽ đến tấn công y. Y sẽ hoảng sợ, quay trở về và giận dữ chống lại Giao Ước thánh. Y sẽ tung hoành và một lần nữa lại thông đồng với những kẻ bỏ Giao Ước thánh.

31 Các lực lượng do y gửi đi sẽ xuất hiện và xúc phạm đến thánh điện vốn là thành trì kiên cố. Ở đó chúng sẽ bãi bỏ lễ tế thường tiến và đặt đồ ghê tởm khốc hại.32 Những kẻ lơ là với Giao Ước thì bị y dùng xảo kế mà làm cho ra ô uế. Còn những con dân nhận biết Thiên Chúa của mình thì sẽ vững mạnh và ra tay hành động.33 Những kẻ hiểu biết trong dân sẽ dạy dỗ nhiều người; nhưng họ sẽ ngã gục vì gươm đâm lửa đốt, sẽ bị đày ải, bị cướp bóc trong một thời gian.34 Khi họ ngã gục, những kẻ đến trợ giúp họ thì ít, còn những kẻ liên kết với họ vì xảo quyệt thì nhiều.35 Trong hàng những người hiểu biết, một số sẽ ngã gục để có những người được thử bằng lửa, được thanh luyện và tẩy trắng, cho đến thời cùng tận, vì còn phải chờ lúc đã ấn định.

36 Vua này sẽ mặc sức hoành hành, sẽ tự cao tự đại, tôn mình lên trên hết các thần. Y sẽ nói những điều kỳ quặc chống lại Thiên Chúa của chư thần. Y sẽ thành công cho đến khi thời thịnh nộ chấm dứt, vì điều đã quyết ắt sẽ thành.37 Y sẽ không coi trọng các thần của tổ tiên, cũng như thần mà nữ giới sùng mộ, cũng không coi trọng bất cứ thần nào khác, vì y tôn mình lên trên hết tất cả.38 Thay vào đó, y tôn kính thần của các thành trì kiên cố; thần mà tổ tiên y không biết đến, thì y lại dùng vàng bạc, đá quý và báu vật mà tôn kính.39 Y sẽ củng cố các thành trì nhờ sự trợ giúp của thần xa lạ. Ai nhìn nhận thần đó thì y cho hưởng vinh hoa phú quý. Y đặt họ cai trị nhiều người và phân chia đất đai cho họ để thưởng công.

B.  THỜI CÙNG TẬN

Ngày tận số của kẻ bách hại

 40 “Đến thời cùng tận, vua Phương Nam sẽ chiến đấu chống lại tên bỉ ổi ấy. Vua Phương Bắc sẽ xông vào y như vũ bão cùng với chiến xa, kỵ binh và đông đảo tàu bè. Nhưng y sẽ kéo quân đến các nước, tràn ngập tất cả như thác lũ.41 Y sẽ đến Xứ Huy Hoàng, và nhiều người sẽ ngã gục. Nhưng sẽ có những người thoát khỏi tay y, đó là người Ê-đôm, người Mô-áp và các phần tử ưu tú trong số con cái Am-mon.42 Y sẽ tra tay hại các nước, ngay Ai-cập cũng không thoát khỏi.43 Y sẽ chiếm lấy các kho vàng bạc và mọi đồ có giá của Ai-cập. Dân Li-by-a và dân Cút sẽ đi theo y.44 Nhưng các tin đồn từ phương Đông và phương Bắc sẽ làm y khiếp sợ. Y giận dữ lên đường để tàn sát, huỷ diệt nhiều sinh mạng.45 Y sẽ dựng lều tại bản doanh trong một vùng nằm giữa biển và núi thánh của Xứ Huy Hoàng. Nhưng ngày tận số của y đã tới rồi mà chẳng có ai cứu giúp.

12. 

1 “Thời đó, Mi-ca-en sẽ đứng lên. Người là vị chỉ huy tối cao, là đấng vẫn thường che chở dân ngươi. Đó sẽ là thời ngặt nghèo chưa từng thấy, từ khi có các dân cho đến bây giờ. Thời đó, dân ngươi sẽ thoát nạn, nghĩa là tất cả những ai được ghi tên trong cuốn sách của Thiên Chúa.

Sống lại và thưởng phạt

2 “Trong số những kẻ an nghỉ trong bụi đất, nhiều người sẽ trỗi dậy: người thì để hưởng phúc trường sinh, kẻ thì để chịu ô nhục và bị ghê tởm muôn đời.3 Các hiền sĩ sẽ chói lọi như bầu trời rực rỡ, những ai làm cho người người nên công chính, sẽ chiếu sáng muôn đời như những vì sao.

4 Phần ngươi, Đa-ni-en, hãy giấu những lời này, hãy niêm cuốn sách lại cho đến thời cùng tận. Bấy giờ nhiều người sẽ đọc, và được hiểu biết thêm.”

Lời sấm được niêm phong

5 Tôi là Đa-ni-en, tôi nhìn xem, thì này: hai người khác đứng hai bên bờ sông, một người bên này, một người bên kia.6 Một trong hai người nói với người kia mặc áo vải gai đứng trên mặt sông: “Cho đến bao giờ những điều kỳ lạ ấy mới chấm dứt? “7 Tôi nghe tiếng nói của người mặc áo vải gai đứng trên mặt sông. Người ấy giơ tay phải, tay trái lên trời mà thề nhân danh Đấng Hằng Sống: “Cho đến một thời, hai thời và nửa thời. Khi nào sức mạnh của dân thánh hết bị bẻ gãy, thì tất cả các điều ấy cũng sẽ hoàn tất.”8 Tôi nghe mà không hiểu. Tôi liền nói: “Thưa ngài, cuối cùng những điều ấy sẽ như thế nào? “9 Người đáp: “Không sao, Đa-ni-en, những lời ấy được giữ kín và niêm phong cho đến thời cùng tận.10 Nhiều kẻ sẽ được thanh luyện, tẩy trắng và thử bằng lửa. Ác nhân tiếp tục làm điều ác và không ai trong họ sẽ hiểu, còn hiền sĩ thì sẽ hiểu.11 Từ thời lễ thường tiến bị bãi và đồ ghê tởm khốc hại được đặt lên, sẽ có một ngàn hai trăm chín mươi ngày.12 Phúc thay ai kiên tâm chờ đợi suốt một ngàn ba trăm ba mươi lăm ngày.13 Phần ngươi, hãy đi cho tới cùng. Ngươi sẽ được an nghỉ, rồi sẽ đứng lên lãnh phần dành cho ngươi khi thời gian chấm dứt.”

III. PHỤ TRƯƠNG

1. BÀ SU-SAN-NA VÀ PHÁN QUYẾT CỦA ÔNG ĐA-NI-EN

13.  1 Có một người ở tại Ba-by-lon, tên là Giô-gia-kim.2 Ông lấy vợ tên là Su-san-na. Bà là con gái ông Khen-ki-gia; bà rất xinh đẹp và kính sợ Chúa.3 Cha mẹ bà là người công chính, đã dạy dỗ con gái theo Luật Mô-sê.4 Ông Giô-gia-kim là người rất giàu, ông có một khu vườn bên cạnh nhà. Người Do-thái thường đến nhà ông, vì ông có thế giá hơn mọi người.5 Năm ấy, người ta đặt hai kỳ mục chọn trong dân làm thẩm phán. Đấng Chí Tôn đã phán về họ rằng: “Từ Ba-by-lon, đã phát xuất sự gian tà do những kỳ mục, những thẩm phán có vẻ như cai trị dân.”6 Những kỳ mục này thường lui tới nhà ông Giô-gia-kim. Tất cả những ai có việc gì cần xét xử thì đến gặp họ.7 Giữa trưa, khi dân đã rút lui, bà Su-san-na vào đi dạo trong vườn của chồng.8 Hai kỳ mục thấy bà mỗi ngày vào đi dạo, thì sinh lòng ham muốn.9 Họ để tâm trí ra đồi bại, quay mắt đi để khỏi nhìn lên trời cao và chẳng nhớ đến những phán quyết công minh của Thiên Chúa.10 Cả hai người đều đắm đuối say mê bà, nhưng họ không cho nhau biết vết thương lòng của mình,11 bởi vì họ xấu hổ không dám tỏ bày lòng ham muốn chiếm được bà.12 Ngày ngày, họ nôn nao rình rập, mong nhìn thấy bà.13 Một hôm, họ nói với nhau: “Đến giờ ăn trưa rồi, ta đi về nhà thôi! ” Thế rồi họ bước ra và chia tay.14 Nhưng sau đó, ông nào cũng trở lui và cả hai lại gặp nhau ở chỗ cũ. Khi đôi bên gạn hỏi nhau, họ mới thú nhận lòng ham muốn của mình. Và bấy giờ họ đồng lòng tìm dịp gặp bà lúc bà ở một mình.15 Họ đang nóng lòng chờ dịp thuận lợi, thì một hôm, bà Su-san-na đi vào vườn như các ngày trước, chỉ có hai tớ gái theo hầu. Vì trời nóng, bà muốn tắm trong vườn.16 Ở đó, chẳng có ai, ngoại trừ hai kỳ mục đang ẩn núp và rình xem.17 Bà bảo các tớ gái: “Đem cho ta dầu và thuốc thơm, rồi đóng cửa vườn lại để ta tắm.”18 Các tớ gái làm như bà nói: các cô đóng cửa lại, đi ra phía cửa hông để lấy những thứ bà yêu cầu. Nhưng các cô không biết là các kỳ mục đang ẩn núp trong vườn.

19 Các cô vừa ra khỏi đó, thì hai kỳ lão liền chồm dậy, nhào tới chỗ bà20 và nói: “Này cửa vườn đã đóng; chẳng ai thấy chúng ta đâu. Chúng tôi thèm muốn bà, bằng lòng trao thân cho chúng tôi đi!21 Nếu không, chúng tôi sẽ làm chứng tố cáo rằng có một thanh niên ở với bà, và vì thế bà đã cho các tớ gái đi khỏi đây.”22 Bà Su-san-na thở dài não nuột và nói: “Tôi bị khốn tứ bề! Quả thật, nếu làm thế, tôi sẽ phải chết; còn nếu không làm, tôi cũng không thoát khỏi tay các ông.23 Nhưng thà không làm gì cả mà sa vào tay các ông, còn hơn là phạm tội trước mặt Chúa! “24 Bà Su-san-na liền kêu lớn tiếng và hai kỳ lão cũng la lên để hại bà.25 Một ông chạy ra mở cửa vườn.26 Khi nghe tiếng kêu trong vườn, các gia nhân đổ xô vào cửa bên hông, để xem sự gì đã xảy ra cho bà.27 Và sau khi các kỳ lão kể lại chuyện đó, các tôi tớ rất lấy làm hổ thẹn, vì chưa bao giờ nghe nói như thế về bà Su-san-na.

28 Hôm sau, dân chúng tụ họp ở nhà ông Giô-gia-kim chồng bà. Hai kỳ lão kia cũng đến đó, lòng đầy gian ý hại bà, để làm cho bà phải chết.29 Họ nói trước mặt dân chúng: “Hãy sai người đi tìm Su-san-na, con gái ông Khen-ki-gia, vợ ông Giô-gia-kim.” Rồi người ta cho người đi tìm bà.30 Bà cũng đến đó với cha mẹ, con cái và tất cả thân nhân.31 Bà Su-san-na rất là duyên dáng, nhan sắc mặn mà.32 Vì bà che khăn, nên các tên khốn kiếp đó bắt phải lột khăn ra để ngắm nhan sắc của bà cho thoả.33 Mọi người thân cũng như tất cả những ai thấy bà, đều khóc.34 Từ giữa đám dân, hai kỳ lão đó đứng dậy đặt tay lên đầu bà.35 Còn bà thì vừa khóc vừa ngước mắt lên trời, vì bà đầy lòng trông cậy vào Chúa.36 Các kỳ lão nói: “Chúng tôi đang dạo chơi một mình trong vườn, thì mụ này đã vào với hai tớ gái, đóng cửa vườn lại, rồi cho các tớ gái đi ra.37 Một gã thanh niên núp sẵn ở đó, đến bên mụ và nằm với mụ.38 Lúc ấy, chúng tôi đang ở một góc vườn, thấy chuyện đồi bại, liền chạy tới.39 Chúng tôi thấy chúng ăn nằm với nhau, nhưng không tóm được gã thanh niên, vì hắn khoẻ hơn chúng tôi, và đã mở cửa chạy mất.40 Còn mụ này, chúng tôi bắt được và hỏi mụ ta xem gã thanh niên kia là ai.41 Nhưng mụ không chịu nói cho chúng tôi. Chúng tôi xin làm chứng về những điều ấy.”

Cộng đồng tin họ, vì họ là những kỳ mục trong dân và là những thẩm phán. Rồi người ta kết án tử hình bà Su-san-na. 42 Nhưng bà Su-san-na kêu lớn tiếng rằng: “Lạy Thiên Chúa hằng hữu, Đấng am tường những điều bí ẩn và thấy hết mọi sự trước khi chúng xảy ra,43 Ngài biết là họ đã làm chứng gian hại con. Này con phải chết, tuy chẳng làm điều gì trong những điều họ đã vu cho con.”

44 Chúa đã nghe tiếng bà kêu.45 Trong lúc bà bị điệu đi hành hình, Thiên Chúa đã đánh động tâm trí thánh thiện của một thiếu niên tên là Đa-ni-en.46 Thiếu niên đó kêu lớn tiếng rằng: “Tôi vô can trong vụ đổ máu người phụ nữ này! “47 Toàn dân đều quay về phía cậu thiếu niên và hỏi: “Lời cậu vừa nói có nghĩa gì? “48 Cậu đứng giữa họ và nói: “Các người ngu xuẩn đến thế sao, hỡi con cái Ít-ra-en? Các người đã lên án một người con gái Ít-ra-en mà không xét hỏi và cũng không biết rõ sự việc ra sao!49 Hãy trở lại nơi xét xử, vì những người kia đã làm chứng gian để hại người phụ nữ này.”

50 Toàn dân vội vàng trở lại đó, và các kỳ mục nói với Đa-ni-en: “Đến đây, hãy ngồi giữa chúng tôi và cho chúng tôi biết ý kiến, vì Thiên Chúa đã cho cậu được khôn ngoan như bậc lão thành.”51 Đa-ni-en nói: “Hãy tách riêng họ ra, rồi tôi sẽ xét hỏi.”52 Sau khi họ đã bị tách ra rồi, Đa-ni-en gọi một trong hai kỳ mục lại và nói: “Hỡi con người già đời trong đường gian ác, tội lỗi xưa ông đã phạm, nay lại tái diễn:53 ông đã xử bất công, kết án người vô can, tha bổng kẻ đắc tội, bất kể lời Chúa dạy: “Ngươi chớ giết người vô tội và người công chính.54 Vậy bây giờ, nếu quả thật ông đã thấy bà kia, thì hãy nói ông đã thấy họ thông gian với nhau dưới cây nào? ” Người ấy đáp: “Dưới cây trắc.”55 Đa-ni-en nói: “Ông đã nói dối trắng trợn khiến ông phải mất mạng, vì thiên sứ của Thiên Chúa đã nhận được án lệnh của Người là chặt ông làm đôi.”56 Sau khi cho người này ra, Đa-ni-en truyền dẫn người kia vào, rồi nói: “Hỡi nòi giống Ca-na-an, chứ không phải nòi giống Giu-đa, sắc đẹp đã mê hoặc ông, và tình dục đã làm cho ông ra hư hỏng.57 Các ông đã hành động như thế với các con gái Ít-ra-en. Vì sợ, họ đã thông gian với các ông. Nhưng người con gái Giu-đa này đã không chịu nổi sự gian tà của các ông.58 Vậy bây giờ, hãy nói cho tôi biết ông đã bắt quả tang họ thông gian với nhau dưới cây nào? ” – Người ấy đáp: “Dưới cây dẻ.”59 Đa-ni-en mới bảo: “Cả ông nữa, ông cũng nói dối trắng trợn khiến ông phải mất mạng, vì thiên sứ của Thiên Chúa, tay cầm gươm, đang chờ để xẻ ông làm đôi nhằm tiêu diệt các ông.”

60 Bấy giờ toàn thể cộng đồng lớn tiếng reo hò và chúc tụng Thiên Chúa, Đấng cứu những kẻ trông cậy vào Người.61 Rồi người ta quay lại chống hai kỳ lão, vì Đa-ni-en đã dựa vào lời chính miệng các ông nói mà thuyết phục họ là các ông đã làm chứng gian.62 Theo luật Mô-sê, người ta giáng cho các ông hình phạt mà các ông định bắt người khác phải chịu, đó là giết các ông. Ngày ấy, máu người vô tội khỏi bị đổ oan.63 Vợ chồng ông Khen-ki-gia cùng với con rể là Giô-gia-kim và mọi người thân thuộc đều ca ngợi Thiên Chúa về bà Su-san-na, con gái của họ, vì người ta đã không thấy điều gì bất xứng nơi bà.

64 Từ ngày ấy trở đi, cậu Đa-ni-en nên cao trọng trước mặt dân.

2. THẦN BEN VÀ CON RẮN

Ông Đa-ni-en và các tư tế của thần Ben

14.  1 Sau khi vua Át-ty-a-ghê về sum họp với tổ tiên, Ky-rô, vua Ba-tư, lên trị vì vương quốc.2 Ông Đa-ni-en là cận thần của vua và được vua nể vì hơn mọi thân hữu khác.3 Người Ba-by-lon có một tượng thần tên là Ben. Mỗi ngày, người ta phải tốn mất hơn sáu tạ bột mì thượng hảo hạng, bốn mươi con chiên và chừng hai trăm năm mươi lít rượu cho tượng thần đó.4 Nhà vua sùng bái tượng thần và ngày ngày vẫn đến thờ lạy. Còn ông Đa-ni-en thì thờ lạy Thiên Chúa của mình.5 Vua nói với ông: “Tại sao ngươi không thờ lạy thần Ben? ” Ông đáp: “Bởi vì hạ thần không sùng bái những tượng thần do bàn tay con người làm ra, mà chỉ sùng bái Thiên Chúa hằng sống, Đấng đã tạo dựng trời đất và nắm chủ quyền trên mọi xác phàm.”6 Vua liền nói: “Ngươi không tin rằng thần Ben là một vị thần hằng sống sao? Ngươi chẳng thấy tất cả những gì ngài ăn, ngài uống mỗi ngày sao? “7 Ông Đa-ni-en vừa cười vừa nói: “Tâu đức vua, xin ngài chớ lầm! Thần ấy bên trong là đất sét, bên ngoài là đồng và chẳng bao giờ ăn uống.”8 Vua giận dữ, triệu các tư tế lại và bảo: “Nếu các ngươi không nói cho ta biết ai ăn của cúng đó, thì các ngươi sẽ phải chết; còn nếu các ngươi chứng minh được là thần Ben dùng những của ấy, thì Đa-ni-en sẽ phải chết, vì y đã nói phạm đến thần Ben.”9 Ông Đa-ni-en thưa với vua: “Xin đức vua cứ làm như lời ngài đã nói! ” Số các tư tế của thần Ben là bảy mươi, không kể vợ con họ.10 Vua cùng với ông Đa-ni-en tới đền thờ thần Ben.11 Các tư tế của thần Ben thưa với vua: “Bây giờ các bề tôi đây xin ra ngoài. Còn ngài, tâu đức vua, xin ngài cho dọn các thức ăn và cho đem rượu pha tới, rồi xin ngài đóng cửa và lấy ấn của đức vua mà niêm phong lại. Sáng mai khi ngài đến mà không thấy là thần Ben đã dùng mọi của cúng rồi, thì các bề tôi đây sẽ phải chết; bằng không, thì tên Đa-ni-en, kẻ nói dối nhằm hại các bề tôi đây, sẽ phải chết.”12 Họ vững tâm khi nghĩ đến con đường bí mật đã được mở ra ở dưới bàn, là con đường họ vẫn quen vào để mang của cúng đi.13 Khi những người ấy đã ra ngoài và vua đã cho dọn thức ăn dâng thần Ben,14 thì ông Đa-ni-en truyền cho các tiểu đồng của ông đem tro rải khắp đền thờ, chỉ một mình vua thấy mà thôi. Sau đó, họ đi ra, đóng cửa lại, lấy ấn của vua mà niêm phong, rồi ra về.15 Đêm ấy, theo thói quen, các tư tế đã cùng với vợ con tới đó và ăn uống sạch.16 Sáng hôm sau, vua cùng với ông Đa-ni-en đến sớm.17 Vua hỏi: “Này Đa-ni-en, dấu niêm phong có còn nguyên không? ” Ông đáp: “Thưa đức vua, vẫn còn nguyên.”18 Khi vừa mở cửa ra và nhìn lên bàn, vua liền kêu lớn tiếng: “Lạy thần Ben, ngài thật cao cả! Ngài chẳng lừa dối ai bao giờ! “19 Ông Đa-ni-en cười và giữ vua lại, không để vua đi vào bên trong. Rồi ông nói: “Xin đức vua coi nền nhà và xem đây là những vết chân của ai.”20 Vua nói: “Ta thấy vết chân đàn ông, đàn bà và con trẻ.”21 Bấy giờ vua nổi cơn thịnh nộ, truyền bắt giữ các tư tế và vợ con họ. Họ chỉ cho vua thấy những cửa bí mật đưa họ vào dùng những thức ăn đặt trên bàn.22 Vua ra lệnh giết họ, rồi giao tượng thần Ben cho ông Đa-ni-en. Ông đã phá huỷ tượng và đền thờ thần Ben.

Ông Đa-ni-en giết con rắn

23 Bấy giờ có một con rắn lớn được dân Ba-by-lon sùng bái.24 Vua nói với ông Đa-ni-en: “Ngươi không thể nói rằng đây không phải là một vị thần hằng sống! Vậy hãy thờ lạy ngài đi! “25 Ông Đa-ni-en thưa: “Hạ thần thờ lạy Chúa là Thiên Chúa của hạ thần, vì Người mới là Thần Hằng Sống. Phần ngài, tâu đức vua, nếu ngài cho phép, thần sẽ giết con rắn mà chẳng cần gươm đao hay gậy gộc.”26 Vua nói: “Ta cho phép nhà ngươi.”27 Ông Đa-ni-en lấy nhựa dính, mỡ và lông thú, nấu tất cả với nhau, vo thành những viên nhỏ, rồi ném vào miệng con rắn. Ăn xong, con rắn liền bể bụng. Bấy giờ ông Đa-ni-en nói: “Hãy coi, đồ các ngươi sùng bái đó! “28 Nghe thế, dân Ba-by-lon hết sức giận dữ; họ hợp nhau chống lại nhà vua và nói: “Nhà vua đã trở thành người Do-thái mất rồi! Ông ta đã phá huỷ tượng thần Ben, giết xà thần và hạ sát các tư tế.”29 Họ đến gặp vua và nói: “Yêu cầu vua nộp Đa-ni-en cho chúng tôi; nếu không, chúng tôi sẽ giết vua và cả hoàng gia nữa.”30 Vua thấy mình bị dồn ép quá mức, nên buộc lòng phải nộp ông Đa-ni-en cho họ.

Ông Đa-ni-en trong hầm sư tử

31 Họ đẩy ông Đa-ni-en vào hầm sư tử và ông đã ở đó sáu ngày.32 Trong hầm, có bảy con sư tử. Trước kia, mỗi ngày người ta vất cho chúng hai xác người và hai con cừu. Nhưng nay người ta không vất gì cho chúng nữa, để chúng ăn thịt ông Đa-ni-en.

33 Bấy giờ ngôn sứ Kha-ba-cúc đang ở Giu-đê. Ông nấu canh, bẻ nhỏ bánh cho vào giỏ, rồi đem ra đồng cho thợ gặt.34 Thiên sứ của Đức Chúa bảo ông Kha-ba-cúc: “Hãy đem bữa ăn của ngươi đến Ba-by-lon cho Đa-ni-en đang ở trong hầm sư tử.”35 Ông Kha-ba-cúc nói: “Thưa ngài, tôi chưa hề thấy Ba-by-lon bao giờ, cũng chẳng biết hầm sư tử ở đâu? “36 Thiên sứ của Đức Chúa nắm đầu, túm lấy tóc ông, rồi dùng sức mạnh của thần khí, đem ông đến Ba-by-lon, để trên miệng hầm.37 Ông Kha-ba-cúc gọi to: “Đa-ni-en, Đa-ni-en, hãy nhận lấy bữa ăn Thiên Chúa gửi đến cho ông đây! “38 Ông Đa-ni-en nói: “Lạy Thiên Chúa, Ngài đã nhớ đến con và không bỏ rơi những kẻ yêu mến Ngài.”39 Ông Đa-ni-en đứng dậy ăn. Còn Thiên sứ của Thiên Chúa thì tức khắc đưa ông Kha-ba-cúc trở về nơi ông ở.

40 Ngày thứ bảy, vua đến khóc ông Đa-ni-en. Vua tới miệng hầm và ngó vào, thì thấy ông Đa-ni-en đang ngồi ở đó.41 Vua liền kêu lớn tiếng rằng: “Lạy Chúa là Thiên Chúa của Đa-ni-en, Ngài là Đấng Cao Cả. Ngoài Ngài ra, chẳng có thần nào khác! “42 Rồi vua cho người kéo ông Đa-ni-en ra khỏi hầm. Còn những kẻ toan hại ông, thì vua cho tống vào đó. Tức thì chúng bị sư tử xé xác trước mặt vua.

SÁCH HÔ-SÊ

1.  1 Lời ĐỨC CHÚA phán với ông Hô-sê, con ông Bơ-ê-ri, dưới thời các vua Út-di-gia, Giô-tham, A-khát và Khít-ki-gia trị vì Giu-đa, và dưới thời vua Gia-róp-am con vua Giô-át trị vì Ít-ra-en.

I. HÔN NHÂN CỦA ÔNG HÔ-SÊ: MỘT BIỂU TƯỢNG

Ông Hô-sê kết hôn và sinh con

2 Khởi đầu, lời ĐỨC CHÚA thể hiện trong cuộc đời ông Hô-sê. ĐỨC CHÚA phán với ông Hô-sê: “Hãy đi cưới một người đàn bà làm điếm để sinh những đứa con đàng điếm, vì cả xứ đều bỏ ĐỨC CHÚA mà đi làm điếm.”

3 Ông đã đi cưới bà Gô-me, con gái ông Đíp-la-gim. Bà đã có thai và sinh cho ông một người con trai.4 ĐỨC CHÚA phán với ông: “Hãy đặt tên cho nó là Gít-rơ-en, vì chẳng bao lâu nữa Ta sẽ đến trừng phạt nhà Giê-hu vì tội đổ máu tại Gít-rơ-en, và Ta sẽ dẹp bỏ vương quốc Ít-ra-en.5 Trong ngày đó, Ta sẽ bẻ gãy cung nỏ của Ít-ra-en trong thung lũng Gít-rơ-en.”

6 Bà lại có thai và sinh một người con gái. ĐỨC CHÚA phán với ông: “Hãy đặt tên nó là Lô Ru-kha-ma (“không-được-thương”) vì Ta không còn chạnh thương nhà Ít-ra-en, không xử khoan hồng với chúng nữa.7 Nhưng nhà Giu-đa thì Ta sẽ chạnh thương và sẽ cứu chúng nhờ ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của chúng; Ta sẽ không dùng cung nỏ, gươm đao và chinh chiến mà cứu chúng, cũng chẳng dùng chiến mã và kỵ binh.”

8 Bà cai sữa cho Lô Ru-kha-ma, rồi lại có thai và sinh một con trai.9 ĐỨC CHÚA phán: “Đặt tên cho nó là Lô Am-mi (“không-phải-dân-Ta”), vì các ngươi không phải là dân của Ta, và đối với các ngươi, Ta kể như không có.”

Viễn ảnh tương lai

2.  1 Con cái Ít-ra-en sẽ nhiều như cát biển, đong không xuể, đếm không hết.
Tại chính nơi chúng đã được gọi: “Không-phải-dân-Ta”,
chúng sẽ được gọi: “Con cái của Thiên Chúa hằng sống.”

2 Con cái Giu-đa và con cái Ít-ra-en
sẽ cùng nhau đoàn kết lại, và sẽ vươn lên, tràn ra ngoài xứ sở;
vì ngày đó tại Gít-rơ-en sẽ thật là trọng đại.

3 Hãy gọi anh em các ngươi là: “Am-mi” (“Dân-Ta”)
và gọi chị em các ngươi là: “Ru-kha-ma” (“Được-thương”).

ĐỨC CHÚA và hôn thê thất tín của Người

4 Hãy đưa mẹ các ngươi ra toà, đưa nó ra toà đi!
Vì nó không phải là vợ của Ta, và Ta không phải là chồng của nó.
Những vật đĩ thoã trên mặt nó,
và những dấu ngoại tình trên ngực, nó đều phải vứt bỏ.

5 Nếu không, Ta sẽ lột trần nó ra,
và để nó như ngày mới lọt lòng mẹ.
Ta sẽ biến nó thành sa mạc hoang vu,
cho nó trở nên đất khô khan cằn cỗi, và làm cho nó chết khát.

6 Con cái nó, Ta sẽ không thương,
vì chúng là những đứa con sinh ra do đĩ điếm.

7 Mẹ chúng quả thật đã làm điếm,
kẻ mang thai chúng đã thất tiết rồi,
vì nó đã nói: “Tôi đi theo các tình nhân của tôi,
chính họ cho tôi bánh và nước,
cho len, cho vải, cho dầu ăn, cho thức uống.”

8 Bởi thế, này Ta sẽ lấy gai góc chặn đường nó lại,
sẽ dựng một bức tường để nó không thấy được lối đi.

9 Nó sẽ chạy theo các tình nhân của nó mà không gặp,
sẽ tìm kiếm chúng mà chẳng thấy.
Bấy giờ nó mới nói: “Tôi phải trở về
với người chồng đầu tiên cuả tôi,
vì hồi ấy tôi sướng hơn bây giờ.”

10 Nó đâu biết rằng chính Ta đã ban cho nó
lúa mì, rượu mới với dầu tươi,
cũng chính Ta đã tặng cho nó bạc vàng nhiều vô kể,
vậy mà chúng lại đem chế tạo đồ dâng kính Ba-an!

11 Bởi thế, vào mùa gặt, Ta sẽ đòi lại lúa mì của Ta.
Vào thời cất rượu, Ta sẽ lấy lại rượu mới của Ta.
Len và vải của Ta, Ta sẽ đòi lại hết:
nó sẽ chẳng còn gì để che tấm thân trần truồng của nó nữa.

12 Giờ đây, trước mặt các tình nhân của nó,
Ta sẽ phơi bày ra cái đáng hổ thẹn của nó,
và không ai giựt được nó khỏi tay Ta.

13 Ta sẽ chấm dứt mọi thú vui,
mọi ngày sóc, ngày hưu, ngày lễ, và mọi cuộc hội hè của nó.

14 Ta sẽ phá tan vườn nho nương vả,
những thứ làm cho nó khoe khoang:
“Công tôi đi khách đó: các tình nhân đã trả cho tôi! “
Ta sẽ biến chúng thành bụi rậm, mặc cho dã thú gặm tan hoang.

15 Ta sẽ trừng phạt nó vì những ngày của Ba-an,
những ngày nó đốt hương thờ kính chúng,
những ngày nó đeo nhẫn, đeo kiềng
chạy theo đám tình nhân của nó,
còn Ta thì nó nỡ bỏ quên – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA.

16 Bởi thế, này Ta sẽ quyến rũ nó,
đưa nó vào sa mạc, để cùng nó thổ lộ tâm tình.

17 Từ nơi đó, Ta sẽ trả lại vườn nho của nó,
biến thung lũng A-kho thành cửa khẩu hy vọng.
Ở đó, nó sẽ đáp lại như buổi thanh xuân,
như ngày nó đi lên từ Ai-cập.

18 Vào ngày đó – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA –
ngươi sẽ gọi Ta: “Mình ơi”, chứ không còn gọi “Ông chủ ơi” nữa.

19 Ta sẽ không cho nó mở miệng gọi tên thần Ba-an,
chẳng còn ai nhớ đến các thần này mà gọi tên chúng nữa.

20 Trong ngày đó, vì dân Ta,
Ta sẽ thiết lập một giao ước với thú vật đồng hoang,
với chim chóc trên trời, với loài bò sát dưới đất:
Ta sẽ bẻ gãy cung nỏ gươm đao,
chấm dứt chiến tranh trên toàn xứ sở,
và Ta sẽ cho chúng được sống yên hàn.

21 Ta sẽ lập với ngươi một hôn ước vĩnh cửu,
Ta sẽ lập hôn ước với ngươi trong công minh và chính trực,
trong ân tình và xót thương;

22 Ta sẽ lập hôn ước với ngươi trong tín thành,
và ngươi sẽ được biết ĐỨC CHÚA.

23 Vào ngày đó, Ta sẽ đáp lại, – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA –
Ta sẽ đáp lại trời, và trời sẽ đáp lại đất.

24 Đất sẽ đáp lại lúa mì, rượu mới và dầu tươi,
và những thứ đó sẽ đáp lại Gít-rơ-en.

25 Ta sẽ gieo trồng nó làm của riêng Ta trong xứ sở,
sẽ chạnh thương con bé Lô Ru-kha-ma
(“Không-được-thương”),
sẽ nói với thằng Lô Am-mi
(“Không-phải-dân-Ta”):
“Ngươi là Am-mi” (“Dân-Ta”).
Còn nó sẽ thưa: “Thiên Chúa của con!”

Ông Hô-sê nhận lại người vợ thất tín và sửa trị bà. Ý nghĩa của biểu tượng.

3.  1 ĐỨC CHÚA phán với tôi: “Một lần nữa, ngươi cứ đi yêu người đàn bà đang có tình nhân và đang ngoại tình, cũng như ĐỨC CHÚA yêu thương con cái Ít-ra-en, trong khi chúng lại quay lưng đi theo các thần khác và thích bánh nho.”2 Thế là tôi đã bỏ ra mười lăm đồng bạc, ba mươi thùng lúa mạch, để mua nàng về.3 Tôi bảo nàng: “Trong một thời gian dài, mình cứ ở yên cho tôi, không được đi khách, không được theo người đàn ông nào cả; phần tôi, tôi cũng xử với mình như thế.”

4 Vì quả thật, trong một thời gian dài, con cái Ít-ra-en sẽ không có vua, không thủ lãnh, không hy lễ cũng chẳng có trụ thần, chẳng có ê-phốt và tơ-ra-phim.5 Sau đó, con cái Ít-ra-en sẽ trở lại tìm kiếm ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của chúng, và tìm Đa-vít, vua của chúng. Ngày lại ngày chúng sẽ đem lòng kính sợ mà hướng về ĐỨC CHÚA và chờ mong ân huệ của Người.

II. ÍT-RA-EN PHẠM TỘI VÀ BỊ TRỪNG PHẠT

Tình trạng đồi bại chung

4.  1 Hỡi con cái Ít-ra-en, hãy nghe lời ĐỨC CHÚA,
vì ĐỨC CHÚA sẽ kiện dân cư xứ này: Quả thật trong xứ này,
chẳng có tín thành, chẳng có ân nghĩa,
cũng chẳng có sự hiểu biết Thiên Chúa.

2 Chỉ có bội thề, dối trá, sát nhân và trộm cướp,
áp bức với ngoại tình, các cuộc đổ máu cứ nối tiếp nhau.

3 Chính vì thế mà xứ sở tang thương, dân cư tàn tạ,
ngay thú vật ngoài đồng, cũng như chim trời cá biển,
tất cả đều chết hết.

Lên án hàng tư tế

4 Thế mà chẳng có ai kiện tụng, chẳng có ai trách mắng!
Nhưng hỡi tư tế, chính Ta sẽ đưa ngươi ra toà.

5 Giữa ban ngày, chính ngươi sẽ vấp ngã,
ban đêm, cả ngôn sứ cũng vấp ngã như ngươi.
Ta sẽ bắt mẹ ngươi phải chết.

6 Vì thiếu hiểu biết mà dân Ta bị tiêu vong.
Bởi chính ngươi đã gạt bỏ sự hiểu biết,
nên Ta sẽ gạt bỏ ngươi, không cho làm tư tế của Ta nữa;
ngươi đã quên luật của Thiên Chúa ngươi thờ,
thì Ta, Ta cũng sẽ quên con cái ngươi.

7 Tất cả đám đông chúng nó đều xúc phạm đến Ta.
Vinh quang của chúng, chúng đổi lấy ô nhục.

8 Chúng có ăn, nhờ dân Ta phạm tội,
chúng thích thú, khi dân Ta lỗi lầm.

9 Nên tư tế phải chung số phận của dân:
Ta sẽ cứ lối sống của nó mà trừng phạt nó,
sẽ trả cho nó theo việc nó làm.

10 Chúng ăn mà chẳng no, làm điếm mà chẳng sinh sôi nẩy nở,
vì chúng đã bỏ không thờ ĐỨC CHÚA.  

Phụng tự của Ít-ra-en: thờ ngẫu tượng và sống sa đọa

11 Đĩ điếm, rượu chè làm dân Ta mất trí.

12 Chúng thỉnh ý khúc gỗ của mình,
và xin cây gậy của mình mặc khải cho;
vì thói đĩ điếm làm cho chúng lầm lạc,
chúng bỏ Thiên Chúa của mình mà đi làm điếm.

13 Chúng sát tế, chúng dâng hương
trên các đỉnh núi, trên các ngọn đồi,
dưới bóng mát cây sồi, cây hương, cây sến.
Thảo nào con gái các ngươi chẳng làm điếm,
con dâu các ngươi chẳng ngoại tình.

14 Con gái các ngươi làm điếm, con dâu các ngươi ngoại tình,
Ta sẽ không trừng phạt,
vì chính các tư tế cũng giao du với kỹ nữ
và cùng tế lễ với điếm thần.
Đám dân đen chẳng thông, chẳng hiểu sẽ bị diệt vong.

Cảnh cáo Giu-đa và Ít-ra-en

15 Hỡi Ít-ra-en, nếu ngươi làm điếm,
thì đừng để cho Giu-đa mắc tội!
Đừng tới Ghin-gan, đừng lên Bết A-ven,
đừng thề “nhân danh ĐỨC CHÚA hằng sống.”

16 Quả thật, Ít-ra-en cứng đầu như một con bò cái bất trị,
chẳng lẽ bây giờ ĐỨC CHÚA lại để cho chúng tha hồ ăn cỏ
khác nào con chiên trong đồng rộng thênh thang?

17 Ép-ra-im kết thân với ngẫu tượng, thì cứ để mặc nó!

18 Chè chén say sưa rồi, chúng tha hồ đàng điếm;
chúng ham thích Ô nhục mà bỏ Đấng Tối Cao.

19 Chúng sẽ bị cuốn đi trong cánh gió,
sẽ hổ thẹn vì hiến lễ của mình.

Tư tế và vua chúa quan quyền đưa dân tới suy vong

5.  1 Hỡi các tư tế, hãy nghe điều này, hỡi nhà Ít-ra-en, hãy chú ý,
hỡi triều đình, hãy lắng tai!
Các ngươi có bổn phận bảo vệ luật pháp,
thế mà tại Mít-pa, các ngươi lại thành cái bẫy,
thành chiếc lưới giăng trên núi Ta-bo.

2 Tại Sít-tim, chúng đã đào sâu thêm cái hố.
Còn Ta, Ta sẽ trừng phạt chúng hết thảy.

3 Ép-ra-im, Ta biết nó, và Ít-ra-en đâu khuất mắt Ta!
Chính vì ngươi, hỡi Ép-ra-im, ngươi đã làm điếm,
mà Ít-ra-en ra nhơ bẩn.

4 Các việc chúng làm không cho chúng trở lại
với Thiên Chúa của chúng.
Đã quen thói điếm đàng, chúng chẳng biết ĐỨC CHÚA là ai.

5 Ít-ra-en kiêu ngạo, tội của nó sẽ tố cáo nó.
Ít-ra-en và Ép-ra-im chao đảo vì tội ác của mình.
Cùng với chúng, Giu-đa cũng chao đảo.

6 Chúng mang chiên mang bò đến tìm ĐỨC CHÚA,
nhưng chúng sẽ không gặp được Người, vì Người đã tránh mặt.

7 Chúng phản bội ĐỨC CHÚA, vì đã sinh những đứa con hoang;
giờ đây ngày sóc sẽ là ngày chúng bị huỷ diệt
cùng với sản nghiệp chúng.

Cảnh huynh đệ tương tàn

8 Tại Ghíp-a, hãy rúc tù và, hãy thổi kèn ở Ra-ma,
tại Bết A-ven, hãy lên tiếng báo động.
Hỡi Ben-gia-min,quân thù đến sau ngươi rồi đó!

9 Trong ngày bị đánh bị phạt, Ép-ra-im sẽ nên hoang tàn:
Đây là tin chắc chắn Ta loan báo cho các chi tộc Ít-ra-en.

10 Các thủ lãnh Giu-đa khác nào những kẻ lấn đường ranh giới,
nên cơn thịnh nộ của Ta, Ta sẽ trút lên chúng như trút nước.

11 Ép-ra-im bị áp bức chà đạp do án lệnh của Thiên Chúa,
vì nó đã vui thích đi theo điều dơ bẩn.

12 Phần Ta, Ta sẽ như mối mọt gặm nhấm Ép-ra-im,
sẽ như bệnh mục xương xâm nhập nhà Giu-đa.

Giao ước với ngoại bang chỉ là hư ảo

13 Khi Ép-ra-im thấy mình mắc bệnh
và Giu-đa thấy vết thương của mình,
thì Ép-ra-im đã đến với Át-sua, và đã sai sứ đến hầu vua cả.
Nhưng ông ấy sẽ chẳng chữa được các ngươi,
cũng chẳng làm cho vết thương các ngươi được lành.

14 Vì với Ép-ra-im, Ta sẽ như sư tử,
Ta cũng sẽ như sư tử với nhà Giu-đa:
Ta sẽ vồ lấy, Ta sẽ ra đi, mang mồi theo, không để ai cướp mất.

15 Ta sẽ ra đi, về nơi Ta ngự,
cho đến khi chúng đền tội xong và tìm kiếm nhan Ta;
chúng sẽ mau mắn tìm Ta trong cơn khốn quẫn.

Trở về với ĐỨC CHÚA, nhưng không thật lòng.

6.  1 “Nào chúng ta hãy trở về cùng ĐỨC CHÚA.
Người đã xé nát thân chúng ta, nhưng rồi lại chữa lành.
Người đã đánh đập chúng ta, nhưng rồi lại băng bó vết thương.

2 Sau hai ngày, Người sẽ hoàn lại cho chúng ta sự sống;
ngày thứ ba, sẽ cho chúng ta trỗi dậy,
và chúng ta sẽ được sống trước nhan Người.

3 Chúng ta phải biết ĐỨC CHÚA, phải ra sức nhận biết Người;
như hừng đông mỗi ngày xuất hiện,
chắc chắn thế nào Người cũng đến.
Người sẽ đến với chúng ta như mưa rào,
như mưa xuân tưới gội đất đai.”

4 Ta phải làm gì cho ngươi đây, Ép-ra-im hỡi?
Ta phải làm gì cho ngươi, hỡi Giu-đa?
Tình yêu của các ngươi khác nào mây buổi sáng,
mau tan tựa sương mai.

5 Vì vậy, Ta dùng ngôn sứ mà đánh phạt chúng,
lấy lời miệng Ta mà diệt trừ.
Phán quyết của Ta sẽ bừng lên như ánh sáng.

6 Vì Ta muốn tình yêu chứ không cần hy lễ,
thích được các ngươi nhận biết hơn là được của lễ toàn thiêu.

Tội ác của Ít-ra-en xưa và nay

7 Nhưng ngay tại A-đam, chúng đã vi phạm giao ước,
tại đó, chúng đã phản bội Ta.

8 Ga-la-át là thành của những kẻ bất lương, thành đầy vết máu.

9 Trên đường về Si-khem, một đoàn tư tế gây chết chóc,
khác nào bọn cướp đang rình rập.
Việc chúng làm quả thật xấu xa.

10 Tại nhà Ít-ra-en, Ta đã thấy một điều ghê tởm,
ở đó, Ép-ra-im đã làm điếm, Ít-ra-en đã ra dơ bẩn.

11 Cả ngươi nữa, hỡi Giu-đa, Ta ấn định cho ngươi một mùa gặt,
khi Ta đổi số phận dân Ta.

7.  

1 Khi Ta muốn chữa Ít-ra-en cho lành,
thì tội lỗi của Ép-ra-im và các sự gian ác của Sa-ma-ri
lại bị phát giác, bởi vì chúng làm chuyện gian tà:
kẻ trộm lẻn vào trong, bọn cướp phá bên ngoài.

2 Chúng đâu có tự nhủ: Ta nhớ hết mọi việc gian ác chúng làm.
Giờ đây hành động của chúng trói chặt lấy chúng,
tất cả rành rành trước mặt Ta.

3 Để mua vui cho vua, chúng làm điều gian ác,
để vừa lòng thủ lãnh, chúng bày chuyện dối gian,

4 tất cả bọn chúng là một đám ngoại tình, chẳng khác chi hoả lò phừng phực cháy
khi người nướng bánh đã ngưng thổi lửa
để nhồi bột cho đến lúc dậy men.

5 Trong ngày mừng đức vua,
các thủ lãnh choáng váng vì hơi rượu;
bọn chè chén say sưa cũng được rộng tay đón tiếp.

6 Khi chúng bày những âm mưu xảo quyệt,
lòng chúng chẳng khác chi hoả lò:
suốt đêm cơn giận của chúng ngủ yên,
nhưng bừng lên như ngọn hoả hào khi trời sáng;

7 cả đám phừng phực như hoả lò
đốt tiêu tan các quan toà của chúng;
hết thảy các vua đều gục ngã
mà không ai trong chúng kêu cầu Ta.

Ít-ra-en điêu tàn vì cầu cứu ngoại bang

8 Ép-ra-im chung đụng với chư dân,
Ép-ra-im như chiếc bánh nướng cháy một bên.

9 Ngoại bang ngốn hết sức lực của nó
mà nó cũng chẳng hay.
Ngay cả khi tóc nó bạc màu, nó nào đâu có biết.

10 Ít-ra-en kiêu ngạo, tội nó tố cáo nó. Chúng đâu chịu trở về
với ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa của chúng.
Sự thể đã rành rành như vậy
mà chúng cũng chẳng kiếm tìm Người.

11 Ép-ra-im vô tâm vô trí tựa bồ câu khờ dại.
Chúng cầu cứu Ai-cập, chạy đến với Át-sua.

12 Chúng lên đường là Ta bủa lưới bắt chúng.
Ta sẽ làm cho chúng sa lưới tựa chim trời.
Khi hay tin chúng cùng nhau hội họp, Ta liền sửa trị chúng.

Ít-ra-en bị trừng phạt vì vô ơn

13 Khốn cho chúng vì chúng đã lìa bỏ Ta.
Chúng sẽ bị tiêu diệt, vì đã dám xúc phạm đến Ta.
Ta, Ta muốn giải cứu chúng,
còn chúng lại nói lời gian dối phạm đến Ta.

14 Chúng kêu lên Ta mà chẳng thật lòng,
chỉ than vãn trên giường nằm của chúng.
Chúng tự rạch mình, mong có được lúa mì, rượu mới,
chúng đã phản bội Ta.

15 Ta vừa uốn nắn, vừa làm cho cánh tay chúng nên mạnh mẽ,
nhưng chúng lại mưu đồ chống lại Ta.

16 Chúng quay về với cái hư không.
Chúng chẳng khác nào cánh cung sai chậy.
Thủ lãnh chúng ngã gục dưới lưỡi gươm,
vì thốt ra những lời giận dữ;
trong đất Ai-cập, chúng sẽ nên trò cười.

Báo động

8.  1 Thổi kèn báo động đi!
Như phượng hoàng, tai hoạ chụp xuống nhà ĐỨC CHÚA,
vì chúng không tuân giữ giao ước của Ta,
và vi phạm lề luật Ta truyền dạy.

2 Chúng lớn tiếng kêu lên Ta:
“Lạy Thiên Chúa chúng con, chúng con là Ít-ra-en,
chúng con nhận biết Ngài.”

3 Thế nhưng, điều tốt lành, Ít-ra-en đã gạt bỏ,
nên nó sẽ bị quân thù đuổi bắt.

Xã hội hỗn loạn vì dân Chúa thờ ngẫu tượng

4 Chúng phong vương người mà Ta không chọn,
tôn làm lãnh tụ kẻ Ta không biết,
dùng bạc vàng làm ra ngẫu tượng, để rồi bị đập tan.

5 Hỡi Sa-ma-ri, hãy gạt bỏ con bê của ngươi
– chúng làm Ta nổi giận.
Chúng không chịu để cho Ta thanh tẩy mãi cho tới bao giờ? –

6 Vì con bê đó là do Ít-ra-en làm ra,
do một nghệ nhân sản xuất, nó đâu phải là thần!
Chắc chắn con bê của Sa-ma-ri sẽ như thể mùn cưa.

7 Chúng gieo gió thì phải gặt bão.
Chúng là cây lúa không làm đòng, là hạt lúa lép không có bột,
nhưng giả như có bột, thì ngoại bang cũng sẽ nuốt hết.

Ít-ra-en bị tiêu diệt vì cầu cứu ngoại bang

8 Ít-ra-en đã bị nuốt trửng.
Giờ đây chúng ở lẫn với chư dân, như một vật chẳng ai ưa thích.

9 Chính chúng đã lên với Át-sua.
Con lừa hoang còn thích sống độc lập,
nhưng Ép-ra-im lại tặng quà để có tình nhân.

10 Dù chúng có đem quà tặng chư dân,
thì giờ đây Ta cũng gom chúng lại,
và chẳng bao lâu nữa, chúng sẽ phải khốn khổ lao đao
dưới gánh nặng của vua các thủ lãnh.

Chống nền phụng tự vụ hình thức

11 Khi Ép-ra-im đua nhau dựng bàn thờ, thì các bàn thờ ấy
chỉ làm cho chúng phạm tội thêm.

12 Luật lệ của Ta, Ta có viết cho nó cả ngàn,
thì nó cũng coi là xa lạ.

13 Hy lễ dâng Ta thì chúng cứ dâng,
chúng cứ ăn thịt đã sát tế,
nhưng ĐỨC CHÚA sẽ chẳng đoái hoài.
Giờ đây Người sẽ nhớ lại sự gian ác của chúng,
chúng đã phạm tội thì chúng sẽ phải đền:
chúng sẽ phải trở về Ai-cập.

14 Ít-ra-en đã quên Đấng tác tạo ra nó, và lo xây đền đài;
còn Giu-đa thì xây thêm những thành kiên cố.
Nhưng Ta sẽ phóng lửa xuống các thành này,
và lửa sẽ ngốn hết các dinh thự.

Sầu khổ chốn lưu đày

9.  1 Hỡi Ít-ra-en, chớ vui cười,
đừng hớn hở như phường dân ngoại.
Ngươi đã bỏ Thiên Chúa ngươi mà làm điếm
và mong được trả công trên mọi sân đập lúa.

2 Lúa trong sân, nho trong bồn, chúng sẽ không được hưởng,
càng mong rượu mới, chúng càng thất vọng ê chề.

3 Không được ở trên đất của ĐỨC CHÚA, Ép-ra-im sẽ phải trở về Ai-cập,
và phải dùng thức ăn ô uế tại Át-sua.

4 Chúng sẽ không được rót rượu tế dâng ĐỨC CHÚA,
các hy lễ của chúng cũng chẳng đẹp lòng Người.
Bánh chúng ăn khác nào bánh tại nhà có tang,
ai ăn vào cũng trở thành ô uế,
vì bánh của chúng chỉ để chúng nuôi thân,
chứ không được đưa vào nhà ĐỨC CHÚA.

5 Các ngươi sẽ làm gì trong ngày hội, ngày lễ của ĐỨC CHÚA?

6 Vì này chúng sẽ phải ra đi sau khi đất nước bị tàn phá.
Chúng sẽ bị Ai-cập tập trung, và sẽ bị Mốp chôn vùi.
Cỏ dại mọc um tùm trên đồ bạc chúng coi là quý giá,
gai góc nằm ngổn ngang ngay trong lều chúng ở.

Ngôn sứ bị khủng bố vì loan báo cuộc trừng phạt

7 Đã đến rồi những ngày trừng phạt,
đã đến rồi những ngày báo oán: Ít-ra-en sẽ thấy điều này!
– “Ngôn sứ điên rồi! Người được linh hứng nói sảng! “
Ngươi nói vậy, vì tội ác của ngươi tầy trời,
ngươi lại còn bày đủ trò khủng bố.

8 Ngôn sứ là người canh gác Ép-ra-im, vẫn ở cùng Thiên Chúa,
thế mà thiên hạ lại giăng bẫy trên khắp mọi nẻo đường ông đi,
khủng bố ông ngay trong nhà Thiên Chúa.

9 Chúng chìm sâu trong vũng lầy hư hỏng như hồi ở Ghíp-a.
Người không quen điều gian ác chúng làm,
nhưng sẽ trị tội chúng.

Trừng phạt tội ác tại Ba-an Pơ-o

10 Ta đã gặp được Ít-ra-en, khác nào chùm nho trong sa mạc,
Ta đã xem cha ông các ngươi
như trái đầu mùa trên cây vả mới bói.
Nhưng phần chúng, khi đến Ba-an Pơ-o,
chúng lại gắn bó với các thần ô nhục,
và trở thành ghê tởm như những thần chúng yêu mến.

11 Vinh quang của Ép-ra-im như cánh chim vụt bay:
không còn thai nghén, chẳng còn sinh nở.

12 Giả như chúng có nuôi con cho khôn lớn,
Ta cũng không để cho thành người.
Thật khốn nạn cho chúng khi bị Ta từ bỏ.

13 Xưa Ta thấy Ép-ra-im như thành Tia toạ lạc trong đồng cỏ,
nhưng nay Ép-ra-im
sắp phải nộp con mình cho phường khát máu.

14 Lạy ĐỨC CHÚA, xin Ngài làm cho chúng. ..
Ngài sẽ làm gì cho chúng đây?
Xin cho chúng không còn sinh nở, hết cho bú mớm.

Trừng phạt tội ác tại Ghin-gan

15 Mọi tội ác của chúng lộ hết ở Ghin-gan.
Tại nơi này Ta chê ghét chúng.
Những hành vi gian ác của chúng
khiến Ta xua đuổi chúng khỏi nhà Ta.
Ta không còn yêu thương chúng nữa.
Hết thảy các thủ lãnh của chúng đều là quân phản bội.

16 Ép-ra-im đã bị đánh nhừ đòn, gốc rễ của chúng bị héo khô,
chúng không mang lại hoa trái gì được.
Và giả như chúng có sinh sản, Ta cũng sẽ giết chết
những đứa con yêu quý chúng đã cưu mang.

17 Thiên Chúa của tôi sẽ xua đuổi chúng,
vì chúng không chịu nghe lời Người;
giữa chư dân, chúng sẽ phải lang thang phiêu bạt.

Ngẫu tượng Ít-ra-en thờ sẽ bị phá huỷ

10.  1 Ít-ra-en vốn là một cây nho sum sê,
trái trăng thật dồi dào phong phú.
Nhưng trái trăng càng nhiều,
chúng càng dựng thêm các bàn thờ ngẫu tượng;
đất nước càng giàu sang,
chúng càng làm thêm những cột thần lộng lẫy.

2 Chúng là thứ người lòng một dạ hai,
rồi đây chúng sẽ phải đền tội;
bàn thờ của chúng, chính Người sẽ đập tan,
cột thờ của chúng, Người cũng sẽ phá đổ.

3 Bây giờ chúng lại nói: “Chúng tôi không có vua.”
Vì ĐỨC CHÚA, chúng còn không kính sợ,
thì nếu có vua, liệu ông làm gì được cho chúng?

4 Chúng ăn nói ba hoa, thề gian thề dối, thoả hiệp với mọi người,
biến luật pháp nên như cây độc hại tươi tốt trên nương đồng.

5 Đứng trước con bò của Bết A-ven, dân cư Sa-ma-ri run sợ.
Quả thật, dân của nó để tang nó,
bọn tư tế bất hợp pháp cũng vậy.
Chúng cứ vui mừng vì vinh quang của nó đi,
bởi giờ đây vinh quang ấy đã bị đẩy xa rồi.

6 Nó cũng bị đưa sang Át-sua làm lễ vật triều cống cho vua cả.
Ép-ra-im sẽ chuốc lấy nhuốc nhơ, Ít-ra-en phải hổ thẹn về những điều mình suy tính.

7 Thế là Sa-ma-ri tiêu tùng.
Vua của nó tựa hồ mảnh ván trôi dạt trên mặt nước.

8 Các nơi cao của A-ven sẽ bị phá huỷ, đó là tội của Ít-ra-en.
Gai góc sẽ leo lên các bàn thờ của nó.
Bấy giờ chúng sẽ nói với núi đồi: “Phủ lấp chúng tôi đi! “
và với gò nổng: “Hãy đổ xuống trên chúng tôi! “

9 Hỡi Ít-ra-en, từ những ngày ở Ghíp-a, ngươi đã phạm tội.
Ngày nay vẫn chứng nào tật ấy, như thể tại Ghíp-a xưa
chiến tranh đã không đụng tới những kẻ gian ác.

10 Ta sẽ đến và sửa trị chúng.
Các dân sẽ tập hợp chống lại chúng,
khi chúng bị sửa trị về hai tội ác chúng đã phạm.

Ít-ra-en đã không đáp ứng điều ĐỨC CHÚA chờ đợi

11 Ép-ra-im là con bê thuần thục, ưa đạp lúa,
và Ta, Ta sẽ luồn cái ách vào cổ xinh đẹp của nó!
Ta sẽ đặt ách cho Ép-ra-im,
Giu-đa sẽ kéo cày, Gia-cóp sẽ kéo bừa.

12 Hãy gieo công chính, rồi sẽ gặt được tình thương.
Hãy khai khẩn đất hoang;
đây là thời kiếm tìm ĐỨC CHÚA
cho đến khi Người đến làm mưa công chính trên các ngươi.

13 Các ngươi đã gieo tội ác, gặt sự bất công, ăn hoa quả dối trá.
Vì ngươi cậy có chiến xa và nhiều dũng sĩ,

14 thì náo loạn sẽ nổi lên trong dân ngươi.
Tất cả các pháo đài của ngươi đều bị phá huỷ,
như San-man phá huỷ Bết Ác-vên,
trong ngày có giao tranh, khi cả mẹ lẫn con đều bị đập tan xác.

15 Bết Ên đã gây ra cho các ngươi như thế đó
vì tội ác nặng nề của các ngươi;
ngay từ rạng đông chắc chắn vua Ít-ra-en sẽ bị rồi đời!

ĐỨC CHÚA báo oán cho tình yêu bị khước từ

11.  1 Khi Ít-ra-en còn là đứa trẻ, Ta đã yêu nó,
từ Ai-cập Ta đã gọi con Ta về.

2 Nhưng Ta càng gọi chúng, chúng càng bỏ đi;
chúng dâng hy lễ cho các Ba-an, đốt hương kính ngẫu tượng.

3 Ta đã tập đi cho Ép-ra-im, đã đỡ cánh tay nó,
nhưng chúng không hiểu là Ta chữa lành chúng.

4 Ta lấy dây nhân nghĩa, lấy mối ân tình mà lôi kéo chúng.
Ta xử với chúng như người nựng trẻ thơ, nâng lên áp vào má;
Ta cúi xuống gần nó mà đút cho nó ăn.

5 Nó sẽ không trở về Ai-cập nữa,
nhưng Át-sua sẽ lại làm vua nó, vì nó không chịu về với Ta.

6 Gươm đao sẽ hoành hành trong các thành của nó,
sẽ làm cỏ và ngốn sạch con cái nó, vì chúng có những ý đồ xấu xa.

Nhưng ĐỨC CHÚA lại tha thứ

7 Dân Ta cứ miệt mài buông theo bội tín,
chúng được kêu mời hãy vươn lên,
mà chẳng một ai ngóc đầu dậy!

8 Hỡi Ép-ra-im, Ta từ chối ngươi sao nổi!
Hỡi Ít-ra-en, Ta trao nộp ngươi sao đành!
Làm sao Ta xử với ngươi như với Át-ma,
để ngươi nên giống như Xơ-vô-gim được?
Trái tim Ta thổn thức, ruột gan Ta bồi hồi.

9 Ta sẽ không hành động theo cơn nóng giận,
sẽ không tiêu diệt Ép-ra-im nữa,
vì Ta là Thiên Chúa, chứ không phải người phàm.
Ở giữa ngươi, Ta là Đấng Thánh,
và Ta sẽ không đến trong cơn thịnh nộ.

Trở về từ chốn lưu đày

10 Chúng sẽ bước theo ĐỨC CHÚA.
Người sẽ rống lên như sư tử.
Quả thật, Người sẽ rống lên,
và từ phía tây, con cái sẽ vui mừng chạy tới.

11 Chúng sẽ chạy tới lẹ như chim từ Ai-cập,
như bồ câu từ đất Át-sua,
và Ta sẽ cho chúng cư ngụ trong nhà của chúng,
– sấm ngôn của ĐỨC CHÚA.

Ít-ra-en lụn bại về tôn giáo và chính trị

12.  1 Ép-ra-im lấy giả dối,
và nhà Ít-ra-en dùng lừa đảo mà bao bọc Ta.
Giu-đa vẫn đi với Thiên Chúa,
vẫn trung thành với Đấng Thánh của mình.

2 Ép-ra-im bầu bạn với không khí,
ngày nào cũng chạy theo gió đông;
nó cứ gia tăng giả dối, bạo tàn,
nó lập giao ước với Át-sua, và chở dầu cho Ai-cập.

Lên án Gia-cóp và Ép-ra-im

3 ĐỨC CHÚA hạch tội Giu-đa,
Người sẽ trừng trị Gia-cóp theo lối sống của nó,
sẽ cứ các việc nó làm mà trả công cho nó.

4 Còn là thai nhi, nó đã chiếm chỗ của anh mình;
trong thời sung sức, nó dám cự lại Thiên Chúa.

5 Nó cự lại thiên sứ và đã lấn át người,
nhưng nó lại khóc và xin người thương xót.
Ở Bết Ên nó gặp người, và ở đó, chính người đã nói với nó:

6 ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa các đạo binh:
danh hiệu Người là ĐỨC CHÚA.

7 Còn ngươi, nhờ Thiên Chúa của ngươi, ngươi sẽ trở về.
Ngươi hãy giữ đức tín thành, công chính
và luôn trông cậy vào Thiên Chúa của ngươi.

8 Ca-na-an nắm trong tay những chiếc cân bịp bợm:
nó ưa thích đánh lừa.

9 Ép-ra-im từng nói: “Ta đã nên giàu có với đủ cơ ngơi rồi”;
nhưng tất cả những của nó làm ra,
nó chẳng còn giữ lại được gì, vì sự gian ác nó đã phạm.

Viễn ảnh hoà giải với Thiên Chúa

10 Ta là ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ngươi
ngay từ khi ngươi còn bên Ai-cập.
Ta sẽ vẫn cho các ngươi cư ngụ trong lều,
như trong những ngày hội ngộ.

11 Ta sẽ phán với các ngôn sứ, Ta sẽ tăng thị kiến thêm nhiều,
và nhờ các ngôn sứ để nói những dụ ngôn.

Những lời đe dọa mới

12 Ga-la-át chỉ có gian tà.
Quả thật chúng chỉ là quân giả dối:
tại Ghin-gan chúng sát tế bò bê,
bàn thờ của chúng chẳng khác gì những đống đá
trên các luống đất ngoài đồng.

13 Gia-cóp đã trốn chạy sang cánh đồng A-ram,
Ít-ra-en đã phục dịch vì một người phụ nữ,
vì một người đàn bà mà ông đã phải giữ chiên.

14 Nhưng nhờ một ngôn sứ,
ĐỨC CHÚA đã đưa Ít-ra-en từ Ai-cập lên;
cũng nhờ một ngôn sứ, mà Ít-ra-en được canh giữ.

15 Ép-ra-im đã xúc phạm đến Người
và làm cho Người phải xót xa cay đắng.
Nó đã đổ máu thì phải chịu tội.
Những nhục mạ nó đã gây nên, Chúa sẽ bắt nó phải đền bù.

Trừng phạt tội thờ ngẫu tượng

13.  1 Xưa kia hễ Ép-ra-im lên tiếng là nó gây kinh hoàng,
nó có một địa vị cao trong Ít-ra-en,
nhưng vì mắc tội thờ Ba-an nên nó đã chết.

2 Giờ đây chúng phạm thêm tội lỗi:
đúc cho mình những tượng bằng kim loại,
lấy bạc làm ra những tượng thần như trí mình sáng chế.
Tất cả những thứ đó đều là sản phẩm do tay thợ làm ra.
Rồi chúng ngỏ lời với những thần đó, còn dâng hy lễ nữa.
Chúng là người mà lại hôn kính những con bê.

3 Bởi vậy, chúng chỉ như đám mây buổi sáng,
như sương mai chóng tan, như vỏ trấu bị cuốn khỏi sân lúa,
như làn khói toả từ ống thông hơi.

Trừng phạt tội vô ơn bạc nghĩa

4 Ta là ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ngươi
từ khi ngươi còn ở đất Ai-cập.
Ngoài Ta ra, ngươi không được biết thần nào khác,
chẳng có vị cứu tinh nào khác ngoại trừ Ta.

5 Chính Ta đã biết ngươi khi ngươi còn ở trong sa mạc,
trong vùng đất cằn cỗi khô khan.

6 Vừa khi ra đồng cỏ, chúng liền được ăn uống thoả thuê.
Nhưng khi thoả thuê rồi, chúng đâm ra tự cao tự đại.
Chính vì thế mà chúng đã quên Ta.

7 Nên đối với chúng, Ta khác nào sư tử,
tựa con báo, Ta rình rập bên đường.

8 Như gấu mất con, Ta chồm lên chúng,
Ta xé chúng cho nát tan lồng ngực;
Ta ăn thịt chúng tại chỗ như sư tử cái,
chúng sẽ bị mãnh thú ngoài đồng phanh thây.

Vương quyền chấm dứt

9 Ta sắp tiêu diệt ngươi, hỡi Ít-ra-en.
Ai sẽ đến cứu ngươi?

10 Vua ngươi là người phải cứu ngươi
dù ngươi ở thành thị nào đi nữa,
giờ đây vua ngươi ở đâu rồi?
Các thẩm phán của ngươi, những kẻ xưa ngươi tìm đến ngỏ lời:
“Tôi muốn có vua, muốn có thủ lãnh, xin ban cho tôi đi! “
Giờ đây các thẩm phán đó đâu rồi?

11 Ta cho ngươi một ông vua trong cơn thịnh nộ,
rồi lấy đi giữa trận lôi đình.

Sụp đổ không tránh được

12 Sự gian ác của Ép-ra-im được cuốn lại để dành,
tội lỗi của nó được giữ kỹ.

13 Nó sẽ đau quằn quại như sản phụ lâm bồn;
nó là đứa con ngu dốt:
vì đã đến giờ mà không chịu rời lòng mẹ!

14 Ta lại giải thoát nó khỏi quyền lực âm phủ sao,
lại chuộc nó khỏi thần chết ư?
Tử khí ngươi đâu rồi, hỡi Thần Chết?
Nọc độc của ngươi đâu, hỡi Âm ty?
Ta nhắm mắt không còn thương xót nữa.

15 Vì nó có sinh sôi nẩy nở giữa anh em mình,
thì một cơn gió nóng như thiêu cũng sẽ đến,
gió của ĐỨC CHÚA thổi lên từ sa mạc khiến suối cạn, giếng khô.
Cơn gió ấy sẽ cướp đi kho tàng, cuốn hết mọi bảo vật.

14.  

1 Sa-ma-ri sẽ phải đền tội vì đã phản bội Thiên Chúa của mình.
Chúng sẽ gục ngã vì gươm đao,
con thơ của chúng sẽ bị tan xác, phụ nữ mang thai bị mổ bụng.

III. ÍT-RA-EN HỐI CẢI VÀ ĐƯỢC CHÚA THƯƠNG

Ít-ra-en thành tâm trở về với ĐỨC CHÚA

2 Hỡi Ít-ra-en, hãy trở về với ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa của ngươi.
Chính vì tội ác của ngươi mà ngươi đã vấp ngã.

3 Hãy trở về với ĐỨC CHÚA, mang theo lời cầu nguyện.
Hãy thưa với Người:
“Xin thứ tha mọi gian ác, xin vui nhận lời ngợi khen
chúng con dâng lên Ngài làm lễ vật thay thế bò tơ.

4 Chúng con sẽ không cầu cứu với Át-sua,
sẽ không cậy nhờ vào chiến mã,
cũng chẳng gọi là thần những sản phẩm tay chúng con làm ra,
vì chỉ ở nơi Ngài kẻ mồ côi mới tìm được lòng thương cảm.”

5 Ta sẽ chữa chúng khỏi tội bất trung,
sẽ yêu thương chúng hết tình,
vì cơn giận của Ta sẽ không còn đeo đuổi chúng.

6 Với Ít-ra-en Ta sẽ như làn sương mai
làm nó vươn lên như bông huệ,
cho bén rễ sâu như cây ngàn Li-băng.

7 Họ sẽ đâm chồi nẩy lộc, sum sê tựa ô-liu tươi tốt,
toả hương thơm ngát như rừng Li-băng.

8 Chúng sẽ trở về cư ngụ dưới bóng Ta,
sẽ làm cho lúa miến hồi sinh nơi đồng ruộng,
tựa vườn nho, chúng sẽ sinh sôi nẩy nở,
danh tiếng lẫy lừng như rượu Li-băng.

9 Ép-ra-im còn liên hệ gì với các ngẫu tượng?
Còn Ta, Ta đã nhậm lời và đoái nhìn đến nó.
Ta như một cây trắc bá xanh tươi,
chính nhờ Ta mà ngươi trổ sinh hoa trái.

Lời căn dặn cuối cùng

10 Ai đủ khôn ngoan để hiểu được điều này,
đủ thông minh để biết được điều ấy?
Quả thật đường lối ĐỨC CHÚA rất mực thẳng ngay.
Trên con đường này, người công chính sẽ hiên ngang tiến bước,
còn kẻ gian ác sẽ phải té nhào.